Luận văn Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương

Phát triển du lịch Hải Dương là một trong những nội dung quản lý Nhà nước về du lịch, bao gồm những định hướng phát triển ngành, phát triển không gian lãnh thổ trên địa bàn tỉnh, được nghiên cứu trên c ơ sở đánh giá tổng hợp những lợi thế về tài nguyên du lịch của tỉnh. Các khả năng khai thác tiềm năng phát triển du lịch Hải Dương được lồng ghép phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của địa ph ương gắn với thị trường du lịch trong vùng và khu vực.

pdf54 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2981 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất khẩu của nước ta. - Nghề trạm khắc đá ở Kính Chủ ( Kinh Môn) Phía Đông Bắc Hải Dương có dải núi đá vôi ( Dương Nham ), có làng Kính Chủ, nổi tiếng ở đây có nghề trạm khắc đá đã tạo nên những tác phẩm về đá trên các công trình miếu mạo, đền, chùa. Ngoài ra còn có các nghề tiểu thủ công khác như: dệt chiếu ở Tiên Kiều ( Thanh Hà ), gốm, sứ rải rác khắp tỉnh, nghề làm thuócc tại quê hương Tuệ Tĩnh...đang phát triển mạnh góp phần đưa sản xuất công nghiệp quốc doanh tăng nhanh. Trên địa bàn thị trấn, thị tứ, nhiều hộ tư nhân đầu tư xây dựng xưởng cơ khí sửa chũa máy móc nông nghiệp, sản xuất nông cụ và đồ dùng gia đình. Việc phát triển nghề và làng nghề đã tạo ra hình thái mới trong việc sắp xếp lao động, vừa giữ gìn phát triển được nghề truyền thống ngay trên quê hương vừa tạo việc làm và có hiệu quả kinh tế cao, thu nhập ổn định hơn nghề trồng lúa, chẳng những thế những làng nghề truyền thống trên còn là tiềm năng du lịch to lớn của Hải Dương, là đối tượng độc đáo có sức thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Vì vậy, cần phải có kế hoạch đầu tư để duy trì phát triển các làng nghề, biến chúng thành những điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Mặt khác, cần nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm lưu niệm mang tính đặc thù của Hải Dương để phục vụ du khách. 1.7.2. Tài nguyên văn hoá phi vật thể. Tài nguyên văn hoá phi vật thể thực chất là sống ký sinh trên các tài nguyên văn hoá vật thể. Các trò chơi, các lễ hội thường được diễn ra trên những trung tâm văn hoá của từng thời kỳ mà ở giai đoạn cổ xưa chính là các đình, đền, chùa, miếu. * Các lễ hội tiêu biểu tại Hải Dương. Lễ hội, sinh hoạt văn hoá dân gian cũng là một loại tài nguyên nhân văn, có sức hấp dẫn và khả năng thu hút du khách cao, ở mức độ nào đó du khách có thể thấy được, hiểu được phông tục tập quán của nhân dân đại phương. Lễ hội là một hình thức văn hoá đặc săc phản ánh đời sống của mỗi dân tộc, gắn với các di tích lịch sử, thường là một phần trong các chương trình thu hút, quảng bá của khu du lịch. Không thể tách rời các nội dung lễ hội ra khỏi các di tích, cũng như không thể tách nội dung lễ hội truyền thống ra khỏi các chương trình du lịch. Vì vậy, cần khai thác di tích lịch sử và lễ hội truyền thống như một loại hình du lịch văn hoá chuyên đề gắn với tour du lịch. - Lễ hội Côn Sơn ( Chí Linh ) Chùa Côn Sơn ở huyện Chí Linh thờ Huyền Quang ( Lý Đạo Tái ) một trong ba vị sáng lập thiền phái Trúc Lâm và Nguyễn Trãi - nhà thơ lớn của Việt Nam thế kỷ 15, nhà quân sự, nhà nhính trị thiên tài của nghĩa quân Lam Sơn, Hội xuân từ 16 đên 22 tháng riêng âm lịch hàng năm nhằm tưởng nhớ vị tổ thứ 13 của phái Trúc Lâm. Hội thu từ 15 – 20 tháng 8 âm lịch tưởng niệm Nguyễn Trãi. Khách thập phương đến với lễ hội để tưởng niệm và vãn cảnh danh thắng. - Hội Kiếp Bạc ( Hưng Đạo – Chí Linh ) Là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng rất hưng thịnh trước đây. Lễ hội đền Kiếp Bạc diễn ra hàng năm từ 18 – 20 tháng 8 âm lịch tại đền Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh. Đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, vị tướng kiệt suất thời Trần, tài đức song toàn. Lễ hội gồm có lễ rước, diễn thuỷ binh trên sông Lục Đầu. Khách về dự hội rất đông vừa để vãn cảnh, vừa để tham dự ngày giỗ của tướng quân Trần Hưng Đạo. - Hội đền Quan Lớn Tuần Tranh ( Đồng Tâm – Ninh Giang ) Theo truyền thuyết đền thờ thần Sông Nước để thuyền bè đi ngang qua được bình an, lễ hội hàng năm mở vào ngày 25 tháng 2 âm lịch gần bén đò Tranh, Ninh Giang, Hải Dương để cúng thần sông cầu bình an. Ngoài nghi thức lễ bái, hội có lên đồng, hầu bóng, hát chầu văn. - Hội đền Yết Kiêu( Gia Lộc ) . Còn gọi là hội Đền Quát. Đền Yết Kiêu ở làng Hạ Bì là quê hương của ông, lễ hội hàng năm được mở vào ngày 15 tháng riêng âm lịch để nghi nhớ công ơn của ông trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Sau phần nghi lễ, phần hội có đánh cờ, bơi lội, đánh đáo đĩa, hội có bơi trải, bơi triềng trình làng. - Lễ hội Đền Cao ( An Lạc – Chí Linh ) Lễ hội Đền Cao mở trong 3 ngày từ 22 đến 24 tháng riêng âm lịch hàng năm. Ngày rước thánh là ngày 22, tất cả kiệu rước, nghi trang, cờ quạt, tán lọng đều được sắm sửa ở Đền Cả, đến ngày 23 sẽ rước về Đền Cao và làm lễ dâng hương. Sáng 23, lễ hội bắt đầu bằng đám rước kiệu. Đi trước là đội cồng và kỳ lân, tiếp sau có 6 kiệu. Kiệu thứ nhất rước bài vị sắc phong của năm anh em họ Vương. Ngoài ra còn có kiệu rước Thành Hoàng làng. Đoàn rước xuất phát từ Đền Cả qua đền Bến Cả, Đền Bến Tràng rồi dừng ở Đền Cao. Sau đó là lúc mọi người trẩy hội và thắp hương. Ngày cuối cùng của lễ hội, bốn kiệu rước được đưa về Đền Cả. Cảnh lễ hội diễn ra thật náo nức, sống động. - Lễ hội An Phụ ( Kinh Môn ) Cũng gọi là lễ hội Đền Cao ( trên núi An Phụ có chùa Tường Vân cổ kính tục gọi là chùa Cao ) được tổ chức vào mồng 1 tháng 4 âm lịch, kỷ niệm ngày mất của An Sinh Vương Trần Liễu, việc chảy hội thành tập quán của nhân dân từ nhiều thế kỷ. 1.8. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch. Hiện nay vùng Chí Linh đã có sân golf 9 lỗ, còn ở trung tâm thành phố thì có hồ công viên Bạch Đằng thành phố Hải Dương đã dược hình thành. Đây là những cơ sở tạo tiền đề cốt yếu cho các khu vui chơi giải trí. Trên toàn tỉnh đã có 950 phòng nghỉ, có 77 khách sạn, số phòng đạt tiêu chuản cao cấp chưa có, số phòng đạt tiêu chuẩn trung bình chiếm 60%. Chu yếu tập trung ở Sao Đỏ và thành phố Hải Dương, đã có 180 xe vận chuyển khách du lịch. 1.9 .Lao động trong ngành du lịch. Hải Dương có một nguồn lao động rất dồi dào. Hiện nay số người lao động trong ngành Du lịch là 1.300 người trong đó đại học và trên đại học 145 người, cao đẳng và trung cấp là 600 người, lao động khác là 555 người. Chất lượng trong lao động trong du lịch con nhiều hạn chế về thực chất. Tuy nhiên, cùng với truyền thống thông minh hiếu học của người Hải Dương đây là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế trong đó có du lịch khi có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực. 1.10. Công tác quản lý du lịch Cơ quan quản lý cấp trên của Sở Thương mại - Du lịch địa phương là Uỷ ban nhân dân tỉnh. Sở là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh xem xét, đưa ra quyết định trên tất cả các vấn đề liên quan đến chính sách, quá trình đầu tư, khai thác và phát triển du lịch,… trên địa bàn toàn tỉnh. - Thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước cùng sự quan tâm phối hợp trực tiếp của Tổng cục Du lịch, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Hải Dương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư, xây dựng và kinh doanh trong ngành du lịch. Ví dụ: Sân golf Ngôi sao Chí Linh, Trung tâm du lịch dịch vụ Nacimex - Nam Cường, khu vui chơi giải trí Đảo Ngọc… làm phong phú thêm các dịch vụ phục vụ và thu hút khách du lịch, tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Thường xuyên hướng dẫn các văn bản có tính pháp quy về du lịch tới từng đơn vị, tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch, đặc biệt phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện Luật Du lịch Việt Nam, Nghị định 39/2000/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh lưu trú; Nghị định 27/2001/NĐ-CP về kinh doanh lữ hành và hướng dẫn viên du lịch: Nghị định 50/2001/NĐ-TCDL… chỉ đạo các đơn vị hoạt động du lịch chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực theo hướng dẫn của Tổng cục Du lịch. - Tổ chức tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch với các hình thức phong phú đa dạng; Trong năm 2005, đã tổ chức và tham gia một số hoạt động, chương trình quảng bá xúc tiến du lịch như: Festival Tây Nguyên 2005 tại Đắc Lắc, Liên hoan Du lịch quốc tế Hà Nội 2005, Lễ hội Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi tại xã Nam Tân ( Huyện Nam Sách ), Lễ hội Côn Sơn ( Huyện Chí Linh ) "Hành trình theo dấu chân Bác Hồ",… Phát hành sách, tờ rơi, tập gấp; cung cấp thông tin về Du lịch Hải Dương và cơ hội đầu tư cho các tổ chức, Trung tâm nghiên cứu phát triển cộng đồng… Các thông tin mới nhất liên quan đến hoạt động du lịch được Trung tâm thông tin xúc tiến Thương mại và Du lịch cập nhật và đăng tải hàng tuần trên internet, bản tin hàng tháng của hoạt động này ở tỉnh Hải Dương. - Tổ chức 03 khoá đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch- khách sạn cho số lao động du lịch trong tỉnh. Khuyến khích các đơn vị đào tạo, đào tạo tại chỗ, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, nâng cao chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp. Hải Dương 2. Quá trình khai thác và phát triển tiềm năng du lịch ở Hải Dương Trong thời gian qua, ngành Thương mại - Du lịch Hải Dương được sự quan tâm, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của Tổng cục Du lịch, hỗ trợ giúp đỡ tích cực của các ngành, các cấp liên quan (Văn hoá, Giao thông, Công nghiệp, Đầu tư, Tài chính…) trong tỉnh, cùng với những cố găng, nỗ lực phấn đấu, quyết tâm cao của cán bộ, công chức, viên chức trong ngành, đặc biệt là của các doanh nghiệp hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh, tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và cùng với du lịch cả nước, du lịch Hải Dương phấn đấu trở thành điểm đến thân thiện và không thể thiếu trong hành trỡnh của du khỏch thập phương. - Trên cơ sở phát huy các nguồn lực sẵn có được sự quan tâm và hỗ trợ kinh phí từ Tổng cục Du lịch và UBND tỉnh, Du lịch Hải Dương tranh thủ thu hút mọi nguồn vốn của các thành phần kinh tế, kể cả nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư phát triển du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch và đa dạng các sản phẩm du lịch, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của tỉnh, tạo ra sản phẩm du lịch hấp dẫn trong mối liên hệ giữa du lịch của tỉnh với hệ thống du lịch của vùng và cả nước để thu hút khách trong nước và quốc tế. Nhiều tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đã tham gia đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Trước nhất là đầu tư xây dựng hệ thống khách sạn nhà hàng và các khu vui chơi giải trí tổng hợp, trong đó nổi bật là các dự án lớn như: đầu tư xây dựng khách sạn tiêu chuẩn 4 sao Nacimex, khu du lịch tổng hợp Đảo Ngọc phía Tây thành phố Hải Dương , khu vui chơi giải trí Sân golf Ngôi Sao Chí Linh, dự án khu vui chơi giải trí tại Trúc Thôn, xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh… Đến nay, cùng với nguồn vốn nhà nước đầu tư, cải tạo các cơ sở hạ tầng du lịch, bảo tồn các di tích, danh lam thắng cảnh quan trọng với tổng vốn đầu tư giai đoạn 2001 - 2005 là 880 tỷ đồng; nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các dự án phát triển du lịch đã lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Nhờ đó, các khu du lịch, điểm du lịch của Hải Dương đã được cải thiện một cách căn bản về hạ tầng giao thông, điện, nước, vệ sinh môi trường và an ninh trật tự, nhất là mạng lưới giao thông ở khu Côn Sơn - Kiếp Bạc, Đền thờ Chu Văn An, đường lên Tượng đài Trần Hưng Đạo, núi An Phụ, đường giao thông dẫn đến đảo Cò - Chi Lăng Nam -Thanh Miện, Dự án hồ Côn sơn, hồ Mật Sơn - Chí Linh; khu du lịch sinh thái phía Đông và phía Tây thành phố Hải Dương, Công viên xanh hồ Bạch Đằng, thành phố Hải Dương v.v… - Du lịch Hải Dương đó xõy dựng kế hoạch khai thỏc và phỏt triển du lịch với định hướng lâu dài và bền vững với việc thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hải Dương đến năm 2020. Nội dung đề cập là: đánh giá tài nguyên du lịch Hải Dương; Đánh giá thực trạng phát triển du lịch của Hải Dương; Định hướng phát triển du lịch Hải Dương… - Xác định và tập trung xây dựng 2 vùng du lịch trọng điểm là Côn Sơn - Kiếp Bạc, Thành phố Hải Dương thành điểm đến du lịch tổng hợp bao gồm các yếu tố hấp dẫn của điểm tham quan du lịch, khách sạn, cơ sở vui chơi giải trí, nghệ thuật, giá trị văn hoá, có cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật đồng bộ. - Xây dựng, tổ chức đa dạng các loại hỡnh, sản phẩm du lịch như: du khảo làng quê, làng nghề truyền thống, du lịch thể thao chơi golf, du lịch leo nỳi, đi rừng, khám phá hang động, nghỉ dưỡng cuối tuần… - Tăng cường liên kết phát triển du lịch với các tỉnh, thành phè thuéc phía Bắc, xây dựng sản phẩm liên vùng nhằm tăng cường sự hấp dẫn đối với du khách quốc tế. - Mở rộng khai thác có hiệu quả những thị trường du lịch quốc tế trọng điểm, chủ yếu là các nước Châu Âu, Châu á và Bắc Mỹ đi đôi với phát triển thị trường du lịch nội địa, đáp ứng nhu cầu và khả năng thanh toán của nhân dân, phù hợp với điều kiện cụ thể của Hải Dương. - Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch, tăng cường liên kết giữa các đơn vị hoạt động du lịch nhằm nâng cao sức cạnh tranh; nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch hiện có và phát triển thêm các sản phẩm mới; tăng cường nhân thức cộng đồng về hoạt động du lịch, tạo sự chuyển biến sâu rộng trong xó hội, ý thức trỏch nhiệm tham gia phỏt triển du lịch, từ việc giữ gỡn bảo vệ tài nguyờn, sản phẩm du lịch, bảo vệ mụi trường, trật tự vệ sinh,trËt tù an toàn xó hội ở cỏc khu du lịch, tuyến du lịch và cỏc điểm du lịch, đến việc khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch. Đồng thời, tiếp tục mở thêm các dịch vụ mới cho khách lưu trú như: dịch vụ thông tin, Internet tốc độ cao, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, đa dạng hoá sản phẩm c¸c dịch vụ ăn uống.vµ c¸c dịch vụ khácv.v gúp phần nõng cao chất lượng phục vụ, kéo dµi thời gian lưu trú của du khách; đẫy mạnh công tác xúc tiến du lịch và xây dựng chương trỡnh phỏt triển, đào tạo nguồn nhân lực du lịch, đáp ứng yêu cầu hội nhập trong giai đoạn mới.v.v... II/ Lịch sử hình thành và phát triển của Sở Thương mại – Du lịch Hải Dương. 1. Quá trình hình thành. Ngày 26/11/1946 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 220/SL thành lập Nha Thương vụ trong Bộ kinh tế Việt Nam. Nha Thương vụ được đảm trách nhiều nhiệm vụ khác nhau. Trong đó có nhiệm vụ quan trọng là kinh doanh, buôn bán hàng hoá, tiếp tế lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng phục vụ kháng chiến và đấu tranh kinh tế với địch. Sau khi nước nhà hoàn toàn thống nhất, Đảng, Nhà nước ta quyết định lấy ngày 26/11 hàng năm là ngày Thương mại Việt Nam. 2. Quá trình phát triển. - Trong thời kỳ chống Pháp: Đầu năm 1947 Uỷ ban kháng chiến tỉnh Hải Dương thành lập bộ phận công thương chuyên lo hậu cần cho kháng chiến và đấu tranh kinh tế với địch. Chính quyền các cấp đã vận động người buôn bán nhỏ mang lương thực, thực phẩm thuốc chữa bệnh nhu yếu phẩm từ vùng tạm chiến ra vùng tự do để trao đổi từng bước hình thành các cơ sở giao lưu kinh tế hàng hoá giữa các vùng. Thời kỳ này vật chất đơn sơ, cửa hàng kho, trạm là lán trại dựa vào nhân dân là chủ yếu. Thương nghiệp quốc doanh được Đảng và Nhà nước giao nắm giữ một số mặt hàng chính bao gồm: lương thực, thực phẩm, sách báo, dược phẩm, tư liệu sản xuất, vật tư nông nghiệp… Với đội ngũ vài chục cán bộ, nhân viên chưa qua buôn bán phần lớn đều từ kháng chiến sang hoạt động thương nghiệp, khó khăn nhiều mặt, từ trình độ quản lý tới nghiệp vụ kinh doanh, nhưng các cụ, các bác, các đồng chí không quản ngại gian khổ, khó khăn, phấn đấu hết lòng cho sự nghiệp của ngành, các bộ, nhân viên thương nghiệp vừa buôn bán, vừa vận động nhân dân sản xuất, cung cấp nhu yếu phẩm cho chiến khu kháng chiến, nhiều nhân viên thương nghiệp kiêm cả dân quân du kích trực tiếp chiến đấu chống càn, cứu thương, một số đồng chí bắt tù đày có đồng chí đã hi sinh trên đường vận chuyển hàng hoá tiếp tế lên chiến khu. Có thể nói thời kỳ đầu cách mạng, mặc dù hoạt đồng thương nghiệp Hải Dương rất non trẻ nhưng đã giải quyết được vẫn đề cấp bách về vấn đề hậu cần cho công cuộc kháng chiến thắng lợi và điều quan trọng là đặt nền móng cho quá trình hình thành, phát triển thương nghiệp tỉnh nhà sau này. - Thời kỳ khôi phục phát triển kinh tế ở miền Bắc và phục vụ công cuộc chống Mỹ cứu nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Hải Dương cùng các tỉnh từ vĩ tuyến 17 trở ra bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế trong điều kiện vô cùng khó khăn. Khi tiếp quản, cơ sở vật chất về thương nghiệp của chính quyền cũ để lại hầu như không có. Ngành thương nghiệp vừa phải tổ chức lực lượng hàng hoá, lao động, tổ chức mạng lưới buôn bán, bán lẻ từ tỉnh tới huyện phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng cho nhân dân, đồng thời trực tiếp tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các hộ công thương nghiệp tư bản. Chỉ sau một thời gian ngắn, được sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp bộ Đảng, chính quyền, trên 40 hộ công thương nghiệp, phần lớn tập trung tại thị xã Hải Dương đã chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước, tự nguyện vào công tư hợp doanh, chuyển giao tài sản hàng hoá, cơ sở vật cho nhà nước quản lý. Trong thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế của những năm 60, thương nghiệp Hải Dương nhanh chóng phát triển với quy mô ngày càng mở rộng, hệ thống thương nghiệp từ tỉnh tới huyện, cụm xã, đường phố bao gồm: - Các công ty chuyên doanh cấp tỉnh như: Công ty công nghệ phẩm, công ty Kim khí hoá chất, Công ty vật liệu kiến thiết, Công ty vật tư lâm sản, Công ty nông thổ sản, Công ty dược phẩm, Công ty lương thực, Công ty ăn uống, Công ty thực phẩm, HTX mua bán tỉnh, Công ty ngoại thương… - ở cấp huyện, thị xã: tổ chức các công ty thương nghiệp huyện kinh doanh tổng hợp, các trạm thu mua hàng ngoại thương XK, và hệ thống HTX mua bán phủ kín từ huyện tới các xã trong toàn tỉnh. Năm 1964 giặc Mỹ bắn phá miền Bắc, chiến tranh lan rộng, cùng với cả nước thương nghiệp Hải Dương, sản xuất kinh doanh, phục vụ theo yêu cầu nhiệm vụ mới "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Hàng năm ngành thương nghiệp đã lo đủ hàng hoá thiết yếu cung cấp theo định lượng cho cán bộ, nhân dân và bộ đội với khẩu hiệu "Không sợ hàng thiếu, chỉ sợ phân phối không công bằng". Lúc này thương nghiệp Hải Dương phải chia nhỏ kho tàng cửa hàng, trạm, trại tới các điểm dân cử, bám sát các cụm cơ quan sơ tán, tổ chức nhiều đội xung kích, đưa hàng tới trận địa phục vụ chiến sỹ. Hầu hết nam giới của ngành trong độ tuổi đều lên đường ra trận, nhiều kho, trạm, cửa hàng do 100% nữ giới đảm nhiệm, các mẹ, các chị, vừa buôn bán, vừa trực chiến nhưng vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Sau cuộc chiến tranh, giải phóng nhiều cán bộ, Đảng viên, công nhân viên của ngành đã mang thương tật suốt đời, hàng chục liệt sỹ là cán bộ công nhân viên của ngành đã hy sinh trên các chiến trường từ bắc tới nam. -Thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường Từ sau năm 1975, mà đặc biệt là trong giai đoạn 20 năm đổi mới, ngành Thương mại đã có bước chuyển về chất. Xuất phát là một trong những kinh tế được bao cấp triệt để nhất của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, khi chuyển sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, ban đầu còn bỡ ngõ, lúng túng, thậm trí còn trao đảo không chỉ đối với doanh nghiệp nhà nước, mà còn cả doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhưng sau đó được Đảng và Nhà nước, sự quan tâm của toàn xã hội đã giúp Thương mại Hải Dương từng bước trưởng thành. Từ những cơ sở đầu tiên đến nay đã có đội ngũ ngày càng lớn mạnh gồm: 25 doanh nghiệp TW, 10 doanh nghiệp nhà nước cấp tỉnh, 14 công ty CP, 177 Công ty TNHH, 137 doanh nghiệp tư nhân, và trên 20000 hộ kinh doanh cá thể, 147 chợ trên địa bàn tỉnh, tạo nên một sức mạnh tổng hợp trong sản xuất, kinh doanh. Từ đầu thập kỷ 90, ngành Thương mại chuyển mạnh sang kinh doanh, cơ chế hai giá được xoá bỏ, lưu thông hàng hoá thuận tiện, tình trạng “ ngăn sông cấm chợ ” được khắc phục, nền sản xuất bắt đầu phát triển. Hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng. Ngay từ những năm 1970, tỉnh ta đã đẩy mạnh XK hàng hoá, nhằm nâng cao hiệu quả, và tăng kim ngạch XK. Kim ngạch XK qua một số năm gần đây đạt được như sau: Năm 1997 đạt 36,85 triệu đôla Mỹ, Năm 1998 đạt 34,4 triệu đô la Mỹ, Năm 1999 là 45 triệu đôla Mỹ, Năm 2000 là 42,1 đôla. Chủng loại hàng hoá XK của tỉnh ngày càng phong phú, tỷ trọng hàng nông sản thực phẩm XK chiếm khoảng 45%, tiểu thủ công nghiệp chiếm 55% hàng công nghiệp. Hàng nông sản thực phẩm là mũi nhọn của tĩnh đã XK đi 20 nước và vùng lãnh thổ. Từ đó trở đi thì Sở Thương mại và Du lịch tỉnh Hải Dương đã và đang trên con đường phát triển vững bước trên thị trường và đã mang lại nhiều doanh thu cho nhà nươc nói chung và của tỉnh Hải Dương nói riêng cũng như tạo nhiều việc làm cho người dân trong tỉnh. Kết quả đạt được nêu trên là nhờ có sự quản lý Nhà nước về Thương mại đã được tăng cường và đổi mới, chức năng kinh doanh đã được tách hẳn ra khỏi chức năng quản lý nhà nước, các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh. Bộ máy của Sở Thương mại- Du lịch được tinh giảm, trình độ cán bộ công chức Văn phòng Sở được nâng cao để đảm đương được các công việc quản lý nhà nước về Thương mại và Du lịch thuộc các thành phần kinh tế và việc quản lý xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn của tỉnh. 3. Vai trò của Sở Thương mại và Du lịch trong hoạt động du lịch tại Hải Dương. - Trình UBND tỉnh ban hành quyết định, chỉ thị quản lý nhà nước về du lịch thuộc phạm vi quản lý của địa phương và phân cấp của Tổng cục du lịch, đồng thời chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản đã trình. - Trình UBND tỉnh quy hoạch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm, các chương trình, dự án quan trọng về các lĩnh vực về du lịch. - Trình UBND tỉnh quyết định việc phân công, phân cấp hoặc uỷ quyền quản lý nhà nước về lĩnh vực du lịch đối với UBND huyện, thành phố, các sở, ban, ngành theo quy định của pháp luật. - Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch phát triển, các chương trình, dự án về du lịch đã được phê duyệt; chủ trì, phối hợp các sở, ngành có liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở. - Giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể và tư nhân, các thành phần kinh tế, các hội và tổ chức phi chính phủ, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch theo quy định của pháp luật; được quyền yêu cầu các thương nhân báo cáo tình hình cung cấp thông tin về hoạt động du lịch của các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh. - Tổ chức thẩm định hồ sơ và đề nghị Tổng cục Du lịch cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế; cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch; công nhận cơ sở lưu trú du lịch đạt tiêu chuẩn tối thiểu và loại đạt tiêu chuẩn xếp hạng 1 sao, 2 sao; cấp chứng chỉ bồi dưỡng ngắn hạn nghề du lịch; cấp, thu hồi các loại thẻ, giấy phép, văn bằng, chứng chỉ khác thuộc thẩm quyền của Sở theo quy định của pháp luật. - Trình UBND tỉnh quyết định các điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch của tỉnh và phân cấp quản lý các điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch; chủ trì phối hợp các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất với UBND tỉnh các mô hình, biện pháp bảo vệ trật tự trị an, vệ sinh môi trường tại các khu, tuyến, điểm du lịch. - Quản lý tài nguyên du lịch được giao, điều tra đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch và tổng hợp tình hình đầu tư phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch trên địa bàn tỉnh. - Tổ chức thực hiện các dự án đầu tư được UBND tỉnh giao, thẩm định hoặc tham gia thẩm định các chương trình, dự án đầu tư phát triển thương mại, du lịch hoặc có liên quan đến thương mại, du lịch theo quy định của pháp luật và phân cấp của tỉnh. - Thực hiện việc đăng ký thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật. - Trình UBND tỉnh chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về cải cách hành chính nhà nước thuộc các lĩnh vực quản lý của Sở. - Hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn nghiệp vụ đối với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, thành phố thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại, du lịch. - Thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật về thương mại, du lịch trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật. - Quản lý hoạt động xúc tiến thương mại và du lịch: tổ chức các hoạt động xúc tiến du lịch trong và ngoài nước; cung cấp các thông tin về du lịch, các tổ chức và các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực du III/ KếT QUả HOạt động du lịch ở hải dương trong những năm qua - Về số lượng khách du lịch: Giai đoạn 2001-2005, tỉnh Hải Dương đón tổng số 2.942.100 lượt khách du lịch qua các cơ sở lưu trú, các điểm dừng chân và khách thập phương đi thăm quan, tham dự các lễ hội cổ truyền trên địa bàn tỉnh. Riêng năm 2004 tổng số khách du lịch qua tỉnh đạt 720.000 lượt khách; vượt mục tiêu của Chương trình đặt ra là đón 500.000 lượt khách vào năm 2005. Trong 5 năm 2001-2005, tổng số lượt khách do các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn đón là 839.452 lượt khách. Trong đó, riêng năm 2001 toàn tỉnh đón 112.452 lượt khách, năm 2005 đón 251.000 lượt khách. Tốc độ tăng trưởng bình quân cho cả giai đoạn 2001-2005 đối với số lượt khách đạt 25,7%/năm. Được thể hiện qua bảng sau. Biểu 1: Lượng khách du lịch qua các cơ sở lưu trú của Hải Dương giai đoạn 2001-2005 Năm Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005 1. Lượt khách Khách nội địa Khách quốc tế Lượt 112.452 85.466 26.986 122.000 96.500 25.500 151.000 120.000 30.900 203.000 165.500 37.500 251.000 200.000 51.000 2. Ngày khách Khách nội địa Khách quốc tế Ngày 193.560 160.206 33.354 192.890 152.890 40.000 245.860 183.760 62.100 339.790 266.400 73.390 400.000 300.000 100.000 (Nguồn: Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương) - Về doanh thu du lịch: Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của lượng khách du lịch trong giai đoạn 2001- 2005, doanh thu từ hoạt động du lịch trên địa bàn đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Doanh thu du lịch tăng từ 120 tỷ đồng năm 2001 lên 250 tỷ đồng năm 2005; đạt tốc độ tăng trưởng bình quân cả thời kỳ là 20,1%/năm; vượt tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1996-2000 là 18,7%/năm. Ngoài hiệu quả thu được về kinh tế, hoạt động du lịch phát triển còn mang lại hiệu quả xã hội, tạo thêm công ăn việc làm, góp phần thiết thực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tỉnh. Biểu 2: Doanh thu và số nộp ngân sách nhà nước từ hoạt động du lịch Đơn vị tính:tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 1. Doanh thu 120 140 167 206 250 Trong đó doanh thu từ: Lữ hành 0,8 7,1 9,0 9,2 10 Cho thuê buồng 13,2 23,0 26,5 28,5 32 Bán hàng ăn uống 40,3 35,6 40,4 45,3 50 Bán hàng hoá 35,2 28,5 32,1 50,0 58 Vận chuyển khách du lịch 16,3 30,9 38,2 44,8 65 Phục vụ vui chơi giải trí và các dịch vụ khác 13,4 13,0 15,7 21,2 25 Doanh thu khác (giặt là, điện thoại, bán vé máy bay...) 0,8 1,9 5,1 7,0 10 2. Nộp ngân sách 2 4 5,15 6 9 (Nguồn: Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương) - Về bộ máy quản lý nhà nước về du lịch: Từng bước được củng cố, kiện toàn phát huy tốt hơn chức năng tham mưu quản lý nhà nước nhất là trong việc xây dựng và triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch, công tác thông tin, tuyên truyền, xúc tiến, quảng bá du lịch, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh. IV/ Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân: 1. Những hạn chế, tồn tại: Mặc dù thu được những kết quả khả quan ở mọi mặt công tác, nhưng hoạt động du lịch Hải Dương trong giai đoạn 2001-2005 vừa qua vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Hoạt động du lịch chủ yếu dựa trên cơ sở khai thác các tài nguyên sẵn có, đầu tư cơ sở vật chất còn ở mức khiêm tốn, thiếu đồng bộ nên chưa có sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn và thu hút du khách. Khách du lịch đến Hải Dương chủ yếu là khách trong nước, với đặc thù là khách tham quan, khách đi lễ hội, khách đi nghiên cứu các di tích lịch sử văn hoá đền chùa tập trung vào mùa lễ hội. Lượng khách nước ngoài qua tỉnh trong giai đoạn 5 năm qua có xu hướng tăng song chủ yếu tăng nhanh tại các điểm dừng chân du lịch, khách lưu trú tại tỉnh chưa nhiều, nếu có thì chủ yếu là khách khảo sát thực hiện dự án đầu tư tại tỉnh; khách của các tổ chức phi chính phủ làm từ thiện; nguồn khác là người Hải Dương làm ăn sinh sống ở nước ngoài về thăm thân nhân . Kết cấu hạ tầng cho du lịch đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được một cách đầy đủ yêu cầu phát triển; hạ tầng đến và trong các khu, điểm du lịch còn yếu, chưa có hệ thống xử lý môi trường đạt tiêu chuẩn…. 2. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, tồn tại : Các tiện nghi vui chơi giải trí của Hải Dương nhìn chung chưa phát triển. Hiện nay tỉnh mới có một sân GOLF; phục vụ khách sạn mới dừng lại ở một số phòng massage, karaoke, sân tennis chủ yếu phục vụ khách nội địa. Các dịch vụ khác như bể bơi, câu lạc bộ qua đêm và các hoạt động tiêu khiển khác cho du khách hầu như chưa phát triển. Do đó, chưa đủ sức hấp dẫn thời gian lưu lại của khách. Qua thực tế khách đến Hải Dương với số lượng tương đối đông, nhưng họ chủ yếu đi về trong ngày do vậy hiệu quả kinh doanh du lịch chưa cao. Mặc dù đã được đào tạo và cải thiện đáng kể trong những năm qua, nhưng nhìn chung nguồn nhân lực du lịch ở Hải Dương chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại. Những yếu kém về quản lý, nghiệp vụ, ngoại ngữ và nhận thức về công tác du lịch đã làm giảm chất lượng phục vụ khách của Du lịch Hải Dương. Khai thác du lịch mang tính tự phát, manh mún, chú ý nhiều đến hiệu quả trước mắt mà chưa chú ý đến việc phát triển lâu dài. Nhận thức xã hội về du lịch còn những bất cập nhất định, chưa có cơ chế chính sách hợp lý để có thể thu hút các nguồn vốn tập trung cho du lịch nhằm tạo thế, tạo lực, đẩy mạnh hoạt động du lịch. Hệ thống quản lý Nhà nước về du lịch từ tỉnh xuống cơ sở còn bất cập; công chức làm công tác quản lý Nhà nước về du lịch tại các huyện, thành phố hầu như chưa có do đó các chính sách của Nhà nước về quản lý cơ sở lưu trú, kinh doanh lữ hành chưa được thực hiện nghiêm. Công tác xúc tiến quảng bá du lịch chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức, đầy đủ và thường xuyên. chương III:Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch Hải Dương I/ Phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch Hải Dương 1. Phương hướng chung. Phát triển du lịch Hải Dương trở thành một ngành kinh tế quan trọng, trên cơ sở phát huy các nguồn lực sẵn có; tranh thủ mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử của tỉnh. Phát triển du lịch theo hướng du lịch văn hoá lịch sử, du lịch thể thao, du lịch làng nghề và du lịch sinh thái; tạo ra các sản phẩm du lịch đặc thù độc đáo mang sắc thái riêng của Hải Dương, đặt du lịch của tỉnh trong hệ thống du lịch của vùng và cả nước để thu hút du khách trong nước và quốc tế. Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Liên kết chặt chẽ các ngành liên quan đến hoạt động du lịch để đầu tư phát triển một số khu du lịch tổng hợp và trọng điểm. Tăng cường nhận thức của toàn dân về vai trò của du lịch, nâng cao ý thức bảo vệ, giữ gìn và khai thác hợp lý tài nguyên du lịch. Phát triển du lịch đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh nhưng gắn liền với việc bảo vệ và tôn tạo cảnh quan, môi trường sinh thái góp phần tích cực trong việc giữ gìn môi trường tự nhiên và xã hội. 2. Mục tiêu chủ yếu. - Đầu tư xây dựng và phát triển khu du lịch Côn sơn - Kiếp bạc thành khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc gia. Xây dựng và phát triển các khu vui chơi giải trí tại đô thị phía Tây thành phố Hải Dương và khu vực Sao Đỏ, Chí linh. - Phát triển nguồn nhân lực du lịch ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ phát triển ngành. - Tốc độ tăng trưởng doanh thu du lịch bình quân đạt 22%/năm; tốc độ tăng trưởng lượt khách du lịch qua các cơ sở lưu trú bình quân đạt 18%/năm; - Phấn đấu riêng năm 2010 đạt doanh thu du lịch 700 tỷ đồng; tổng số lượt khách qua các cơ sở lưu trú là 600.000 lượt người, trong đó khách quốc tế 150.000 lượt người. II/ Nhiệm vụ phát triển Du lịch Hải Dương trong giai đoạn mới. - Hoàn chỉnh báo cáo tổng hợp xây dựng tuyến du lịch đường sông tỉnh Hải Dương. - Xây dựng Quy hoạch chi tiết 3 vùng: Côn Sơn- Kiếp Bạc; Kính Chủ- An Phụ; Đảo Cò- Chi Lăng Nam. - Xây dựng Đề án phát triển du lịch Hải Dương. năm 2006 – 2010. - Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch của tỉnh nhằm đáp ứng tốt nhu cầu phát triển du lịch của tỉnh trong giai đoạn mới. - Đẩy mạnh xúc tiến quảng bá du lịch, tuyên truyền quảng bá nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, tích cực thâm nhập và mở rộng thị trường. - Tổ chức liên hoan du lịch làng nghề và văn hoá ẩm thực năm 2006. - Triển khai Luật Du lịch tới toàn thể các đơn vị hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh. - Khảo sát thực tế và phân loại các khu, tuyến, điểm du lịch. - Công tác thi đua khen thưởng: phát động phong trào thi đua trong các đơn vị hoạt động du lịch của các tập thể và cá nhân và tổng kết kịp thời những gương, những điển hình tiên tiến. - Các công việc chuyên môn: thẩm định cơ sở lưu trú, cấp thẻ Hướng dẫn viên, báo cáo định kỳ, đột xuất với các cấp trên đảm bảo kịp thời, đầy đủ… - Thực hiện tốt các công việc khác khi được Tổng cục du lịch và lãnh đạo Tỉnh giao. III/ Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch Hải Dương. Để thực hiện được các nmục tiêu, nhiệm vụ cũng như trong quá trình phát triển du lịch của tỉnh Hải Dương cần phải thực hiện một số biện pháp sau: 1. Quy hoạch lãnh thổ trên dịa bàn tỉnh. Triển khai lâp, xét duyệt các đồ án quy hoạch chi tiết khu vực trọng điểm, trên cơ sở đó xây dựng các dự án ưu tiên theo từng giai đoạn. Trong đó đặc biệt quan tâm lập và xét duyệt các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cấp, phục hồi các di tích lịch sử văn hoá cho các khu vực trong điểm. Phát huy việc xã hội hoá phát triển du lịch, thực hiện quy hoạch theo tinh thần Nghị định 52/1999/NĐ-CP và các văn bản khác của Nhà Nước về quản lý quy hoạch của Chính Phủ về Quy chế quản lý đầu tư xây dựng, công bố rộng rãi các quy hoạch phát triển du lịch sau khi được cấp thẩm quyền phê duyệt, tăng cường quản lý theo quy hoạch. Trong công tác quy hoạch cần lưu tâm đến một số điểm: - Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển du lịch Hải Dương đến năm 2010. - Tiến hành thiết kế các quy hoạch chung – Phối hợp đồng bộ với quy hoạch văn hoá và quy hoạch xây dựng cũng như quy hoạch của các chuyên ngành khác + Côn Sơn – Kiếp bạc + An Phụ – Dương Nham + Quy hoạch các điểm du lịch ở các huyện ( các di tích quan trọng, danh y Tuệ Tĩnh, cây vải Thanh Hà, đảo cò Chi Lăng ) - Rà soát lại các quy hoạch và dự án đã có - Tăng cường công tác quy hoạch gắn liền với dự án, các chủ đầu tư có tiềm lực về kinh tế trong và ngoài nước - Tăng cường công tác quy hoạch với việc quản lý tốt quy hoạch 2. Về thông tin, tuyên truyền, xúc tiến du lịch: Tuyên truyền hình ảnh và du lịch Hải Dương với cộng đồng du lịch trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức: trên các phương tiện thông tin đại chúng; phát hành sách, tờ gấp, tờ rơi để giới thiệu về văn hoá Hải Dương, các lễ hội truyền thống, các khu danh thắng, điểm du lịch cũng như tiềm năng du lịch của tỉnh với khách du lịch và các nhà đầu tư trong nước, quốc tế. Với đặc thù là một ngành kinh tế tổng hợp và mang tính xã hội hoá cao. Vì vậy cần phải thực hiện các biện pháp về thông tin, tuyên truyền để tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức về ngành du lịch trong các cấp, các ngành và cộng đồng dân cư trong tỉnh; nâng cao nhận thức của toàn dân về phát triển du lịch tạo cho các điểm du lịch thực sự hấp dẫn, an toàn và thân thiện cho du khách. Xây dựng “Chương trình xúc tiến du lịch trọng điểm của tỉnh trong giai đoạn 2006- 2010”, tổ chức các hoạt động xúc tiến du lịch trọng tâm, với kế hoạch và tiến độ cụ thể nhằm đưa hình ảnh của Hải Dương đến với du khách trong nước và quốc tế. 3. Về phát triển nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định cho sự phát triển của ngành du lịch, trong đó trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ của công nhân viên trong ngành là rất quan trọng. Do đó, việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân viên làm công tác du lịch là hình thức đầu tư đặc biệt, quyết định sự phát triển và tính bền vững trong hoạt động kinh doanh du lịch. Các doanh nghiệp tham gia kinh doanh du lịch cần xác định rõ vai trò cũng như quyền lợi của mình trong việc đưa đi đào tạo hoặc đào tạo tại chỗ cho cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp. Xây dựng kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo ngắn hạn; gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của cán bộ công nhân viên để tạo sự liên kết chặt chẽ trong hoạt động quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp, với phương châm làm ăn lâu dài. Từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý du lịch đủ năng lực điều hành các hoạt động kinh doanh du lịch, có chính sách thu hút nhân tài phục vụ cho ngành du lịch. 4. Nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch của tỉnh: Các khu, điểm du lịch giữ vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn du khách. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hình thành các vùng, các điểm du lịch hấp dẫn, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của du khách là việc làm khó, cần sự nỗ lực, cố gắng của các doanh nghiệp cùng các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý và cần nguồn vốn đầu tư lớn. Những năm qua, chất lượng các sản phẩm du lịch của tỉnh còn quá thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Bởi vậy, lượng du khách đến với tỉnh còn ít, số ngày lưu chân ngắn và chủ yếu đi về trong ngày. Trong giai đoạn 2006-2010, du lịch Hải Dương cần ưu tiên đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo và xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch trọng điểm của tỉnh là Chí Linh - Kinh Môn và thành phố Hải Dương với các khu vực phụ cận. Tranh thủ sự hỗ trợ về nguồn vốn của Trung ương và sử dụng một phần vốn Ngân sách Nhà nước tỉnh để tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng tại các khu du lịch trọng điểm, đồng thời xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư của mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở lưu trú du lịch tại các điểm du lịch tập trung. Trước mắt, tập trung đầu tư hoàn thành 209 phòng nghỉ có trang thiết bị cao cấp tại Chí Linh, 90 phòng tại thành phố Hải Dương; Đến 2010, toàn bộ cả hai khu vực sẽ có tới 350 nhà biệt thự và một khách sạn 5 sao, một khách sạn 4 sao và khoảng 15-20 khách sạn 3 sao. Định hướng cho phát triển du lịch sinh thái, du lịch làng nghề theo vùng núi và vùng đồng bằng. Khu vực đồng bằng sẽ xây dựng điểm du lịch sinh thái miệt vườn vải thiều Thanh Hà, với dự án phát triển du lịch sông Hương - Thanh Hà; điểm du lịch sinh thái Làng Cò - Chi Lăng Nam. Tại vùng núi của tỉnh sẽ hình thành và xây dựng điểm du lịch núi Phượng Hoàng- Côn Sơn- Kiếp Bạc; điểm An Phụ và vùng hang động Dương Nham tại Kinh Môn. Ngoài ra trên địa bàn còn tổ chức du lịch làng nghề ở một số vùng có các nghề truyền thống, nổi tiếng trong và ngoài nước. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển các khu vui chơi giải trí lớn như: công viên vui chơi giải trí tại hồ Bạch Đằng và khu du lịch sinh thái Hải Hà, thành phố Hải Dương; khu du lịch sinh thái Trái Bầu; khu du lịch sinh thái Thạch Khôi- Gia Lộc. 5. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về du lịch trên địa tỉnh: Ngành du lịch được xác định là một ngành công nghiệp không khói. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới việc phát triển du lịch đã ban hành Luật Du lịch Việt Nam, các Nghị định và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm thúc đẩy và quản lý tốt các hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Song do hoạt động du lịch là hoạt động kinh tế tổng hợp, mang tính xã hội hoá cao, chịu sự chi phối và quản lý của nhiều ngành, nhiều cấp nên công tác tuyên truyền, phổ biến và thực thi pháp luật còn hạn chế; công tác quản lý nhà nước còn có sự chồng chéo. Do đó, việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước về du lịch là việc cần thiết. Soạn thảo các văn bản quản lý Nhà nước trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành về cơ chế quản lý du lịch, quản lý tài nguyên du lịch. Thành lập Ban quản lý khu du lịch trọng điểm; triển khai công tác xúc tiến du lịch một cách có hiệu quả. Bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý du lịch tại các huyện thành phố trong tỉnh để nâng cao năng lực quản lý về du lịch. Đồng thời cần thống nhất quản lý trong khu vực có di tích lịch sử, văn hoá, tránh sự chồng chéo chức năng. 6. Về cơ chế chính sách phát triển du lịch. Triển khai thực hiện tốt hơn nữa công tác quy hoạch phát triển du lịch trên địa bàn. Lập, xét duyệt các đồ án quy hoạch chi tiết khu vực du lịch trọng điểm trên cơ sở đó xây dựng các dự án ưu tiên đầu tư theo từng giai đoạn, đảm bảo các công trình có kiến trúc về thẩm mỹ, cấu trúc không gian…tạo lên cảnh quan đẹp song phải giữ được vẻ đẹp tự nhiên của khung cảnh chung, trong đó cần quan tâm đến việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cấp, phục hồi các di tích lịch sử văn hoá trong các khu du lịch trọng điểm. Trên cơ sở hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước, xây dựng chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực du lịch áp dụng riêng trên địa bàn tỉnh, nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch nhất là các dự án đầu tư vào khu du lịch trọng điểm. Xây dựng chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng hình thức liên doanh, liên kết đầu tư; hình thành các Tour du lịch trong tỉnh kết nối với du lịch trong khu vực và cả nước để làm tiền đề cho phát triển du lịch lâu dài, bền vững đảm bảo khai thác tốt và bảo tồn tài nguyên du lịch. 7. Giải pháp về vốn. Muốn đầu tư phát triển thì yếu tố quan trọng hàng đầu là vốn, trong khi đó nguồn tích luỹ từ GDP du lịch chỉ đáp ứng một phần nhỏ. Đối với một tỉnh có nguồn thu còn khiêm tốn như Hải Dương thì việc huy động vốn cho đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách và từ tích luỹ của các doanh nghiệp là khá hạn chế, vì vậy cần có những giải pháp linh hoạt để huy động nguồn vốn ở trong nước và từ ngoài nước. Các nguồn vốn có thể huy động thêm là vốn hỗ trợ của Trung ương và các Bộ, ngành, vốn đầu tư tư nhân, vốn liên doanh liên kết; vốn vay ngân hàng và các nguồn vốn khác. Vấn đề quan trọng là phải tạo được cơ chế, chính sách phù hợp, khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các công trình du lịch theo quy hoạch và dự án đầu tư cụ thể, đồng thời có chính sách rõ ràng về quản lý đầu tư xây dựng, kinh doanh và phân chia lợi nhuận. Một số hướng đi cần nghiên cứu áp dụng: - Nhanh chóng xây dựng các dự án kêu gọi vốn đầu tư cho Du lịch Hải Dương, ban hành các quy định ưu đãi về đầu tư như ưu tiên giải phóng mặt bằng, giảm giá cho thuê đất, miễn giảm các khoản thuế trong một thời gian nhất định.. - Tập trung xây dựng các quy hoạch và dự án đầu tư cụ thể, sử dụng nguồn vốn đầu tư hỗ trợ hạ tầng du lịch của Trung ương đầu tư hạ tầng cho các khu, điểm du lịch làm đòn bẩy thu hút vốn của các thành phần kinh tế khác đầu tư vào sản phẩm du lịch - Nghiên cứu áp dụng giải pháp “ đổi đất lấy hạ tầng “, đấu thầu sử dụng quỹ đất tạo vốn đầu tư phát triển du lịch. Giải pháp này được thực hiện có hiệu quả ở một số địa phương trong nước. -Tăng cường công tác quản lý thị trường chống thất thu thuế từ các doanh nghiệp và các hộ tư nhân, tiết kiệm các khoản chi không cần thiết, tăng cường liên doanh với các địa phương khác để phát triển du lịch. - Đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp, cấp giấy phép đầu tư, xác định rõ chức năng và trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc hướng dẫn, xúc tiến đầu tư, thành lập yhêm các tổ chức xúc tiến đầu tư: khuyến khích phát triển đi đôi với tăng cường quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo vai trò quản lý và điều tiết của cơ quan Nhà nước, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng của mọi thành phần kinh tế trong khuôn khổ pháp luật. 8. Giải pháp xã hội hoá phát triển du lịch. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, sự phát triển du lịch luôn nằm trong mối quan hệ tương hỗ với các cấp, các ngành, các đoàn thể và toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX xác định là ngành kinh tế quan trọng và phát triển du lịch là một định hướng chiến lược trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tuy nhiên không phải ở đâu vai trò của du lịch cũng được đánh giá một cách đầy đủ, đúng đắn và tạo điều kiện tốt nhất để phát triển. Do vậy, cần tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức và ngành Du lịch trong các cấp, các ngành. Du lịch cần phải được coi là một ngành kinh tế tổng hợp, tăng nguồn thu ngân sách địa phương và giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo ra nhiều việc làm cho xã hội; du lịch phối hợp cung các ngành bảo tồn và khai thác các giá trị về tự nhiên và nhân văn; giúp tái tạo sức lao động cho xã hội; tính liên ngành, liên vùng của du lịch đòi hỏi có sự phối hợp liên ngành chặt chẽ có hiệu quả dưới sự chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền. Bên cạnh đó du lịch còn thể hiện tính xã hội hoá cao, sự phát triển du lịch luôn gắn với cộng đồng dân cư, vai trò của cộng đồng dâ cư rất lớn bởi họ vừa là những người hoặc trực tiếp tham gia vào dòng khách du lịch, hoặc tham gia vào các dịch vụ du lịch, vừa góp phần tạo nên môi trường xã hội cho du lịch phát triển, vì vậy cần đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức của toàn dân về phát triển du lịch, tránh các biểu hiện tiêu cực làm cản trở, ảnh hưởng đến phát triển du lịch. Để Du lịch Hải Dương triển bền vững và có hiệu quả cần tạo những điểm du lịch hấp dẫn, an toàn và thân thiện cho du khách. III: Đề xuất kiến nghị. 1. Về vốn đầu tư phát triển. - Kiến nghị với Chính phủ chỉ đạo: Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn; Bộ giao thông vận tải; Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch giúp đỡ và thống nhất trình chính phủ phê duyệt cấp một lượng tiền vốn cho Hải Dương nhằm mục đích tập trung đầu tư và bảo vệ, duy tu và nâng cấp phục hồi một số làng nghề truyền thống, các di tích lịch sử văn hoá có giá trị. Trong thời gian cần cấp vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư xây dựng tạo điều kiện xây dựng các mũi đột phá để du lịch Hải Dương có một bước chuyển mới. - Kiến nghị Tổng cục Du lịch trình Chính Phủ cấp vốn Ngân sách hỗ trợ trong việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng ở các khu du lịch, các tuyến điểm du lịch trọng tâm. - Kiến nghị UBND tỉnh Hải Dương và Tổng cục Du lịch tạo nguồn vốn ngân sách cho công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến đầu tư phát triển du lịch Hải Dương. - Kiến nghị với UBND tỉnh Hải Dương và Tổng cục Du lịch có chương trình kết hợp thông qua các dự án tài trợ để đào tạo ở trong nước và nước ngoài về quản lý nghiệp vụ, về trình độ ngoại ngữ với các đợt học tập ngắn hạn và dài hạn cho đội ngũ lao động trong lĩnh vực du lịch của tỉnh. 2. Về tổ chức quản lý và thực hiện quy hoạch. Cần phải coi trọng công tác quản lý và triển khai việc thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch. Cụ thể việc triển khai các quy hoạch chi tiết các khu điểm du lịch trên địa bàn tỉnh phải căn cứ trên cơ sở định hướng phát triển và quy hoạch không gian trong quy hoạch tổng thể đã được phê duyệt. Có cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trực tiếp đầu tư kinh doanh các khu du lịch trọng điểm theo phương thức đấu thầu. Thành lập ban quản lý các dự án du lịch, ban quản lý các khu du lịch trọng điểm để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động du lịch, bao gồm cả công tác tư vấn giúp UBND các cấp xét duyệt các dự án đầu tư phát triển du lịch. Có phương án sắp xếp, thành lập phù hợp với điều kiện thực tế trong từng giai đoạn phát triển các phương án bảo vệ cảnh quan du lịch. Tăng cường năng lực của “trung tâm xúc tiến tư vấn đầu tư phát triển du lịch” thuộc Sở Thương mại – Du lịch để tuyên truyền quảng bá, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, triển khai thực hiện các dự án trong lĩnh vực du lịch theo quy hoạch đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. UBND tỉnh Hải Dương chỉ đạo các ngành chức năng căn cứ nhiệm vụ được giao để xây dựng các đề án phát triển du lịch. Ban chỉ đaọ phát triển du lịch của tỉnh tham mưu về các chương trình, chiến lược các dự án liên quan đến phát triển du lịch để đảm bảo tính hiệu quả, tính liên ngành Kết luận Phát triển du lịch Hải Dương là một trong những nội dung quản lý Nhà nước về du lịch, bao gồm những định hướng phát triển ngành, phát triển không gian lãnh thổ trên địa bàn tỉnh, được nghiên cứu trên cơ sở đánh giá tổng hợp những lợi thế về tài nguyên du lịch của tỉnh. Các khả năng khai thác tiềm năng phát triển du lịch Hải Dương được lồng ghép phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của địa phương gắn với thị trường du lịch trong vùng và khu vực. Hải Dương đang trên đà phát triển mạnh mẽ từng ngày trong công cuộc đổi mới toàn diện theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì vậy quá trình khai thác và phát triển các tiềm năng du lịch cần có sự kết hợp của các ngành, ban để đưa ra được những phương hướng, biện pháp lâu dài để phát triển du lịch Hải Dương tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của mình. Việc đánh giá thực trạng các tiềm năng du lịch của Hải Dương là một vấn đề rộng, do thời gian thực tập không dài phạm vi tìm hiểu tương đối rộng của đề tài, khả năng kinh nghiệm thực tiễn hạn chế của người viết nên còn thiếu những phân tích sâu, chưa có cái nhìn bao quát và toàn diện, cho nên đề tài không tránh khỏi phần hạn chế. Em mong được sự giúp đỡ của thầy cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương.pdf
Luận văn liên quan