Luận văn Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - Xã hội ở Đại Lộc, Quảng Nam

Cần xúc tiến mạnh tiến trình cổ phần hoá, tiến tới xây dựng NHNo&PTNT Việt Nam thành tập đoàn tài chính mạnh, nhằm mục đích tăng vốn tự có, mở rộng quy mô hoạt động, giúp đa dạng hoá sản phẩm, cải thiện sức cạnh tranh, tăng năng lực hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam, Cần ban hành quy chế tuyển dụng cán bộ trong ngành NHNo&PTNT Việt Nam, trong đó quy chuẩn quy trình tuyển dụng và các điều kiện đầu vào cho từng loại nghiệp vụ chuyên môn nhất định.

pdf89 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2856 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - Xã hội ở Đại Lộc, Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này, cần triển khai tốt các giải pháp cụ thể sau: Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá các hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT bằng nhiều hình thức sinh động và hiệu quả. Kết hợp các hình thức truyền thống như thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành tờ rơi, niêm yết công khai các dịch vụ tại các điểm tập trung dân cư với các hình thức mới như nâng cấp và mở rộng nội dung trang web Agribank.com.vn đến các chi nhánh NHNo&PTNT cấp 1, cấp 2, xây dựng bảng tin điện tử, tổ chức phát thanh tuyên truyền tại trụ sở giao dịch và nơi tập trung dân cư; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu dịch vụ Agribank... Tổ chức cho CBVC ngân hàng trực tiếp làm việc với các tầng lớp dân cư, các tổ chức xã hội trên địa bàn để tuyên truyền, quảng bá hoạt động huy động vốn và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng khác. Tổ chức các buổi họp dân ở các vùng sâu, vùng xa, giúp người dân thấu đáo các hoạt động ngân hàng, kết hợp với các công việc tư vấn về sản xuất, kinh doanh, và các mặt khác của đời sống. Chú trọng đưa dịch vụ huy động vốn đến các cơ quan, đơn vị có lực lượng lao động đông đảo và thu nhập của người lao động tương đối ổn định, như giáo dục, y tế, quân sự, các cơ sở SXKD may mặc.... Hai là, vận dụng triệt để và linh hoạt các thể thức hình thức huy động vốn theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Tuyệt đối bảo đảm nguyên tắc bảo mật trong huy động vốn. Tuỳ theo tình hình, thực trạng về mức sống, tập quán, tâm lý của các tầng lớp dân cư, NHNo&PTNT cần phải vận dụng tốt các thể thức, hình thức huy động vốn hiện có, nhằm hấp dẫn, thu hút người có tiền chưa sử dụng gửi vào Ngân hàng. Trong đó chú trọng các thể thức tiết kiệm được nhiều người quan tâm như: Tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gửi góp,... Các hình thức huy động qua kênh trái phiếu dài hạn, chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm trả lãi trước... Bảo mật dữ liệu và nhân thân khách hàng, theo quy định của pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng trong huy động vốn, làm cho khách hàng tin tưởng tuyệt đối vào ngân hàng, yên tâm gửi tiền. Phải niêm yết công khai các nguyên tắc, điều kiện gửi, rút tiền, quy trình nghiệp vụ, chế độ bảo hiểm tiền gửi để khách hàng hiểu rõ được quy trình, quy chế làm việc của ngân hàng, quyền lợi chính đáng và hợp pháp của khách hàng. Ba là, mở rộng và nâng cao năng lực hoạt động của mạng lưới huy động. Linh hoạt trong việc bố trí sắp xếp cán bộ, kết hợp với cơ chế giao khoán chỉ tiêu cho tập thể và cá nhân cán bộ viên chức, nhằm vừa đáp ứng yêu cầu phát triển, vừa đảm bảo đúng nguyên tắc chế độ và an toàn trong tất cả các khâu giao dịch. Tiến tới thành lập các phòng giao dịch, điểm huy động vốn cố định tại một số tụ điểm tập trung đông dân cư, nhưng xa trụ sở làm việc của các chi nhánh NHNo&PTNT, như: Tại Chợ Phú Thuận (xã Đại Thắng) là nơi có đường giao thông thuỷ dọc sông Thu Bồn gắn liền các xã phía tây huyện Duy Xuyên, huyện Quế sơn với Đà Nẵng. Có đường nhựa dẫn lên khu du lịch sinh thái Khe Tân; Tại cụm công nghiệp Đại Hiệp, Đại Nghĩa là nơi có nhiều cơ sở SX CN, lượng công nhân thường xuyên làm việc rất lớn như: Nhà máy chế biến thức ăn gia súc - công ty TNHH á Châu, nhà máy SX gạch tuy nen - Công ty TNHH Gia Nghi, nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng thuộc chi nhánh Nam Quan – Công ty TNHH Vân Long v.v...; Tại khu giáp giới giữa xã Đại Hồng và Đại Lãnh, nơi có Quốc lộ 14B đi qua, theo tuyến tiếp giáp với huyện Nam Giang, là nơi tập trung đông dân, thường xuyên có nhiều khách vãng lai qua lại... Ngoài ra, cần xúc tiến thành lập các tổ huy động vốn lưu động, tổ chức chi trả hoặc thu tiền tiết kiệm tại nhà của khách đối với các món tiền lớn... 3.2.1.2. Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội trên địa bàn Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội trên địa bàn huyện (dưới đây gọi tắt là các tổ chức) có tính đặc thù là kém ổn định và thường xuyên biến động, thậm chí có thể có biến động rất lớn trong những thời gian và điều kiện nhất định. Tuy nhiên, mặt tích cực không thể phủ nhận của nguồn vốn này là lãi suất huy động thấp, góp phần hạ thấp giá đầu vào, hạ thấp chi phí chủ yếu của hoạt động tín dụng. Do vậy, tăng cường huy động nguồn vốn từ các tổ chức này là giải pháp hỗ trợ tích cực cho hoạt động huy động vốn, tăng tính linh hoạt của tín dụng, tăng hiệu quả đích thực của tín dụng NHNo&PTNT trên địa bàn. Để huy động được nguồn vốn này, ngoài các giải pháp đẩy mạnh quảng cáo tuyên truyền, đảm bảo nguyên tắc bảo mật, mở rộng và nâng cao năng lực mạng lưới huy động đã nêu, còn cần phải: Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội trên địa bàn. Trong đó, chú trọng giữ vững các mối quan hệ truyền thống và tích cực xây dựng quan hệ tốt đẹp với các đối tác mới. Trong khuôn khổ các điều kiện tín dụng hiện hành, NHNo&PTNT sẵn sàng đáp ứng các chu cầu về vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp, đơn vị hoạt động. Đồng thời, NHNo&PTNT cũng là cầu nối trung gian giải quyết các yêu cầu về tiền tệ, thanh toán cho các tổ chức. Giải pháp tăng cường huy động nguồn vốn, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn được cụ thể hoá bằng các nội dung cụ thể trên đây chỉ phát huy tác dụng khi và chỉ khi nó được thực hiện một cách đồng bộ với các giải pháp khác về tín dụng, như: mở rộng đối tương cho vay, đa dạng hoá các hình thức tín dụng, hạn chế rũi ro, nâng cao năng lực nội sinh của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn. Kiến nghị để thực hiện giải pháp tăng cường huy động các nguồn vốn - Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam: Cần có sự thống nhất về lãi suất huy động, cơ chế khuyến mãi trong hệ thống các ngân hàng thương mại, tránh cạnh tranh thiếu lành mạnh, gây nên những biến dị của hoạt động tín dụng, tác động xấu vào nền kinh tế. Cần phải có cơ chế xử lý nghiêm minh các trường hợp cạnh tranh thiếu lành mạnh nấp dưới các chiêu bài khuyến mãi mờ ám của các NHTM. - Đối với NHNN Vịêt Nam: Thể thức tiết kiệm được hưởng lãi suất bậc thang theo thời gian gửi của NHNo&PTNT Việt Nam được ban hành theo Quyết định 165/QĐ - HĐQT, ngày 26 tháng 5 năm 2003 và Quyết định số 66/QĐ/HĐQT-NV, ngày 07 tháng 02 năm 2006 của Hội đồng Quản trị NHNo&PTNT Việt Nam là loại tiết kiệm có kỳ hạn (kỳ hạn bậc thang do NHNo&PTNT Việt Nam quy định, khách hàng lựa chọn), người gửi tiền có quyền rút vốn (gốc và lãi) trong bậc thời gian gửi và được hưởng một khoản tiền lãi với bậc lãi suất kỳ hạn phù hợp với thời gian gửi vốn. Đây là sản phẩm mới, đặc thù của NHNo&PTNT Việt Nam, có quy chế huy động minh bạch, công khai ngay từ khi ban hành, không có những yếu tố cạnh tranh thiếu lành mạnh. Từ khi áp dụng thể thức tiết kiệm mới này, đông đảo khách hàng hoan nghênh và hưởng ứng, đã thu hút rất lớn vốn nhàn rỗi tại các địa phương vào ngân hàng, góp phần không nhỏ trong việc mở rộng tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, theo công văn số 5958/NHNN-CSTT, ngày 18 tháng 7 năm 2006 của Thống đốc NHNN Việt Nam “V/v: lãi suất tiết kiệm bậc thang của NHNo&PTNT” cho rằng thể thức tiết kiệm bậc thang của NHNo&PTNT Việt Nam “chưa phù hợp với các quy định tại Điều 16 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004 của Thống đốc NHNN” (đối với các trường hợp rút vốn trước hạn, lãi suất áp dụng tối đa không vượt quá mức lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn hiện hành). Từ lý do đó, NHNN không cho phép NHNo&PTNT Việt Nam tiếp tục áp dụng thể thức này và “NHNN đang xem xét, nghiên cứu các quy định về rút tiền gửi trước hạn cũng như các quy định khác tại Quy chế về tiền gửi tiết kiệm để có chỉnh sửa thích hợp”. Sau khi tạm ngưng huy động thể thức tiết kiệm bậc thang, số dư tiền gửi tiết kiệm tại các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn sụt giảm, ảnh hưởng đến hoạt động huy động nguồn vốn từ dân cư, làm hạn chế việc mở rộng tín dụng. trên địa bàn NHNo&PTNT phục vụ. Do vậy, đề nghị NHNN Việt Nam sớm xem xét, nghiên cứu bổ sung Quy chế về tiền gửi tiết kiệm để NHNo&PTNT Việt Nam được tiếp tục áp dụng thể thức tiết kiệm bậc thang như đã ban hành. 3.2.2. Mở rộng đối tượng cho vay, đa dạng hoá các hình thức tín dụng Mục 2.2 của Luận văn phân tích thực trạng tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện hiện nay, cho thấy vẫn còn tồn tại nhiều cá nhân, đơn vị trên địa bàn có nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất, phục vụ các nhu cầu đời sống nhưng do rào cản về điều kiện vay vốn, khả năng phục vụ của NHNo&PTNT, đã không thể tiếp cận được vốn tín dụng của NHNo&PTNT. Điều đó đã hạn chế tính tích cực vốn có của tín dụng NHNo&PTNT trên địa bàn, gây nên tình trạng mất cân đối giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư tín dụng của NHNo&PTNT. Từ thực trạng đó, mở rộng đối tượng cho vay, đa dạng hoá các hình thức tín dụng trước hết phải có quan điểm đầu tư đúng đắn, có cơ chế để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng vào các ngành công nghiệp, dịch vụ, trên cơ sở an toàn và hiệu quả. - Mở rộng đối tượng cho vay: Để mở rộng đối tượng tín dụng không chỉ giữ vững và phát triển các đối tượng truyền thống đã và đang quan hệ tín dụng với NHNo&PTNT mà còn phải chú trọng đến các đối tượng mới, như: Tín dụng tiêu dùng, trang trại, làng nghề, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp kinh doanh quyền sử dụng đất công nghiệp... Tín dụng tiêu dùng: Có đối tượng vay vốn chủ yếu là CBVC lao động hưởng lương nhà nước, thu nhập ổn định. Đây là loại hình tín dụng có quy trình nghiệp vụ đơn giản, khả năng rủi ro rất thấp hoặc hầu như không có, nhưng các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn còn thiếu sự đầu tư đúng mức. Cần tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa NHNo&PTNT trên địa bàn với các tổ chức, doanh nghiệp, dưới hình thức hợp đồng trách nhiệm, đại lý trung gian, để để đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng. Trong đó cần chú trọng đến ngành Giáo dục với hơn 2.000 cán bộ, giáo viên, Y tế 200 CBCNV, Công ty TNHH Thái Liên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã khởi động SXKD với hàng ngàn lao động... Mục đích sử dụng vốn cũng cần phải được đa dạng hoá: cho vay mua sắm phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn, sửa chữa, nâng cấp nhà cửa, hoặc thậm chí cho vay để giải quyết các nhu cầu tổ chức hiếu, hỹ, tiệc mừng... Ngoài ra cần phải đơn giản hoá các thủ tục, chấn chỉnh lại việc yêu cầu người vay cung cấp những giấy tờ hồ sơ không cần thiết, không có trong quy trình nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, phát huy đến mức tối đa tiện ích và hiệu quả cuỉa loại hình tín dụng này. Tín dụng đầu tư kinh tế trang trại: Đây là loại hình kinh tế đang rất được khuyến khích phát triển, bởi nó vừa phát huy được tiềm năng về rừng, đất đai, thổ nhưỡng, vừa thu hút được nhiều lao động phổ thông khá dồi dào tại địa phương, sản xuất hàng hoá với mục đích cuối cùng là thu lợi nhuận. Kinh tế trang trại phải có quy mô diện tích phù hợp với các yêu cầu sản xuất hàng hoá, ứng dụng công nghệ hiện đại, thu hút được nhiều lao động. Tín dụng kinh tế trang trại cần chú ý phân loại, xác lập theo đúng các tiêu chí quy định. Cần mở rộng cho vay kết hợp tín dụng có đảm bảo và không cần tài sản thế chấp, kết hợp cho vay đối tượng là doanh nghiệp (làm kinh tế trang trại) với hộ nông dân để đưa vốn tín dụng đến đúng nơi cần và mang lại hiệu quả thiết thực. Chủ động tiếp cận, xúc tiến đầu tư cho các doanh nghiệp đã có giấy phép đầu tư kinh tế trang trại lớn trên địa bàn như Công ty TNHH T&T với trang trại chăn nuôi ếch, ba ba kết hợp trồng rừng ở Đại Chánh, Công ty TNHH Đại Hưng với trang trại nuôi cá nước ngọt, cá sấu kết hợp du lịch sinh thái ở Đại Lãnh... Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNo&PTNT với Hội Nông dân, Phòng Kinh tế huyện trong việc thực hiện các chính sách khuyến nông, hỗ trợ phát triển nông nghiệp của UBND tỉnh. Cụ thể là Quyết định số 30/QĐ-UB, ngày 24/5/2002 về “cơ chế tài chính khuyến khích phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại trên địa bàn Quảng Nam” và Quyết định số 66/QĐ-UB, ngày 20/8/2004 về “cơ chế hỗ trợ đầu tư phát triển chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” của UBND tỉnh Quảng Nam. Tín dụng phát triển làng nghề: Trên cơ sở quy hoạch vùng dự án làng nghề huyện Đại Lộc đến năm 2010, các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn cần phải chủ động xây dựng kế hoạch và chiến lược phát triển phù hợp. Trong đó, chủ động xây dựng phương án đầu tư phát triển làng nghề làm trống Lâm Yên (xã Đại Minh), làm hương thắp ở Đại Hoà, chế tác đá mỹ nghệ ở Đại Chánh... Mở rộng áp dụng các hình thức tín dụng đối với làng nghề là rất cần thiết. Trong đó, chú trọng mở rộng cho vay theo hình thức hạn mức tín dụng nhằm khắc phục được những hạn chế về hồ sơ, thủ tục đối với các chủ thể là hộ sản xuất, doanh nghiệp.... Tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng thích hợp, phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội để đưa vốn tín dụng vào đầu tư phát triển làng nghề một cách an toàn và hiệu quả... Tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ: Là loại hình doanh nghiệp chủ yếu trên địa bàn huyện, nên doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là đối tượng tín dụng chủ yếu trong tín dụng doanh nghiệp của NHNo&PTNT. Tuy nhiên, hiện nay số lượng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với NHNo&PTNT trên địa bàn còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp không có quan hệ tín dụng với NHNo&PTNT trên địa bàn, đó là điều bất thường. Do vậy, cần đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tiếp thị, chủ động mời gọi các doanh nghiệp đặt quan hệ. Mặt khác, về phía NHNo&PTNT cần tổ chức điều tra, khảo sát nắm bắt các nhu cầu, yêu cầu của doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng để có những quyết sách hợp lý. Chú trọng triển khai các dịch vụ ngoại hối, ngoại tệ, tín dụng xuất, nhập khẩu để đáp ứng tốt các nhu cầu ngày càng đa dạng của doanh nghiệp. Riêng đối với các doanh nghiệp mới đang đầu tư vào các cụm công nghiệp trên địa bàn như cụm CN Đại Hiệp, Đại nghĩa, Đại Quang, thị trấn ái nghĩa... cần phải sớm tiếp cận, ngay từ khâu xây dựng cơ bản. Ngoài ra, sớm giải quyết các vướng mắc từ thủ tục và điều kiện vay vốn để mở rộng cho vay, nâng mức dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp có chức năng kinh doanh đất khu công nghiệp để xây dựng kết cấu hạ tầng. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Đại Lộc cần phải có những động thái tích cực để vượt qua trở ngại về quy chế địa bàn để xúc tiến cho vay trọn gói đối với Công ty TNHH Vân Long. Đây là đơn vị (trụ sở chính đặt tại Đà Nẵng) có năng lực tài chính mạnh, có quy mô hoạt động lớn, SXKD trên nhiều loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ khác nhau (vật liệu xây dựng cao cấp, khai thác khoáng sản, du lịch...) tại cụm công nghiệp Đại Hiệp, nhưng do quy chế địa bàn của NHNo&PTNT Việt Nam ràng buộc, đến nay chi nhánh NHNo&PTNT huyện Đại Lộc vẫn chưa thể đầu tư trực tiếp. Hướng giải quyết tốt nhất là vận động Công ty xúc tiến nhanh đề án di chuyển Trụ sở làm việc chính về Cụm CN Đại Hiệp, huyện Đại Lộc. Tín dụng đầu tư cho các loại hình kinh tế tập thể: Trên địa bàn huyện, hiện có đến 22 đơn vị kinh tế tập thể, trong đó 17 HTX SXKD trên lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp, 5 HTX còn lại kinh doanh về CN, TTCN, dịch vụ vận tải. Đây là loại hình kinh tế có nhiều tính ưu việt, kết hợp được sức mạnh tập thể với mỗi thành viên giải quyết có hiệu quả những vấn đề của SXKD và đời sống. Các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn cần phải tiếp tục đầu tư vào các HTX làm ăn hiệu quả và có nhiều đóng góp cho xã hội như HTX TTCN 27-7, HTX TTCN Lam Phụng. Cần xem xét mạnh dạn cho vay, không cần tài sản thế chấp, qua tín chấp hoặc bản lãnh của Chính quyền sở tại, theo mức quy định đối với các HTX đã được chuyển đổi và có triển vọng phát triển như HTX kinh doanh tổng hợp Đại Hiệp, Đại Nghĩa, Đại Cường tạo động lực thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, tạo công ăn việc làm cho xã viên, người lao động. - Đa dạng hoá các hình thức tín dụng: Ngoài các hình thức được áp dụng phổ biến, cần chú trọng các hình thức tín dụng đặc thù khác như: Tín dụng thuê mua tài chính, bảo lãnh, đồng tài trợ... Đây là các hình thức ngoài tín dụng truyền thống, ít phổ biến trong giai đoạn sự phát triển KT-XH địa phương còn thấp kém. Nhưng, khi tiến trình xây dựng “huyện cơ bản trở thành huyện công nghiệp” đang ngày càng gần đến đích, KT-XH đã và đang có những bước phát triển khởi sắc và sôi động thì nhu cầu về tín dụng cũng ngày càng đa dạng và phong phú, đòi hỏi NHNo&PTNT phải có những sản phẩm tín dụng phù hợp mới đáp ứng được yêu cầu phát triển. Việc đa dạng hoá các hình thức tín dụng không chỉ đơn thuần là các hình thức khác nhau mà trong mỗi hình thức cũng phải có nhiều sản phẩm tiện ích linh hoạt. Trong tín dụng bảo lãnh, không chỉ áp dụng chủ yếu bảo lãnh dự thầu như hiện nay mà còn có các thể thức khác như: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh trả chậm... Về tín dụng cho thuê tài chính, cần phải có hướng sớm đưa (trực tiếp hay gián tiếp) vào áp dụng tại các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn, thay vì tất cả các nhu cầu này đều phải thực hiện tại các công ty thuê mua tài chính ngoài địa bàn (chủ yếu là Đà Nẵng). Trong đó, có thể áp dụng nhiều phương thức khác nhau như: cho thuê tài chính 2 bên, 3 bên, tái cho thuê, cho thuê hợp tác để cùng tài trợ... Giải pháp mở rộng đối tượng tín dụng và đa dạng hoá các sản phẩm và hình thức tín dụng sẽ tích cực đưa vốn tín dụng của NHNo&PTNT đến tận nơi, đúng lúc, phát huy nguồn lực, khai thác tốt các tiềm năng, tích cực thúc đẩy sự phát triển KT-XH ở địa phương. Kiến nghị để thực hiện giải pháp mở rộng đối tượng cho vay, đa dạng hoá các hình thức tín dụng: - Đối với NHNN Việt Nam: Cần có chủ trương tiếp tục tách bạch đối tượng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Đối với các đối tượng tín dụng chính sách hiện do NHNo&PTNT Việt Nam quản lý cần tiếp tục bàn giao sang NHCSXH (tín dụng khắc phục hậu quả hạn hán 1998, lũ lụt 1998 và lũ lụt 1999). Trong các trường hợp thiên tai lũ lụt gây thiệt hại nặng về vốn tín dụng NHNo&PTNT có cơ chế chuyển đối tượng sang tín dụng chính sách. - Đối với NHNo&PTNT Việt Nam: Nhu cầu về tín dụng thuê mua tài chính trên địa bàn huyện hiên nay là rất lớn. Là NHTMNN chiếm thị phần chủ yếu nhưng các chi nhánh NHNo&PTNT chưa được phép tham gia hình thức tín dụng có nhiều ưu điểm này. Để đa dạng hoá các hình thức tín dụng, đáp ứng tốt yêu cầu về mở rộng SXKD trên địa bàn huyện, đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam có cơ chế cho phép các chi nhánh NHNo&PTNT cấp 2 được trực tiếp làm đại lý tín dụng cho thuê tài chính, cụ thể là đối với các chi nhánh Công ty Cho thuê tài chính Agribank thuộc địa bàn quản lý. Theo Quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 454/QĐ/HĐQT-TCCB, ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Hội đồng Quản trị NHNo&PTNT Việt Nam: địa bàn chi nhánh NHNo&PTNT hoạt động chỉ trong phạm vi địa giới hành chính chi nhánh có trụ sở hoạt động. Hoạt động kinh doanh ngoài địa giới hành chính phải có ý kiến chấp thuận của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Trong khi các NHTM khác - là những đối tác cạnh tranh tín dụng không hề có ràng buộc về quy chế địa bàn thì quy định nói trên của NHNo&PTNT Việt Nam đã tự mình hạn chế khả năng cạnh tranh, mở rộng tín dụng của các chi nhánh NHNo&PTNT một cách không cần thiết. Do vậy, đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam sửa đổi quy chế về địa bàn theo hướng thông thoáng hơn. Chẳng hạn bỏ hẳn sự ràng buộc hoặc giao quyền quyết định cho vay ngoài địa bàn cho Giám đốc chi nhánh NHNo&PTNT cấp 1 (cấp tỉnh, thành phố). 3.2.3. Hạn chế rủi ro tín dụng Hạn chế rủi ro tín dụng bao gồm các hoạt động phòng ngừa từ xa, nâng cao chất lượng tín dụng nhằm đảm bảo sự an toàn và hiệu quả của vốn tín dụng. Đây là một giải pháp rất cần thiết nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của tín dụng NHNo&PTNT và do đó, nó sẽ là một đảm bảo của sự phát triển KT-XH trên địa bàn. Để hạn chế rủi ro tín dụng trên địa bàn huyện hiện nay, các chi nhánh NHNo&PTNT cần chủ động triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Trước hết, phải làm tốt công tác phân loại khách hàng. Đây là một kỹ thuật bắt buộc trong quản lý tín dụng, nhằm xác lập hồ sơ để phân loại nhằm có những phương cách và mức độ đối xử khác nhau. Căn cứ để phân loại khách hàng phải là quá trình thực hiện quan hệ tín dụng với Ngân hàng, các tiêu chí về năng lực điều hành của bộ máy lãnh đạo, năng lực tài chính, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị tường tiêu thụ v.v.. Chất lượng của công tác phân loại khách hàng sẽ tác động đến chất lượng quản lý tín dụng, đảm bảo cho việc xác lập chính sách tín dụng cụ thể đúng đắn, hạn chế khả năng mất vốn do chủ quan, thiếu hiểu biết về khách hàng. Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động phòng ngừa rủi ro. Bao gồm tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng, thực hiện nghiêm túc quy định về đảm bảo nợ vay, đăng ký giao dịch bảo đảm, chấn chỉnh lại hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng phải được chấn chỉnh, trước hết là từ cơ sở. Cần trang bị lại nhận thức đầy đủ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin tín dụng về vai trò của việc cung cấp chính xác thông tin dữ liệu và tác hại khó lường của nó, nếu thông tin bị sai lệch. Phải chuyên môn hoá nghiệp vụ này và có chính sách cán bộ cần thiết, nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động thông tin tín dụng, phòng ngừa rủi ro. Trong điều kiện thách thức và cơ hội cùng tác động vào sự phát triển của KT-XH của cơ chế thị trường hiện nay, các quy trình đảm bảo nợ vay vẫn phải xác định là giải pháp hạn chế, phòng ngừa rủi ro hữu hiệu trong các hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT. Tuy nhiên, thực hiện nghiêm túc các quy định về tài sản làm bảo đảm nợ vay, đăng ký giao dịch bảo đảm v.v.. hoàn toàn không có nghĩa đây là yếu tố quyết định để cho vay, mà vấn đề quan trọng, quyết định cho thành - bại của tín dụng, tác động vào KT-XH, xét cho cùng, phải là hiệu quả KT-XH của dự án và năng lực thực hiện dự án của chủ đầu tư. Do vậy, phải có sự cập nhật thông tin đầy đủ về năng lực, tư cách của cá nhân và đơn vị vay vốn, cùng với thực hiện nghiêm túc các quy định về đảm bảo và quy định khác trong quá trình thẩm định, làm cơ sở quyết định đầu tư. Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong hoạt động tín dụng phải được đặt lên hàng đầu, nhằm ngăn chặn kịp thời những vi phạm có thể xảy ra, hạn chế rủi ro. Để làm được điều đó, trước hết phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ kiểm tra viên; đồng thời thực hiện nghiêm cơ chế hoạt động độc lập của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Phải chấm dứt ngay tình trạng một cán bộ vừa làm chuyên môn vừa phải kiêm nhiệm chức năng kiểm tra như hiện nay. Rủi ro được xem là thuộc tính của các hoạt động kinh tế nói chung. Vấn đề là phải biết hạn chế đến mức thấp nhất khả năng và tần suất rủi ro trong công tác điều hành kinh tế. Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện vốn có mối quan hệ hữu cơ với tất cả các cấp, ngành, các chủ thể kinh tế, các tầng lớp dân cư... Mỗi động thái dù tích cực hay tiêu cực của tín dụng NHNo&PTNT đều có những ảnh hưởng nhất định đến toàn bộ sự phát triển của KT-XH địa phương. Do vậy, hạn chế rủi ro cho tín dụng NHNo&PTNT không chỉ tạo điều kiện cho tín dụng NHNo&PTNT phát triển mà còn tác động mạnh mẽ đến sự phát triển bền vững của KT-XH trên địa bàn. Kiến nghị để thực hiện giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng: - Đối với NHNN Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam: Cần xây dựng Kho dữ liệu phòng ngừa rủi ro, hỗ trợ cho các NHTMNN truy cập cập nhật thông tin khách hàng. Xây dựng các trang Web chuyên sâu vào lĩnh vực thông tin khách hàng. - Đối với NHNo&PTNT Việt Nam: Có cơ chế ràng buộc và chính sách đãi ngộ hợp lý đối với CBVC làm nghiệp vụ kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Bố trí đủ cán bộ để giải quyết triệt để tình trạng kiểm tra viên phải kiêm nhiệm nhiều việc như hiện nay. - Đối với UBND huyện và các cơ quan hữu quan bảo vệ và thực thi pháp luật tại địa phương: Cần có sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ hơn nữa với NHNo&PTNT trong việc giữ vững kỷ cương pháp luật trong hoạt động tín dụng, nhất là tín dụng của NHNo&PTNT. Cương quyết xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các trường hợp cố tình chiếm dụng vốn Ngân hàng. Đây phải là công việc được duy trì thường xuyên, liên tục. Tăng cường thời gian, cường độ làm việc của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự huyện, chú trọng tập trung xử lý các vụ án tín dụng tồn đọng, người vay có khả năng trả nợ nhưng cố tình chiếm dụng vốn tín dụng của NHNo&PTNT, ảnh hưởng đến hoạt động chung của NHNo&PTNT, tác động xấu vào trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế tại địa phương. Riêng đối với Toà án Nhân dân tỉnh: Trong những năm qua, Toà án nhân dân huyện được giao quyền xét xử các vụ án kinh tế trong đó có tín dụng ngân hàng. Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ với NHNo&PTNT, hoạt động của Toà án Nhân dân huyện đã đóng góp rất lớn vào việc giữ vững kỷ cương pháp luật trong các quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ tín dụng nói riêng, thuộc khu vực huyện. Tuy nhiên, hiện nay Toà án Nhân dân cấp huyện đã không còn được giao quyền xét xử các vụ án kinh tế. Mọi phát sinh án tín dụng đều phải trình lên Toà án cấp tỉnh, từ đó các chi nhánh NHNo&PTNT gặp phải khó khăn hơn trong việc yêu cầu luật pháp can thiệp khi người vay cố tình chiếm dụng vốn ngân hàng. Đề nghị Toà án Nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền xét xử các vụ án tín dụng cho Toà án cấp huyện. 3.2.4. Nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên địa bàn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam Tất cả các giải pháp lớn trên đây đều phải cùng lúc được triển khai mạnh mẽ, nhằm nâng cao vai trò của tín dụng NHNo&PTNT tác động vào sự phát triển của KT-XH trên địa bàn huyện Đại Lộc. Tuy nhiên, điều đó sẽ mất hết ý nghĩa thực tiễn nếu như các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn - chủ thể chính thực hiện các giải pháp - không đủ mạnh, kém năng lực hoạt động. Để nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn hiện nay, tác giả cho rằng cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau đây: 3.2.4.1. Đầu tư công nghệ, phương tiện hiện đại “Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán” là một trong những giải pháp lớn mà “Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” đã được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt, nhằm hướng đến xây dựng Ngân hàng Việt Nam vững mạnh, phát triển trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và WTO. Theo đó, các NHTM cần phải: Hiện đại hoá hệ thống giao dịch, xúc tiến thương mại điện tử và phát triển dịch vụ trên cơ sở của công nghệ thông tin. Nâng cấp mạng diện rộng và hạ tầng công nghệ thông tin với các giải pháp phù hợp với trinh độ phát triển và chuẩn mực thông lệ quốc tế. Tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng [35]. Trong tình hình hiện nay các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện nói chung mức đầu tư công nghệ, phương tiện vẫn còn tình trạng thấp kém, nếu không nói là lạc hậu so với yêu cầu phát triển. Điều đó đòi hỏi sự nhận thức đúng đắn và mức đầu tư thích đáng khẩn cấp vào lĩnh vực này. Trước hết phải nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin hiện có: hệ thống phần mềm giao dịch, hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng; lắp đặt máy rút tiền tự động ATM... Trang bị máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ các yêu cầu hoạt động, đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng phong phú của các chủ thể kinh tế và các tầng lớp dân cư trên địa bàn. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là việc đầu tư công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại, tăng cường năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT, nhằm phục vụ các yêu cầu của phát triển KT-XH là khẩn cấp, thích đáng nhưng cũng phải xét đến tính hiệu quả của đồng vốn đầu tư. Việc đầu tư cần phải có đề án cụ thể, trong đó khảo sát đầy đủ thực trạng để đưa ra các phương án giải pháp đầu tư tối ưu và hiệu quả nhất. 3.2.4.2. Xây dựng nguồn nhân lực Theo kết quả khảo sát trên chương 2, đội ngũ cán bộ viên chức tại các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn có tuổi đời bình quân cao (42,5 tuổi) và trình độ chuyên môn bất cập, phần lớn được đào tạo chắp vá, nhiều năm liền không được tuyển dụng bổ sung. Từ đó, khó có thể thích ứng tốt với môi trường cạnh tranh và hội nhập trong tương lai. Do vậy, một yêu cầu cấp thiết đảm bảo cho hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện Đại Lộc an toàn và hiệu quả là phải nhanh chóng khắc phục tình trạng bất cập về trình độ chuyên ngành, thiếu hụt các kiến thức bổ trợ, năng lực thẩm định, điều hành kinh doanh của đội ngũ cán bộ viên chức. Cần phải “Tăng cường và đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ quản lý và chuyên môn cho cán bộ các cấp, đồng thời nâng cao đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm của cán bộ ngân hàng” [35]. Để làm được điều đó, trước hết phải được bổ sung ngay qua con đường tuyển dụng số lượng cán bộ thiếu hụt. ít nhất là 5 người cho chi nhánh NHNo&PTNT huyện Đại Lộc và 2 người cho chi nhánh NHNo&PTNT Vùng B, Đại Lộc, để có thể bố trí công việc, đưa tỷ lệ cán bộ tín dụng lên 50% như định hướng của NHNo&PTNT Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề tuyển dụng hiện nay phụ thuộc vào chỉ tiêu định biên từ NHNo&PTNT Việt Nam, qua NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam nên các chi nhánh NHNo&PTNT không thể tự quyết định được mà phải được sự quan tâm tạo điều kiện, bổ sung chỉ tiêu định biên lao động từ các cấp lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam và NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam. Phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức NHNo&PTNT. Nội dung chương trình đào tạo phải kết hợp đào tạo chuyên môn với lý luận chính trị, chú trọng phát triển nguồn lao động có trình độ cao về công nghệ thông tin, có khả năng thích ứng nhanh với môi trường làm việc chịu áp lực cao trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Đào tạo phải gắn kết với công tác quy hoạch, bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ và nhất thiết phải được rèn luyện từ thực tiễn. Phải chú trọng đặc biệt đến đội ngũ cán bộ tín dụng, vì đây là lực lượng chủ chốt, mang tính quyết định cho công tác tín dụng. Cần phải thực hiện tốt công tác đào tạo chuyên môn với rèn luyện đạo đức, phẩm chất. Đồng thời, phải kết hợp công tác bố trí, sử dụng với việc đãi ngộ thích đáng cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Trong công tác tuyển dụng cán bộ phải “thực hiện nguyên tắc dân chủ và minh bạch” [35], chuẩn hoá điều kiện tuyển dụng, có chính sách khuyến khích con em trong ngành đủ điều kiện vào làm việc, để vừa thu hút được nhân tài, đáp ứng được yêu cầu công tác, vừa có thể kế thừa và phát huy truyền thống ngành, vừa thực hiện tốt chính sách cán bộ. Công tác quy hoạch, đánh giá, phân loại, bố trí, sắp xếp sử dụng, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ tại các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn phải được thực hiện nghiêm túc theo quy định, trên nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch và hiệu quả. Cần phải lấy năng lực và phẩm chất đạo đức làm cơ sở cho công tác cán bộ. Trong điều kiện khó khăn về số lượng cán bộ nhưng chưa thể bổ sung đủ theo yêu cầu hiện nay, để có thể đảm bảo hoạt động bình thường và phát triển, chỉ có thể phải tăng cường chế độ trách nhiệm, nâng cao năng suất lao động cho mỗi tập thể, phòng ban chuyên môn và cá nhân người lao động. Cần phải đẩy mạnh hoạt động thi đua, khen thưởng, có chính sách đãi ngộ thoả đáng những cá nhân có thành tích cao trong công tác và học tập. 3.2.4.3. Mở rộng và nâng cao năng lực hoạt động của mạng lưới tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Giải pháp “phát triển nguồn nhân lực” chỉ mang chỉ lại hiệu quả cao khi được đi kèm với giải pháp “nâng cao hiệu quả tổ chức của bộ máy” [35]. Tiếp tục mở rộng mạng lưới tín dụng trên địa bàn nhằm tạo điều kiện tốt nhất đưa vốn tín dụng phục vụ cho sản xuất và đời sống kinh tế, xã hội, khai thác tốt các nguồn lực, đưa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng về áp dụng tại các khu vực xa trung tâm. Trong đó chú ý các cụm công nghiệp đang hình thành tại Đại Hiệp, Đại Quang, Đại Lãnh, các xã xa trung tâm như Đại Hồng, Đại Chánh. Tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới phải tính đến hiệu quả kinh doanh trước mắt và lâu dài, tránh tình trạng tràn lan, có thể gây suy yếu thương hiệu của NHNo&PTNT, hạn chế tính tích cực của tín dụng NHNo&PTNT đơi với KT-XH nơi mà chi nhánh NHNo&PTNT phục vụ. Củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Vùng A, Đại Lộc (chi nhánh cấp 3). Chấn chỉnh lại công tác giao khoán tài chính, giao khoán tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Vùng A, theo hướng vừa hiệu quả, vừa động viên được đội ngũ CBVC hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục đầu tư xây dựng, chỉnh trang, nâng cấp trụ sở làm việc tại cả 3 chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn để có thể chống chọi một cách an toàn với bão, lũ thường xuyên xảy ra. Từng bước đầu tư trang bị máy móc và các trang thiết bị hiện đại phục vụ kinh doanh như: máy phát điện công suất cao, máy vi tính, thiết bị lạnh v.v... 3.2.4.4. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT cho phát triển KT-XH chỉ có thể phát huy được đầy đủ vai trò tích cực đó khi nó được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các sản phẩm dịch vụ khác. Và cũng chính việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ bổ trợ cho công tác tín dụng và từ đó nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn. Ngoài sản phẩm huy động vốn và cho vay, các chi nhánh NHNo&PTNT còn phải mở rộng các sản phẩm dịch vụ bổ trợ khác như: dịch vụ ngoại hối, dịch vụ thẻ, thanh toán điện tử, dịch vụ két sắt v.v... nhằm nâng cao tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu của ngân hàng. Điều đáng nói, các ngân hàng, tập đoàn tài chính hiện đại đều có số sản phẩm dịch vụ rất cao, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn loại sản phẩm. Trong khi NHNo&PTNT Việt Nam hiện nay số lượng sản phẩm chưa quá 2 con số, các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện cũng chỉ áp dụng vài sản phẩm truyền thống, chủ yếu là huy động và cho vay. Do vậy, để nâng cao năng lực hoạt động của NHNo&PTNT, bổ trợ cho tín dụng của NHNo&PTNT, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm dịch vụ là một tất yếu. 3.2.4.5. Phát triển thương hiệu AGRIBANK Agribank là tên giao dịch viết tắt của NHNo&PTNT Việt Nam. Thương hiệu Agribank - Được hiểu là tên giao dịch gắn liền với bản sắc, uy tín, hình ảnh của NHNo&PTNT Việt Nam, mà những yếu tố đó đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng khách hàng và các chủ thể KT-XH khác trên địa bàn, trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia và quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, xây dựng và phát triển thương hiệu là một hướng đi cần thiết cho mọi doanh nghiệp, nó đảm bảo cho sức cạnh tranh và là nền tảng cho sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Từ lẽ đó, thương hiệu Agribank đang được toàn hệ thống tích cực xây dựng và phát triển, là những bước đi chiến lược, khẳng định vị trí, vai trò và triển vọng của NHNo&PTNT Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Đối với các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện, để vững mạnh càng phải tăng cường các giải pháp chung phát triển thương hiệu Agribank, đồng thời phải tích cực xây dựng sắc thái riêng phù hợp với phong tục tập quán địa phương, nhưng vẫn đảm bảo các tiêu chí chung của thương hiệu Agribank. Để đạt được điều đó, các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn Đại Lộc cần phải: Bảo đảm sự phát triển bền vững của bản thân các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn, gắn kết chặt chẽ các mặt hoạt động của NHNo&PTNT với sự phát triển của KT-XH địa phương, tạo nên sự đồng bộ cần thiết giữa chiến lược phát triển của Agribank với chiến lược phát triển của KT-XH trên địa bàn huyện. Phải tiên phong đổi mới công nghệ. Xây dựng môi trường làm việc thoáng mát, yên bình và có đủ những tiện nghi cần thiết. Phải xây dựng được nề nếp giao dịch và làm việc văn minh hiện đại... 3.2.4.6. Xây dựng văn hoá giao dịch, văn hoá tín dụng Văn hoá giao dịch, văn hoá tín dụng là bộ phận của văn hoá kinh doanh ngân hàng, theo Th.S Lê thị Huyền Diệu, có thể hiểu đó “là hệ thống các chuẩn mực tinh thần hay vật chất, quy định mối quan hệ, thái độ và hành vi, ứng xử” của các cá nhân, tập thể là thành viên của NHNo&PTNT, hướng tới những giá trị tốt đẹp của NHNo&PTNT, được thể hiện qua chất lượng phục vụ trong giao dịch và trong hoạt động tín dụng [2, tr.30]. KT-XH địa phương càng phát triển thì đòi hỏi NHNo&PTNT phải xác lập rành rẽ văn hoá giao dịch, văn hoá tín dụng trong các hoạt động của mình mới có thể tương thích và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Để xây dựng văn hoá giao dịch, văn hoá tín dụng nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện, đối với công tác khách hàng cần phải: Xây dựng đội ngũ CBCNV tinh tường nghiệp vụ, tận tuỵ và nhanh nhạy với công việc, hóm hỉnh, biết làm vui lòng khách, có phẩm chất đạo đức tốt, biết cách từ chối thuyết phục, không làm phật lòng khách. Tạo không gian và tiện nghi thoải mái cho khách hàng trong khi giao dịch, làm việc hoặc chờ đợi. Nâng cao tối đa chất lượng của các dịch vụ, đáp ứng mọi yêu cầu dù khó khăn, đa dạng của khách. Trang bị phương tiện làm việc hiện đại, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của khách. Giữ chữ tín trong tất cả các mặt nghiệp vụ. Gắn bó chia xẻ và phải thật sự là bạn đồng hành của khách hàng cả khi thành công lẫn khi thất bại. Trực tiếp hoặc gửi thư chúc mừng khách khi thắng lợi lớn trong làm ăn và chân thành động viên, chia xẻ khi khách hàng gặp phải rủi ro, thiên tai, bão lũ. Đối với bộ máy làm việc nội bộ: Cần xây dựng phong cách làm việc cá nhân và tập thể sinh động, hiệu quả; Xây dựng và thực hiện tốt kỷ cương, quy chế chung và quy chế riêng phù hợp với tâm sinh lý của đa số; Tổ chức các hoạt động văn hoá tập thể cho đơn vị; Tổ chức tốt hội nghị công nhân viên chức, hội nghị khách hàng, các phong trào văn hoá văn nghệ, phong trào thanh niên; Bồi đắp và tuyên truyền cho ý nghĩa cao đẹp của biểu tượng Agribank.. 3.2.4.7. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ là giải pháp để phòng ngừa rủi ro trong tín dụng (mục 3.2.3) mà còn là một giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn. Đây là một giải pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong “Đề án Phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó, các NHTMNN cần phải “ xây dựng và triển khai khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở tổng hợp và rủi ro” [35]. Để làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT, trước hết, cần phải tập trung xây dựng bộ máy chức năng kiểm tra, kiểm toán nội bộ đủ mạnh, độc lập, có đủ phẩm chất đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp. Phải tạo điều kiện thuận lợi và xây dựng cơ chế làm việc hiệu quả cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát nội bộ phải có chương trình kế hoạch cụ thể, thường xuyên bám sát cơ sở, am hiểu tình hình, lấy chức năng phòng ngừa và ngăn chặn làm nòng cốt. Tuy nhiên, khi phát hiện có sai phạm phải cương quyết xử lý hoặc đề xuất xử lý nghiêm minh. Ngoài ra, để tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra giám sát tại đơn vị còn phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các Đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát thuộc ngành Ngân hàng cấp trên hoặc thuộc bộ máy Chính quyền sở tại làm việc nghiêm minh, hiệu quả và nhất thiết phải có thái độ cầu thị, nghiêm khắc nhìn nhận sửa chữa, khắc phục mọi hạn chế, thiếu sót, sai phạm nếu có xảy ra tại đơn vị chi nhánh NHNo&PTNT. Nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện là giải pháp vừa cấp bách vừa lâu dài, là xu thế tất yếu để xây dựng NHNo&PTNT Việt Nam phát triển vững mạnh ngay từ các chi nhánh cơ sở, để có thể giữ vững vai trò chủ đạo chủ lực cho thị trường tài chính tiền tệ ở nông thôn. Riêng trên địa bàn huyện Đại Lộc, điều quan trọng là sự vững mạnh của các chi nhánh NHNo&PTNT sẽ trực tiếp tác động vào việc phát huy vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện, nhắm đến mục tiêu xây dựng huyện Đại Lộc sớm trở thành huyện công nghiệp như Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng bộ Lần thứ XIX đã đề ra. Kiến nghị để thực hiện giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện: - Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Theo quyết định số 888/NHNN-QĐ, ngày 16/6/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam V/v “ban hành quy chế về mở, thành lập, chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại”, quy định một số điều kiện tiêu chuẩn để thành lập chi nhánh ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, xét trên bình diện vai trò chủ đạo, chủ lực đối với thị trường tài chính tiền tệ ở nông thôn, tác động tích cực vào sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện, việc thành lập chi nhánh NHNo&PTNT là cần thiết. Do vậy, đề nghị NHNN Việt Nam điều chỉnh quy chế, xem xét cho tiếp tục tồn tại cấp chi nhánh đối với NHNo&PTNT trên địa bàn cấp huyện, dù không đủ những tiêu chí mới theo quy định. - Đối với NHNo&PTNT Việt Nam: Cần xúc tiến mạnh tiến trình cổ phần hoá, tiến tới xây dựng NHNo&PTNT Việt Nam thành tập đoàn tài chính mạnh, nhằm mục đích tăng vốn tự có, mở rộng quy mô hoạt động, giúp đa dạng hoá sản phẩm, cải thiện sức cạnh tranh, tăng năng lực hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam, Cần ban hành quy chế tuyển dụng cán bộ trong ngành NHNo&PTNT Việt Nam, trong đó quy chuẩn quy trình tuyển dụng và các điều kiện đầu vào cho từng loại nghiệp vụ chuyên môn nhất định. Từ sau khi tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng (1997), chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam được thành lập có địa bàn rộng với nhiều chi nhánh phụ thuộc, số lượng cán bộ viên chức thiếu nghiêm trọng nhưng đã không được bổ sung đủ yêu cầu, gây nên tình trạng bức xúc về lao động kéo dài nhiều năm nay. Do vậy, đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam tăng ngay chỉ tiêu định biên cho chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam để phân bổ về các chi nhánh cấp 2. Riêng các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện Đại Lộc cần tăng khoảng 7 người để bố trí cho công tác tín dụng. kết luận Trên địa bàn huyện ở nước ta hiện nay, NHNo&PTNT Việt Nam là NHTMNN có vai trò chủ đạo, chủ lực và tín dụng của NHNo&PTNT cũng đang nắm giữ thị phần chủ yếu. Từ đó, việc nâng cao vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển của KT- XH là một trong những vấn đề cấp bách không chỉ của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam mà còn là vấn đề của xã hội, góp phần cho việc sử dụng đắc lực công cụ tín dụng, tác động vào nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Trong Luận văn này tác giả đã tập trung nghiên cứu, giải quyết những nội dung cơ bản sau: 1. Luận giải, làm rõ vai trò của tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng của NHNo&PTNT nói riêng đối với sự phát triển của KT-XH trên địa bàn huyện ở nước ta hiện nay. 2. Trên cơ sở dữ liệu, chứng cứ thực tiễn, Luận văn đã phân tích đánh giá đúng thực trạng hoạt động tín dụng của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện Đại Lộc, Quảng Nam. Rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của nó để làm cơ sở đề ra định hướng và các giải pháp liên quan. 3. Khái quát định hướng phát triển KT-XH trên điạ bàn huyện Đại Lộc, đề xuất những quan điểm sử dụng công cụ tín dụng của NHNo&PTNT vào sự phát triển KT-XH trong thời gian tới và một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Đại Lộc, đồng thời mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với các bộ ngành trung ương, NHNN Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, NHNo&PTNT Việt Nam, các cấp lãnh đạo Đảng và Chính quyền địa phương sở tại, nhằm tạo điều kiện cần thiết và thuận lợi hơn để tín dụng của NHNo&PTNT phát huy tối đa vai trò tích cực của mình đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn mà nó phục vụ. danh mục tài liệu tham khảo 1. Ban Chấp hành Đảng Bộ huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam (2000), Địa chí Đại Lộc, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 2. Lê thị Huyền Diệu (3/2000), “Văn hoá kinh doanh ngân hàng”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, (15), tr.30-31-32-33. 3. Đảng Bộ huyện Đại Lộc (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Đại Lộc, Quảng Nam lần thứ XIX, Đại Lộc. 4. Đảng Bộ tỉnh Quảng Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX, Tam Kỳ. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Trần Đình Định (chủ biên), Đinh Văn Thanh, Nguyễn Văn Dũng (2006), Những quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 8. Nguyễn Duy Gia (2006), “Hệ thống Ngân hàng Việt Nam: Cạnh tranh – Phát triển – Hội nhập quốc tế – Xu hướng tất yếu của thời đại”, Tạp chí Ngân hàng, (8), tr.14-15-16. 9. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lê Nin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Nguyễn Đức Hoàn (2005), “Vốn tín dụng ngân hàng thúc đẩy kinh tế – xã hội tỉnh Sơn La”, Tạp chí Ngân hàng, (5) tr.50-51-52. 11. Văn Lạc (2005), “Qua 5 năm thực hiện hai Nghị quyết ở một ngân hàng”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, (8), tr.12-15. 12. Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận án Thạc sỹ khoa học kinh tế, chuyên ngành Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 13. Nguyễn Văn Lê (2003), Tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ vùng duyên hải Miền Trung của NHNo&PTNT Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, chuyên ngành tài chính - lưu thông tiền tệ và tín dụng, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. 14. Hoàng thị Bích Loan (2005), “Nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại nhà nước trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Ngân hàng, (9), tr.1-2-3-4-27. 15. Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi bổ sung năm 2004) (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. V.I. Lênin (1976), Toàn tập Tiếng Việt, Tập 34, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 17. C.Mác (1976), Tư bản, Tập I, quyển 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. 18. NHNo&PTNT huyện Đại Lộc và chi nhánh NHNo&PTNT Vùng B (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng, báo cáo tín dụng 2001-2005, Đại Lộc. 19. NHNo&PTNT huyện Tiên Phước (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng 2005, Tiên Phước. 20. NHNo&PTNT KCN Điện Nam - Điện Ngọc (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng 2005, Điện Nam. 21. Đỗ Tất Ngọc (4/2005), “Đẩy mạnh tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí tài chính tiền tệ, (1), tr.17-18. 22. Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2002), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2001, Đại Lộc. 23. Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2003), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2002 , Đại Lộc. 24. Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2004), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2003, Đại Lộc. 25. Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2005), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2004, Đại Lộc. 26. Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2006), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2005, Đại Lộc. 27. Edward W. Reed, Edward K. Gill (1993), Ngân hàng thương mại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh. 28. Robert Raymond (1992), Tiền tệ ngân hàng và tín dụng, Viện Khoa học ngân hàng, Ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội. 29. Phan Xuân Sinh (2006), Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ An, Luận án Thạc sỹ kinh tế, Khoa kinh tế tài chính – ngân hàng, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. 30. Sổ tay tín dụng NHNo&PTNT Việt Nam (2004), Hà Nội. 31. Lê Văn Sở (2006), “Hiệu quả và giải pháp 15 năm cho vay kinh tế hộ của NHNo&PTNT Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (8), tr.7-8-9-10-11-12- 13. 32. Lê Văn Tề (chủ biên), Đặng Chí Chơn, Hồ Diệu, Ngô Hướng, Đỗ Linh Hiệp (1992), Tiền tệ và ngân hàng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 33. Lê Đức Thọ (2005), Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại ở nước ta, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Chuyên ngành Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 34. Thủ tướng Chính phủ (1999), Quyết định Số 67/1999/QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn, ngày 30/3/1999, Hà Nội. 35. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định Số 112/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, ngày 24/5/2006, Hà Nội. 36. Nguyễn Khắc Việt Trung (2004), “Bài học rút ra từ thành công của một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Ngân hàng, (7), tr.40-41-42. 37. Lê Khắc Trí (2005), “Các NHTM Việt Nam với việc xây dựng và phát triển thương hiệu”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, (15), tr.18-19-31. 38. Trần Đình Ty (2002), Quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ, Nxb Lao động, Hà Nội. 39. UBND huyện Đại Lộc, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, Đại Lộc. 40. UBND huyện Đại Lộc (2005), Văn bản Số 53/BC-UB, ngày 12/12/2005, Báo cáo tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn huyện Đại Lộc giai đoạn 2006-2010, Đại Lộc. 41. UBND huyện Đại Lộc (2004), Văn bản Số 240/UB-VP, ngày 20/9/2004, Về việc tăng cường các biện pháp xử lý nợ vay ngân hàng, lành mạnh hoá hoạt động tín dụng tại địa phương, Đại Lộc. 42. UBND huyện Đại Lộc (2006), Văn bản Số 143/UBND-VP, ngày 13/7/2006, Về việc tăng trưởng vốn tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng, lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng, Đại Lộc.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Đại Lộc, Quảng Nam.pdf
Luận văn liên quan