Luận văn Tìm hiểu cấu trúc thành ngữ Hán Việt

Thành ngữ Hán - Việt đem lại những ý nghĩa góp phần tích cực vào việc, làm cho tiếng Việt thêm giàu có tinh tế, chính xác, uyển chuyển, cấu trúc ngữ pháp trong kho tang, thêm phong phú. Nhưng trong thực tiễn xã hội cuộc sống hiện nay, dùng sai các thành ngữ Hán - Việt rất nhiều, tự động thêm bớt từ vào thành ngữ làm lệch đi các cấu trúc bền vững vốn có của nó, ứng dụng không đúng ý nghĩa khi sử dụng thành ngữ Hán - Việt, ngay cả đối với giáo viên giảng dạy môn Văn học cũng khó giải nghĩa và sử dụng đúng cấu trúc các thành ngữ Hán - Việt, đặc biệt khi các nhà thơ nhà văn khi ứng dụng vào sang tác viết lách cũng tự động thêm bớt và sử dụng sai cấu trúc, ý nghĩa. Khi không sử dụng đúng ý nghĩa và cấu trúc thành ngữ Hán - Việt nó sẽ làm sấu đi nét văn hóa ngôn ngữ, mất đi ý nghĩa tốt đẹp, làm giảm đi sự tinh túy, của các thành ngữ gây hiểu lầm cho nhiều người sử dụng Với yêu cầu đặt ra, từ cuộc sống, từ thực tiễn, từ giảng dạy, từ ứng dụng, nếu chúng ta hiểu rõ hơn về nguồn gốc, ý nghĩa, cấu trúc sẽ giúp cho chúng ta sử dụng các thành ngữ một cách tốt nhất. Từ tính bức thiết đó em mạnh dạn chọn đề tài: “Tìm hiểu cấu trúc thành ngữ Hán - Việt”.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7539 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu cấu trúc thành ngữ Hán Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Trong quá trình học tập môn Hán Nôm thì em nhận thấy, với vị thế hoàn cảnh lịch sử, trong tiếng việt có một lớp thành ngữ gốc hán rất phong phú về số lượng, có giá trị về nhiều mặt thường được gọi dưới cái tên chung là thành ngữ Hán - Việt Thành ngữ Hán - Việt đem lại những ý nghĩa góp phần tích cực vào việc, làm cho tiếng Việt thêm giàu có tinh tế, chính xác, uyển chuyển, cấu trúc ngữ pháp trong kho tang, thêm phong phú. Nhưng trong thực tiễn xã hội cuộc sống hiện nay, dùng sai các thành ngữ Hán - Việt rất nhiều, tự động thêm bớt từ vào thành ngữ làm lệch đi các cấu trúc bền vững vốn có của nó, ứng dụng không đúng ý nghĩa khi sử dụng thành ngữ Hán - Việt, ngay cả đối với giáo viên giảng dạy môn Văn học cũng khó giải nghĩa và sử dụng đúng cấu trúc các thành ngữ Hán - Việt, đặc biệt khi các nhà thơ nhà văn khi ứng dụng vào sang tác viết lách cũng tự động thêm bớt và sử dụng sai cấu trúc, ý nghĩa. Khi không sử dụng đúng ý nghĩa và cấu trúc thành ngữ Hán - Việt nó sẽ làm sấu đi nét văn hóa ngôn ngữ, mất đi ý nghĩa tốt đẹp, làm giảm đi sự tinh túy, của các thành ngữ gây hiểu lầm cho nhiều người sử dụng Với yêu cầu đặt ra, từ cuộc sống, từ thực tiễn, từ giảng dạy, từ ứng dụng, nếu chúng ta hiểu rõ hơn về nguồn gốc, ý nghĩa, cấu trúc sẽ giúp cho chúng ta sử dụng các thành ngữ một cách tốt nhất. Từ tính bức thiết đó em mạnh dạn chọn đề tài: “Tìm hiểu cấu trúc thành ngữ Hán - Việt”. Trên cơ sở đó em đề xuất một số ý kiến nhằm giảm thiểu sự hiểu lầm trong giảng dạy trả lại ý nghĩa cho thành ngữ Hán - Việt trong giai đoạn hiện nay. II. Đối tượng và mục đích của đề tài 1. Đối tượng: Một số các thành ngữ Hán - Việt trong các thư tịch, sách vở đời sống hàng ngày. 2. Mục đích: * Đối với cái nhân Thứ nhất: đề tài sẽ giúp cho em hiểu về cấu trúc hình thành nên thành ngữ Hán - Việt, ý nghĩa của các câu thành ngữ Hán - Việt, làm phong phú thêm kiến thức cho em khi sử dụng trong cuộc sống, trong học tập Thứ hai: giúp cho em biết nghiên cứu tìm tòi tài liệu và làm một đề tài Thứ ba: do các thành ngữ Hán - Việt thường có nguồn gốc hình thành từ các điển tích điển cố, đời sống hàng ngày gán liền với lịch sử văn hóa nên khi phân tích giúp cho em hiểu được lối sống sinh hoạt, thấy được bức tranh quá khứ, thấy được lối sử dụng ngôn ngữ tinh tế của cha ông ta Thứ tư: đưa ra các ý kiến, giải pháp cho việc giảng dạy tìm hiểu thành ngữ Hán - Việt * Đối với xã hội Thứ nhất: nếu được sử dụng đề tài sẽ là tài liệu giúp cho giáo viên trong việc truyền thụ, giảng dạy cho học sinh, sinh viên hiểu về thành ngữ cũng ngư cấu trúc của thành ngữ. Thứ hai: gúp cho chúng ta sử dụng một cách chuẩn xác hơn trên phương diện ngôn ngữ văn hóa,góp phần vào công việc biên soạn, gợi mở hoặc có thêm hướng đi mới cho những người nghiên cứu tiếp theo . Thứ ba: góp phần bảo tồn các thành ngữ Hán - Việt vào kho tang văn hóa dân tộc cho các thế hệ sau. III. Nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 1. Nhiệm vụ - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận, thực tiễn: - Vài nét khái quát về thành ngữ Hán - Việt (quá trình hình thành, cách nhận biết, phân loại). - Cấu trúc thành ngữ Hán - Việt (liệt kê, phân tích cấu tạo, số lượng chữ trong thành ngữ, sự đăng đối, kết cấu ngữ pháp theo các dạng trong cụm từ, thuộc thể gì?). - Đặc điểm cấu trúc thành ngữ Hán - Việt. - Đề xuất một số ý kiến. 2. Giới hạn nghiên cứu - Vì sự xuất hiện các thành ngữ Hán - Việt nguồn gốc từ Trung Hoa và kho tàng thành ngữ Việt cũng rất đồ sộ. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này viết chỉ nghiên cứu cấu trúc một số thành ngữ Hán - Việt tiêu biểu để đưa ra các kết luận phù hợp trong lý luận cũng như thực tiễn. 3. Phương pháp nghiên cứu - Thống kê, phân tích, tổng hợp và rút ra kết luận. B. NỘI DUNG I. Cơ sở khoa học 1. Cơ sở lý luận Do các thành ngữ đa số gắn với các điển tích, điển cố và có cấu trúc theo kiểu biền ngẫu nên các nhà nghiên cứu đã đưa ra các định nghĩa sau. 1.1. Định nghĩa 1 Thành ngữ Hán - Việt dùng để chỉ những kết cấu ngôn ngữ rất ổn định,thông thường cô đọng về mặt ngữ nghĩa thịnh hành trong tiếng Trung Quốc, được du nhập vào Việt Nam và sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay. 1.2. Định nghĩa 2 Thành ngữ là cách diễn đạt ý tưởng mang tính cách đặc trưng của ngôn ngữ. Về cấu trúc phần lớn thành ngữ không thành câu với những từ - ngữ mặc dầu có thể phân tích nhưng không thể tách rời. Về nghĩa thành ngữ mang một ý nghĩa không thể thay thế hay sửa đổi bằng cách nói khác để mang cùng ý nguyên thuỷ. Chẳng hạn, thay vì nói khóc giả dối thì dùng thành ngữ nước mắt cá sấu. Nói cách khác, thành ngữ là cách nói, bóng bẩy “về một cái gì đó bình thường. Thành ngữ là bậc thang đầu tiên đi vào chiều sâu của một ngôn ngữ mà người nói sử dụng tuỳ theo trình độ ngôn ngữ kiến thức về nền văn hoá xứ đó. Nói theo kiểu phương Tây thì thành ngữ phản ảnh cách cắt chiếc bánh ngôn ngữ của người bản ngữ. Thật vậy, thành ngữ là cửa ngõ đầu tiên để đi vào cái tinh hoa của kho tàng ngôn ngữ một dân tộc. Hãy xét đến các thành ngữ nước mắt cá sấu “khóc giả, khóc làm bộ', nước đổ đi rồi không hốt lại được để chỉ về bất cứ sự việc đáng tiếc gì đã lỡ xảy ra rồi thì không thể trở lại như trước kia” hoặc râu ông nọ cằm bà kia “dùng người hay vật sai cách, chắp vá hay vụng về” không thể thay thế cá sấu bằng thứ cá khác; nước bằng rượu hay bia;  râu bằng tóc được, và cũng không thể thay cằm bằng trán hay má được. Thành ngữ phản ảnh cách suy nghĩ của người bản ngữ chứ nhưng không có ý răn đời. Thành ngữ có ý nghĩa độc lập với từng nghĩa riêng rẽ mà mỗi từ ngữ trong thành ngữ và chúng hợp thành một khối đồng nhất về nghĩa. 1.3. thành ngữ đa số hình thành theo kiểu cấu trúc biền ngẫu - (Biển: hai con ngựa chạy sóng đôi, ngẫu: có hai nghĩa: tình cờ, hoặc từng cặp). Dạng thức câu văn (chữ Hán hoặc chữ Nôm) được tổ chức theo một số quy tắc tương đối chặt chẽ về số lượng từ (chữ), về nhịp, về tính cân đối trong ngữ nghĩa. "Biển văn", trong văn học chữ Hán ở Trung Hoa có từ thời Lục Triều với lối cổ thể, theo đó, chỉ cần những cặp câu đối nhau, không cần có sự hiệp vần, cũng không hạn chế số lượng từ (chữ) và cách đặt câu. Ví dụ: Hịch Tướng Sĩ Văn (chữ Hán) của Trần Quốc Tuấn (Việt Nam) là được viết theo lối này. Biền văn ở văn học chữ Hán đến thời nhà Đường (Trung Quốc) đi dần đến ổn định thành từng cặp câu 10 từ, mỗi câu ngắt làm hai nhịp 4/6 gọi là lối cận thể (thời Đường gọi là cận thể để phân biệt với lối cổ thể nói trên), lại cũng gọi thể biền lệ (biền:nghĩa như trên, lệ: từng đôi một). Thể biền lệ đời Đường chưa bắt buộc phải có niêm, đến đời Tống mới đặt thêm yêu cầu niêm và đưa vào trường ốc, gọi là thể tứ lục. Ví dụ: "Bình ngô đại cáo" do Nguyễn Trãi soạn, là được viết theo thể tứ lục này: "Thừa thắng trường khu, Tây kinh kí ki ngã hữu - Tuyển phong tiến thủ, Đông đô tận phục cựu phong" (nghĩa: thừa thắng ruổi dài, Tây kinh quân ta chiếm lại - Tuyển binh tiến đánh, Đông đo đất cũ thu về). Văn biền ngẫu được tiếp nhận ở văn học Việt Nam, cả trong những sáng tác viết bằng chữ Hán lẫn những sáng tác bằng chữ Nôm. Ngay ở câu văn xuôi hiện đại Việt Nam cũng còn những dấu vết của lối tổ chức câu văn theo kiểu biền ngẫu. Thành ngữ không có ngữ điệu. Thành ngữ chỉ là một phần của câu tục ngữ, hay ca dao, hoặc câu thơ, câu văn nên không có vần có điệu như tục ngữ Thành ngữ cũng có các hình thức mô tả, so sánh và ẩn dụ như phú, tỉ và hứng trong ca dao. Phú là mô tả, kể lại sư việc gì đó. Đa số thành ngữ dựa trên điển tích đều thuộc hình thức phú: Châu Về Hiệp Phố, Kết Cỏ Ngậm Vàng, Ông Tơ Bà Nguyệt, vv.. Ngoài ra những thành ngữ như ăn cơm nhà vác ngà voi, bàn tay có ngón ngắn ngón dài, cha nào con nấy, vv. đều thuộc thể phú. Thứ đến là hình thức tỉ. Tỉ là ví hay so sánh. Dùng một vật này so với vật kia rồi hàm ý sánh hơn sánh thiệt, khen hay chê, cho thấy tốt hay xấu. Chẳng hạn như ác như quỷ, cá chậu chim lồng, đen như cột nhà cháy, khổ như chó, cực như trâu, vv. đều thuộc tỉ. Sau cùng là hứng. Hứng là hình thức ẩn dụ. Các thành ngữ như cá gặp nước, như rồng gặp mây, của tiên dâng (đem) cho người phàm, cưỡi hạt chầu trời, chuyện ong bướm, vv… Cả ba hình thức này hỗ trợ cho nhau và liên kết với nhau làm cho ý nghĩa của thành ngữ vừa sâu vừa rộng. Thứ đến, thành ngữ chỉ mang ý nghĩa về sự mở rộng của từ, ngữ nên nó được xem là “từ đồng nghĩa”. Tức là một ý nhưng có nhiều cách nói, và thành ngữ là một trong các cách đó. Vì thế thành ngữ được xem là một hình thức Định Danh. Phần lớn thành ngữ Hán - Việt chịu nhiều ảnh hưởng Nho học, cả hình thức lẫn nội dung. Theo kết quả thống kê và nghiên cứu đa số thành ngữ gồm có 4 chữ, 5 chữ, 8 chữ, 12 chữ, nhưng tỉ lệ 4 chữ chiếm tới 75% đến 80% và được kết cấu ngữ pháp theo các dạng cụm từ. Tóm lại, từ những cơ sở lý luận trên sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu của em có cơ sở có hướng đi đúng hơn. 2. Cơ sở thực tiễn Từ cơ sở lý luận đó ta thấy các thành ngữ Hán - Việt là loại thành ngữ rất khó sử dụng, nó đã được du nhập vào Việt Nam rất lâu, có cấu trúc phức tạp, chiếm một tỉ lệ lớn trong ngôn ngữ dân tộc, tuy được sử dụng khá nhiều trong cuộc sống, trong sáng tác, trong giảng dạy, nhưng vì những đặc điểm đó mà trong thực tiễn không ít người sử dụng sai ý nghĩa của nó, sai cấu trúc như: «Trăm» trong «trăm hay không bằng tay quen» cũng là một từ cổ thường bị hiểu nhầm là mười lần mười. Thực ra đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 譫 mà âm Hán - Việt hiện đại là chiêm, có nghĩa là nói nhiều, nói liến thoắng hoặc nói sảng trong khi bệnh. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên đã giảng rằng trăm là một từ thuộc tiếng địa phương có nghĩa là «nói nhanh một thứ tiếng nước ngoài». A. de Rhodes cũng có ghi nhận từ này (dưới dạng trăm) trong Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh và giảng rằng: «Trăm tiếng, nói trăm tiếng» là «falar muitas linguas» (BĐN), «variis linguis loqui» (LT), nghĩa là nói nhiều thứ tiếng. Vậy «trăm» là nói nhiều và nhanh. Nghĩa này của nó còn được bằng câu «trăm hay xoay vào lòng» mà Nguyễn Lân giảng là «người nào cũng nghĩ rằng mình hay, mình giỏi» (có lẽ vì cho rằng một trăm cái hay của cá nhân đều được ghi gói kỹ trong lòng của đương sự chăng?). Câu này thực ra có nghĩa là hễ khéo nói thì dễ gây được lòng tin nơi người khác. Từ trên đây suy ra, «trăm hay không bằng tay quen» có nghĩa là nói lý thuyết suông dù có hay đến đâu cũng không bằng thực hành thông thạo. «Già kén kẹn hom» là một lối nói của nghề nuôi tằm. Đây là một câu đúc kết kinh nghiệm mà mục đích là nhắc nhở người nuôi tằm chớ để cho kén quá già, vì nếu kén quá già thì sẽ kẹn, nghĩa là không róc ra khỏi hom, tức là những thanh tre ngang dọc đan ken vào nhau để làm thành cái né tằm. câu này từ lâu đã bị tách khỏi nghề nuôi tằm nên không còn được hiểu đúng với ý nghĩa ban đầu của nó nữa. Ngày nay, người ta hiểu «già kén» là kén chọn quá lâu ngày, rồi không cần biết «kẹn hom» có nghĩa chính xác và cụ thể là gì, người ta hiểu chung chung cả câu thành ngữ là hễ kén chọn quá lâu thì sẽ dở dang hoặc không mãn nguyện trong hôn nhân. Ngay cả sách vở cũng lâm vào tình trạng bóp méo thành ngữ, tực ngữ chứ chẳng cứ gì dân gian mới bóp méo theo kiểu đó. Nguyễn Lân, chẳng hạn, đã ghi nhận câu «áo cứ chàng, làng cứ xã» và giảng như sau: «(Xã là chức dịch trong làng). Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của những người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình.» Thật là chuyện quá đỗi bất ngờ khi mà một quyển từ điển lại có thể viết sai chính tả và giảng sai nghĩa đến thế: hình thức chính xác của câu đang xét là «áo cứ tràng, làng cứ xã». «Tràng» có nghĩa gốc là cái cổ áo, nay được hiểu là cái vạt trước của chiếc áo dài. (Tục ngữ còn có câu «áo rách phải giữ lấy tràng» mà chính Nguyễn Lân cũng đã có ghi nhận.) Cái tràng áo đã bị Nguyễn Lân hiểu thành đức lang quân («chàng»!) nên «nàng» mới mắc cái oan Thị Kính là hay ỷ lại vào đàn ông! Rồi dân làng cũng mắc phải vạ lây mà bị quy là không biết phát huy quyền làm chủ ở nông thôn. Câu tục ngữ đang xét thực ra chỉ muốn nhấn mạnh vào vai trò và trách nhiệm của chức danh «xã» đối với địa phương do mình cai quản mà thôi. Cái được ám chỉ ở đây là trách nhiệm của cá nhân chứ không phải là quyền làm chủ tập thể. Quá trình thực tiễn các thành ngữ du nhập vào nước ta được đọc theo âm Việt đã đem lại sự phong phú cho ngôn ngữ nhưng trải qua thời gian thực tế thì các thành ngữ đó đã ngày cành bị mai một bị biến đổi không đúng ý nghĩa của nó, cấu trúc sử dụng sai.nên việc nghiên cứu các thành ngữ Hán - Việt (cấu trúc) là điều bức thiết hiện nay. II. Cấu trúc chuyên đề Phần mở đầu Phần nội dung I . Cơ sở khoa học của chuyên đề II. Cấu trúc chuyên đề III. Nội dung Vài nét khái quát về thành nhữ Hán - Việt Cấu trúc thành ngữ Hán - Việt Đặc điểm cấu trúc thành ngữ Hán - Việt Đề xuất một số Ý kiến Kết luận Tài liệu tham khảo III. Nội dung cụ thể 1. Vài nét khái quát về thành ngữ Hán - Việt Thành ngữ Hán - Việt phong phú và đa dạng ,chúng phong phú ở chỗ có hàng nghìn thành ngữ Hán - Việt từ xưa đến nay đã góp phần làm phong phú vào kho tang ngôn ngữ dân tộc. Thành ngữ Hán - Việt đa dạng ở chỗ có nhiều cách cấu tạo như về số lượng chữ, về thể loại, về nguồn gốc ra đời gắn liền với các điển tích điển cố Nên khi muốn tìm hiểu thành ngữ Hán - Việt thì phải dựa trên các yếu tố sau: Nguồn gốc hình thành Thành ngữ Hán - Việt có nguồn gốc từ Trung Hoa do vị trí địa lý, do quá trình tiếp biến văn hóa thì được du nhập vào Việt Nam được chúng ta đọc theo âm Việt nên được gọi là thành ngữ Hán - Việt. Mặt khác thành ngữ Hán - Việt gắn liền với các điển tích điển cố từ đời sống sinh hoạt văn hóa ở Trung hoa như câu: cầu ô thước (ngưu lang trúc nữ). Theo thần thoại Trung Quốc, chim quạ (ô) và chim khách (thước) khuân đá lấp sông Ngân Hà tạo nên cầu Ô Thước để Chức Nữ qua gặp Ngưu Lang vào đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch. Trong văn học, cầu Ô Thước trở thành biểu tượng tình yêu. 高山流水 Cao sơn lưu thuỷ: Núi cao nước chảy, tri âm tri kỉ. Xuất xứ từ Liệt tử - Thang vấn thiên: “Bá Nha gảy đàn nghĩ đến núi cao. Chung Tử Kì nói: “Hay quá! Chót vót như núi Thái Sơn!” Bá Nha gảy đàn nghĩ đến nước chảy, Chung Tử Kì lại nói: “Hay quá! Mênh mông như sông dài!” Thành ngữ chỉ bạn tri âm tri kỉ, cũng ví với khúc nhạc kì diệu. Và còn nhiều câu nhiều điển tích khác nữa nhưng em chỉ lấy một vài ví dụ vậy thôi. 1.2. Cách nhận biết Các thành ngữ Hán - Việt thường có cấu trúc bền vững thuộc dạng tiểu đối, kết cấu theo kiểu biền ngẫu. - Các thành ngữ Hán - Việt khởi đầu bằng một Nguyên - âm, chỉ có thể có dấu Sắc, dấu Hỏi, hoặc Không dấu Các nguyên-âm: A, Â, Y, O, Ô, U, Ư, đều viết DẤU HỎI vì các nguyên-âm của Tiếng Hán-Việt thuộc Thanh - âm (Bổng). - Tất cả các thành ngữ HÁN VIỆT khởi đầu bằng Bảy phụ âm L, M, N, NG, NH, D, V, đều thuộc Trọc - âm, cho nên viết DẤU NGÃ, DẤU NẶNG (trừ một ngoại lệ duy nhất là Ngải cứu). - Tất cả các thành ngữ HÁN VIỆT khởi đầu bằng phụ âm CH, GI, KH, PH, TH, S, X, đều viết DẤU HỎI vì các phụ - âm này cũng thuộc Thanh - âm (Bổng). - Mấy phụ - âm khởi - đầu khác, gồm có B, C, Đ, H, K, QU, và T, vì đều có ở cả hai bậc Thanh và Trọc, khó phân biệt, nên phải tra tự điển; nhưng cũng theo luật "Thanh viết dấu HỎI, Trọc viết dấu NGÃ". - Do các thành ngữ có cấu trúc bền vững nên nó không thể tách riêng một mình mà phải trọn từ. 1.3 Phân loại thành ngữ Hán - Việt ở Việt Nam  Hàng nghìn thành ngữ Hán - Việt được sử dụng trong tiếng Việt từ xưa tới nay, không chỉ bởi những người "thích nói chữ" mà rất phổ biến trong đời sống thường nhật, do sự cô đọng về mặt ngữ nghĩa khiến các thành ngữ đó có giá trị ứng dụng rất lớn. Trong thực tế ứng dụng thành ngữ Hán - Việt của tiếng Việt hiện đại người ta thường gặp các dạng sau: 1.3.1. Sử dụng nguyên gốc Thành ngữ Hán - Việt thường được sử dụng nguyên bản từ gốc Hán nếu đó là thành ngữ có những từ Hán - Việt tương đối dễ hiểu, phổ thông với đa số, chẳng hạn: Tâm đầu ý hợp Bách chiến bách thắng Chiêu hiền đãi sĩ Vạn sự khởi đầu nan Trường sinh bất lão Vô danh tiểu tốt Tứ hải giai huynh đệ Tham quyền cố vị 1.3.2. Kết hợp dịch nghĩa Tuy nhiên, nhiều thành ngữ khác được ứng dụng phải kèm theo dịch nghĩa, do sử dụng các chữ Hán ít phổ thông hơn, hoặc nghĩa khó hiểu hơn, chẳng hạn: Đại sự hoá tiểu, tiểu sự hoá vô (thành ngữ Hán - Việt) - Biến chuyện lớn thành nhỏ, chuyện nhỏ thành không có (dịch nghĩa). Canh đương vấn nô, chức đương phỏng tỳ (thành ngữ Hán - Việt) - Việc cày bừa phải hỏi đầy tớ trai, việc dệt cửi phải hỏi người ở gái (dịch nghĩa). 1.3.3. Sử dụng như thành ngữ thuần Việt Cũng không hiếm khi thành ngữ Hán - Việt được dịch nghĩa để trở thành thành ngữ Việt, hoặc thành ngữ Hán - Việt ngẫu nhiên trùng nghĩa với một thành ngữ do người Việt sáng tạo. Trường hợp chuyển hóa thành ngữ Hán - Việt thành thành ngữ thuần Việt thường gặp đối với những thành ngữ sử dụng thường xuyên trong tiếng Việt, nhưng nếu để nguyên gốc sẽ rất khó hiểu, trúc trắc về mặt ngôn từ, chẳng hạn: Cung kính bất như tòng mệnh (thành ngữ Hán) - Cung kính không bằng tuân mệnh (thành ngữ Việt). Nhất khái chi luận (thành ngữ Hán) - Nhìn chung mà nói (thành ngữ Việt). Tỉnh đế chi oa (thành ngữ Hán) - Ếch ngồi đáy giếng (thành ngữ Việt) Tụ tinh hội thần (thành ngữ Hán) - Tập trung tinh thần (thành ngữ Việt) Thủy trung lao nguyệt (thành ngữ Hán) - Mò trăng đáy nước (thành ngữ Việt). Tri kỉ tri bỉ (thành ngữ Hán) - Biết mình biết người (thành ngữ Việt) Đại ngư cật tiểu ngư (thành ngữ Hán - Việt) - Cá lớn nuốt cá bé (dịch nghĩa). 1.3.4. Sử dụng thành ngữ phổ biến hơn Một số thành ngữ Hán - Việt được sử dụng trong tiếng Việt nhưng ít phổ biến hơn một số thành ngữ Hán - Việt khác có ý nghĩa tương đương, chẳng hạn: Vạn cổ lưu phương (thành ngữ Hán - Việt ít sử dụng) - Vạn cổ lưu danh (thành ngữ Hán - Việt sử dụng thường xuyên hơn). Nhập tình nhập lý (thành ngữ Hán - Việt ít sử dụng) - Hợp tình hợp lý (thành ngữ Hán - Việt sử dụng thường xuyên hơn). Tác uy tác phúc (thành ngữ Hán - Việt ít sử dụng) - Tác oai tác quái (thành ngữ Hán - Việt sử dụng thường xuyên hơn). 1.3.5. Thay đổi chữ và vị trí chữ Khi được chuyển hóa thành thành ngữ Hán - Việt, nhiều thành ngữ gốc Hán đã có sự chuyển hóa vị trí một số chữ Hán hoặc thay một chữ Hán khác cho phù hợp với tiếng Việt hơn, chẳng hạn: Xà khẩu phật tâm (thành ngữ Hán) - Khẩu xà tâm phật (thành ngữ Hán - Việt). Cửu tử nhất sinh (thành ngữ Hán) - Thập tử nhất sinh (thành ngữ Hán - Việt). An phận thủ kỹ (thành ngữ Hán) - An phận thủ thường (thành ngữ Hán - Việt) . Nhất lộ bình an (thành ngữ Hán) - Thượng lộ bình an (thành ngữ Hán - Việt). Mã đáo công thành (thành ngữ Hán) - Mã đáo thành công (thành ngữ Hán - Việt). 1.3.6. Nôm hóa một số chữ Một số thành ngữ Hán - Việt được thay đổi một vài chữ Nôm có nghĩa tương đương, ví dụ: Dĩ độc trị độc (thành ngữ Hán - Việt nguyên bản) - Lấy độc trị độc (thành ngữ Hán - Việt đã thay đổi chữ). Văn dĩ tải đạo (thành ngữ Hán - Việt nguyên bản) - Văn để tải đạo (thành ngữ Hán - Việt đã thay đổi chữ). 1.3.7. Sử dụng vắn tắt Nhiều thành ngữ Hán chuyển sang tiếng Việt đã được vắn tắt hóa, tinh giản hóa thành các cụm từ ngắn gọn hơn, chẳng hạn: Thương hải biến vi tang điền (bãi bể thành ruộng dâu, nói về sự thay đổi của thế sự) - Dâu bể (giản hóa). Tự tương mâu thuẫn (xung khắc với nhau, như cái mâu, giáo đâm gì cũng thủng lại đâm vào cái thuẫn, khiên không gì đâm thủng được) - Mâu thuẫn (giản hóa). Xảo ngôn như lưu (nói năng khéo léo trôi trảy như rót vào tai) - Xảo ngôn hoặc Nói khéo (giản hóa). 2. Cấu trúc thành ngữ Hán - Việt 1. 半信半疑 Động Từ Bán tín bán nghi : dịch nghĩa - Chưa tin hẳn, vẫn còn hoài nghi, nửa tin nửa ngờ. Anh ta lúc nào cũng bán tín bán nghi. Hãy còn bán tín bán nghi. Chưa đem vào dạ chưa ghi vào lòng. (ca dao) - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, đối cân xứng về số lượng từ - Đối nhau về từ loại: bán tín (Trạng Động) đối với bán nghi (Trạng Động), tức Trạng Động đối với Trạng Động. 2. 白面書生. Thành ngữ Bạch diện thư sinh : dịch nghĩa - (Nghĩa đen) Học trò mặt trắng - (Nghĩa bóng) Người học trò chưa có kinh nghiệm. Khi xưa người thanh niên học sinh thường khiêm tốn tự nói về mình như thế. - Gồm 4 chữ thuộc tiểu đối. đối theo kiểu bằng trắc, cân xứng về số lượng từ, thuộc thể tỉ. - Bạch diện thư sinh thuộc từ loại cụm Định Danh. 3. 白屋出公卿. Thành ngữ Bạch ốc xuất công khanh :dịch nghĩa - (Nghĩa đen) Bậc quan to xuất thân từ nhà nghèo. - (Nghĩa bóng) Chỉ những người con nhà nghèo khổ mà trở nên có tài năng hơn người, trong chế độ cũ. - Kết cấu theo dạnh biền ngẫu, gồm 5chữ, thuộc tiểu đối, đối theo luật bằng trắc, đối cân xứng qua một chữ ở giữa bạch ốc (xuất) công khanh, thuộc thể tỉ, là cụm danh từ 4. 不入虎穴不得虎子. Thành ngữ Bất nhập hổ huyệt, bất đắc hổ tử: dịch nghĩa. - (Nghĩa đen) Không vào hang hùm, sao bắt được cọp. - (Nghĩa bóng) Phải có gan mạo hiểm mới làm được việc khó. - Gồm 8 chữ thuộc tiểu đối, kết cấu theo dạng biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại, đó là bất nhập hổ huyết (cụm Động Từ) đối bất đắc hổ tử (cụm Động Từ), cân xứng về số chữ. 5. 病從口入, 禍從口出. Thành ngữ Bệnh tòng khẩu nhập, họa tòng khẩu xuất. - Ý nói bệnh tật là do từ miệng mà vào, tai họa là do từ miệng mà ra. Vì miệng nói bậy, nên mang tai họa và vì miệng ăn bậy mà sinh bệnh tật. - Gồm 8 chữ thuộc tiểu đối, kết cấu theo dạng biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại trái nghĩa, đó là bệnh tong nhập khẩu (cụm giới tân) đối họa tong xuất khẩu (cụm giới tân), cân xứng về số chữ 6. 高山流水 Danh từ riêng Cao sơn lưu thủy dịch nghĩa - (Nghĩa đen): núi cao và vực nước sâu. - (Nghĩa bóng): cảnh đẹp, có hồn, hữu tình. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, đối khác nhau về nghĩa, thuộc thể tỉ, đối nhau về cụm Định Danh, cao sơn (Định Danh) lưu thủy (Định Danh), cân xứng về số lượng chữ. 7. 公明正直. Thành ngữ Công minh chính trực - Công bằng và thẳng thắn. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, đối theo luật bằng trắc, thuộc thể tỉ. - Đối nhau vế từ loại công minh (cụm Tính Từ đẳng lập) đối chính trực (cụm Tính Từ đẳng lập), cân xứng về số lượng chữ. 8. 功成名遂. Thành ngữ Công thành danh toại - Nói người đi học đã đỗ đạt. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu. - thuộc thể tỉ, đối nhau về số từ cân xứng công thành đối với danh toại. 9. 飢寒切身. Thành ngữ Cơ hàn thiết thân - (Nghĩa đen) Chính mình phải chịu đói rét. - (Nghĩa bóng) Đến lúc đói rét thì phải làm gì - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu - Thuộc thể phú, thuộc từ loại cụm Động Tân, cân xứng về số lượng chữ. 10. 改邪歸正. Thành ngữ Cải tà quy chính - Bỏ những lỗi lầm cũ làm theo con đường chính nghĩa - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu - Thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại cải tà (cụm Động Tân) đối (cụm Động Tân), có cân xứng về số chữ. 11. 琴棋詩画. Thành ngữ Cầm kỳ thi họa - Nói nếp sống tao nhã của nhà nho thời phong kiến chỉ biết vui với nghệ thuật (đánh đàn, chơi cờ, làm thơ, vẽ. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, cầm kỳ thi họa là cụm Động Từ đẳng lập. 12. 勤儉廉正. Thành ngữ Cần kiệm liêm chính - Siêng năng, tiết kiệm trong trắng và ngay thẳng - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ. - Cần kiệm liêm chính là cụm Tính Từ đẳng lập 13. 骨肉相残. Thành ngữ Cốt nhục tương tàn - (Nghĩa đen) Xương thịt hại nhau. - (Nghĩa bóng) Anh chị em trong nhà mà hại nhau - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu - Kiểu đối nhau khác nghĩa cốt nhục đối với tương tàn và theo luật bằng trắc - Cân xứng về số chữ, thuộc thể phú, cốt nhục thuộc cụm danh từ, tương tàn là cụm Trạng Động, cân xứng về số chữ. 14. 引水入田 Động Từ Dẫn thủy nhập điền - Làm công trình thủy lợi để đưa nước vào ruộng - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể hứng - Đối nhau về từ loại Dẫn thủy (cụm Động Tân) đối với nhập điền (Động Tân), cân xứng về số chữ. 15. 兄弟如手足 Thành ngữ Huynh đệ như thủ túc - Anh em chân tay. - Gồm 5 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ đối nhau qua môti chữ ở giữa - Huynh đệ (Danh từ) như thủ túc (danh từ) 16. 紅顔薄命. Thành ngữ Hồng nhan bạc mệnh - Nói người phụ nữ, có nhan sắc (trong xã hội phong kiến), bị áp bức nặng nề, nên chịu nhiều nỗi đau khổ. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thể phú, đối nhau về từ hồng nhan (Định Danh) đối bạc mệnh (Định Danh) câu cân xứng về số chữ, đối kiểu luật bằng trắc. 17. 有名無實 Thành ngữ hữu danh vô thật - Chỉ có tiếng nhưng trong thực tế không có gì. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại hữu danh (Động Tân) đối vô thật (Động Tân), cân xứng về số chữ. 18. 傾城傾国. Thành ngữ khuynh thành khuynh quốc - (Nghĩa bóng) Nói sắc đẹp của một người phụ nữ làm cho người ta mê mệt (nay thường dùng để đùa). - (Nghĩa đen) Người đẹp nhìn một cái là nhìn đủ nghiêng thành của người ta, nhìn cái nữa thì nghiêng đất nước của người ta. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại khuynh thành (Động Tân) đối khuynh quốc (Động Tân) cân xứng về số chữ. 19. 刻骨銘心. Thành ngữ Khắc cốt minh tâm - (Nghĩa đen) Chạm vào xương, ghi vào lòng. - (Nghĩa bóng) Ghi nhớ không bao giờ quên - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại Khắc cốt (Động Tân) đối minh tâm (Động Tân), luật bằng trắc, cân đối về số chữ. 20. 驚天動地 Định nghĩa Kinh thiên động địa - Long trời lở đất. Biến cố kinh thiên động địa. Oanh liệt. Sự nghiệm kinh thiên động địa. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại Kinh thiên (Động Tân) đối độnh địa (Động Tân), luật bằng trắc, cân đối về số chữ. 21. 乱臣賊子 Thành ngữ Loạn thần tặc tử - Trong thời phong kiến, khi có những quan lại nổi lên chống lại triều đình thì bọn vua quan chỉ những người ấy bằng câu này, tức là kẻ bầy tôi làm loạn, kẻ làm con là giặc. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại loạn thần (Định Danh) đối tặc tử (Định Danh), cân đối về số chữ. 22. 埋名隠跡. Thành ngữ Mai danh ẩn tích - (Nghĩa đen) Chôn tên, giấu vết. - (Nghĩa bóng) Người ở ẩn một nơi, không muốn ai biết đến mình. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại mai danh (Động Tân) đối ẩn tích (Động Tân), luật bằng trắc, cân đối về số chữ. 23. 男尊女卑. Thành ngữ nam tôn nữ ti - Nói một quan niệm phong kiến lạc hậu cho đàn ông là đáng trọng, đàn bà là đáng khinh. Loài người phải để nhiều thế kỉ mới xác lập được cái ý thức "nam nữ bình quyền". (男女平権). - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại nam tôn Trạng Động) đối nữ tì (Trạng Động), luật bằng trắc, cân đối về số chữ. 24. 牛郎織女 Thành ngữ Ngưu lang chức nữ - Theo truyền thuyết Ngưu - lang (chàng chăn trâu) và Chức nữ (cô gái dệt vải) dược trời cho lấy nhau, nhưng từ khi lấy nhau, hai vợ chồng chểnh mảng công việc, nên trời phạt bắt phải xa nhau, một năm chỉ gặp nhau một lần vào ngày mồng bảy tháng bảy âm lịch. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại ngưu lang (Định Danh) đối trúc nữ (Định Danh), luật bằng trắc, cân đối về số chữ. 25. 一舉両便. Thành ngữ nhất cử lưỡng tiện - Làm một việc mà được hai cái lợi. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại nhất cử (danh từ) đối lưỡng tiện (danh từ), cân đối về chữ. 26. 一日為師,終身為父. Thành ngữ nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ - Một ngày cũng là thầy, suốt đời mới là cha. - Gồm 8 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại nhất nhật vi sư (Động Từ) đối chung than vi phụ (Động Từ), cân đối về chữ. 27. 一笑千金. Thành ngữ nhất tiếu thiên kim - (Nghĩa đen) Một cái cười đáng giá nghìn vàng. - (Nghĩa bóng) Ca tụng một phụ nữ đẹp. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại nhất tiếu (Định Danh) đối thiên kim (Định Danh), luật bằng trắc, cân đối về số chữ, đối về số từ nhất với thiên. 28. 入鄉隨俗. Thành ngữ Nhập hương tùy tục - Đến nơi nào phải theo phong tục của nơi đấy. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại nhập hương (Động Tân) đối tùy tục (Động Tân), cân đối về chữ 29. 夫唱婦随. Thành ngữ phu xướng phụ tùy - (Nghĩa đen) Tùy nghĩa là theo. Chồng định làm gì, vợ cũng làm theo. - (Nghĩa bóng) Một quan niệm phong kiến cho là người phụ nữ phải luôn luôn phục tùng người chồng. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể hứng, đối nhau về từ loại phu sướng (chủ vị) đối phụ tùy (chủ vị) ,cân đối về chữ. 30. 富貴如浮雲. Thành ngữ phú quí như phù vân - (Nghĩa đen) Giàu sang như mây trôi nổi. - (Nghĩa bóng) Giàu sang không bền. - Gồm 5 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại phú quý (Tính Từ) đối qua chữ như ở giữ phù vân (Tính Từ), cân đối về chữ, theo luật bằng trắc.đối khác nhau về ý nghĩa. 31. 決戰決勝. Thành ngữ Quyết chiến quyết thắng - (Quân đội) Đã đánh là phải thắng (khẩu hiệu của quân đội). - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại quyết chiến (Động Từ) đối quyết thắng (Động Từ), cân đối về chữ. 32. 国色天香. Thành ngữ quốc sắc thiên hương - (Nghĩa đen) Sắc nước, hương trời. - (Nghĩa bóng) Chỉ người phụ nữ có sắc đẹp tuyệt vời. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại quốc sắc (Định Danh) đối thiên hương (Định Danh), cân đối về chữ, theo luật bằng trắc. 33. 君子周而不比,小人比而不周. Thành ngữ Quân tử chu nhi bất tị, tiểu nhân tị nhi bất chu. - Quân tử thân với khắp mọi người mà không tư vị, kẻ tiểu nhân tư vị mà không thân với khắp mọi người. - Gồm 12 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại quân tử (Định Danh) đối tiểu nhân (Định Danh), cân đối về chữ, đối kiểu khác nghĩa. 34. 千山万水. Thành ngữ thiên sơn vạn thủy - Nói người đi rất xa, qua nhiều núi nhiều sông - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại thiên sơn (Định Danh) đối vạn thủy (Định Danh), cân đối về chữ, theo luật bằng trắc, đối theo cố từ thiên với vạn. 35. 善報悪報. Thành ngữ thiện báo ác báo - Làm điều lành hay điều ác đều có báo lại. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại thiện báo (Trạng Động) đối ác báo (Trạng Động), cân đối về chữ, đối khác nghĩa thiện đối với ác. 36. 始終如一. Thành ngữ Thủy chung như nhất - Trước sau như một, không thay đổi tưởng và tình cảm của mình đối với ai. 37. 先齊家、後治国. Thành ngữ tiên tề gia, hậu trị quốc - Trước khi lo việc nước thì phải sắp xếp việc nhà cho có nền nếp. - Gồm 6 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại tiên tề gia (Động Từ) đối hậu trị quốc( Động Từ), cân đối về chữ, đối khác nghĩa tiên với hậu, luật bằng trắc. 38. 先憂後樂 Thành ngữ tiên ưu, hậu lạc - Lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể hứng, đối nhau về từ loại tiên ưu (Trạng Động) đối hậu lạc (Trạng Động), cân đối về chữ, đối khác nghĩa tiên với hậu, luật bằng trắc. 39. 忠君愛国. Thành ngữ trung quân ái quốc - (Nghĩa đen) Quân là vua. Ngày xưa người ta cho vua là tượng trưng cho nước. - (Nghĩa bóng) Trung với vua và yêu nước. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại trung quân (Động Tân) đối ái quốc (Động Tân), cân đối về chữ, luật bằng trắc. 40. 才子佳人 Thành ngữ tài tử giai nhân - Chỉ những thanh niên nam nữ, người có tài, người có sắc. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể tỉ, đối nhau về từ loại tài tử (Định Danh) đối giai nhân (Động Tân), cân đối về chữ, luật bằng trắc. 41. 醉生夢死 Thành ngữ túy sinh mộng tử - (Nghĩa đen) Sống ở trong cuộc say, chết ở trong chiêm bao. - (Nghĩa bóng) Nói một kẻ sống không có lí tưởng gì, sống bụi chết bờ - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại túy sinh (Trạng Động) đối mộng tử (Trạng Động), cân đối về chữ, đối trái nghĩa sinh đối tử. 42. 相親相愛. Thành ngữ tương thân tương ái - (Nghĩa đen) Tương là cùng. - (Nghĩa bóng) Nói tinh thần thương yêu lẫn nhau. - Gồm 4 chữ, thuộc tiểu đối, kết cấu biền ngẫu, thuộc thể phú, đối nhau về từ loại tương thân (Trạng Động) đối tương ái (Trạng Động), cân đối về chữ. 3. Đặc điểm hình thành cấu trúc thành ngữ Hán - Việt Qua việc giải nghĩa phân tích tổng các thành ngữ hán viêt thì ta thấy cấu trúc hình thành các thành ngữ hán - việt là: - Các thành ngữ đều thuộc tiểu đối. - Nằm trong 3 thể Phú, Tỉ, Hứng (đã trình bày ở phần cơ sở lý thuyết). - thường đối ngau về các từ loại như danh từ, Động Từ, Tính Từ, trạng từ. - Đối cân xứng về số chữ như 2 bên đối nhau 1 chữ, 2 chữ hoặc 3 chữ, 4 chữ. - Hoặc đối nhau về thanh điệu bằng trắc. thanh bằng (không dấu và dấu huyền) thanh trắc (dấu chấm, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng). - Đối khác nhau về nghĩa như Tử đối với sinh (túy sinh mộng tử). - Đối nhau về mặt số như thiên đối với vạn (thiên sơn vạn thủy). - Thành ngữ Hán - Việt rất đa dạng nhưng thường gồm 4 chữ, 5 chữ, 6chữ hoặc 8 chữ, trong đó tỷ lệ các thành ngữ 4 chữ chiếm số lượng lớn đến 75 - 80%. - Kết cấu thành ngữ thường theo dạng biền ngẫu (đã đề cập ở phần trên), đăng đối dễ dàng nhận thấy trong các thành ngữ 4 chữ, hoặc 8 chữ ví dụ: Công thành danh toại - Công thành Danh toại - Còn dạng 5 chữ thì hai chữ Hán đầu và hai chữ Hán cuối là hai vế đối xứng qua một chữ ở giữa, ví dụ: Bạch ốc công danh - Rất nhiều thành ngữ sử dụng các điển cố văn học, là các tích truyện xưa có giá trị giáo dục và ý nghĩa lịch sử sâu sắc như( ngưu lang trúc nữ).. - Thành ngữ nằm trong phạm vi Từ vựng học. Trong các hiện tượng ngôn ngữ, có loại khi sử dụng người ta không có quyền tùy ý thay đổi kết cấu tổ chức của câu mà phải tuân theo kết cấu câu đã định hình, chúng ta gọi đó là thành ngữ những thành ngữ này làm cho ngôn ngữ nhân loại thêm phong phú nhiều màu sắc, hình tượng thêm sinh động. Điều tối kỵ của ngôn ngữ văn chương là khô khan vô vị thành ngữ chiếm một tỉ trọng khá lớn và hầu hết đã được sử dụng quen thuộc trở thành những câu ngắn điển hình, đa số thành ngữ kết hợp bằng 4 chữ với tổ chức đa dạng, tinh luyện, khái quát hàm chứa một (thậm chí nhiều) nội dung phong phú. Có câu có thể hiểu trực tiếp qua mặt chữ, Có câu cần phải hiểu tận nguồn gốc, xuất xứ, mới hiểu được và sử dụng được chính xác. Bất cứ nguồn gốc xuất xứ bất cứ thành ngữ nào, thường thương đều phải có bối cảnh lịch sử điển tích. Điển tích lịch sử có nguyên gốc trong các thư tích cổ và tản mát trong kho tàng thư tịch nhiều như rừng rậm của văn học cổ điển Trung Quốc. Đọc những xuất xứ điển tích này hết sức hứng thú và rất có ích để cho chúng ta học tập lịch sử, giúp chúng ta hiểu được phong tục tập quán cổ kim, tăng thêm rất nhiều tri thức lịch sử. 4. Đề xuất một số ý kiến - Với việc nghiên cứu trên đề tài đề xuất bảo tồn các thành ngữ Hán - Việt. - Sử dụng đúng các cấu trúc hình thành nên thành ngữ trong giảng dạy - Sử dụng đúng các ý nghĩa của những thành ngữ đó vì nó gắn liền với các điển tích điển cố. không sử dụng sai ý nghĩa trong giảng dạy và sáng tác thơ ca để gây nhầm lẫn cho các học sinh sinh viên sẽ làm cho các thành ngữ mất đi tính nguyên bản đó dẫn đến khó hiểu và hiểu sai. Sẽ làm mất đi sự trong sáng trong các thành ngữ. Không ít những nhà thơ, nhà văn, và nhiều người dân tự ý thay đổi cáu trúc ý nghĩa và dịch thuật sai các thành ngữ đó làm nên tính dị bản trong thành ngữ. - Muốn làm được như vậy thì trước hết đòi hỏi các thầy cô,giảng viên và các nhà nghiên cứu phải tìm hiểu kỹ hơn các cấu trúc, các ý nghĩa của thành ngữ để góp phần truyền thụ cho các thế hệ sau hiểu rõ được tính nguyên bản của nó để sử dụng cho đúng mục đích. C. KẾT LUẬN Với việc nghiên cứu và phân tích các cấu trúc thành ngữ thì ta thấy được cấu trúc của thành ngữ khá phực tạp, thấy được tính ổn định trong cấu trúc thành ngữ, ý nghĩa, phân loại thành ngữ, ảnh hưởng của các thành ngữ trong cuộc sống, trong nhận biết qua đó góp phần bảo tồn, gìn giữ và làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Những kết quả cơ bản đó: góp phần vào việc giải quyết một số vấn đề lí luận về cấu trúc thành ngữ, làm rõ những đặc trưng của thành ngữ thể hiện trong cấu trúc, chỉ ra những đặc trưng tư duy và nét văn hoá dân tộc trong thành ngữ, cùng những sự biết đổi theo thời gian của thành ngữ. Cụ thể, bài tập đã góp phần bổ sung, làm phong phú thêm vào lý luận thành ngữ nói chung và làm nổi bật vai trò của yếu tố văn hoá bộc lộ trong thành ngữ; góp phần vào lý luận giảng dạy ngôn ngữ với tư cách là ngoại ngữ trên phương diện lỗi ngôn ngữ và lỗi văn hoá; giúp nắm vững những đặc trưng cơ bản một cách hệ thống về lớp thành ngữ Hán - Việt, để cho độc giả có thể nhìn nhận được những điểm giống và khác nhau, đồng thời sử dụng chúng một cách chuẩn xác hơn trên phương diện ngôn ngữ - văn hoá; Góp phần vào công việc phiên biên dịch, biên soạn từ điển; Gợi mở hoặc có thêm hướng đi mới cho những người nghiên cứu tiếp sau. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO Việt ngữ chánh tả tự vị, Lê Ngọc Trụ, Thanh Tân, Sài Gòn, 1959. Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Khai Trí, Sài Gòn, 197 Việt Nam tự điển, Hội Khai Trí Tiến Đức, Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1931. Hoa Việt thông dụng tự điển, Tăng Văn Hỉ. Sài Gòn, 1972 Hán Việt tự điển, Đào Duy Anh, Trường Thi, Sài Gòn, 1957 Văn phạm Việt Nam, Bùi Đức Tịnh, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1968. Đinh Gia Khánh chủ biên (1977), Điển cố văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 125 – 126. Trang wes điện tử: MỤC LỤC Trang A. Phần mở bài 1 I. Lý do chọn đề tài 1 II. Đối tượng và mục đích của đề tài 2 III. Nhiệm vụ nghiên cứu,giới hạn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 2 B. Phần nội dung 4 I. Cơ sở Khoa học 4 II. Cấu trúc chuyên đề 8 III. Nội dung 9 1.Vài nét khái quát về thành ngữ Hán - Việt 9 2. Cấu trúc thành ngữ Hán - Việt 13 3. Đặc điểm cấu trúc thành ngữ Hán - Việt 26 4. Đề suất một số ý kiến 27 C. Kết luận 29 D. Tài liệu tham khảo. 30 Lêi c¶m ¬n Trong qu¸ tr×nh thùc hiÖn ®Ò tµi nµy, t«i ®· nhËn ®­îc sù d×u d¾t vµ gióp ®ì tËn t×nh cña c« gi¸o NguyÔn ThÞ Hoa Lª vµ c¸c thµnh viªn trong líp häc phÇn H¸n N«m_3. Hoµn thµnh ®Ò tµi nµy, t«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n c« gi¸o NguyÔn ThÞ Hoa Lª cïng c¸c b¹n. Bµi viÕt kh«ng tr¸nh khái nh÷ng thiÕu sãt, rÊt mong nhËn ®­îc sù gãp ý cña quý thÇy c« vµ c¸c b¹n. Vinh, ngµy th¸ng n¨m 2009 Sinh viªn Lª KÕ Hoµ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn tìm hiểu cấu trúc thành ngữ hán việt.doc