Bên cạnh đó công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty cũng
còn một số hạn chế nhất định đòi hỏi cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty phải không
ngừng trau dồi kiến thức, nghiên cứu tìm ra những cách thức, phương pháp ghi chép, phản
ánh thông tin. mới hơn, hữu hiệu hơn nhằm không ngừng đổi mới và hoàn thiện làm sắc
bén hơn công cụ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
71 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2668 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu về công tác tổ chức - Quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bị trường
học Hà Nội trong năm 1997
Chỉ tiêu chính Kế hoạch 1997 Thực hiện
Với
kế hoạch
Với 1996
Doanh số cả năm 23.000.000.00
0
24.349.635.70
6
106,32% 89,84%
Doanh thu 20.000.000.00 22.435.690.87 106,3% 87,77%
0 2
Doanh số về sách 23.000.000.00
0
25.301.900.67
0
111,45% 102,06%
Thiết bị ấn phẩm 1.500.000.000 2.357.034.956 119,45% 112,14%
Doanh số bán buôn 20.500.000.00
0
25.524.107.83
6
110,65% 91,54%
Doanh số bán lẻ 2.500.000.000 2.325.256.467 105,34% 103,28%
Tồn kho cuối kỳ 1.500.000.000 1.735.169.236 105,90% 147,28%
Thu nhập bình
quân
750.000đ/tháng/k
ỳ
1 triệu /tháng
Kết quả thực hiện chỉ tiêu kế hoạch 1998:
Chỉ tiêu chính Kế hoạch 1998 Thực hiện
Với
kế hoạch
Với 1997
Doanh số cả năm 25.000.000.00
0
27.593.902.47
5
110,37% 90,92%
Doanh thu 22.000.000.00
0
23.785.596.19
8
108,11% 88,86%
Doanh số về sách 23.500.000.00
0
26.330.377.12
5
112,04% 104,06%
Thiết bị ấn phẩm 1.500.000.000 1.263.525.350 84,23% 25,03%
Doanh số bán buôn 21.300.000.00
0
24.035.612.95
0
112,84% 90,61%
Doanh số bán lẻ 3.700.000.000 3.558.289.525 96,16% 93,01%
Tồn kho cuối kỳ 1.500.000.000 1.627.954.883 108,53% 126,69%
Thu nhập bình
quân
750.000đ/tháng/k
ỳ
1 triệu /tháng
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh trong hai năm 1997-1998
Nhìn chung, trong hai năm 1997-1998 tổng danh số và doanh thu đều tăng so với kế
hoạch song giảm 13,5 % so với 1996 và gần 12% so với năm 1997. Doanh số về sách tăng
gần 6% so với 1996 và gần 5% so với 1997, thiết bị năm 1997 tăng gần 12% so với 1996,
tuy nhiên năm 1998 lại giảm 75 %so với kế hoạch. Duy trì mức doanh số 24,3 tỷ năm 1997
và 27,5 tỷ năm 1998 là một cố gắng vượt bậc của Công ty trong khó khăn chung của nền
kinh tế đất nước trong hai năm vừa qua.
Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã đạt được trong hai năm
1997-1998 cho thấy Công ty vẫn rơi vào tình trạng mất cân đối giữa bán buôn và bán lẻ, bán
lẻ không đạt kế hoạch, trong khi đó hoa hồng bán buôn vượt quá 12,5% năm 1997 và 13%
năm 1998, dẫn đến lợi nhuận giảm thu nhập của cán bộ công nhân viên đạt mức kế hoạch,
song giảm so với 1996 và 1997 là 10 % bình quân.
Về các biện pháp kinh doanh của Công ty, nói chung việc quản lý các Đại lý của
Công ty có bài bản hơn (chỉ 12 đại lý lớn năm 1997 và chỉ 9 đại lý lớn năm 1998 đã phát
hành hơn 3 triệu bản Sách, giá hơn 10 tỷ đồng doanh số) các biện pháp đóng bán bộ, bán
sách về trường hay mở đợt bán thiết bị... vẫn đạt hiệu quả cao, góp phần tăng trưởng doanh
số sách cao nhất từ trước tới nay.
Về các chỉ tiêu trong hai năm 1997 và 1998 nhìn chung đều đã đạt được: Chi bộ
trong sạch, vững mạnh được Quận cấp bằng khen, công đoàn tiếp tục nhận được cờ thi đua
của công đoàn ngành.
Về tiền lương và các quỹ phúc lợi, quyền lợi công đoàn được đảm bảo tốt. Các hoạt
động công đoàn, tham quan, du lịch được tổ chức tốt, hỗ trợ cho chuyên môn, kế hoạch hoá
gia đình, nếp sống văn minh, trật tự an toàn, nội bộ cơ quan tốt.
Công ty cũng đã tập trung đầu tư nâng cấp tập đoàn bán lẻ, các Phòng chuyên môn,
trang bị thêm máy vi tính, cải thiện đáng kể cơ sở vật chất của Công ty.
Phát huy những thành quả đã đạt được, đồng thời ý thức được những khó khăn
phải vượt qua (mạng lưới bán hàng phục vụ chưa đều; sự cạnh tranh của đơn vị bạn, tính
chất phức tạp của thị trường...) Công ty đã sẵn sàng hành trang bước vào thời kỳ mới sẵn
sàng đón nhận nhiệm vụ mới theo yêu cầu mới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
Chương 3
nhận xét chung và một số ý kiến đề xuất
qua nghiên cứu công tác tổ chức quản lý
kinh doanh xuất bản phẩm
ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội
trong hai nĂM 1997-1998
I. Nhận xét chung
Quá trình thực hiện công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty
Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998 đã cho thấy những thế mạnh,
cũng như những hạn chế trong hoạt động kinh doanh một loại hàng hóa đặc thù đó là Sách
giáo khoa và các thiết bị giảng dạy và học tập trong nhà trường. Cùng với sự phát triển của
các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại mà các phương thức kinh doanh của Công ty
cũng không ngừng đổi mới để theo kịp với sự phát triển đó. Có những lúc quá trình đổi mới
của Công ty gặp được nhiều thuận lợi, tuy nhiên không phải không gặp những khó khăn
chao đảo. Nhận thức được điều này, Công ty đã không ngừng thay đổi các phương thức hoạt
động và một trong những phương thức ít nhiều đem đến được thành công đó là phương thức
tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm trong toàn Công ty với những chuyển biến đáng
khích lệ về doanh số bán ra của Sách giáo khoa cũng như thiết bị trong hai năm 1997-1998.
Tình hình kinh doanh Sách giáo khoa và các thiết bị trong hai năm qua được luận
văn phân tích đã chỉ rõ những mặt được và chưa được của hoạt động tổ chức quản lý kinh
doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội. Sự phân tích này đã
cho phép khẳng định công tác tổ chức quản lý ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà
Nội là một đòi hỏi tất yếu, khách quan phù hợp với xu hướng vận động chung của nền kinh
tế xã hội. Tất yếu khách quan đó đã được chính Công ty nhận thức và chỉ đạo kịp thời, đúng
hướng. Song việc phân tích thực trạng tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty
trong hai năm 1997-1998 lại cho thấy nhiều vấn đề trong tổ chức quản lý đang đặt ra, có
những vấn đề rất cấp thiết. Những vấn đề đang đặt ra trong tổ chức quản lý kinh doanh xuất
bản phẩm ở Công ty mà luận văn phân tích là cơ sở cho việc đề xuất những phương hướng
và biện pháp để đổi mới công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách
và Thiết Bị trường học Hà Nội trong lĩnh vực này. Những phương hướng và biện pháp được
luận văn trình bày một cách hệ thống theo quan điểm toàn diện, lịch sử và cụ thể, bằng
những đề xuất có căn cứ khoa học sẽ góp phần cho các cấp, các ngành, cơ quan chủ quản
của Công ty có những giải pháp cần thiết để tăng cường vai trò lãnh đạo và hiệu lực quản lý
của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty hiện nay và trong
những năm trước mắt.
Thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển đòi hỏi nhận thức và hành động của con
người phải hết sức năng động, sáng tạo và luôn luôn đổi mới. Đổi mới công tác tổ chức quản
lý ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội là cả một quá trình phức tạp cần phải có
thời gian. Với bản chất và tầm vóc của vấn đề như vậy khó khăn không chỉ ở nhận thức tư
tưởng, phương pháp luận mà chủ yếu còn ở quá trình hành động thực tiễn. Đổi mới công tác
tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty hiện nay cần phải có quan điểm nhất
quán, thực hiện đồng bộ với những bưóc đi thích hợp theo định hướng chung của Công ty đã
đề ra.
1. Những ưu điểm và thuận lợi
Trong hai năm 1997-1998, cùng với sự phát triển của kinh tế Thủ đô và của cả
nước, Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà nội đã bước đầu thu được những kết quả
quan trọng, đạt được những thành quả kinh doanh cao và toàn diện, đánh dấu những bước
tiến bộ vượt bậc trong quá trình đổi mới. Công ty đã thích ứng kịp thời với sự biến động của
cơ chế thị trường, vươn lên chiếm lĩnh thị trường, bảo đảm cả hai hiệu quả kinh doanh và
phục vụ, xây dựng nền tảng cho sự phát triển ổn định và lâu dài của hoạt động kinh doanh
xuất bản phẩm.
Những thành tựu đổi mới này đã phần nào được thể hiện ở khâu tổ chức quản lý
hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Trong hai năm qua rút kinh nghiệm từ những thất
thoát của các năm trước, công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm được chuẩn bị
một cách chu đáo, được bàn bạc một cách kỹ lưỡng giữa những cán bộ có tinh thần trách
nhiệm cao và nhiệt tình với công việc, lường trước mọi tình huống biến động sẽ xảy ra khi
sắp bước vào vụ sách, mở rộng các mối quan hệ với nguồn cung ứng và đối với đội ngũ bạn
hàng; Sắp xếp kế hoạch hoạt động chi tiết theo từng tháng, từng tuần. Để có thể thích ứng
với mọi bất trắc xảy ra, đội ngũ cán bộ trong Công ty luôn luôn có sự trao đổi bàn bạc thống
nhất giữa những người có trách nhiệm cao với công việc, đưa ra những kế hoạch và quyết
định hợp lý, chính xác.
Công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị
trường học Hà nội hai năm qua đã có những bước tiến bộ đáng kể từ việc xây dựng kế
hoạch, nghiên cứu nhu cầu, điều tra nhu cầu, tổ chức và thiết lập các mối quan hệ trong mua
bán Sách giáo khoa và thiết bị trong trường học.
2. Khó khăn và những tồn tại
Nền kinh tế thị trường ở nước ta đã tạo ra muôn vàn khó khăn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm nói chung và Công ty
Sách và Thiết Bị trường học Hà nội nói riêng. Mọi khó khăn, mọi bất trắc còn tồn tại trong
mỗi doanh nghiệp và những tác động tiêu cực dội lại từ thị trường là những vấn đề nan giải,
mà mỗi dơn vị kinh doanh hiện nay đều muốn lường trước và tháo gỡ. Kinh doanh Sách
giáo khoa và thiết bị trong nền kinh tế thị trường cũng không thể tránh khỏi những hạn chế
khó khăn và bất trắc đó. Mặc dù Sách giáo khoa là loại hàng hóa xuất bản phẩm đặc biệt có
sự quản lý độc quyền của Nhà nước, song nó cũng phải chịu tất cả những khó khăn chung
giống như các doanh nghiệp kinh doanh thương mại khác và phải chịu những biến cố, tác
động của nền kinh tế thị trường.
Có thể nói nếu đi vào nghiên cứu cụ thể những khó khăn đang còn tồn tại, những
vấn đề đang được đặt ra trong quá trình kinh doanh và đặc biệt là trong công tác tổ chức
quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà nội mới thấy
được nhiều vấn đề nan giải. Bởi vì trong mỗi thời kì, mỗi vụ sách và trong mỗi công đoạn
khác nhau, những khó khăn liên tục nảy sinh theo sự biến động của cơ chế thị trường, những
thay đổi dẫn đến khó khăn từ cơ chế, từ đường lối chỉ đạo. Vì vậy, vừa tiếp tục hoạt động
phát triển, từng bước tháo gỡ những khó khăn để tiếp tục vươn lên khẳng định mình, làm chủ
thị trường là mục tiêu và phương châm của toàn Công ty. Tuy vậy, khó khăn vẫn còn đó, đội ngũ
cán bộ công ty còn mỏng, công nghệ thông tin với việc áp dụng tin học vào quản lý đối với
bộ máy kế toán, hệ thống văn bản pháp luật và dưới luật có liên quan đối với Công ty chưa
đầy đủ, chưa đồng bộ, các chế độ chính sách đối với hoạt động kinh doanh Sách giáo khoa chưa
được ban hành kịp thời, đồng bộ, nhiều điểm bất hợp lý trong các chế độ chính sách hiện hành
chưa được sửa đổi... Những khó khăn này là những điều còn tồn tại, những vấn đề đang đặt ra
đối với công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị
trường học Hà nội không thể ngày một ngày hai giải quyết được.
II. những đề xuất cho công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm mà
Công ty đã và đang áp dụng
Tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học
Hà Nội là một vấn đề hết sức phức tạp, bao gồm nhiều nội dung khác nhau. Dưới góc độ
quản lý kinh tế và từ những vấn đề đang được đặt ra đối với công tác tổ chức quản lý kinh
doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội đã được luận văn này
phân tích ở phần III trong chương II, cho nên chỉ tập trung vào một số phương hướng cơ bản
nhằm đổi mới tổ chức quản lý đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách
và Thiết Bị trường học Hà Nội trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, một số nội dung cụ thể
trong từng phương hướng còn mang tính quá độ và phải được bổ sung, điều chỉnh linh hoạt
để sự quản lý của Nhà nước đối với Công ty dần dần thích ứng, phù hợp với cơ chế mới.
1. Quy hoạch lại hệ thống các đại lý của Công ty trên toàn bộ địa bàn thủ đô Hà
Nội
Cơ chế quản lý và cơ cấu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đổi mới cơ chế
quản lý phải được bắt đầu từ đổi mới cơ cấu kinh tế. Vì vậy, việc quy hoạch, sắp xếp lại hệ
thống các đại lý của công ty trên toàn địa bàn thành phố Hà Nội có ý nghĩa quan trọng trong
việc đổi mới tổ chức quản lý ở Công ty. Trong những năm qua hệ thống các đại lý của Công
ty đã và đang hoạt động dưới sự rà soát, quản lý và ít nhiều đã được sắp xếp, nhưng đến nay
hệ thống 60 đại lý này vẫn còn nhiều hạn chế, cần phải tiếp tục sắp xếp lại lần nữa. Sự cần
thiết của việc quy hoạch lại hệ thống các đại lý của Công ty là bởi một số lý do sau đây:
- Tổ chức hệ thống các đại lý chưa thật chặt chẽ còn bị chi phối bởi quá nhiều đầu
mối.
- Bộ máy quản lý đối với các đại lý còn cồng kềnh, kém năng động, quyền hạn và
trách nhiệm chưa được phân định rõ ràng đến từng đại lý, chức năng, nhiệm vụ của các đại
lý còn chưa nhất quán, nhiều điểm còn trùng lặp, hoạt động sản xuất kinh doanh của một số
đại lý còn hiện tượng “manh mún”, hoạt động kinh doanh Sách giáo khoa nhiều khi mất cân
đối.
- Nhiều đại lý hoạt động rất kém hiệu quả, chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa và chưa
có hướng giải quyết kịp thời.
Việc quy hoạch, sắp xếp lại các đại lý nhằm vào các mục đích sau đây:
- Bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của các đại lý đi đúng hướng đó là kinh doanh
và phục vụ.
- Quá trình sắp xếp lại các đại lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ,
khắc phục những khuynh hướng, hành vi vi phạm pháp luật trong kinh doanh Sách giáo
khoa.
- Việc quy hoạch, sắp xếp lại các đại lý phải nhằm cho hoạt động của nó thích ứng
và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Quy hoạch, sắp xếp lại các đại lý phải đảm bảo các nguyên tắc chung sau đây:
- Bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các đại lý, phát huy được hết
tiềm năng của họ.
- Bảo đảm thống nhất giữa quản lý các đại lý theo địa bàn.
- Hệ thống các đại lý của Công ty phải phù hợp với điều kiện kinh doanh của chính
Công ty.
- Phải bảo đảm sự phù hợp giữa cơ cấu tổ chức của Công ty với cơ cấu tổ chức của
các đại lý.
Những căn cứ chủ yếu để tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại các đại lý trên địa bàn
Hà Nội là:
- Căn cứ vào các văn bản pháp luật và dưới luật (ở đây là việc đăng ký xin làm đại
lý của công dân, thủ tục, quyền hạn, trách nhiệm, mặt hàng kinh doanh, địa bàn kinh doanh)
để làm quy hoạch và sắp xếp lại các đại lý theo thứ tự.
- Căn cứ vào thực trạng hoạt động kinh doanh của các đại lý này để quy hoạch và
sắp xếp lại.
- Căn cứ vào nhu cầu thực tế của xã hội đối với mặt hàng kinh doanh của các đại lý
đó là Sách giáo khoa thể hiện trên các mặt:
+ Nhu cầu về Sách giáo khoa của từng đại lý.
+ Đối tượng tiêu dùng và khả năng phát hành Sách giáo khoa của các đại lý qua
thống kê Sách giáo khoa đã bán cho các đại lý theo từng đợt.
+ Khả năng đảm bảo thực hiện các tiêu chuẩn trong các luật lệ đã quy định mà các
đại lý đã có.
+ Khả năng quản lý của Công ty.
+ Khả năng bảo đảm của nguồn hàng mà Công ty sẽ cung cấp cho các đại lý.
Đó là những căn cứ cho việc tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại các đại lý. Quá trình
thực hiện quy hoạch, sắp xếp lại các đại lý của Công ty trên toàn địa bàn thành phố Hà Nội
phải chú ý một số vấn đề sau đây:
a) Vấn đề chuẩn hoá nội dung và hình thức của Sách giáo khoa:
Trong sự nghiệp Giáo dục và đào tạo, Sách giáo khoa ngày càng trở nên cực kỳ
quan trọng, đối với việc dạy và học của các cấp học, bậc học nói chung. Mặc dù công
nghệ thông tin hiện nay ngày càng hiện đại và phát triển, song vai trò của sách và Sách
giáo khoa đối với việc học tập và nghiên cứu vẫn luôn được khẳng định. Do vậy, chuẩn
hoá và bảo đảm ổn định tương đối trong nội dung và hình thức của Sách giáo khoa là
công việc tất yếu phải hoàn thiện trong quá trình đổi mới và nhất là quy hoạch, sắp xếp
lại các đại lý hiện nay. Hơn nữa, trong quá trình phát triển sự nghiệp Giáo dục và đào
tạo hiện nay việc đổi mới và chỉnh lý nội dung cũng như hình thức Sách giáo khoa còn
đặc biệt cần thiết bởi sự phát triển ngày càng mạnh mẽ không ngừng của khoa học và
công nghệ. Tốc độ lạc hậu của kiến thức diễn ra nhanh hơn, những tri thức cũng không
còn đáp ứng với sự phát triển trong tư duy của con người. Đối với quá trình giảng dạy
và nghiên cứu việc thay đổi không thống nhất nội dung Sách giáo khoa cũng có ảnh
hưởng rất lớn tới việc truyền đạt những thông tin tri thức cho các em học sinh. Sách
giáo khoa do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo về nội dung, nhưng hiện nay nội dung
Sách giáo khoa còn quá phức tạp, đôi khi cùng tên sách nhưng chương trình lại khác
nhau, điều này được thể hiện rất rõ ở các loại sách Toán bậc phổ thông trung học chưa
phân ban. Việc cùng một lúc song song tồn tại hai chương trình của các tác giả khác
nhau, một phía là những chương trình do đội ngũ tác giả trường Đại học Sư phạm Hà
Nội biên soạn, một bên là chương trình của các cán bộ Viện khoa học và Giáo dục Việt
Nam biên soạn. Sự chồng chéo này không những gây khó khăn cho việc tiếp thu kiến
thức, giảng dạy mà đối với quá trình kinh doanh của Công ty rất khó xác định nhu cầu
thực tế của khách hàng trong việc xây dựng kế hoạch đầu vào, dự báo nhu cầu ra kế
hoạch khai thác Sách giáo khoa của Công ty luôn có biến động, và từ đó dẫn đến các đại
lý của Công ty sẽ không chủ động trong việc thay đổi cách kinh doanh do luôn phải phụ
thuộc vào Công ty.
b) Vấn đề cạnh tranh trong hoạt động của các đại lý:
Cạnh tranh là một quy luật của kinh tế thị trường. Hoạt động kinh doanh xuất bản
phẩm trong điều kiện cơ chế thị trường tất yếu có cạnh tranh. hệ thống các đại lý phải được
tổ chức, sắp xếp thế nào để các đại lý vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau. Các đại lý của
Công ty đã được phân định bằng cách đánh số theo thứ tự từ 1 đến 60, cũng có đại lý được
phân định rõ quyền hạn và khu vực kinh doanh. Hàng năm, các đại lý được Công ty cho
đăng kí kế hoạch đặt mua Sách giáo khoa đối với từng đầu sách và cứ cuối vụ (đợt) Công ty
đều có bản thống kê Sách giáo khoa đã bán cho các đại lý và gửi chính những bản thống kê
này cho các đại lý đều được biết. “Sân” hoạt động của từng đại lý đã được “ngăn” qua chính
số lượng sách mà các đại lý đã tiến hành mua của Công ty. Trong điều kiện đó tình hình
cạnh tranh giữa các đại lý diễn ra như thế nào, phạm vi, mức độ ra sao ? cạnh tranh theo
kiểu “chụp giật” vừa qua cần phải khắc phục, nhưng nếu thủ tiêu cạnh tranh sẽ làm mất đi
một động lực phát triển.
Để có thể cạnh tranh được với nhau các đại lý phải tập trung giải quyết hai vấn đề
sau:
- Đổi mới phương thức kinh doanh để Sách giáo khoa được phát hành nhanh, thuận
lợi, tránh phiền hà cho Công ty (trong trường hợp giả lại).
- Hình thức của các đại lý phải được nâng cao hơn.
Trong thực tế hoạt động kinh doanh Sách giáo khoa hiện nay, Công ty nên tổ chức
cạnh tranh theo hình thức sau:
- Các đại lý cùng Quận, huyện cạnh tranh để thu hút khách hàng của chính Quận,
huyện đó. Đó là những khách hàng ổn định và lâu dài. Khối các đại lý mới thành lập có thể hợp
tác trao đổi các đầu sách bán chậm với nhau.
- Các đại lý xin hợp tác với Công ty tự tổ chức kinh doanh Sách giáo khoa theo một
danh mục đăng ký hàng tháng.
Để việc cạnh tranh có thể tiến hành được phải có quan điểm “ngăn sân” và phân
chia địa bàn Phát hành Sách giáo khoa đúng đắn, hợp lý, phù hợp. Nếu quá cứng nhắc trong
việc quy định chức năng và cố định địa bàn phát hành Sách giáo khoa sẽ dẫn đến tình trạng
cát cứ, độc quyền không thể tiến hành cạnh tranh được.
Đây là một vấn đề mà quá trình quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các đại lý phải tính
đến để hoạt động kinh doanh Sách giáo khoa của Công ty nói chung và các đại lý nói riêng
vừa có thể cạnh tranh vừa có điều kiện hợp tác với nhau.
c) Sắp xếp lại các đại lý
Trong quá trình quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các đại lý của Công ty trên toàn địa
bàn Thành phố Hà nội, cần phải thống nhất một số điểm
sau đây:
- Việc kinh doanh Sách giáo khoa của các đại lý phải được xác định lại từ khâu kế
hoạch đặt hàng hàng năm và Công ty sẽ dựa trên nguyên tắc tôn trọng tính tự chủ trong sản
xuất kinh doanh của các đại lý thành viên của mình. Để các đại lý vừa có thể cạnh tranh,
vừa hợp tác với nhau, không nên quy định một cách cứng nhắc phạm vi hoạt động và nguồn
hàng kinh doanh của mỗi đại lý. Cơ quan quản lý Nhà nước cần cho phép mở rộng những
khoảng “giao nhau” của từng đầu sách trong bộ Sách giáo khoa kể cả sách tham khảo.
Những mảng sách riêng mà một số đại lý có thế mạnh tiêu thụ cũng nên đáp ứng kịp thời
hơn nữa nguồn hàng cho họ để họ kinh doanh. Những mảng sách như Toán Bồi dưỡng các
cấp (một loại sách không có tính chuyên sâu, đối tượng phục vụ rộng) nên để cho nhiều đại
lý cùng kinh doanh. Việc độc quyền phát hành một số loại sách trong danh mục sách tham
khảo cần phải xem xét lại. Nếu mở rộng phạm vi độc quyền đối với mảng sách tham khảo
mà Công ty đang làm sẽ dẫn đến tình trạng khuôn sáo về nội dung, đơn điệu về hình thức,
làm mất đi tính đa dạng về nội dung và hình thức của những loại sách này.
- Thống nhất tiêu chí phân loại các đại lý, trên nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trong sản xuất kinh doanh của mỗi đại lý.
- Cụ thể hoá tiêu chuẩn và điều kiện thành lập các đại lý. Theo quy định muốn làm
các đại lý cho Công ty phải có đầy đủ các điều kiện sau:
+ Phải có giấy phép kinh doanh của Bộ văn hóa thông tin, rồi từ đó xin chữ ký của
giám đốc Công ty, sau đó mới có giấy phép kinh doanh của Bộ Giáo dục và đào tạo.
+ Để có được giấy phép kinh doanh thì điều tiên quyết phải có tên gọi, tôn chỉ, mục
đích, mặt hàng kinh doanh, đối tượng phục vụ, phạm vi phát hành phù hợp với chức năng
nhiệm vụ của Công ty.
Công ty cần hướng dẫn cụ thể thủ tục xin làm đại lý cho Công ty, cách thức đăng ký
kinh doanh, tiêu chuẩn các mặt hàng kinh doanh là Sách giáo khoa và địa bàn kinh doanh.
Trên cơ sở thống nhất lại một số điểm trên, Công ty cần thành lập Hội đồng quy
hoạch của Công ty mình. Bộ Giáo dục và đào tạo, đặc biệt là Sở Giáo dục và Đào tạo Hà
Nội - Cơ quan chủ quản của Công ty cần hướng dẫn thành phần và cách thức làm quy hoạch
cho Hội đồng quy hoạch các đại lý của Công ty. Trên cơ sở những quy định đã ban hành và
hướng dẫn cụ thể của những cấp vừa nêu, Công ty có thể thông qua Hội đồng quy hoạch
tiến hành rà soát lại toàn bộ hoạt động kinh doanh của các đại lý thành viên của mình. Dựa
vào kết quả của việc rà soát lại tình hình, Hội đồng đề xuất và kiến nghị: Đại lý có đủ điều
kiện hoạt động kinh doanh tiếp hay phải đình chỉ hoạt động. Kiến nghị của Hội đồng sẽ gửi
về Ban giám đốc Công ty để giám đốc quyết định. Các đại lý có đủ điều kiện tiếp tục hoạt
động kinh doanh phải được tổ chức đăng ký lại theo quy định của Công ty. Những trường
hợp sai phạm được phát hiện trong quá trình quy hoạch, sắp xếp lại cần phải được xử lý
nghiêm minh và có công bố công khai để mọi người cùng biết.
Việc quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các đại lý là công việc hết sức khó khăn, phức
tạp, nó sẽ đụng chạm đến chính các đại lý thành viên của Công ty. Vì vậy, quá trình tiến
hành phải có sự chuẩn bị chu đáo, tiến hành thận trọng để tránh gây những xáo trộn lớn.
Việc giải thể hoặc thành lập mới các đại lý phải được xem xét trên nhiều mặt, việc tách,
nhập các đại lý nếu họ có nhu cầu cũng phải hết sức thận trọng. Trong chỉ đạo hướng dẫn
quy hoạch, sắp xếp lại các đại lý hết sức tránh những định kiến cá nhân hoặc quá chú ý đến
yêu cầu về phạm vi hoạt động kinh doanh và địa bàn kinh doanh...
2. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với Công ty
Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Nhà nước là
một tất yếu. Với tư cách là hoạt động sản xuất lưu thông xuất bản phẩm, tham gia vào quá
trình tạo ra sản phẩm văn hóa tinh thần đáp ứng nhu cầu xã hội, kinh doanh xuất bản phẩm
thực sự là đối tượng của quản lý Nhà nước.
Chuyển sang cơ chế thị trường, đặc trưng cơ bản của quản lý Nhà nước ở tầm vĩ mô
đối với kinh doanh xuất bản phẩm là mục tiêu quản lý, các phương thức tác động và hệ
thống công cụ quản lý. Trong nền kinh tế chỉ huy đối với phát hành xuất bản phẩm được
quản lý theo kiểu “Nhà nước hoá” và lệ thuộc trực tiếp vào sự chỉ đạo của các cơ quan Đảng
các cấp. Các cơ sở sản xuất lưu thông xuất bản phẩm hoạt động hoàn toàn theo “lệnh” và
theo sự bao cấp toàn diện. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với kinh doanh xuất bản phẩm là
Nhà nước chỉ quản lý ở tầm vĩ mô và giao quyền chủ động hoàn toàn cho doanh nghiệp.
Mục tiêu của quản lý Nhà nước là nhằm tạo ra trạng thái bình ổn thị trường xuất bản phẩm
theo định hướng tư tưởng của Nhà nước. Nhà nước tác động và quản lý kinh doanh xuất bản
phẩm bằng các hệ thống chính sách công cụ là luật pháp tài chính.
Công ty Sách và Thiết Bị trường học là một đơn vị kinh tế độc lập, có quyền tự chủ
kinh doanh theo chức năng và nhiệm vụ cụ thể mà Nhà nước đã quy định, hoạt động kinh
doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội không chỉ đơn thuần là
một hoạt động tư tưởng văn hóa mà còn là một hoạt động kinh tế. Công ty là doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh có tính đặc thù của Nhà nước, hoạt động theo cơ chế thị trường, nó vừa
là một bộ phận của công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước, vừa là một tổ chức kinh
doanh, do đó cần phải có sự đổi mới của quản lý Nhà nước đối với hoạt động tổ chức kinh
doanh của Công ty.
Nhận thức được sự cần thiết đó, phương thức kinh doanh của Công ty đã thay đổi
mặc dù vẫn giống như các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm thông thường khác, đều
phải tính toán “đầu vào”, “đầu ra” và chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khắc nghiệt.
Nhưng nếu chỉ tính Công ty như những doanh nghiệp xuất bản phẩm bình thường khác thì
chưa đủ. Bởi vì Công ty là một doanh nghiệp đặc thù hơn cả, chịu trách nhiệm kinh doanh
loại hàng hóa đặc thù phục vụ cho sự nghiệp Giáo dục đó là Sách giáo khoa. Tính đặc thù
của nó thể hiện ở chức năng xã hội mà nó phải đảm nhận. Quá trình kinh doanh Sách giáo
khoa không chỉ vì mục tiêu kinh tế đơn thuần mà còn phải gắn liền với các mục tiêu xã hội
khác. Do đó quá trình tổ chức và hoạt động cũng như các phương thức quản lý của nó cũng
phải mang tính đặc thù.
3. Đổi mới công tác kế hoạch hoá trong quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản
phẩm của Công ty
Trong quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm, công tác kế hoạch hoá cũng
được phân thành hai loại, kế hoạch hoá vĩ mô và kế hoạch hoá vi mô. Phạm vi đổi mới quản
lý Nhà nước về kinh tế đối với Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội, chỉ đi vào giải
quyết kế hoạch hoá vi mô.
Trong hai năm 1997-1998 công tác kế hoạch mặt hàng chưa thật sự chủ động, còn
lúng túng, đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu bán ra như: một số đầu sách trong vụ, ấn
phẩm, giấy thi. Nhất là khâu kế hoạch Sách giáo khoa của cửa hàng lẻ còn quá tuỳ tiện, quá
yếu.
Kế hoạch hoá vi mô trong quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty
Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội có các chức năng sau:
- Xác định các mục tiêu về số đầu sách, cơ cấu các loại Sách giáo khoa và danh mục
thiết bị cần kinh doanh... trên cơ sở dự đoán, dự báo sự phát triển của nhu cầu khách hàng
trên địa bàn thủ đô Hà Nội.
- Bảo đảm và duy trì các cân đối trong quá trình tiêu thụ Sách giáo khoa nhằm tạo
điều kiện cho hoạt động của các đại lý thành viên của Công ty nhằm cho nó đi vào trật tự,
kỷ cương.
- Khai thác Sách giáo khoa bằng con đường truyền thống và chú ý đến tính hai mặt của
kinh doanh Sách giáo khoa do tư nhân đứng lên kinh doanh.
Để thực hiện các chức năng trên, nhiệm vụ của kế hoạch hoá vi mô trong tổ chức
quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội
hiện nay là:
- Dự đoán, dự báo nhu cầu xã hội và tâm lý khách hàng trên cơ sở phân tích, đánh
giá biến động về nhu cầu, thị hiếu, tâm lý người tiêu dùng.
- Xây dựng những mục tiêu chủ yếu về việc thỏa mãn nhu cầu xuất bản phẩm của
khách hàng đó là các em học sinh.
- Dự kiến và đề xuất phương hướng phát triển, các hình thức và loại hình hoạt động
kinh doanh Sách giáo khoa và thiết bị, ấn phẩm trên thị trường.
- Điều tiết hoạt động của Công ty thông qua kế hoạch kinh doanh Sách giáo khoa
hàng năm theo từng đợt của các đại lý.
Để thực hiện những nhiệm vụ nêu trên, quá trình đổi mới kế hoạch hoá vi mô trong
hoạt động kinh doanh Sách giáo khoa và các thiết bị của Công ty Sách và Thiết Bị trường
học Hà Nội phải giải quyết ngay một số vấn đề sau đây:
- Nâng cao năng lực và trình độ dự đoán và những phương hướng, dự án có được từ
đầu năm, hay đầu vụ kinh doanh.
- Thị trường Sách giáo khoa và thiết bị phải được coi vừa là căn cứ vừa là đối tượng
của kế hoạch hoá. Trong lĩnh vực kinh doanh không được xem nhẹ mệnh lệnh của thị trường
nhưng đồng thời cũng phải chủ động tác động trực tiếp vào thị trường. Xử lý mối quan hệ
này đòi hỏi kinh doanh Sách giáo khoa và thiết bị, ấn phẩm phải có sự chọn lựa, không chỉ
đơn thuần căn cứ vào nhu cầu thị trường mà phải có sự tác động trở lại để định hướng nhu
cầu.
- Xử lý mối quan hệ giữa kế hoạch hoá vĩ mô và kế hoạch hoá vi mô. Về phương
diện kinh tế, kế hoạch đề tài là phương hướng sản xuất của các doanh nghiệp xuất bản (ở
đây là Nhà xuất bản Giáo dục). Về phương diện quản lý Nhà nước, kế hoạch đề tài của các
doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm lại là đối tượng điều tiết của kế hoạch hoá vĩ mô.
Quan hệ giữa tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh của Công ty Sách và Thiết Bị trường
học Hà Nội và sự điều tiết của Nhà nước được biểu hiện tập trung nhất trong việc xử lý mối
quan hệ này. Nhà nước điều tiết cái gì, cách thức điều tiết ra sao để vẫn có thể bảo đảm
được tính tự chủ và bí mật trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xuất
bản phẩm nói chung và của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội nói riêng. Thực tế
cho thấy, Công ty không muốn giải trình cụ thể, chi tiết những đề tài, danh mục được đưa
vào kế hoạch đặt hàng hàng năm, bởi lẽ thông qua cơ quan quản lý Nhà nước xét duyệt, bí
mật về các đề tài cần xuất bản và kinh doanh của Công ty sẽ bị lộ, nguy cơ bị cạnh tranh là
không tránh khỏi. Vì vậy, thiết nghĩ cần phải đổi mới mẫu kế hoạch đề tài đưa đi xét duyệt
và phải ban hành quy chế giữ bí mật về đề tài cần xuất bản và kinh doanh của Công ty Sách
và Thiết Bị trường học Hà Nội nói riêng và các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm nói
chung.
4. Đổi mới công tác cán bộ
Hoạt động tổ chức quản lý kinh doanh ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà
Nội suy cho cùng nhân tố trực tiếp quyết định sự thành công là nhân tố con người, nhất là
người cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh. Vì vậy, công tác cán bộ có một ý nghĩa rất quan
trọng trong quá trình chuyển sang cơ chế mới. Công tác cán bộ trong Công ty Sách và Thiết
Bị trường học Hà Nội hiện nay còn bộc lộ rất nhiều hạn chế. Những hạn chế này có cả
nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại.
Trong cơ chế thị trường vai trò cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh khác căn bản với
vai trò của họ trong cơ chế cũ. Cơ chế quản lý theo lệnh đã làm cho họ thụ động, ỷ lại, trông
chờ ở lệnh của cấp trên. Nhiệm vụ của cán bộ quản lý là làm theo lệnh, chỉ đạo điều hành
cũng bằng lệnh. Cơ chế đó đã thủ tiêu tính năng động sáng tạo, làm cho người lãnh đạo,
quản lý không dám quyết định và tự chịu trách nhiệm trong những quyết định của mình, từ
đó hướng họ vào con đường quan chức.
Cơ chế mới đòi hỏi người cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh phải có những phẩm
chất và năng lực mới. Bản lĩnh của người cán bộ quản lý là sự táo bạo, quyết đoán, dám
nghĩ dám làm, khi có sai lầm thì dám nhận và quyết tâm sửa chữa. Người cán bộ quản lý
phải hết sức năng động, tháo vát, linh hoạt và mềm dẻo ứng phó với mọi biến động của thị
trường. Bản lĩnh kinh doanh trong cơ chế mới còn thể hiện ở chỗ, dám chấp nhận “rủi ro” và
có ý chí vươn lên chiếm lĩnh những lợi thế trong sản xuất kinh doanh. Đây là những đòi hỏi
rất cao của người cán bộ trong cơ chế mới.
Đội ngũ những người làm công tác phát hành Sách giáo khoa và thiết bị giảng dạy
cũng như học tập trong Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội có 43 người, trong đó
75% có trình độ từ Đại học trở lên, 60% đã qua học các lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ
xuất bản và phát hành xuất bản phẩm, tuổi đời bình quân là 40 tuổi. Nhìn chung đội ngũ cán
bộ những người làm công tác phát hành ở Công ty có phẩm chất và năng lực tốt, có bản lĩnh
trong chuyên môn, nghề nghiệp. Trong điều kiện cơ chế thị trường, trước sức hút của lợi ích
kinh tế đơn thuần, đa số cán bộ của Công ty vẫn vững vàng trên cương vị công tác của mình.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ trong Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội những
năm qua còn bộc lộ một số hạn chế trên một số mặt sau đây:
- Nhận thức chưa chuyển biến kịp thời với đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới.
Trước thực tế của cơ chế mới đa số cán bộ còn bỡ ngỡ, bị động, lúng túng. Phương thức
xuất bản và phát hành mới đòi hỏi từ việc tổ chức sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm luôn luôn
đặt trong mối quan hệ trực tiếp với yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Vấn đề này trong cơ
chế cũ không đặt ra cho nên sự lệch lạc trong nhận thức là không thể tránh khỏi.
- Nếp nghĩ và cách làm ăn cũ còn bị chi phối, ảnh hưởng nặng nề trong hoạt động
thực tiễn của mỗi người. Mô típ cán bộ văn phòng, cán bộ bàn giấy trong Công ty vẫn tồn
tại ít nhiều, tính năng động sáng tạo của người sản xuất kinh doanh trong cơ chế mới chưa
hình thành rõ rệt, những hiểu biết về pháp luật và kinh doanh trong cơ chế thị trường còn rất
hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế trên, công tác tổ chức cán bộ cần phải đổi mới theo
những hướng cơ bản sau:
- Nên đề cập đến mặt kinh tế của hoạt động xuất bản - In và phát hành khi quy định
chức danh cho mỗi cán bộ trong Công ty.
- Việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của Công ty trong thời gian tới phải đúng
tiêu chuẩn, đúng quy định, không nên bổ nhiệm người ngoài ngành, không am hiểu về kinh
doanh vào cương vị lãnh đạo. Đề án về công tác cán bộ phải có sự tham khảo ý kiến của cơ
quan chủ quản của Công ty, đó là Sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội.
Về đội ngũ cán bộ kinh doanh trong Công ty do hiện nay chủ yếu trưởng thành, có
một số (tuy nhỏ) được đào tạo trong cơ chế cũ. Trước đòi hỏi hiện nay, đội ngũ này bộc lộ
nhiều hạn chế cần phải được đào tạo và đào tạo lại.
Phương hướng đào tạo bồi dưỡng cán bộ kinh doanh trong Công ty tới đây cần phải
được phân loại thành các đối tượng cụ thể, nội dung đào tạo bồi dưỡng cho từng đối tượng
phải sát thực. Nên hướng cán bộ Công ty tập trung vào các công việc sau đây:
- Những vấn đề mới về nghiệp vụ kinh doanh xuất bản phẩm trong nền kinh tế thị
trường.
- Cách sử dụng các thiết bị và phương tiện làm việc hiện đại.
- Những kiến thức về kinh tế thị trường, quản lý kinh tế, luật pháp...
- Những vấn đề mới về xã hội học, văn hóa học, tin học..
Nhìn chung lại, công tác cán bộ trong Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội
hiện nay là một công tác quan trọng và cấp bách. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc đổi
mới tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty. Đổi mới và làm tốt công tác này
vừa là điều kiện để bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất
bản phẩm trong Công ty hiện nay.
5. Đổi mới về chế độ, chính sách xuất bản - In- Phát hành Sách giáo khoa và
thiết bị trường học
Các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm
là cơ sở và điều kiện để đổi mới và nâng cấp năng lực quản lý Nhà nước về kinh tế đối với
Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội. Sự quan tâm của Nhà nước với lĩnh vực này
phải được thể hiện ở những chế độ, chính sách cụ thể. Khi các chế độ, chính sách được ban
hành và có hiệu lực nó lại trở thành công cụ quan trọng của quản lý Nhà nước về kinh tế.
Sửa đổi và ban hành một số chế độ, chính sách đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm
ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội là một trong những phương hướng cơ bản
của đổi mới tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm hiện nay ở Công ty. Dưới đây, xin đi
vào phân tích một số chế độ, chính sách chủ yếu có ít nhiều liên quan đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội:
a) Chính sách đầu tư vốn cho Công ty
Là một doanh nghiệp Nhà nước, giống như bao nhiêu Nhà xuất bản khác, Công ty
Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội phải được giao vốn. Hiện nay, vốn Nhà nước cấp cho
Công ty còn ở mức thấp, không đủ để hoạt động. Ví dụ, năm 1996 Công ty được cấp 500
triệu, năm 1997 là 578 triệu, năm 1998 là 620 triệu, trong khi đó doanh thu của năm 1996 là
22,6 tỷ, năm 1997 là 24,3 tỷ, năm 1998 là 27,5 tỷ. Như vậy có thể dễ dàng nhận thấy tỷ lệ
vốn được cấp so với doanh thu là quá thấp. Hiện nay, nếu xuất bản một đầu sách bình
thường phải tốn khoảng 20 đến 30 triệu đồng, đối với Sách giáo khoa là loại hàng hóa đặc
thù thì cũng trên dưới mức 20 triệu đồng và so với giá của nó khi được bán ra lại nhân lên
gấp bội. Rõ ràng với lượng vốn được cấp hiện nay không thể bảo đảm cho Công ty hoạt
động sản xuất kinh doanh bình thường được. Nếu như, Công ty chọn hình thức vay vốn
ngân hàng để hoạt động thì thường dẫn đến thua lỗ. Vòng quay vốn trung bình hiện nay của
Công ty là 6 tháng. Với những tháng mùa vụ và với những đầu sách có lãi, lãi suất trung
bình cũng chỉ đạt từ 6-9% doanh số. Với mặt hàng Sách giáo khoa do làm theo đơn đặt hàng
và được Nhà nước tài trợ cũng chỉ được tính lãi suất là 6%. Vì vậy, ngay cả những đầu sách
trong bộ Sách giáo khoa hay sách liên kết sản xuất (sách tham khảo) có lãi thì số lãi trong
sản xuất kinh doanh thường không đủ để trả lãi tiền vay ngân hàng. Để khắc phục khó khăn
trên, Nhà nước cần xem xét lại phương thức giao vốn và mức giao vốn hợp lý cho Công ty.
Mức giao vốn cần điều chỉnh theo kết quả sản xuất kinh doanh, không nên giao bình quân
hoặc theo vị trí xã hội của mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm.
b) Đầu tư cho sự phát triển khoa học - công nghệ và công tác đào tạo cán bộ
trong Công ty
Vấn đề đầu tư kỹ thuật, đổi mới công nghệ kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty
Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội đang đặt ra rất khẩn trương, cấp bách do tình trạng kỹ
thuật và công nghệ kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty hiện đang rất lạc hậu.
Đổi mới công nghệ kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường
học Hà Nội cần tập trung vào hai hướng sau đây:
- Đầu tư trang bị những phương tiện quản lý hiện đại cho bộ máy quản lý trong
Công ty. Hiện nay, công tác thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin ở Công ty vẫn thủ công và
thô sơ, vì vậy, các quyết định quản lý đưa ra có lúc không kịp thời, không sát với tình hình
thực tế.
- Đầu tư, trang bị các máy móc, thiết bị in ấn, chế bản... hiện đại để có thể rút ngắn
thời gian các nghiệp vụ kinh doanh.
Để thực hiện đầu tư theo hai hướng trên, đề nghị Công ty có một số giải pháp cụ thể
sau:
- Đối với phương tiện làm việc và quản lý của bộ máy quản lý ở Công ty đề nghị
Công ty trực tiếp đầu tư, tài trợ từ ngân sách.
- Nhà nước cho phép Công ty chủ động hợp tác với các tổ chức quốc tế và được
phép sử dụng các nguồn tài trợ quốc tế để nhập các phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Như đã phân tích ở phần trên, công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh
của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội là một công việc có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng. Suy cho cùng, nhân tố con người là nhân tố quyết định cho sự vận động và phát triển.
Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty là một hoạt động chuyên môn có đặc trưng
và tính chất nghề nghiệp riêng. Người cán bộ làm công tác kinh doanh xuất bản phẩm một
mặt phải có nhận thưc, quan điểm chính trị rõ ràng, mặt khác phải có chuyên môn, nghiệp
vụ giỏi. Những năm qua công tác đào tạo cán bộ của Công ty chủ yếu lấy từ nguồn kinh phí
của chính Công ty. Những mặt được và chưa được của công tác này đã được phân tích ở
phần trước, ở đay chỉ đề cập đến chính sách đầu tư cho sự nghiệp đào tạo cán bộ làm công
tác kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty. Thực tế, những năm qua, kinh phí của Công ty đàu
tư cho Công ty này còn rất hạn chế, có những thời điểm còn trông chờ, ỷ lại vào việc đào
tạo, bồi dưỡng của Sở Giáo dục và đào tạo. Công ty nên tập trung vào các hướng sau đây để
đầu tư:
- Đầu tư cho các công trình nghiên cứu của cán bộ trong Công ty như: Nghiên cứu
nhu cầu, thị hiếu tâm lý học sinh, khách hàng sử dụng Sách giáo khoa và ấn phẩm, thiết bị.
- Đầu tư cho việc hình thành các danh mục Sách giáo khoa và các thiết bị, ấn phẩm
phục vụ hàng năm.
- Tổ chức các buổi khảo sát thực tế, cho công tác tiếp thị hay những buổi hội thảo
khoa học trong toàn Công ty về nghiệp vụ kinh doanh.
Chính sách đầu tư của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội cần phải cụ thể,
có trọng điểm, cái gì cần thiết phải đầu tư và có khả năng đầu tư thì triển khai ngay.
c) Chính sách giá
Giá vừa là một đòn bẩy kinh tế vừa là một công cụ điều tiết quan trọng của Nhà
nước trong quản lý kinh tế. Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết
Bị trường học Hà Nội là một hoạt động kinh tế đặc thù, đòi hỏi Nhà nước có chính sách phù
hợp để tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển. Chính sách giá của Nhà nước đối với
Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội phải giải đáp được các vấn đề sau đây:
- Nhà xuất bản Giáo dục cần điều tiết giá “đầu ra” cho Sách giáo khoa vì nhiệm vụ
Giáo dục và các mục tiêu lâu dài của xã hội.
- Tỷ lệ phát hành phí hiện nay đối với Công ty không nên quy định cứng nhắc mà
nên để Nhà xuất bản Giáo dục, Tổng Công ty phát hành sách, Công ty Sách và Thiết Bị
trường học Hà Nội, các cơ sở phát hành tư nhân tự thỏa thuận với nhau. Đối với mặt hàng
Sách giáo khoa là mặt hàng cần phải phỏ cập rộng rãi đến khắp mọi miền đất nước, Nhà
nước nên khuyến khích dàng tỷ lệ phát hành phí cao. (Được biết tỉnh Kon Tum được mua
Sách giáo khoa với mức phí phát hành là 35%). trường hợp tỷ lệ phát hành phí cao ảnh
hưởng đến lợi ích kinh tế của Nhà xuất bản, Nhà nước cần tài trợ thỏa đáng. Nhà nước nên
nghiên cứu để hình thành quỹ tài trợ cho hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm phục vụ các
vùng xa xôi, hẻo lánh, đồng bào dân tộc ít người.
Tất cả các vấn đề nêu trên, Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành đồng bộ để chính
sách giá của Nhà nước đối với Sách giáo khoa cũng như các thiết bị, ấn phẩm thực sự là đòn
bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy sự nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và
Thiết Bị trường học Hà Nội phát triển.
Trên đây, là những phương hướng cơ bản của đổi mới công tác tổ chức quản lý
kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội hiện nay và nhất
là trong những năm trước mắt. Những phương hướng trên cần phải được nghiên cứu và triển
khai đồng bộ. Quá trình triển khai các phương hướng trên phải đặt trong bối cảnh chung của
tình hình kinh tế xã hội của đất nước. Những đề xuất, kiến nghị trong từng phương hướng
luôn được xem xét trong quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và đặt trong xu hướng vận động
phát triển chung của tình hình kinh tế xã hội đất nước. Đổi mới tổ chức quản lý ở Công ty
Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội trong những năm trước mắt phải được bắt đầu từ chính
những phương hướng cơ bản ấy.
Kết luận chung
Như vậy không chỉ trên lý thuyết mà qua tìm hiểu thực tế chúng ta càng thấy rằng
công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm là tối cần thiết để một hoạt động sản
xuất - kinh doanh diễn ra hiệu quả.
Dưới giác độ vi mô nó có thể làm tăng lợi nhuận, cải thiện nâng cao mức sống của
công nhân viên. Trên bình diện vĩ mô, nó thúc đẩy việc tăng tích luỹ xã hội, phục vụ sự
nghiệp Giáo dục và công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận và phúc lợi xã hội đó, công tác tổ
chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm đã phát huy chức năng phản ánh và giám đốc một
cách hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nói chung và tác
nghiệp quản lý nói riêng của doanh nghiệp.
Vừa khoa học, vừa nghệ thuật, tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm tại Công
ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội đã được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả,
đáp ứng về cơ bản yêu cầu đặt ra về quản lý kinh doanh của Công ty trong tình hình mới.
Bên cạnh đó công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty cũng
còn một số hạn chế nhất định đòi hỏi cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty phải không
ngừng trau dồi kiến thức, nghiên cứu tìm ra những cách thức, phương pháp ghi chép, phản
ánh thông tin... mới hơn, hữu hiệu hơn nhằm không ngừng đổi mới và hoàn thiện làm sắc
bén hơn công cụ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trên tinh thần đó luận văn đã đi sâu tìm hiểu và giải quyết trên hai góc độ. Với
mong muốn mang kiến thức đã được trang bị để làm tốt hơn cho hoạt động thực tế và đánh
giá khả năng của mình.
- Về mặt lý luận: Với những kiến thức được trang bị ở trường bản thân đã trình bày
một cách có hệ thống những lý luận cơ bản về tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm, là
cơ sở cho việc đi vào tìm hiểu, tiếp cận thực tế và tiến tới lập luận, giải quyết vấn đề quan
tâm.
- Về mặt thực tế: Bản thân đã đầu tư nghiên cứu và trình bày những điều đã nắm bắt
được về thực trạng công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và
Thiết Bị trường học Hà Nội. Từ đó mạnh dạn đề xuất một vài ý tưởng bản thân mong rằng
sẽ góp phần hoàn thiện hơn công tác này.
Tóm lại, với tiềm lực của Công ty hiện nay và với đội ngũ cán bộ công nhân viên có
trình độ, năng động, đoàn kết... Tôi tin rằng công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản
phẩm nói chung và các biện pháp kinh doanh nói riêng sẽ ngày càng phát huy vai trò tích
cực của mình cho sự nghiệp phát triển của Công ty.
Mặc dù bản thân rất nỗ lực, cố gắng song do thời gian và trình độ có hạn, luận văn
chắc sẽ còn những hạn chế, sai sót, tác giả rất mong sự góp ý của thầy, cô giáo và bạn đọc
để bài viết hoàn thiện hơn.
Cuối cùng tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo
Nguyễn Văn Khoa cùng sự giúp đỡ của toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty Sách và
Thiết Bị trường học Hà Nội đã tạo mọi thuận lợi để chuyên đề này được hoàn thành.
Hà Nội, tháng 05 năm 1999
Sinh viên
Trương Công Lý
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tình hình kinh doanh của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội trong
hai năm 1997-1998.
2. Luật lệ về công tác xuất bản - In - Phát hành. H-ĐHVH, Trang 56-57.
3. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Nhà xuất bản Sự Thật 1991 - Trang 26,
36.
4. “Những vấn đề cơ bản trong kinh doanh xuất bản phẩm”. Phó tiến sĩ Phạm Thị Thanh
Tâm - Đại học văn hóa Hà Nội, 1995 (từ trang 24-29).
5. Đường Vĩnh Sường - “Đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất bản trong
bước chuyển sang cơ chế thị trường”. Luận án Phó tiến sĩ khoa học kinh tế.
6. Hồ sơ thành lập và thành lập lại Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội - (Trang
35-36-37).
7. Phạm Thị Thanh Tâm - Phát hành sách Việt Nam trong điều kiện chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế. 1990-1992 (trang 12-19).
8. Giáo trình tổ chức kỹ thuật phát hành sách - Khoa phát hành sách trường ĐHVH.
9. GS.TS. Vũ Thích. “Kinh doanh theo cơ chế thị trường” H. ĐHKTQD, năm 1992
(trang 26-35-36).
10. Luật xuất bản nước CHXHCNVN. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
11. Các văn bản của Nhà nước về công tác xuất bản.
12. Một số Công báo.
13. Một số bài trong báo Hà Nội mới, Hà Nội ngày nay.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1: Tổ chức quản lý và ý nghĩa của nó đối với Công ty
Sách và Thiết Bị trường học Hà nội
5
I. Những yêu cầu đặt ra trong quá trình tổ chức quản lý kinh
doanh xuất bản phẩm
5
1. Đặc điểm của việc tổ chức hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm 5
2. Đặc điểm của quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm 6
3. Mục tiêu kinh tế và phục vụ nhiệm vụ chính trị 13
II. ý nghĩa và nội dung của tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản
phẩm đối với Công ty Sáchvà Thiết Bị trường học Hà Nội
16
1. ý nghĩa của tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công
ty Sách và Thiết Bị trường học Hà nội
16
2. Những nội dung cơ bản khi tiến hành tổ chức quản lý kinh
doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà
Nội
19
Chương 2: Thực trạng tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản
phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà
Nội trong hai năm 1997-1998
22
I. Giới thiệu chung về Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội 22
1. Quá trình tổ chức và quản lý của Công ty Sách và Thiết bị trường
học Hà Nội trong điều kiện chuyển đổi cơ chế quản lý
22
2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty 25
II. Thực trạng công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm
của Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội trong hai năm
1997-1998
26
1. Tổ chức bộ máy quản lý tại Công ty Sách và Thiết bị trường học
Hà Nội
26
2. Những phương thức hoạt động chủ yếu của Công ty 29
3. Tình hình tổ chức và quản lý lao động trong Công ty 37
4. Hoạt động kinh doanh của Công ty Sách và Thiết bị trường học
Hà nội trong hai năm 1997-1998
39
Chương 3: Nhận xét chung và một số ý kiến đề xuất qua
nghiên cứu công tác tổ chức quản lý kinh doanh
xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường
học Hà Nội trong hai năm 1997-1998
46
I. Nhận xét chung 46
1. Những ưu điểm và thuận lợi 47
2. Khó khăn và những tồn tại 48
II. Những đề xuất cho công tác tổ chức quản lý kinh doanh xuất
bản phẩm mà Công ty đã và đang áp dụng
49
1. Quy hoạch lại hệ thống các đại lý của Công ty trên toàn bộ địa
bàn Thủ đô Hà Nội
50
2. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với Công ty 56
3. Đổi mới công tác kế hoạch hóa trong quản lý hoạt động kinh
doanh xuất bản phẩm của Công ty
57
4. Đổi mới công tác cán bộ 59
5. Đổi mới về chế độ, chính sách xuất bản - In - Phát hành Sách
giáo khoa và thiết bị trường học
61
Kết luận chung 66
Danh mục tài liệu tham khảo 68
Mục lục 69
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tìm hiểu về công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998.pdf