Luận văn Tìm hiểu đặc điểm dinh dưỡng của cá sặc rằn giai đoạn phôi, bột, hương

Qua hình 4.4 cho thấy cường độdinh dưỡng của cá Sặc rằn giảm dần khi cá lớn hơn. Kết quảnày hoàn toàn phù hợp với nhận định của Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) cho rằng giai đoạn còn nhỏ, cá có cường độdinh dưỡng cao và nhu cầu cao vềprotein để đáp ứng đặc tính sinh trưởng nhanh của cá. Còn theo Nguyễn Văn Thường (2007) thì cường độ ăn giảm đi theo độsinh trưởng của vật ăn. Theo Đặng Ngọc Thanh (1974) cho rằng cường độ ăn tăng cao khi vật ăn gặp thức ăn ưa thích ở môi trường. Vì vậy trong nuôi trồng thủy sản, cường độdinh dưỡng của cá sẽtỷlệnghịch với sự tăng trưởng của vật nuôi. Kết quảthí nghiệm cũng cho thấy chỉsố độno cũng tỷlệnghịch với sựtăng trưởng của cá, cá 15 ngày tuổi chỉsố độno là 1,60% còn cá 30 ngày tuổi chỉsố độno chỉcó 1,20%. Qua các kết quảtrên có thểkết luận rằng khi giai đoạn cá còn nhỏ, các cơ quan tiêu hoá chưa thật sựhoàn chỉnh nên khảnăng tiêu hoá và hấp thu các vật chất dinh dưỡng còn kém, buộc cá ăn nhiều thì mới đáp ứng được nhu cầu của cơthể. Càng vềsau khi cá càng lớn thì các cơquan tiêu hoá đã hoàn chỉnh hơn nên việc tiêu hoá thức ăn và hấp thu vật chất dinh dưỡng đủ đểcá sinh trưởng và phát triển vì vậy cường độdinh dưỡng và chỉsố độno giảm dần theo sựphát triển của cá. Vấn đềnày càng thểhiện rõ rệt đối với cá nhỏ. Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) giai đoạn tiền trưởng thành, cá có hệsốsửdụng năng lượng và cường độdinh dưỡng cao.

pdf36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3375 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu đặc điểm dinh dưỡng của cá sặc rằn giai đoạn phôi, bột, hương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ: Percomorpha Bộ: Perciformes Bộ phụ: Anabantoidei Họ: Anabantidae Giống: Trichogaster Loài: Trichogaster pectoralis (Regan, 1910) Tên tiếng Anh: Snakeskin Gouramy Tên địa phương: Cá Sặc rằn, cá Sặc bổi, cá Lò Tho... Hình 2.1: Hình dạng bên ngoài cá Sặc rằn 11 2.1.2 Đặc điểm hình thái Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994) mô tả hình dáng bên ngoài của cá Sặc rằn như sau: Đầu nhỏ dẹp bên; Mõm ngắn, nhọn; Miệng trên nhỏ; Răng nhỏ mịn mọc hai bên hàm; Lỗ mũi trước mở ra bằng một ống ngắn; Mắt lớn nằm trên trục giữa thân và gần chóp mõm hơn điểm cuối xương nắp mang. Thân dẹp bên; Vẩy lược nhỏ phủ khắp thân và đầu, có nhiều vẩy nhỏ phủ lên gốc vi đuôi, vi hậu môn và vi lưng. Cá có màu xanh đen ở mặt lưng, nhạt dần xuống hai bên hông và bụng. Trên cơ thể có hai chấm đen tròn, một ở giữa thân và một ở gốc vi đuôi. Ở một số cá thể còn có nhiều vạch đen mờ nằm vắt xéo ngang thân. Trên vi hậu môn, vi lưng, vi đuôi có nhiều chấm đỏ li ti màu đỏ cam. Vào mùa sinh sản con đực có màu đen và vi đuôi màu đỏ cam rõ. Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) sau khi phân tích 23 mẫu thu thập ở nhiều nơi tại vùng ĐBSCL đã mô tả về cá Sặc rằn như sau: Ðầu nhỏ, dẹp bên; Mõm ngắn; Miệng hơi hướng trên; Mắt lớn; Thân cá dẹp bên. vẩy lược phủ khắp thân và đầu, có một số vẩy nhỏ chồng lên gốc vi hậu môn, vi đuôi, vi bụng, vi ngực. Ðường bên bắt đầu từ mép trên lỗ mang, cong lên phía trên một đoạn ngắn rồi uốn cong tới trục giữa thân sau đó chạy ngoằn ngoèo đến giữa gốc vi đuôi. Khởi điểm vi lưng ngang với vẩy đường bên thứ 17 – 19. Ở cá đực khi trưởng thành, vi lưng kéo dài tới khỏi gốc vi đuôi còn cá cái thì vi này ngắn, chưa tới gốc vi đuôi. Gốc vi hậu môn kéo dài. Khởi điểm vi hậu môn ngang với vẩy đường bên thứ 5 và phần cuối nối với vi đuôi. Gai vi lưng, vi hậu môn cứng, nhọn. Tia phân nhánh đầu tiên của vi bụng kéo dài có thể chạm tới ngọn vi đuôi. Vi đuôi chẽ hai, rãnh chẻ cạn và phần cuối của 2 thùy vi đuôi tròn. Phần bụng của thân và đầu có màu xanh đen hoặc xám đen và lợt dần xuống bụng. Có nhiều sọc đen nằm xiên vắt ngang thân cá. Chiều rộng 2 sọc lớn hơn khoảng cách 2 sọc. Ở cá nhỏ các sọc ngang chưa rõ nhưng có 1 sọc dọc chạy từ mõm tới gốc vi đuôi và ở gốc vi đuôi có 1 chấm đen tròn. Chấm và sọc này lợt dần và mất hẳn khi cá lớn. Vi cá có màu xanh đen hoặc xám đen. Nhìn chung những trích dẫn đều nhấn mạnh mạnh những điểm quan trọng trong phân loại, hầu như không có sự khác biệt nhiều, nhưng nếu có xuất hiện những đặc điểm mới đó là do tùy điều kiện môi trường sống mà cá có một kiểu hình biến dị riêng mang đặc tính riêng của môi trường mà chúng sống. Ðó cũng là kết quả của sự biến dị thích nghi trong những vùng mà cá Sặc rằn phân bố (Nguyễn Văn Kiểm và csv, 1999). 2.1.3 Phân bố Cá Sặc rằn là loài cá nước ngọt nhưng có thể sống được ở nước lợ. Cá phân bố ở các quần đảo thuộc Ấn Độ, Mã Lai, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam… Và di giống theo nhiều nước khác (Phạm Minh Thành và Lê Như Xuân, 1994). 12 Cá Sặc rằn đặc biệt thích sống ở các thủy vực có nhiều cây cỏ thuỷ sinh và có nhiều chất hữu cơ. Tại Việt Nam, trong vùng châu thổ sông MeKong, cá phân bố tập trung trong các vùng trũng ngập nước quanh năm, sinh sản tự nhiên trong ao, ruộng, kênh mương nơi chúng cư trú, đặc biệt là những nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh với nhiều chất hữu cơ (Horra và Pilay, 1962). Loài cá này cũng được nuôi phổ biến trong ruộng lúa và ao gia đình (Nguyễn Văn Kiểm và csv, 1999). 2.1.4 Đặc điểm sinh trưởng Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994) cá Sặc rằn sau khi đẻ 20 giờ ở điều kiện nhiệt độ 28–30 oC trứng nở, lúc đầu cá nằm trên mặt nước, sau dần dần di chuyển xuống lớp nước sâu hơn. Cá một ngày tuổi dài 3 mm, màu đen dinh dưỡng bằng noãn hoàng, nằm ngữa trên mặt nước bơi lội không định hướng. Cá có khoảng 14 đốt cơ thân. Cá 3 ngày tuổi dài 4–5 mm, trên thân cá có nhều sắc tố đen rãi rác, cá cử động mạnh. Cá nằm sấp và thường tập trung nơi có ánh sáng, cá dinh dưỡng bằng thức ăn bên ngoài. Cá 5 ngày tuổi dài 5 mm, noãn hoàng tiêu biến, xương nắp mang xuất hiện, tia mang hình thành nhưng chưa đầy đủ. Tim có cấu tạo hoàn chỉnh bao gồm bầu động mạch, tâm nhĩ, tâm thất. Cá 7 ngày tuổi dài 6 mm, xuất hiện vi lưng như một màng mỏng. Cá 15 ngày tuổi dài 10–14,3 mm, trên thân có đường sắc tố đen chạy từ sau mắt đến cuống đuôi nhưng chưa rõ và chấm dứt bằng một đám sắc tố màu đen tròn. Ống tiêu hóa giống cá trưởng thành gồm miệng, thực quản, dạ dày ruột. Hệ thống hô hấp bằng mang hoàn chỉnh. Cá 35 ngày tuổi dài 23–27 mm, lưng màu đen thân phủ vẩy, vi đuôi, vi lưng, vi hậu môn… đã hoàn chỉnh. Ruột cuộn 1,5–2 vòng (cá có hình dạng của cá trưởng thành), cá chuyển sang ăn thức ăn đặc trưng của loài. Cá có tốc độ sinh trưởng chậm. Ở ĐBSCL trong các ao nuôi cũng như trong các thủy vực tự nhiên sau 1 năm cá nặng 60-80g, 2 năm đạt 100–150g. Ðối với cá Sặc rằn, vì phân bố chủ yếu trên đồng ruộng hay các vùng trũng phèn ngập nước, nên thời điểm hình thành vòng tuổi rất có thể là các tháng mùa khô. Bởi vì trong những tháng này cá thường tập trung ở ao, đìa, kênh mương với mật độ cao, môi trường khắc nghiệt, thiếu thức ăn (Trương Thủ Khoa và Nguyễn Minh Trung, 1980). 2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng Theo Lê Như Xuân Và Phạm Minh Thành (1994) cá Sặc rằn trưởng thành có cấu tạo hệ thống tiêu hóa đặc trưng của các loài cá sử dụng mùn bã hữu cơ và thực vật. Lược mang dạng que nhỏ mịn và dày. Dạ dày hình chữ I ruột dài cuộn thành nhiều vòng và tỉ lệ Li/L= 5,6–8,5. Theo Quách Thanh Hùng và csv (1999) thức ăn ở thời kỳ đầu gồm nhiều loại như phiêu sinh động vật (Rotifera, Copepoda, Cladocera), phiêu sinh thực vật (Bacillariophycea, Cyanophycea, Flagellata, Chlorophyceae và mùn bã hữu cơ). Ở thời kỳ trưởng thành, cấu tạo bộ máy tiêu hoá của cá phù hợp với loài ăn tạp. Những 13 loại thức ăn thường xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng lớn trong ruột cá Sặc rằn gồm: mùn bã hữu cơ, thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm non thực vật cũng như các loại thực vật thủy sinh mềm trong nước. Ngoài ra, cá cũng sử dụng tốt các loại thức ăn do con người cung cấp như: bột ngũ cốc các loại, động vật và khi thiếu thức ăn chúng ăn cả trứng của chính nó. Phân chia tính ăn của cá theo các loại thức ăn khác nhau là cơ sở cho các nhà nuôi trồng thủy sản xác định được loại thức ăn, khẩu phần ăn thích hợp cho đối tượng nuôi trên cơ sở của nguyên tắc “ tôn trọng đặc tính dinh dưỡng của loài”. Nguyên tắc này là đúng, khoa học và hợp lý, bởi đặc tính dinh dưỡng (tính ăn) của loài phải trải qua thời kỳ lịch sử của quá trình phát sinh, vận động và phát triển mới có được. Mặc dù nó có sự mềm dẻo trong phạm vi nhất định nhưng vẫn thể hiện rõ tính “bảo thủ” của mình. Nếu người nuôi thủy sản không tôn trọng nguyên tắc này, cố tình thay đổi (cung cấp thức ăn không phù hợp tính ăn của cá) thì hoặc là cá không chấp nhận, hoặc gây ra sự mất cân bằng, sự xáo trộn trong dinh dưỡng của cá. Khi đó không thể đạt hiệu quả cao, thất bại trong nuôi trồng thủy sản là điều chắc chắn. Chỉ đối với loài cá ăn tạp, con người mới có điều kiện linh động nhất (so với những loài cá ăn thực vật và những loài cá ăn động vật) trong việc xác định thành phần nguyên liệu làm thức ăn cho cá (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Theo Vatnexov (1953) trích dẫn bởi Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) đã chỉ ra rằng, trong một chu kỳ sống, sự phát triển cơ thể cá trải qua 5 giai đoạn. Mỗi giai đoạn có đặc trưng dinh dưỡng riêng “giai đoạn phôi, giai đọan ấu trùng, giai đoạn tiền trưởng thành, giai đoạn trưởng thành và giai đoạn già”. 2.1.6 Đặc điểm sinh sản Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994) cho rằng ở ngoài tự nhiên cá sinh sản theo mùa, cá đẻ tập chung vào mùa mưa (tháng 5–9). Vào các tháng này bắt gặp cá có tinh và có trứng rất cao (tỷ lệ lên tới 90%). Hora và Pillay (1962) cho rằng cá Sặc rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi. Khi thành thục có thể phân biệt dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của dấu hiệu sinh dục phụ. Theo Lê Như Xuân và phạm Minh Thành (1994) khi cá thành thục có thể phân biệt được cá đực, cá cái bằng một số chỉ tiêu sau: 14 Cá đực - Phần tia mềm của vi lưng kéo dài tới và vượt khỏi gốc vi đuôi. - Các sợi sọc đen từ lưng xuống bụng rất rõ. - Các sọc đen chạy dọc thân không liên tục. - Chấm đen ở xương nắp mang không rõ. Cá cái - Phần tia mềm của vi lưng ngắn không kéo dài tới gốc vi đuôi. - Các sợi sọc từ lưng xuống bụng không rõ. - Cá sọc đen chạy dọc thân gần như liên tục. - Chấm đen ở xương nắp mang rõ. Sức sinh sản của cá Sặc rằn dao động 200.000 – 300.000 trứng/kg cá cái (Nguyễn Tường Anh, 2004). Bãi đẻ của cá Sặc rằn ngoài tự nhiên là những nơi nước cạn ven bờ có nhiều cây cỏ thủy sinh, cá có thể đẻ ở nơi có mức nước cạn 7–10 cm. Khi sinh sản trứng thụ tinh và nổi trên mặt nước, cá đực, cá cái gom trứng vào miệng rồi nhả lại mặt nước dưới dạng tổ bọt. Những tổ bọt này có đường kính khoảng 5 cm, bên trong có chứa đầy trứng. Sau khi đẻ cá đực và cá cái thay nhau bảo vệ tổ (Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994). Kể từ khi trứng thụ tinh, trong điều kiện nhiệt độ nước 27– 29oC cá nở sau 20h – 23h. Trong suốt thời gian kể từ khi trứng đẻ tới lúc nở và dinh dưỡng bằng noãn hoàng, cá đực thường xuyên bơi lội quanh tổ để bảo vệ và dùng vây quạt nước cung cấp oxy cho trứng (Nguyễn Văn Kiểm và csv, 1999). Thời gian tái phát dục ở cá Sặc rằn có thể từ 25– 30 ngày, trong điều kiện đầy đủ thức ăn cá Sặc rằn có thể đẻ được 3 - 4 lần /năm (Phạm Văn Khánh, 2005). Dựa vào đặc tính sinh sản của cá Sặc rằn người ta có thể chủ động cho cá đẻ bằng phương pháp nhân tạo với hormone kích thích là HCG (Humanchorionic Gonadotropine Hormone) (Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994). 2.1.7 Sự thích nghi với môi trường Cá có cơ quan hô hấp khí trời nên sống được ở điều kiện thiếu nước hoặc không có oxy.Cá cũng có khả năng chịu đựng được môi trường nước bẩn, hàm lượng hữu cơ cao cũng như môi trường có độ pH thấp (pH dao động từ 4–4,5) (Nguyễn Tường Anh, 2004). Nhiệt độ thích hợp cho cá từ 24–30oC, có thể chịu đựng nhiệt độ từ 11–39oC. (Nguyễn Phú Trí, 1990). 15 2.2 Sơ lược tình hình nuôi cá sặc rằn 2.2.1. Tình hình nuôi cá sặc rằn trên thế giới Cá Sặc rằn cũng là đối tượng nuôi quan trọng hiện nay, cá phân bố tự nhiên ở các thủy vực vùng Đông Nam Á và Nam Việt Nam. Theo Soong (1948) trích dẫn bởi Lê Như Xuân (1993) cho biết sản lượng cá Sặc Rằn nuôi trong ruộng lúa tại Mã Lai thường chiếm gần 50% so với tổng sản lượng các loài cá đồng được nuôi cùng. Tại Thái Lan, cá Sặc Rằn bắt đầu được nuôi từ năm 1922, cũng là thời điểm đánh dấu cho nghề nuôi cá của nước này. Vào năm 1991, cục nghề cá Thái Lan cho biết, sản lượng cá Sặc rằn chiếm khoảng 10,8% tương đương 9,7% về giá trị so với tổng sản lượng cá nước ngọt của Thái Lan (Komtorn Kaewpaitoon, 1994). 2.2.2 Tình hình nuôi cá sặc rằn trong nước Cá Sặc rằn là loài cá phù hợp với điều kiện ở ĐBSCL. Đặc điểm thích nghi tốt với điều kiện môi trường khắc nghiệt và phổ thức ăn rộng nên có thể nuôi cá Sặc rằn với nhiều mô hình khác nhau. Đây cũng là loài cá có thịt thơm ngon, đặc biệt là sản phẩm khô của loài cá này. Do đó đây là loài cá không những được tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu ra cả nước ngoài. Hiện nay, tất cả các tỉnh ở ĐBSCL đều có nuôi loài cá này. Mô hình nuôi hiệu quả hiện nay là nuôi kết hợp ( cá – heo), và nuôi ghép cùng với các loài cá như: Mè Vinh, cá Chép, cá Rô đồng, cá Hường… Tỷ lệ nuôi ghép có thể từ 30% - 70% tùy từng mô hình nuôi. Bên cạnh nuôi kết hợp và nuôi ghép cá Sặc rằn được nuôi theo mô hình bán thâm canh và thâm canh cá Sặc rằn trong ao đất với mật độ cá thả dao động từ 5 – 7 con/m2 tăng lên 30 – 40 con/m2 (Dương Nhựt Long, 2009). Trong quá trình nuôi, thức ăn sử dụng cho cá là thức ăn tự chế (cám + các loại phụ phẩm của nhà máy chế biến thuỷ sản, hay cá tạp…) kết hợp với thức ăn công nghiệp, trong đó thức ăn tự chế chiếm tỉ lệ cao hơn (60 – 70%). Tỉnh An Giang, An Phú là huyện có người nuôi cá Sặc rằn tập trung nhiều nhất. Việc duy trì và phát triển nguồn lợi cá đồng gồm 4 loài cá: cá Lóc, cá Rô đồng, cá Trê Vàng, cá Sặc rằn đã được thực hiện ở lâm ngư trường sông Trẹm tỉnh Cà Mau. Chính quyền địa phương đang qui hoạch vùng nuôi thương phẩm cá Sặc rằn nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu (Phạm Minh Thành, 2006). 16 2.3 Một số vấn đề cần nghiên cứu 2.3.1. Nhiệt độ không sinh học (T0) Là nhiệt độ môi trường mà tại đó quá trình sinh học của cá không xảy ra. T0 cũng có giá trị không đổi và đặc trưng theo loài (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). 2.3.2. Thời gian dinh dưỡng noãn hoàng Thời gian này còn được gọi là thời kỳ dinh dưỡng tự cung cấp: Thủy sinh vật thuộc nhóm này dinh dưỡng nhờ các chất dự trữ chứa sẵn trong cơ thể (noãn hoàng, chất mỡ, chất đường) (Đặng Ngọc Thanh, 1974). Đặc trưng dinh dưỡng của cá ở giai đoạn này là dinh dưỡng bên trong (dinh dưỡng tự cung cấp), có hệ số sử dụng năng lượng cao nhất (tới hơn 50%) so với các giai đoạn khác trong chu kỳ sống (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). 2.3.3. Thời điểm xuất hiện pha hỗn dưỡng (phase 1) Vào cuối thời kỳ phôi tự do, noãn hoàng đã sử dụng nhiều tới mức gần hết thì ở cá xuất hiện phase hỗn dưỡng (phase chuyển tính ăn lần 1); cá vừa dinh dưỡng năng lượng từ noãn hoàng, lại vừa dinh dưỡng bằng năng lượng từ thức ăn đã được cá tiếp nhận trong môi trường. Trong khoảng thời gian rất ngắn, đánh dấu bằng sự xuất hiện phase hỗn dưỡng, cá đã tập luyện thành công và nhanh chống sử dụng tốt thức ăn từ bên ngoài (từ môi trường nước). Khả năng đó là đặc tính vốn có của cá và thể hiện sự thích nghi với điều kiện sống mới. Trong phase hỗn dưỡng, thức ăn phù hợp, tốt và được cá ưa thích nhất là động vật phiêu sinh có kích thước phù hợp với khả năng bắt mồi của cá. Tuy nhiên, phase hỗn dưỡng chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). 2.3.4. Thời điểm xuất hiện pha chuyển tính ăn lần 2 Giai đoạn này được chuyển từ sau phase hỗn dưỡng của giai đoạn phôi và cá đã hết noãn hoàng (kết thúc giai đoạn dinh dưỡng bên trong). Giai đoạn này cá phải tự kiếm thức ăn trong môi trường nước, các bộ phận và các cơ quan trong cơ thể còn rất đơn giản. Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự chuyển tính ăn có kích thước phù hợp với cỡ miệng của cá. Thời kỳ này thức ăn của cá là động vật phù du và thức ăn của loài. 2.3.5. Cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no Cường độ dinh dưỡng là lượng thức ăn mà động vật ăn trong một đơn vị thời gian trên một đơn vị khối lượng cơ thể (Đặng Ngọc Thanh, 1974). Chỉ số độ no là tỉ lệ giữa lượng thức ăn trong ruột cá trên một đơn vị khối lượng cơ thể cá (Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004). 17 CHƯƠNG 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Vật liệu nghiên cứu 3.1.1 Dụng cụ - Cốc đựng nước. - Thau, xô chứa nước. - Máy sục khí. - Nhiệt kế. - Đĩa petri. - Kính hiển vi. - Máy chụp hình. - Cân. 3.1.2 Đối tượng nghiên cứu: Là cá Sặc rằn ở các giai đoạn phát triển phôi, cá bột, cá hương. 3.1.3 Thức ăn thí nghiệm: Moina, trùn chỉ, thức ăn viên 3.1.4 Nguồn nước thí nghiệm Sử dụng nguồn nước sông có độ pH từ 7 đến 8. Trước khi bố trí thí nghiệm, nước được lắng 24–48 giờ rồi lọc qua lưới thực vật phù du. 3.2 Phương pháp tiến hành Phương pháp thí nghiệm được xây dựng trên cơ sở “Hướng dẫn nghiên cứu cá” I.F. Pravdin (1973) và “sinh thái cá” của Nicolski (1953). Xác định các yếu tố môi trường theo các phương pháp thông thường được sử dụng trong môi trường nước. 3.2.1 Xác định nhiệt độ không sinh học (T0) 3.2.1.1 Bố trí thí nghiệm Lấy 100 phôi cá ở giai đoạn đầu tiên (trứng mới thụ tinh) cho vào cốc 0,5 lít có chứa nước rồi đặt cốc trong thau nước 1 lít (như hình 3.1), có sục khí nhẹ. Theo dõi thời gian phát triển phôi tại 2 giá trị nhiệt độ môi trường khác nhau. Cụ thể là cốc tại T1 (Nhiệt độ tự nhiên trong phòng) và tại T2 (Nhiệt độ nhân tạo). Điều chỉnh nhiệt độ để đạt T2 bằng nước nóng hay tăng nhiệt độ bằng Heater. Thêm nước nóng (tăng 6oC so với T1) vào thau chứa cốc để thông qua đó điều chỉnh gián tiếp nhiệt độ môi trường chứa phôi. 18 Việc điều chỉnh nhiệt độ theo nguyên tắc: Trong một giờ nhiệt độ môi trường chứa trứng không thay đổi vượt quá 2oC. Thí nghiệm được bố trí song song 2 giá trị nhiệt độ T1, T2 . Thí nghiệm lặp lại 3 lần. Trong cốc chứa phôi, đặt nhiệt kế để theo dõi nhiệt độ nước liên tục và loại bỏ kịp thời những trứng không thụ tinh hoặc phôi bị chết trước khi trứng nở trong suốt thời gian thí nghiệm. Ghi nhận thời điểm có số phôi nở 50% và thời gian phát triển phôi D1, D2 tương ứng với 2 giá trị nhiệt độ T1 và T2. Hình 3.1 Thí nghiệm nhiệt độ không sinh học 3.2.1.2 Tính toán kết quả Sử dụng công thức tính tổng nhiệt phát triển: S = D(Tmt – T0) Để tính toán nhiệt độ không sinh học. Tổng nhiệt đó có giá trị không thay đổi trong các điều kiện nhiệt độ khác nhau. Tại T1 sẽ có giá trị D1 (thời gian phát triển phôi) và tại T2 sẽ có D2. Từ đó ta có phương trình: S = D1(T1 – T0) = D2(T2 – T0) Từ phương trình (3.2) suy ra nhiệt độ không sinh học (T0) được tính như công thức Reibisch (1902) (I.F.Pravdin, 1963). T0: Nhiệt độ không sinh học. T1: Nhiệt độ tự nhiên trong phòng D1T1 – D2T2 T0 = D1 – D2 (3.3) (3.1) (3.2) 19 D1: Thời gian phát triển phôi tương ứng. T2: Nhiệt độ điều chỉnh. D2: Thời gian phát triển phôi tương ứng. 3.2.2 Xác định thời gian cá dinh dưỡng noãn hoàng 3.2.2.1 Bố trí thí nghiệm Hai mươi cá mới nở (phôi tự do) được cho vào đĩa Petri có chứa nước quan sát dưới kính hiển vi. Định kỳ thay nước 3-4 giờ/lần bằng nguồn nước có cùng nhiệt độ với nước trong đĩa Petri. Theo dõi nhiệt độ liên tục.Trong quá trình quan sát có chụp hình. 3.2.2.2 Ghi nhận kết quả Mức độ tiêu hóa noãn hoàng được quan sát tại các thời điểm: Cá mới nở, sau nở 10 giờ, 15 giờ, 20 giờ, 25 giờ, 30 giờ đến hết noãn hoàng. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần. 3.2.3 Pha chuyển tính ăn lần 1 (cá dinh dưỡng hỗn hợp, noãn hoàng với động vật phù du) 3.2.3.1 Bố trí thí nghiệm Sử dụng 6 đĩa Petri chứa nước, trong đó 3 đĩa thả cá (mỗi đĩa 10 con cá mới nở) và 3 đĩa không thả cá làm đối chứng. Các đĩa Petri được thả thêm 50 động vật phù du (Moina) vào các thời điểm khác nhau: Sau khi nở 20 giờ, 25 giờ, 30 giờ, 35 giờ, 40 giờ, 45 giờ. Thay nước cùng lúc với thời điểm thêm Moina vào. Trước khi thay nước đếm số lượng Moina trong mỗi đĩa. Sau khi thay nước cấp 50 Moina mới (thay cho 50 Moina trước đó) cho mỗi đĩa. Đo nhiệt độ 2 lần/ngày. Quan sát hoạt động bắt mồi của cá; kết hợp với đếm số lượng Moina bị hao hụt trong mỗi đĩa Petri chứa cá so với đĩa không chứa cá. 3.2.3.2 Ghi nhận kết quả Thời gian xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 1 được xác định bằng quan sát thường xuyên dưới kính hiển vi. Thời gian xuất hiện phase hỗn dưỡng được ghi nhận khi có 50% số cá sử dụng Moina 3.2.4 Pha chuyển tính ăn lần 2 (cá ăn động vật phù du và thức ăn của loài) 3.2.4.1 Bố trí thí nghiệm Nuôi 20 cá bột trong bocal 1 lít. Sử dụng song song 2 loại thức ăn là Moina và thức ăn của loài có kích thước phù hợp với khả năng bắt mồi của cá là trùn chỉ. Số lượng thức ăn đảm bảo nhu cầu bắt mồi của cá trong suốt quá trình thí nghiệm. Trước khi cho ăn, Trùn chỉ được rửa sạch và cắt thành những đoạn nhỏ (3 – 4 mm). Đếm số lượng trùn chỉ và cá bột trước khi thả vào bocal. 20 Trong quá trình bố trí thí nghiệm, tiến hành sục khí nhẹ và định kỳ thay nước 1 ngày/lần. Quan sát hoạt động bắt mồi của cá. Hằng ngày theo dõi số lượng trùn chỉ bị hao hụt theo từng thời điểm quan sát (5 giờ/lần). 3.2.4.2 Ghi nhận và tính toán kết quả Thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 2 được xác định khi có 50% số cá thí nghiệm sử dụng thức ăn ưa thích. 3.2.5 Cường độ dinh dưỡng (CĐDD) và chỉ số độ no (CSĐN) 3.2.5.1 Bố trí thí nghiệm Bố trí 10 cá con (đã được nhịn đói 24 giờ) trong dụng cụ chứa nước có thể tích tùy thuộc vào kích thước của thí nghiệm. Cụ thể là: Thể tích 0,5 lít đối với cá 15 ngày tuổi cùng với thức ăn ưa thích là Moina. Sử dụng dụng cụ với thể tích tương ứng chứa Moina nhưng không chứa cá làm đối chứng. Thể tích 1 lít đối với cá 20 ngày tuổi, thức ăn ưa thích là trùn chỉ. Thể tích 2 lít đối với cá 30 ngày tuổi, thức ăn ưa thích là trùn chỉ. Trước khi bố trí thí nghiệm cân cá thí nghiệm và thức ăn. Sau 24 giờ thí nghiệm, cân trọng lượng thức ăn trong ruột và trọng lượng cá. 3.2.5.2 Tính toán kết quả Theo Đặng Ngọc Thanh (1974) cường độ dinh dưỡng (%/giờ) của cá được xác định như sau: PTA : Khối lượng thức ăn cá đã ăn (g). PC: Khối lượng cá (g). Chỉ số độ no (%) được Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định (2004) trích dẫn từ Shorygin (1952) tính theo công thức: PTA CĐDD = PC x 24 x 100 PTA CSĐN = PC x 100 (3.5) (3.4) 21 Trong đó: PTA : Khối lượng thức ăn trong ruột cá (g). PC : Khối lượng cá đã ăn thức ăn (g). 3.2.6 Xác định một số yếu tố môi trường  Nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế, đo định kì theo yêu cầu của từng thí nghiệm.  Oxy hoà tan xác định theo phương pháp Winker.  pH đo bằng giấy so màu. 3.3 Xử lý số liệu và đánh giá kết quả 3.3.1 Xử lý số liệu Loại bỏ các số liệu không mong muốn trước khi đưa vào xử lý bằng chương trình Excel. 3.3.2 Đánh giá kết quả Kết quả được đánh giá qua các giá trị trung bình. 22 CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN 4.1 Xác định nhiệt độ không sinh học (T0) 4.1.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm Các chỉ tiêu môi trường là những yếu tố không thể thiếu trong sự sống và phát triển của bất cứ sinh vật nào. Một số chỉ tiêu về môi trường được theo dõi nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của môi trường đến quá trình phát triển của phôi trong thí nghiệm. Sau đây là Bảng 4.1 theo dõi một số yếu tố môi trường trong thời gian thực hiện thí nghiệm. Bảng 4.1 Một số yếu tố môi trường Các yếu tố môi trường Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Trung bình ± độ lệch chuẩn Nhiệt độ T1 (oC) 25 27 26 ±1,41 Nhiệt độ T2 (oC) 31,5 32,5 32 ±0,71 pH 7,5 7,8 7,65 ±0,21 Oxy hòa tan (mg/l) 4 6 5 ±1,41 Đây là những yếu tố môi trường quan trọng và cần thiết đến sự sống và phát triển của tất cả các loài cá nói chung và cá Sặc rằn nói riêng. Đối với lần thực hiện thí nghiệm này việc bố trí trong cùng một dụng cụ và cùng một địa điểm nên các điều kiện môi trường (nhiệt độ, oxy, pH) tác động vào tương đối giống nhau. Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình giữa buổi sáng và buổi chiều chênh lệch không đáng kể và nằm trong khoảng thích hợp cho cho cá là 26oC. Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994) nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cá Sặc rằn là 25oC – 30oC. Qua bảng 4.1 Oxy hòa tan nằm trong khoảng 4 mg/l – 6 mg/l do trong quá thí nghiệm được sục khí liên tục, với mức oxy hòa tan như vậy đủ để cá sống và phát triển. pH: pH = 7,65 là môi trường tốt cho cá phát triển. Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994) cá sống được ở nước phèn với độ pH = 4. Cá Sặc rằn là loài cá có cơ quan hô hấp phụ nên những yếu tố môi trường như trên là điều kiện tốt để thực hiện thí nghiệm. 4.12 Kết quả xác định nhiệt độ không sinh học Nhiệt độ không sinh học là nhiệt độ môi trường mà tại đó quá trình sinh học không xảy ra. T0 cũng có giá trị không đổi và đặc trưng theo loài. Nó góp phần quan trọng trong việc tìm ra giới hạn chịu đựng (ngưỡng) của cá, từ đó ta có thể tìm được nơi phân bố của các loài cá dựa vào nhiệt độ không sinh học. Ngoài ra, nhiệt độ không sinh học là một giá trị không thể thiếu trong việc tính tổng nhiệt phát triển của cá, từ 23 đó nó có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi vỗ cá bố mẹ. Đồng thời nhiệt độ không sinh học còn là cơ sở quan trọng cho sự tái thành thục nhanh hay chậm của cá bố mẹ được nuôi vỗ vì tốc độ các quá trình phát triển và thoái hóa tuyến sinh dục gia tăng cùng với sự gia tăng của nhiệt độ (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Do đó, thí nghiệm tìm ra nhiệt độ không sinh học của cá Sặc rằn được tiến hành. Bảng 4.2 Nhiệt độ không sinh học của phôi cá Sặc rằn Thời gian phát triển phôi D (Giờ) Nhiệt độ Lần 1 Lần 2 Lần 3 Trung bình T1 = 26 oC 20 20,33 20,33 20,22±0,19 T2 = 32 oC 14 13,83 14,5 14,11±0,37 T0 (oC) 12 13,23 11,08 12,10±1,08 Cá là loài biến nhiệt nên nhiệt độ là một trong những yếu tố có tác động quan trọng và trực tiếp đến sinh trưởng và phát triển của cá, nhất là đối với các loài cá ở vùng nhiệt đới. Nhiệt độ ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn phát triển trong suốt chu kì sống của cá. Giai đoạn phát triển phôi và cá con rất nhạy cảm với nhiệt độ. Qua bảng 4.2 cho thấy, với nhiệt độ 26oC thời gian phát triển phôi của cá Sặc rằn trung bình khoảng 20,22 giờ dài hơn so với ở nhiệt độ 32oC có thời gian phát triển phôi là 14,11 giờ. Và nhiệt độ không sinh học của phôi cá Sặc rằn là 12,10 ± 1,08oC. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với Nguyễn Văn Kiểm và csv (1999) giới hạn chịu đựng của cá Sặc rằn 11 – 39 oC. Qua các nhận định trên có thể kết luận rằng, phôi cá rất nhạy cảm với nhiệt độ. Ảnh hưởng của nhiệt độ nói chung và giai đoạn phát triển phôi nói riêng theo định luật Vanthoff: khi nhiệt độ tăng lên 10oC thì các quá trình trao đổi chất trong cơ thể cá tăng lên 2 - 4 lần. Qua thí nghiệm cho thấy, thời gian phát triển phôi của cá Sặc rằn phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường, khi nhiệt độ càng tăng thì thời gian nở càng ngắn và nhiệt độ giảm xuống thì thời gian nở càng kéo dài ra. Kết quả này đúng với kết luận của Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009). Theo Võ Văn Bằng (2010) thì nhiệt độ không sinh học của cá rô đồng là 7,6 ± 0,3oC và cá trôi Ấn Độ là 11,3 ± 0,5oC. Cá Mè trắng có nhiệt độ không sinh học là 10,2 ± 1oC (Đỗ Minh Nhựt, 2010). Nhìn chung T0 của các loài cá ở ĐBSCL tương đối cao. Điều này nói lên sự phân bố của chúng phụ thuộc vào nhiệt độ. Cá Sặc rằn là một loài cá bảng địa ở ĐBSCL nên chúng cũng có nhiệt độ không sinh học tương đương với những loài cá trên. Để khẳng định về kết luận trên xét qua hình 4.1. 24 0 2 4 6 8 10 12 14 cá Sặc rằn cá Rô cá trôi Ấn cá Mè trắng Loài cá Nh iệ t đ ộ Hình 4.1 Nhiệt độ không sinh học của cá Sặc rằn, cá Rô, cá Trôi Ấn và cá Mè trắng Qua hình 4.1 cho thấy nhiệt độ không sinh học của cá Sặc rằn (12,10oC) tương đương với cá Trô Ấn (11,3oC) và cao hơn so với cá rô và cá Mè trắng. Điều này nói lên nơi phân bố của chúng phụ thuộc vào nhiệt độ. Với T0 = 12,10oC cá Sặc rằn phân bố ở các quần đảo Ấn Độ, Mã Lai, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam (Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994). Và tại giá trị này các quá trình sinh học của phôi không xảy ra, do cá Sặc rằn có sức chịu đựng cao đối với những thay đổi bất lợi trong môi trường nên phôi cá cũng có sự thích nghi cao hơn các loài cá trên. Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) thì hầu hết các loài cá nuôi có xuất xứ, phân bố ở ĐBCL và những vùng phân bố có vĩ độ thấp thì nhiệt độ thích ứng cho phôi phát triển từ 27 – 30oC. Như vậy, nhiệt độ trong suốt quá trình thí nghiệm là nhiệt độ thích hợp cho phôi phát triển. Tóm lại ở nhiệt độ 12,10 ± 1,08oC các quá trình sinh học bị ức chế tối đa; quá trình trao đổi chất chỉ cung cấp đủ năng lượng cho cá Sặc rằn duy trì sự sống nên chúng ngừng sinh trưởng và phát triển. 4.2 Xác định thời gian cá dinh dưỡng noãn hoàng 4.2.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm Thí nghiệm xác định thời gian cá dinh dưỡng noãn hoàng các yếu tố: Nhiệt độ, pH và nồng độ oxy hoà tan được xác định và kết quả thể hiện ở Bảng 4.3. Bảng 4.3 Điều kiện môi trường thí nghiệm Các yếu tố môi trường Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn Nhiệt độ (oC) 26 28,5 27,12±1,31 Oxy hòa tan (mg/l) 3,5 5,8 4,45±0,98 pH 7 8 7,37±0,47 25 Qua kết quả được thể hiện ở Bảng 4.3 cho thấy nhiệt độ dao động trong khoảng thích hợp cho cá (26 - 28,5oC).Trong khoảng thời gian bố trí thí nghiệm là 2 ngày thì nhiệt độ sáng và chiều thay đổi không lớn so với giá trị trung bình (khoảng 1,31oC) Oxy đạt 4,45 mg/l nằm trong khoảng thích hợp và pH có giá trị trung bình là 7,37 cũng nằm trong điều kiện thuận lợi cho cá phát triển. Theo Boy (1990) cho rằng giá trị oxy hoà tan thích hợp cho cá là từ 3 mg/l trở lên và khoảng pH thích hợp cho tôm cá nước ngọt là 6-9. Như vậy, các chỉ tiêu môi trường như trên là điều kiện tốt cho quá trình thí nghiệm. 4.2.2 Kết quả xác định thời gian cá dinh dưỡng noãn hoàng Thời kỳ này còn gọi là thời kỳ phôi tự do, phôi phát triển ngoài vỏ trứng, thường gọi là thời kỳ trứng đã nở; được tính từ lúc phôi thoát khỏi vỏ trứng (trứng nở) đến khi sử dụng hết noãn hoàng. Noãn hoàng là nguồn vật chất dinh dưỡng chính cung cấp năng lượng cho quá trình phát triển và được tiêu thụ chủ yếu ở thời kỳ này. Thời gian cần thiết để hoàn thành thời kỳ này tùy thuộc vào lượng noãn hoàng nhiều hay ít theo loài và tùy thuộc vào cả nhiệt độ. Nắm được thời gian tiêu biến noãn hoàng sẽ biết được thời gian chết đói của cá mà cung cấp thức ăn hợp l ý cho cá ở giai đoạn này vì khi vừa hết noãn hoàng cá sẽ ăn thức ăn ngoài môi trường. Đặc trưng dinh dưỡng của cá ở giai đoạn này là dinh dưỡng bên trong (dinh dưỡng tự cung cấp), có hệ số sử dụng năng lượng cao nhất (tới 50%) so với các giai đoạn khác trong chu kỳ sống (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Để biết được thời gian tiêu biến noãn hoàng của cá Sặc rằn qua bảng 4.4 sẽ hiểu thêm về giai đoạn này. Bảng 4.4 Thời gian và nhiệt độ khi tiêu biến noãn hoàng Số lần lặp lại Thời gian tiêu biến noãn hoàng (giờ) I 35 II 36 III 35 Trung bình ± độ lệch chuẩn 35,33 ± 0,57 Qua bảng 4.3 cho thấy với nhiệt độ là 27,12±1,31 oC thì thời gian tiêu biến noãn hoàng là 35,33 giờ sau khi cá nở. Nhìn chung Sặc rằn là loài cá có khối lượng noãn hoàng nhỏ nên thời gian tiêu biến noãn hoàng ngắn, kết quả này phù hợp với kết luận của Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) những loài cá có khối lượng noãn hoàng lớn so với khối lượng chung của phôi thì thời gian kéo dài (như Tai Tượng, Thát Lát có khi tính bằng tuần), những loài cá có khối lượng noãn hoàng nhỏ thì thời gian ngắn (như Mè Vinh, He Vàng, Bống Tượng … chỉ một hai ngày). 26 Một số nghiên cứu về thời gian tiêu biến noãn hoàng của các loài cá khác như: Cá Hường là 49 giờ ở 26oC (Trần Nguyễn Vân Châu, 2011); Theo Phạm Minh Thành và Lê Như Xuân (1994) cá Trắm Cỏ có thời gian tiêu biến noãn hoàng 48 giờ, cá Bống Tượng là 72 giờ. Tuy nhiên thời gian tiêu biến noãn hoàng còn tuỳ thuộc vào nhiệt độ môi trường, nhiệt độ càng tăng (trong giới hạn chịu đựng) thì thời gian càng ngắn, ngược lại nhiệt độ càng thấp thì thời gian tiêu biến càng dài ra. Ngoài ra, còn nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tiêu biến noãn hoàng ở các loài cá là nguồn dinh dưỡng mà cá mẹ truyền cho cá con dự trữ trong noãn hoàng nhiều hay ít. Qua hình 4.2 sẽ hiểu rõ hơn về thời gian tiêu biến noãn hoàng của các loài cá, kết quả là sự so sánh thời gian tiêu biến noãn hoàng giữa các loài cá để giúp người nuôi cung cấp nguồn thức ăn ngoài một cách có hiệu quả. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 cá Sặc rằn cá Hường cá Trắm Cỏ cá Bống Tượng Loài cá Th ờ i g ia n (gi ờ ) Hình 4.2 Thời gian tiêu biến noãn hoàng của cá Sặc rằn, cá Hường, Trắm Cỏ và cá Bống Tượng Qua hình 4.2 cho thấy thời gian tiêu biến noãn hoàng của cá Sặc rằn thấp hơn so với các loài cá còn lại. Thời gian của cá Sặc rằn ngắn hơn có thể là do các điều kiện đã nêu ra như khối lượng noãn hoàng nhỏ, nhiệt độ và chất lượng cá mẹ. Theo Đặng Ngọc Thanh (1974) khi nhiệt độ càng tăng, quá trình trao đổi chất càng tăng, chất dinh dưỡng dự trữ càng giảm mau, thời gian dinh dưỡng tự cung cấp càng ngắn. Một số hình ảnh được ghi lại ở giai đoạn tiêu biến noãn hoàng: Hình 4.3 Hình chụp lúc cá mới nở (trái) và lúc cá hết noãn hoàng (phải) 27 Lúc cá mới nở đến lúc cá được 15 giờ cá có khối noãn hoàng lớn; bơi ngữa; bơi lội không định hướng, khi cá được 20 giờ thì cá bơi lật lại bơi lội có định hướng đến 25 giờ, 30 giờ cá bơi nhanh nhẹn hơn; noãn hoàng ít dần và đến 35 giờ cá hết noãn hoàng; bơi lội rất nhanh để tìm mồi. Do đó người ương nuôi cần chú ý thời gian này mà cho cá ăn vào thời điểm thích hợp để mang lại kết quả cao. 4.3 Thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 1 (hỗn dưỡng) 4.3.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm Một số yếu tố môi trường được ghi nhận trong quá trình thí nghiệm xác định thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 1 được thể hiện ở Bảng 4.5. Bảng 4.5 Các yếu tố môi trường Các yếu tố môi trường Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn Nhiệt độ (oC) 25,5 28,5 27± 2,12 Oxy hòa tan (mg/l) 4 6 5± 1,41 pH 7 7,5 7,25± 0,35 Qua Bảng 4.5 cho thấy các yếu tố môi trường điều nằm trong khoảng thích hợp: Nhiệt độ trung bình là 27± 2,12oC, oxy hoà tan là 5± 1,41 mg/l và pH = 7,25± 0,35. Với các điều kiện như trên là điều kiện thích hợp cho cá sinh trưởng và phát triển tốt và đây là điều kiện tốt để tiến hành thí nghiệm 4.3.2 Kết quả xác định thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 1(hỗn dưỡng) Đây là thời kỳ phôi tự do, noãn hoàng đã sử dụng nhiều tới mức gần hết thì ở cá xuất hiện phase hỗn dưỡng; cá vừa dinh dưỡng năng lượng từ noãn hoàng, lại vừa dinh dưỡng bằng năng lượng từ thức ăn đã được cá tiếp nhận trong môi trường (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994) thức ăn ưa thích của cá trong giai đoạn này là động vật phiêu sinh (Moina). Thời điểm được ghi nhận khi có >50% số cá thí nghiệm sử dụng Moina và kết quả được thể hiện qua bảng 4.6 sẽ cho biết chính xác số phần trăm cá sử dụng Moina và từng thời điểm được ghi nhận. 28 Bảng 4.6 Thời điểm xuất hiện phase chuyển ính ăn lần 1 và số phần trăm cá sử dụng Moina Số cá sử dụng trứng nước (%) Thời điểm xuất hiện (Giờ) Lần 1 Lần 2 Lần 3 Trung bình ± độ lệch chuẩn 20 0 0 0 0 25 0 0 0 0 30 20 40 30 30±10 32 50 60 50 53,33±5,77 Kết quả cho thấy sau 32 giờ (1,3 ngày) quan sát thì cá chuyển tính ăn lần 1 được ghi nhận khi có 50% số cá (5 con) thí nghiệm sử dụng Moina. Tuy nhiên, trong thời điểm trước đó có một số cá đã sử dụng Moina khi cá được 30 giờ thì đã có 30±10% số cá sử dụng. Moina được dùng làm thức ăn thí nghiệm thích hợp trong giai đoạn này vì theo Phạm Minh Thành Và Nguyễn Văn Kiểm (2009) cho rằng trong thời gian hỗn dưỡng, thức ăn phù hợp, tốt và được cá ưa thích nhất là động vật phiêu sinh có kích thước phù hợp với khả năng bắt mồi của cá. Trứng nước chính là loại thức ăn được chọn sử dụng cho cá Sặc rằn ở giai đoạn này. Số lượng Moina trong đĩa đối chứng không tăng lên và cũng không giảm điều này chứng tỏ Moina trong đĩa bố trí thí nghiệm (có cá) là chính xác. Số lượng Moina không tăng và cũng không giảm có thể là do trứng nước được cho vào còn rất nhỏ (non) và thời gian thí nghiệm chỉ có 12 giờ (trứng nước được cho vào khi cá được 20 giờ) và cứ 5 giờ thì thay Moina mới nên Moina chưa có khả năng sinh sản nên số lượng của chúng không tăng và điều kiện môi trường đủ để chúng sống nên chúng không giảm về mật số. Kích cỡ miệng cá trong thời gian này rất nhỏ do đó Moina được lọc qua lưới có độ nhỏ vừa với kích cỡ miệng cá. Sự lựa chọn tính ăn là một trong những đặc điểm quan trọng trong tập tính ăn của cá. Sự lựa chọn tính ăn ở cá bột chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như: kích thước; kích cỡ miệng cá và kích thước con mồi được xem là yếu tố quyết định đến khả năng bắt mồi của cá. Trong khoảng thời gian rất ngắn, đánh dấu bằng sự xuất hiện của phase hỗn dưỡng, cá đã tập luyện thành công và nhanh chống sử dụng tốt thức ăn từ môi trường bên ngoài (môi trường nước). Tóm lại, biết thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 1 là cơ sở quan trọng giúp người nuôi xác định được thời điểm cũng như loại thức ăn phù hợp nhất để cung cấp kịp thời nguồn thức ăn cho cá bột từ môi trường nước. 29 4.4 Xác định thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 2 4.4.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm Một số yếu tố môi trường được ghi nhận trong thí nghiệm xác định thời điểm phase chuyển tính ăn lần 2 của cá Sặc rằn như: nhiệt độ, oxy hoà tan và pH được trình bày ở Bảng 4.7. Bảng 4.7 Các yếu tố môi trường Các yếu tố môi trường Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn Nhiệt độ (oC) 25 29 27,10±1,16 Oxy hòa tan (mg/l) 3,5 6 4,37±0,65 pH 6,5 8,5 7,37±0,42 Nhìn chung qua Bảng 4.7 cho thấy các yếu tố môi trường của thí nghiệm này có sự dao động cao như: Nhiệt độ từ 25 - 29oC, oxy hoà tan dao động trong khoảng 3,5 - 6 mg/l còn pH nằm trong khoảng 6,5 - 8,5. Tuy nhiên, các biến động vẫn nằm trong giới hạn thích hợp cho cá phát triển của cá. Như vậy, với các điều kiện môi trường như trên là điều kiện tốt để tiến hành thí nghiệm. 4.4.2 Kết quả xác định thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 2 Giai đoạn này được chuyển từ sau phase hỗn dưỡng của giai đoạn phôi và cá đã hết noãn hoàng (kết thúc giai đoạn dinh dưỡng bên trong). Giai đoạn này cá phải tự kiếm thức ăn trong môi trường nước, các bộ phận và các cơ quan trong cơ thể còn rất đơn giản. Hình thái cơ thể đã có sự thay đổi nhưng chưa ổn định và chưa có nét đặc trưng của cơ thể trưởng thành (cơ quan sinh dục chưa phát triển). Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự chuyển tính ăn có kích thước phù hợp với cỡ miệng của cá. Thời kỳ này thức ăn của cá là động vật phù du và thức ăn của loài. Nhưng không phải thức ăn nào của loài trong giai đoạn này cá cũng ăn được, mà cá chỉ ăn ở mức độ ít. Vấn đề thức ăn được đặc ra ở đây là kích thước, chất lượng và độ mềm của thức ăn. Nhu cầu cho ăn phải phù hợp với nguyên tắc “sử dụng được” của cá (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Trong ương nuôi hiện nay, sự chuyển tính ăn được đánh dấu khi người nuôi bắt đầu cho cá ăn trùn chỉ thay cho Moina ở giai đoạn trước đó. Kết quả thí nghiệm xác định thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 2 của cá Sặc rằn được ghi nhận qua Bảng 4.8. 30 Bảng 4.8 Thời điểm xuất hiện phase chuyển ính ăn lần 2 và số phần trăm cá sử dụng trùn chỉ. Số cá sử dụng trùn chỉ (%) Thời điểm xuất hiện (ngày) Lần 1 Lần 2 Lần 3 Trung bình ± độ lệch chuẩn 10 0 0 0 0 11 0 0 0 0 12 10 15 0 8,33±7,63 13 20 30 30 26,67±5,77 14 50 50 60 53,33±5,77 Kết quả trên cho thấy cá chuyển tính ăn lần 2 khi được 14 ngày sau khi nở, tức 12 ngày tuổi sau khi hết noãn hoàng. Nhưng theo quan sát cho thấy, vào ngày thứ 12 cá đã bắt đầu chuyển tính ăn. Theo Trần Nguyễn Vân Châu (2011) cá Hường chuyển tính ăn lần 2 khi được 7 ngày tuổi tương đương với 10 ngày sau nở. Qua đây cho thấy giai đoạn chuyển tính ăn lần 2 của cá Sặc rằn dài hơn cá Hường. Đối với cá bột thì đây là thời điểm đánh dấu khả năng có sự hao hụt cao trong quá trình ương khi không cung cấp được thức ăn ưa thích. Trứng nước tại thời điểm này trở nên nhỏ hơn so với cở miệng của cá Sặc rằn dẫn đến khả năng bắt mồi của cá đối với trứng nước không còn hiệu quả nữa, cá chuyển sang ăn một loại thức ăn khác có trong môi trường nước có nguồn dinh dưỡng cao hơn và phù hợp với kích cỡ miệng của chúng. Trùn chỉ là thức ăn đáp ứng đủ các điều kiện trên mà cá đã tìm thấy nên thời điểm chuyển tính ăn lần 2 xuất hiện khi cá bắt đầu ăn một loại thức ăn thứ 2 (ngoài trứng nước) có trong môi trường thí nghiệm mà cá tìm thấy đó là trùn chỉ và trùn chỉ trở thành thức ăn ưa thích của loài trong giai đoạn này. Biết được thời gian này sẽ giúp cho việc ương nuôi được dễ dàng hơn. Người nuôi sẽ nắm được nhu cầu của cá mà cung cấp thức ăn hợp lý để đạt hiệu quả cao. 4.5 Cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no của cá Sặc rằn 15 ngày tuổi, 20 ngày tuổi và 30 ngày tuổi 4.5.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm Tương tự các thí nghệm trên, các yếu tố môi trường trong thí nghiệm xác định cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no của cá Sặc rằn qua các giai đoạn 15 ngày tuổi, 20 ngày tuổi và 30 ngày tuổi được ghi nhận qua Bảng 4.9. 31 Bảng 4.9 Các yếu tố môi trường Các yếu tố môi trường Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn Nhiệt độ (oC) 26,5 28,5 27,5±1,41 Oxy hòa tan (mg/l) 4,5 5 4,75±0,35 pH 7,5 7,5 7,5±0 Ghi chú: những yếu tố môi trường trên được sử dụng cho hai thí nghiệm là chỉ số độ no và cường độ dinh dưỡng của cá Sặc rằn. Qua Bảng 4.9 cho thấy các yếu tố môi trường biến động không cao được thể hiện ở các chỉ tiêu như: Nhiệt độ dao động từ 26,5 - 28,5oC, Oxy hoà tan từ 4,5 - 5 mg/l và pH ổn định ở 7,5. Oxy hoà tan tương đối cao là do trong quá trình thí nghiệm được bố trí hệ thống sục khí liên tục. Như vậy, với các yếu tố môi trường trên đủ để cá sống và phát triển là điều kiện tốt cho việc tiến hành thí nghiệm. 4.5.2 Kết quả xác định cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no của cá Sặc rằn 15 ngày tuổi, 20 ngày tuổi và 30 ngày tuổi. Cường độ dinh dưỡng là lượng thức ăn mà động vật ăn trong một đơn vị thời gian trên một đơn vị khối lượng cơ thể (Đặng Ngọc Thanh, 1974). Chỉ số độ no là tỉ lệ giữa lượng thức ăn trong ruột cá trên một đơn vị khối lượng cơ thể cá (Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004). Xác định được cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no người nuôi sẽ xác định được khẩu phần ăn của cá và cho cá ăn một cách hợp lý để đạt được hiệu quả kinh tế cao cũng như rút ngắn thời gian và tăng vòng quay sản xuất. Vì vậy nội dung thí nghiệm về cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no ở cá Sặc rằn qua các giai đoạn 15 ngày tuổi, 20 ngày tuổi và 30 ngày tuổi dưới đây sẽ giúp người nuôi phần nào về những vấn đề trên đối với loài cá này. Bảng 4.10 Cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no của cá Sặc rằn ở các giai đoạn Giai đoạn Cường độ dinh dưỡng (%/giờ) Chỉ số độ no (%) Cá 15 ngày tuổi 6,69a±1,08 1,60a±0,14 Cá 20 ngày tuổi 2,57b±0,32 1,37b±0,01 Cá 30 ngày tuổi 2,23bc±0,59 1,20bc±0,06 Ghí chú: các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (ở mức p<0,05) và các chữ cái giống nhau trong cùng một cột thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Qua bảng 4.10 cho thấy giai đoạn cá 15 ngày tuổi có cường độ dinh dưỡng là 6,69±1,08 (%/giờ) và chỉ số độ no là 1,60%; cá 20 ngày tuổi có cường độ dinh dưỡng là 2,57±0,32 (%/giờ) và chỉ số độ no là 1,37%; cường độ dinh dưỡng của cá 30 ngày là 2,23±0,59 (%/giờ) và chỉ số độ no là 1,20%. Qua đây, cũng cho thấy cường độ dinh 32 dưỡng và chỉ số độ no của cá 15 ngày tuổi khác biệt có ý nghĩa thống kê với cá 20 ngày tuổi và 30 ngày tuổi (ở mức p<0,05); giai đoạn cá 20 ngày và 30 ngày tuổi thì khác biệt không có ý nghĩa. Qua đây cho thấy cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no của cá giảm dần theo thời gian phát triển của cá kết luận được thể hiện qua Hình 4.4. 0 1 2 3 4 5 6 7 8 Cá 15 ngày Cá 20 ngày Cá 30 ngày Giai đoạn (% /g iờ ) Hình 4.4 cường độ dinh dưỡng của cá Sặc rằn ở một số giai đoạn Qua hình 4.4 cho thấy cường độ dinh dưỡng của cá Sặc rằn giảm dần khi cá lớn hơn. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với nhận định của Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) cho rằng giai đoạn còn nhỏ, cá có cường độ dinh dưỡng cao và nhu cầu cao về protein để đáp ứng đặc tính sinh trưởng nhanh của cá. Còn theo Nguyễn Văn Thường (2007) thì cường độ ăn giảm đi theo độ sinh trưởng của vật ăn. Theo Đặng Ngọc Thanh (1974) cho rằng cường độ ăn tăng cao khi vật ăn gặp thức ăn ưa thích ở môi trường. Vì vậy trong nuôi trồng thủy sản, cường độ dinh dưỡng của cá sẽ tỷ lệ nghịch với sự tăng trưởng của vật nuôi. Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy chỉ số độ no cũng tỷ lệ nghịch với sự tăng trưởng của cá, cá 15 ngày tuổi chỉ số độ no là 1,60% còn cá 30 ngày tuổi chỉ số độ no chỉ có 1,20%. Qua các kết quả trên có thể kết luận rằng khi giai đoạn cá còn nhỏ, các cơ quan tiêu hoá chưa thật sự hoàn chỉnh nên khả năng tiêu hoá và hấp thu các vật chất dinh dưỡng còn kém, buộc cá ăn nhiều thì mới đáp ứng được nhu cầu của cơ thể. Càng về sau khi cá càng lớn thì các cơ quan tiêu hoá đã hoàn chỉnh hơn nên việc tiêu hoá thức ăn và hấp thu vật chất dinh dưỡng đủ để cá sinh trưởng và phát triển vì vậy cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no giảm dần theo sự phát triển của cá. Vấn đề này càng thể hiện rõ rệt đối với cá nhỏ. Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) giai đoạn tiền trưởng thành, cá có hệ số sử dụng năng lượng và cường độ dinh dưỡng cao. 33 Tóm lại qua các nhận định trên cho thấy cường độ dinh dưỡng và chỉ số độ no có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của cá. Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) cho rằng vấn đề này (tốc độ tăng trưởng) cũng có ý nghĩa lớn trong công tác tuyển chọn đàn cá bố mẹ hậu bị. Cụ thể là mối tương quan giữa kích thước và khối lượng cá bố mẹ với tuổi của nó. Nó có ảnh hưởng đến chất lượng cá bố mẹ, sức sinh sản của cá và chất lượng của cá bố mẹ có liên quan đến đàn cá con sau này. Và đây cũng là cơ sở để người nuôi xác định và xây dựng khẩu phần ăn cho cá một cách hợp lý. Khẩu phần ăn cho cá trong ngày phải đảm bảo chỉ tiêu đủ no và cá phải ăn hết nếu cho ăn quá thừa sẽ dẫn đến hiệu quả chuyển hoá thức ăn kém, sự tiêu hoá thức ăn cũng giảm đi và một điều hết sức quan trọng là sự ô nhiểm môi trường nuôi dẫn đến năng suất thấp trong ương nuôi là điều chắc chắn. Do đó, cần xác định khẩu phần ăn chính xác cho cá để đạt được lợi nhuận cao. 34 CHƯƠNG V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1 Kết Luận  Nhiệt độ không sinh học của cá Sặc rằn là 12,10 ± 1,08 oC.  Thời gian tiêu biến noãn hoàng 35,33 giờ.  Thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 1 là 1,3 ngày.  Thời điểm xuất hiện phase chuyển tính ăn lần 2 là 14 ngày.  Cá 15 ngày tuổi có cường độ dinh dưỡng là 6,69 (%/giờ) và chỉ số độ no 1,60%; cá 20 ngày tuổi có cường độ dinh dưỡng là 2,57 (%/giờ) và chỉ số độ no của giai đoạn này là 1,37%; cá 30 ngày tuổi cường độ dinh dưỡng của nó là 2,23 (%/giờ) và có chỉ số độ no 1,20%. 5.2 Đề xuất  Tiếp tục nghiên cứu những vấn đề trên cho các giai đoạn khác của cá Sặc rằn và những loài cá khác. 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Dương Nhựt Long, 2009. Dự án chuyển giao mô hình sản xuất giống và nuôi tăng sản cá Sặc rằn ở An Phú - tỉnh An Giang. Bộ môn kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Khoa Thuỷ Sản. Trường Đại học Cần Thơ. Đỗ Minh Nhựt, 2010. Ảnh hưởng của nhiệt độ, oxy, pH đến sự phát triển phôi cá Mè trắng. Luận văn tốt nghiệp đại học. Khoa thuỷ sản. Trường đại học Cần Thơ. 28 trang. Đặng Ngọc Thanh, 1974. Thủy sinh học đại cương. Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội. I.F.Pravdin, 1963. Nghiên cứu cá. Bản dịch của Phạm Thị Minh Giang (1973). Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994. Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Khoa thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Sở khoa công nghệ & Môi trường An Giang. Lê Như Xuân, 1993. Nghiên cứu một vài đặc điểm sinh học, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thịt cá Sặc Rằn (Trichogaster pectoralis). Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học. Phần nuôi trồng thủy sản. Trường Ðại học Cần Thơ, Trang 29- 37. Nguyễn Tường Anh, 2004. Kỹ thuật sản xuất giống một số loài cá nuôi. NXB Nông Nghiệp, Tp HCM. Nguyễn Văn Kiểm, Dương Nhựt Long, Từ Thanh Dung, 1999. Kỹ thuật sản xuất giống cá Sặc rằn. NXB Nông Nghiệp, Tp HCM. Nguyễn Phú Trí, 1990. Nghiên cứu bổ sung quy trình sản xuất giống cá Sặc rằn. Luận văn tốt nghiệp đại học. Khoa thuỷ sản. Trường đại học Cần Thơ. Nguyễn Văn Thường, 2007. Bài giảng sinh thái thuỷ sinh vật. Khoa thuỷ sản. Trường đại học Cần Thơ. Phạm Minh Thành, 2006. Thử nghiệm giải pháp duy trì và phát triển nguồn lợi cá đồng tại lâm ngư trường sông Trẹm tỉnh Cà Mau. Tạp chí nghiên cứu khoa học. Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất giống. Nhà xuất bản nông nghiệp. Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004. Giáo trình phương pháp nghiên cứu sinh học cá. Tủ sách Đại học Cần Thơ. 36 Phạm Văn Khánh, 2005. Tuyển tập qui trình công nghệ sản xuất giống thuỷ sản trung tâm khuyến ngư quốc gia. Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II, Trang 47. NXB Nông Nghiệp. Trần Nguyễn Vân Châu, 2011. Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá Hường giai đoạn phôi, bột, hương. Luận văn tốt nghiệp đại học. Khoa thuỷ sản. Trường đại học Cần Thơ. Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản nông nghiệp. Quách Thanh Hùng, Lê Sơn Trang, Dương Nhựt Long, 1999. Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá Sặc rằn (Trichogaster pectorralis Regan, 1910). Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học Cần Thơ. Bộ môn kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Khoa nông nghiệp. Trường Ðại học Cần Thơ. Trương Thủ Khoa, Trần Thị Thu Hương, 1993. Ðịnh loại cá nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Khoa Thủy Sản, Trường Ðại học Cần Thơ. NXB Nông Nghiệp, Tp HCM. Trương Thủ Khoa, Nguyễn Minh Trung, 1980. Một số đặc điểm sinh học cá Sặc rằn (Trichogaster pectoralis). Báo cáo khoa học. Lưu trữ tại Khoa Nông nghiệp Ðại học Cần Thơ. Võ Văn Bằng, 2010. Ảnh hưởng của các chỉ tiêu nhiệt độ, oxy, pH đến cá Trôi Ấn và cá Rô đồng ở giai đoạn phôi, bột. Luận văn tốt nghiệp đại học. Khoa thuỷ sản. Trường đại học Cần Thơ. Tiếng Anh Boyd, C.E.1998. Water quality in pond for Aquacuture. Birmingham puplishing company. Alabama 269pp. Hora S.L. and T.V.R. Pillay, 1962. Handbook on fish culture in the Pacific Region. Fish Biol. Tech. FAO, Rome, 204 p. Komtorn Kaewpaitoon, 1994. Training handbook for integrated aquaculture in Asia, pp 28-31. School of Environment Resources and Development. Asian Institute of Technology. Bangkok, Thailand, 36p.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflvbuiutmuoi_6907.pdf