Mặc dù lạm phát không phải là vấn đề mới, xét trên cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn, kể cả thực tiễn thế giới và Việt Nam, nhưng đây vẫn tiếp tục là vấn đề gây tranh cãi với nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối ngược nhau, đặc biệt là trong bối cảnh của một nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tỉ lệ lạm phát cao tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, hay nói cách khác tỉ lệ lạm phát gây nên những bất ổn kinh tế và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, tỷ lệ lạm phát vừa phải có tác động kích thích tốc độ tăng trưởng kinh tế.
40 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2482 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thông thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, đo những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh nghĩa) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động bao gồm cả các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ y là khoản chi trả dự định sẽ tự động tăng theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phat xảy ra).
Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) là sự trên lý thuyết trong giá cả sinh hoạt của một cá nhân, trong đó cá chỉ số giá tiêu dùng được giả định một cách sấp sỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận vơi nhau là có hay không việc một CLI cụ thể nào đó cao hay thấp hơn so với CLI dự tính CLI có thể được thưc hiện bằng sự ngang giá lúc mua để phản ánh sự khác biệt trong các giá cả của đất đai hay hàng hóa khác trong khu vực.
Chỉ số giá tiêu sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhập được. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lơi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kì sự tăng trong phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI ngày “hôm nay’’ mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong sự khác biệt quan trọng phải tính đến là dịch vụ.
Chỉ số giá buôn bán đo sự thay đổi trong giá cả của một sự lựa chọn các hàng hóa buôn bán (thông thường trước khi bán có thuế). Chỉ số này rất giống với PPI .
Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của sự lụa chọn các hàng đó. Trong trường hợp bán vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên viêc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó dựa trên tỉ lệ của tổng giá trị tiền được thêm vào GDP (danh nghĩa) với phép đo GDP đã điều chỉnh lạm phát( giá cố định hay GDP thực). Nó là thước đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, cục dự trữ liên bang chuyển sang khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các pháp khử lạm phát khác để tính toán các biện pháp kiềm chế lạm phát của mình.
Chỉ số giá cả chi phí tiêu dùng cá nhân (CPEPI). Trong báo cáo chính sách tiền tệ Quốc Hội sáu tháng một lần của mình ngày 17 tháng 3 năm 2000, Federal Open Market Committee nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang “chỉ số giá cả dạng chuổi của các chi phí tiêu dùng cá nhân”.
3.1. Các loại lạm phát
Lạm phát vừa phải là lạm phát ở mức độ thấp hay còn gọi là lạm phát 11 con số. Biểu hiện ở giá cả hàng hóa tăng chậm khoảng 10% trở lại. Trong đó đồng tiền mất giá không lớn, chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh. Loại lạm phát này thường được các nước phát triển duy trì một chất xúc tác cho nền kinh tế phát triển.
Lạm phát phi mã: loại này xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỉ lệ hai hoặc ba con số 20%, 100%, 200%, khi lạm phát phi mã phát sinh nó bắt đầu ảnh hưởng đến đời sống xã hội.
Siêu lạm phát: Xảy ra khi tốc độ tăng vượt cả lạm phát phi mã. Nếu trong điều kiện lạm phát phi mã vẫn tồn tại trong điều kiện cá biệt như Brazin, Irael có mức lạm phát 200%/ năm, song tốc độ phát triển kinh tế vẫn tốt trong điều kiện siêu lạm phát, người ta đã ví nó như căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác động rất lớn đến nền kinh tế mà lịch sử lạm phát thế giới đã ghi nhận.
3.2.Tác động của lạm phát
3.2.1 Tác động tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel Jame Tobin nhận định rằng lạm phát (tỉ lệ giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ “ dầu bôi trơn” để miêu tả tác động của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà đầu tư mở rộng sản xuất, việc làm được tạo thêm tỉ lệ thất nghiệp giảm.
3.2.2 Tác động tiêu cực
Trong lịch vực sản xuất kinh doanh: Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, giá cả hàng hóa tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn. Quy mô sản xuất không tăng hoặc giảm sút do nhu cầu phải bổ xung vốn đầu tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế sẽ mất cân đối vì sẻ có xu hướng phát triển những ngành sản xuất có chu kì ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh còn những nghành sản xuất có chu kì dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu hướng bị đình đốn, phá sản. Vì vậy trong điều kiện có lạm phát, lãnh vực thương nghiệp thường phát triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá điều kiện kinh doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác hạch toán chỉ còn là hình thức.
Trong lĩnh vực thương mại: Người ta từ chối tiền giấy trong lĩnh vực là trung gian trao đổi đầu thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng hóa đầy khỏi tay mình những đồng tiền mất giá. Điều này càng làm cho lưu thông tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra còn là môi trường tốt cho những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh, như đầu cơ, tích trữ gây cung cầu hàng hóa giả tạo…
Trong lĩnh vực tiền tệ tính dụng: Tín dụng cũng bị rơi vào khũng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền giảm, lưu thong của tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thong của thị trường tăng đột biến, hoạt động của hệ tín dụng rơi vào tình trạng khũng hoãng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán, và thua lỗ trong kinh doanh dẫn hệ thống tiền tệ bị rối loạn không thể kiểm soát nổi.
Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: Tuy lúc đầu lạm phát mang lại cho NSNN qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân, nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của ngân sách nhà nước chủ yếu là thế ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty xí nghiệp bị phá sản, giải thể.. đại bộ phận tầng lớp nhân dân sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá thực tế của tiền lương giảm sút nghiêm trọng dẫn đến trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt nền kinh tế xã hội và nhà nước cần phải cần phải cân bằng nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế với sự đòi hỏi phải kiềm chế lạm phát.
PHẦN HAI. THỰC TRẠNG
2.1. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2010
Việt Nam trong những năm gần đây tình hình lạm phát diễn biến rất phức tạp. Chỉ số lạm phát ở Việt Nam không ổn định và có xu hướng tăng dần.. Kể từ năm 1993, lạm phát đã được khống chế khá tốt và thường dưới 2 con số. Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kỳ lạm phát thấp nhất của Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0.1%, -0.6% và 0.8%. Thời kỳ này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 – 1998.
Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Trước năm 2000 tốc độ lạm phát giảm và thậm chí âm, các năm liên tiếp 2000 và 2001 với mức tương ứng là -1,6% và -0,4%. Tuy nhiên, lạm phát cao đã xuất hiện sau năm 2002 bằng sự đảo chiều và tăng nhanh tới 4,4% so với năm trước. Những năm tiếp theo chỉ số lạm phát không giảm mà tiép tục tăng và bùng nổ vào những năm 2009, 2010.
Kết thúc năm 2007 chỉ số lạm phát của Việt Nam là 12.63%,và đặc biệt tang vào những tháng cuối năm, đây là một con số khá cao so với mức tăng trưởng GDP của năm là 8,5%. Nhưng con số không chỉ dừng lại ở đó. Bước sang năm 2008 tình hình lạm phát ngày càng tăng cao. Chỉ với 3 tháng đầu năm 2008 chỉ số lạm phát đã leo lên trên 9% một kỉ lục mới trong nhiều năm qua. Theo số liệu thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2008 tăng tới 2,99% so với tháng 2 khiến lạm phát 3 tháng đầu năm tăng 9,19% so với tháng 12/2007 và cao hơn 19,39% so với cùng kì năm 2 Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều.
Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu này có thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%. Ngoài ra, nền kinh tế hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những tháng sắp tới. Đứng đầu về mức độ tăng giá là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện với mức lên tới 5,76% so với tháng trước, do hệ quả của việc tăng giá xăng dầu vào cuối tháng 2, mức tăng đột ngột từ 10200đ/lit lên 13900đ/lit với đầu diesel và từ 13.000 lên 14500đ/lít vói xăng khiến tất thảy các đơn vị kinh doanh vận tải hàng hóa, hành khách đều không thể ngồi yên mà đồng loạt tăng giá cước. đứng thứ hai với mức tăng là 3,88% nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống cũng có tác động đến chỉ số chung của CPI, đặc biệt là các mặt hàng lương thực tăng lên rất cao với con số “ trên trời ” tăng 10,5% so với tháng 2. Cũng chịu tác động từ việc tăng giá xăng đầu vào cuối tháng 2 nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (bao gồm : tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) đã tăng tới 3,55%, ngoài sắt, thép, xi măng … tăng cao thì gạch xây dựng cũng tăng ở mức không tưởng, hiện giá gạch là 1.800 tới 2.000đ /1viên tăng 3-4 lần so với trước Tết Nguyên Đán.
Các trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước là Hà Nội và TP.HCM cũng ở mức tăng giá cao là 1.9%. Theo cục thóng kê Hà Nội, CPI trong 3 tháng đầu năm của Hà Nội đã tăng ở mức hai con số với 15,3%, trong khi đó, chỉ só giá tiêu dùng TP.HCM trong tháng 3 tăng 1,95% so với tháng 2 đẩy CPI quí 1 lên tới mức 7,2% cao nhất tronh nhiều năm nay.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao làm cho lạm phát không có dấu hiệu giảm, lạm phát tháng 5/2008 lên tứi 3,91%, tính chung 5 tháng đầu năm lạm phát leo lên tới 15,96% so với tháng 12/2007 con số vượt ra ngoài dự báo của rất nhiều chuyên gia và so với cùng kì năm 2007 lạm phát tăng 19,09%. Trong tháng 5 thì “ thủ phạm ” chính gây tăng giá đột biến là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống. trong khi 9 nhóm hàng còn lại trong rổ hàng hóa tính CPI chỉ có 2 nhóm tăng dưới 2% còn lại 7 nhóm tăng dưới 1% thì nhóm có quyền số lớn nhất là hàng ăn và dịch vụ ăn uống lại bùng phát ở mức tăng 7,25% so với tháng trước. Cùng với các địa phương ở Hà Nội và TP.HCM cơn sốt ảo của gạo đã đẩy giá của nhóm hàng lương thực tăng tới 22,19% so với tháng 4. cùng với lương thực, thực phẩm, giá vàng và USD cũng tăng lên, giá USD tăng 1,02% so với tháng 4. Tổng kết 6 tháng đầu năm 2008, chỉ số giá bình quân chung 6 tháng so với cùng kì năm trước tăng 22.99% trong đó hàng ăn và dịch vụ tăng 28,08%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 20,11%, giao thông, bưu chính viễn thông tăng 19,39%, thuốc và dụng cụ y tế 31,52%, hàng hóa và dịch vụ khác tăng 15,83%. Xem xét động thái chỉ số CPI của kinh tế 6 tháng đầu năm ta thấy CPI của tháng 1 và tháng 2 khá cao (2,38%,3,56%) do việc tăng giá của các mặt hàng trong tết. Sang tháng 3 CPI đã giảm xuống còn 2,99%, đến tháng 4 tiếp tục giảm xuống còn 2,2%. Thế nhưng như đã biết đến tháng 5 CPI lại tiếp tục tăng vọt lên 3,91% so với tháng 4 khiến CPI của cả 5 tháng tăng đến mức 15,96% so với cuối năm 2007 và nếu so CPI với tháng 5/2007 thì CPI của tháng 5/2008 đã tăng 25%, cao nhất trong vòng 12 năm qua, vượt xa dự báo của nhiuều nhà chuyên gia. Trong khi cùng kì năm 2007, con số tương ứng chỉ là 4,32%. Sang tháng 6 do nỗ lực phấn đấu kiềm chế lạm phát, CPI đã giảm mạnh chỉ còn 2,14% thấp hơn nhiều so với chỉ số của tháng 5 là 3,91% và là con số thấp nhất từ đầu năm đến nay. Nhưng trong những tháng tiếp theo thì tỷ lệ lạm phát lại không có dấu hiệu giảm mà còn tăng cao. Tỷ lệ lạm phát tháng 7 là 27,04% và tháng 8 là 28,3%, chỉ số CPI trung bìmh 8 tháng đầu năm lên đến 21,65%, tăng 22,14% so với 8 tháng đầu năm 2007, nếu so với cùng kì năm ngoái mức tăng đã lên tới 28,32%. Với tình hình lạm phát như hiện nay, Việt Nam được coi là nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất châu Á ước tính trung bình từ nay đến hết năm 2008 lạm phát Việt Nam sẽ vào khoảng 25%. Tuy nhiên, giới chuyên gia cảnh báo tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam có thể lên tới con số 30%.
Đây là biểu đồ thể hiện tình hình lạm phát của các tháng trong năm 2010
2.2 NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2010
Có thể tóm tắt các yếu tố tác động đến lạm phát xuất phát từ 3 nguyên nhân chính: cung tiền tăng quá mức, giá hàng hóa thế giới tăng cao đột ngột, và sức cầu về hàng hóa trong nước tăng trong khi sản xuất chưa đáp ứng kịp.
Thời gian qua, nhiều ý kiến đồng thuận cho rằng cung tiền được xem là nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam. Từ năm 2000 đến năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng hơn 10 lần, cung tiền M2 tăng hơn 7 lần, trong khi đó GDP thực tế chỉ tăng hơn 1 lần. Điều này tất yếu dẫn đến đồng tiền bị mất giá. Thực tế chúng ta dễ nhận thấy là lạm phát ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong cùng thời kỳ, mặc dù cùng chịu chung cú sốc tăng giá của hàng hóa thế giới.
Tại sao Việt Nam cần một mức tăng trưởng cung tiền cao như vậy? Nguyên nhân là do tỷ lệ đầu tư/GDP trong nền kinh tế Việt Nam khá cao, nhưng lại không tạo ra được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng.
Hàng năm, đầu tư trong nền kinh tế đều quanh mức 40% GDP. Tỷ lệ đầu tư lớn này đòi hỏi một mức tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao để phục vụ nhu cầu đầu tư. Trong khi đó, tăng trưởng GDP chỉ quanh mức 7%, thậm chí năm 2008 và 2009 chỉ lần lươt đạt mức 6.19% và 5.32%. Điều này cho thấy chất lượng tăng trưởng, đầu tư và phát triển ở Việt Nam vẫn cần được tiếp tục cải thiện. Đây là nguyên nhân sâu xa khiến cho lạm phát luôn ở trong tình trạng chực chờ, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Ngoài nguyên nhân tiền tệ kể trên, chúng ta xem xét những nguyên nhân còn lại xuất phát từ phía cầu và phía cung hàng hóa (lạm phát chi phí đẩy (cost push) và cầu kéo (demand pull)). Đây là những nguyên nhân trực tiếp và dễ thấy nhất.
Trong năm 2007, sự bùng nổ của nhu cầu tiêu dùng trong nước đã góp phần làm lạm phát tăng tốc. Cũng trong khoảng thời gian đó, giá cả của hàng loạt nguyên nhiên liệu như xăng dầu, sắt thép, và lương thực đều tăng mạnh, kích hoạt cho một đợt tăng giá mạnh mẽ của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nước. Lạm phát cao nhất tính theo năm đã lên tới 28% vào tháng 8/2008. Cuối năm 2008, với sự lao dốc của hầu hết các hàng hóa trên thế giới, lạm phát trong nước cũng được chặn đứng. Lạm phát giảm xuống mức thấp nhất chỉ còn 1.97% (YoY) vào tháng 8/2009.
2.3. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LẠM PHÁT
Chúng ta vừa xem xét thực tế lạm phát ở Việt Nam và một số nguyên nhân chủ yếu. Sau đây chúng ta phân tích các yếu tố có thể tác động đến lạm phát trong năm 2010 dưới ba nhóm chính: (i) nguyên nhân chi phí đẩy (tăng giá xăng dầu, điện nước, điều chỉnh tỷ giá...), (ii) nguyên nhân cầu kéo (kích cầu, thâm hụt ngân sách…), (iii) nguyên nhân tiền tệ (tăng cung tiền, tăng tín dụng…).
2.3.1 Điều chỉnh giá điện, xăng dầu và một số hàng hóa cơ bản khác
Sau dịp Tết Nguyên đán, giá nhiều mặt hàng cơ bản đã được điều chỉnh tăng. Giá điện tăng 6.8% từ 01/3/2010, giá xăng dầu điều chỉnh tăng 6.5% (tổng cộng 2 lần), than bán cho ngành điện tăng từ 28 – 47%. Phần lớn ý kiến đều quan ngại việc tăng giá điện và các hàng hóa cơ bản này sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá cả hàng hóa trong toàn bộ nền kinh tế và mức tăng trưởng GDP.
Tuy vậy, theo tính toán của Bộ Công thương việc tăng giá điện tác động trực tiếp chỉ làm CPI tăng 0.16%. Một số ngành công nghiệp với chi phí tiền điện cao (chiếm 30 - 40% giá thành) như cấp nước, điện phân… giá đầu ra sản phẩm tăng thêm khoảng 2.83 – 3.5%. Những ngành sản xuất thâm dụng năng lượng khác như cán thép, xi măng giá thành tăng thêm khoảng 0.20 – 0.69%. Tổng hợp chi phí tiêu dùng cuối cùng chỉ tăng từ 0.19 – 0.27%.
Thực tế, ước lượng mức độ tác động thực sự của việc tăng giá hàng hóa cơ bản này đến CPI là việc làm khó khăn. Việc tăng giá điện, xăng dầu ngoài ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, còn tác động lên kỳ vọng của người tiêu dùng. Nếu kỳ vọng về mức lạm phát cao trong tương lai thì mức lạm phát thực tế càng trở nên trầm trọng. Điều này thường xảy ra đối với những nền kinh tế mà cơ chế thị trường kém hiệu quả.
2.3.2 Ảnh hưởng của việc điều chỉnh tỷ giá
Ngày 10/02, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng thêm 3.3%, đưa mức trần tỷ giá chính thức lên 19,100 VND/USD. Nhiều nhận định cũng quan ngại về việc điều chỉnh tỷ giá này sẽ ảnh hưởng tới đà tăng giá của hàng hóa trong nước, vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện nay đã bằng khoảng 1.5 lần GDP. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD.
Nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của Việt Nam bị ảnh hưởng khá mạnh bởi tỷ giá. Vừa qua một số hàng hóa như sữa, sắt thép… cũng điều chỉnh giá bán sau khi tỷ giá được điều chỉnh. Hiện nay, nhiều nhận định còn cho rằng tỷ giá tiền đồng vẫn có khả năng tiếp tục được điều chỉnh trong thời gian tới. Do vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân rất đáng được quan tâm.
2.3.3 Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu
Năm 2010, mức lương cơ bản được điều chỉnh tăng khoảng 10-15%, tùy từng khu vực. Việc tăng lương tối thiểu sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp và ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa. Ngoài ra, việc tăng lương tối thiểu cũng có thể tạo ra một hiệu ứng tăng giá ăn theo trên thị trường. Hiện nay mức lương tối thiểu của Việt Nam là 730 ngàn đồng và Nhà nước đang dự kiến tang mức lương tối thiểu lên là 850 ngàn đồng.
2.3.4 Lạm phát do yếu tố cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xuất phát từ sự chênh lệch cung cầu làm cho giá hàng hóa biến động mạnh. Khi nhu cầu tăng cao đột biến trong khi nguồn cung chưa kịp thay đổi hoặc ngược lại khi nguồn cung giảm xuống cầu vẫn giữ nguyên đều làm cho giá hàng hóa tăng. Trong dịp Tết Âm lịch vừa qua, giá của nhiều hàng hóa tăng một cách đột biến là do nguyên nhân cầu kéo.
Năm 2009, các gói kích thích kinh tế và việc tăng chi tiêu của chính phủ khiến nhu cầu một số hàng hóa tăng mạnh. Hiệu ứng từ việc gia tăng nhu cầu này tiếp tục kéo dài sang năm 2010, gây sức ép lên giá cả nhiều hàng hóa. Ngoài ra, năm 2010 người dân có thể sẽ tăng cường chi tiêu khi triển vọng kinh tế khả quan hơn, tạo ra một sức cầu lớn hơn đối với nhiều loại hàng hóa.
2.3.5 Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ
Năm 2009, chính sách tiền tệ được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc được ấn định ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên đến 37.74%, và là mức khá cao so với trung bình những năm vừa qua. Tăng trưởng cung tiền M2 lên mức 28.7%, mức tăng này thấp hơn so với năm 2006 và 2007, nhưng vẫn khá cao so với năm 2008 và những năm còn lại trước đó.
Tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao trong năm 2009 sẽ ảnh hưởng đến lạm phát trong năm 2010. Chúng ta đều biết lạm phát có quan hệ chặt chẽ
2.4. ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2010
2.4.1. Ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống và nền kinh tế
“Trong năm 2008 và 2009, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tăng trưởng chậm hơn, lạm phát cao hơn và thâm hụt tài khoản vãng lai dãn rộng. Nhưng về trung và dài hạn, triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn tốt.”
Trên đây là một đoạn báo cáo của Ngân hàng phát triển châu Á ADB. Theo bản cập nhật ‘Triển vọng phát triển châu Á 2008’ của ADB, lạm phát cả năm 2008 của Việt Nam sẽ ở mức 25%, tức là tăng so với dự báo 18.3% trước kia của ngân hàng này. Tháng trước, Việt Nam thông báo lạm phát tháng tám đứng ở mức 28,3%, cao nhất trong vòng 17 năm qua. Tỷ lệ tháng bảy là 27,04%. Trong khi đó, thâm hụt thương mại tiếp tục tăng trong tám tháng đầu năm 2008, lên gần 16 tỷ đôla, tức là cao hơn mức 14,1 tỷ đôla của cả năm 2007. ADB cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam tuy chậm lại ở đầu năm 2008, nhưng cho tới giữa năm, đã có dấu hiệu cải thiện.
Từ những nhận định và số liệu đó, có thể nói lạm phát đã gây không ít biến động và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội cũng như nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Đặc biệt trong 2 năm 2007 và 2008. Vừa qua, tình hình lạm phát đã và đang là chủ đề nóng được đề cập khá nhiều trên các bài báo và các phương tiện truyền thông khác. Không phải ai cũng hiểu lạm phát là gì, song bất kỳ ai cũng phải chịu ảnh hưởng của nó, không ít thì nhiều.
Người Việt Nam nổi tiếng thế giới về mức độ lạc quan ở bất cứ hoàn cảnh nào. Song, gần đây đã có 95% người tiêu dùng thừa nhận lạm phát ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của họ, nhất là chỉ có 1/3 người lao động được tăng lương, trong khi giá cả của các loại hàng hóa đều tăng vọt, buộc 75% người tiêu dùng phải thay đổi thói quen mua sắm theo túi tiền”. Đây là kết quả nghiên cứu mới nhất vừa được ông Ralf Matthaes, Giám đốc Điều hành Công ty Nghiên cứu thị trường Taylor Nelson Sofres VN, công bố tại buổi gặp gỡ các doanh nghiệp VN do Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức ngày 25-8, tại thành phố Hồ Chí Minh.
Theo nghiên cứu vừa nêu, nếu người tiêu dùng ở Hà Nội vẫn trung thành với các thương hiệu quen thuộc khi chỉ có 8% chuyển sang sử dụng các nhãn hiệu rẻ tiền hơn thì ngược lại, 33% người tiêu dùng ở Đà Nẵng và 32% người tiêu dùng ở thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển sang dùng các nhãn hiệu rẻ tiền. Những người thu nhập thấp (dưới 3,5 triệu đồng/tháng) cũng mua sắm ít hơn 17,2% so với trước. Thực phẩm vẫn là ngành hàng được ưu tiên mua sắm với 75,5%, cao hơn cùng kỳ năm 2007 là 73,1%. Có 71% người tiêu dùng cho rằng giá cả là yếu tố quan trọng nhất để quyết định mua sắm; 63% trả lời “Tôi chỉ mua những loại thực phẩm mà tôi đã biết giá”; 70% cho biết luôn so sánh giá cả giữa những nhãn hiệu của các sản phẩm cùng loại và 59% nói “Không chỉ quan tâm đến giá trọn gói mà phải biết giá trên từng ký”. Bị ảnh hưởng bởi lạm phát, đời sống người dân, đặc biệt là dân nghèo, càng trở nên khó khăn hơn. Công nhân bỏ việc về quê do tăng lương không bù lại tăng chi phí sinh hoạt. Sản xuất kinh doanh đình đốn, vừa do tăng giá cả đầu vào, vừa do thiếu công nhân…
Các ảnh hưởng nhiều mặt này vừa được Seth Mydans, nhà báo tên tuổi người Mỹ ghi nhận trong bài phóng sự đăng trên hai tờ báo International Herald Tribune ở Pháp và The New York Times ở Mỹ. Ghé Hà Nội vào dịp lễ Vu Lan, nhà báo Mỹ Seth Mydans, một phân tích gia tinh tế về tình hình Việt Nam và châu Á đã mượn hình tượng truyền thống của ngày rằm tháng bảy để đề cập đến tác động nhiều mặt của việc giá cả tăng vọt trên đời sống hàng ngày tại Việt Nam:
Nhân dịp rằm tháng bảy, phong tục của người Việt Nam là cúng bái và đốt vàng mã để cầu an cho người thân đã quá cố cũng như cho các oan hồn. Trong những năm gần đây, đồ vàng mã càng lúc càng đa dạng từ xe cộ, nhà cửa cho đến quần áo, máy móc điện tử. Thế nhưng, theo Seth Mydans, tương tự như mọi mặt hàng khác tại Việt nam, giá cả vàng mã để đốt cho người chết cũng tăng vọt, và những người bán hàng cho biết là chưa bao giờ người ta lại mua đồ cúng ít như hiện nay.
Theo tác giả bài báo, với mức lạm phát trên 27 %, cao nhất châu Á, với giá lương thực tăng hơn 74% so với cách đây một năm, quả là kinh tế Việt Nam đang đi xuống một cách nghiêm trọng nhất từ ngày chuyển bước từ kinh tế chỉ huy qua kinh tế thị trường đến nay.
Vào tháng 07/2008, chính quyền đã nâng giá xăng lên thành 19.000 đồng một lít, tương đương với 1,2 đô la. Đấy là mức cao nhất từ trước tới nay. Còn thị trường chứng khoán èo uột của Việt Nam, bùng lên sôi nổi vào năm 2008, hiện nay gần như là đang đứng yên tại chỗ, sau khi lượng cổ phiếu trao đổi bị giảm 95%.
Bị sức ép tăng giá đến từ mọi phía, người dân bắt đầu phải giảm bớt ăn uống, hạn chế đi chơi, tìm thêm công ăn việc làm thứ hai, dời việc mua sắm những thứ quan trọng. Thậm chí có người còn chờ cho chi phí làm đám cưới hạ thấp trước khi quyết định lấy nhau.
Mặt khác, hàng trăm vụ đình công tại các nhà máy vốn là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua là một trong những biểu hiện sắc nét nhất của thái độ bất bình của người dân. Theo báo chí Việt Nam, một số công nhân tại các nhà máy đi đầu trong việc giúp Việt Nam vươn ra khỏi tình trạng nghèo đói trong thời gian qua, đã bỏ thành phố trở về quê sinh sống, vì đồng lương công nhân không cho phép họ chịu nổi sinh hoạt đắt đỏ tại các đô thị. Theo ông Ben Wilkinson, phó chủ nhiệm chương trình Việt Nam tại Trường Hành Chánh John F. Kennedy thuộc đại học Harvard giải thích: ''Một số người từ nông thôn lên tìm việc trong các khu công nghiệp đã thấy rằng không đáng tiếp tục nữa và họ đã trở về quê''.
Việt Nam theo nhà báo Mỹ, đã giảm bớt được đáng kể tỷ lệ cư dân nghèo khó từ 53% năm 1993 xuống còn 15% năm ngoái. Thế nhưng, nhiều người trong số này, những người trong thời gian qua đã có tiền mua được chiếc xe gắn máy đầu tiên, hay một chiếc điện thoại di động, ngày nay đã bị rơi trở lại xuống dưới ngưỡng nghèo khó. Vào tháng năm vừa rồi, trước Quốc Hội Việt Nam thủ tướng Nguyễn Tấn Đũng đã cho biết là số hộ gia đình có nguy cơ bị đói đã tăng lên gấp đôi trong thời hạn một năm.
Những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội do lạm phát gây ra cũng đã gây không ít khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Dù là trực tiếp hay gián tiếp, nền kinh tế Việt Nam cũng đang vì lạm phát mà bị trì trệ, đình đốn. Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng.
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% - 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại. Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Mặt khác, lãi suất tăng cao làm giảm đầu tư tư nhân, tăng chi phí vay mượn, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế xấu hơn, vĩ mô tiếp tục bất ổn, đời sống người lao động bị ảnh hưởng. Hiện nay, lãi suất tăng cao và cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng đã không còn nhiều tác động trong việc tiếp tục tăng nguồn huy động vốn mà chủ yếu là cạnh tranh để giữ khách hàng. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, Ngân hàng Nhà nước thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các Ngân hàng thương mại cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính - tín dụng. Vì vậy các Ngân hàng thương mại đang rất cần có những biện pháp kiềm chế lạm phát.
2.4.2. Ảnh hưởng đến việc cân nhắc phối hợp điều hành
2.4.2.1. Trong việc điều hành và phối hợp các công cụ chính sách của Ngân hàng nhà nước:
Để kiểm soát lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã phải thông qua hoạt động của thị trường mở để hút bớt số tiền đồng đã bơm ra dưới hình thức bán tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, việc hút tiền về từ lưu thông vào giai đoạn cuối năm 2009, đầu năm 2010 trong bối cảnh nhu cầu tiền đồng của các Ngân hàng thương mại là lớn và với trình độ quản lý rủi ro còn hạn chế của các Ngân hàng thương mại đã góp phần tạo nên sự thiếu thanh khoản tiền đồng của một số Ngân hàng thương mại, đã đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cao lên mức chưa từng có. Các Ngân hàng thương mại đồng loạt tăng lãi suất huy động và cho vay tạo nên cuộc cạnh tranh lãi suất không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng. Với diễn biến lạm phát tăng nhanh vào cuối năm 2009 và đầu năm 2010 và với một loạt các giải pháp kiểm soát lạm phát thực hiện đồng loạt của Ngân hàng Nhà nước, thị trường chứng khoán có nhiều biến động nóng lạnh thất thường và hiện đang ở mức sụt giảm nghiêm trọng. Kết quả là, đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước phải ngừng chiến dịch buộc các ngân hàng mua tín phiếu bắt buộc trong một thời gian. Ngân hàng Nhà nước phải xác lập trần huy động lãi suất tiền đồng và ngoại tệ cũng như trần qui mô tín dụng cho các Ngân hàng thương mại. Nhu cầu mua, bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại cũng biến động khôn lường tạo nên khó khăn cho việc điều hành, can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại hối. Trong tháng 1 và tháng 2 các Ngân hàng thương mại còn đua nhau bán ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước thì cuối tháng 3 đầu tháng 4 tình hình đã đảo ngược, nhiều Ngân hàng thương mại lại có nhu cầu mua ngoại tệ từ Ngân hàng Nhà nước sau khi Ngân hàng Nhà nước nới rộng biên độ tỷ giá cho phép sự lên giá của đồng Việt nam.
Với chính sách quản lý luồng vốn khá thông thoáng nêu trên của Việt Nam, để kiểm soát lạm phát- mục tiêu số 1 hiện nay theo chỉ đạo của Chính phủ thì việc phối hợp điều hành giữa NHNN và các bộ ngành càng trở nên quan trọng hơn. Nếu NHNN vẫn tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt và ổn định tỷ giá thông qua việc can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì khả năng xuất khẩu nhưng Bộ Tài chính và Bộ kế hoạch đầu tư vẫn tiếp tục huy động luồng vốn nước ngoài và sử dụng không hiệu quả thì luồng vốn nước ngoài tiếp tục đổ vào và gây sức ép mua ngoại tệ với Ngân hàng Nhà nước và kéo theo áp lực lạm phát. Trường hợp linh hoạt hơn cơ chế tỷ giá thông qua việc mở biên độ để khống chế lạm phát thì gây ảnh hưởng đến xuất khẩu và cán cân vãng lai hiện đang thâm hụt ở mức báo động lại càng thâm hụt hơn và có nhiều khả năng tạo nên khủng hoảng trong tương lai. Mặt khác theo nghiên cứu của IMF thì tác động của việc cho phép lên gia tiền đồng để kiểm soát lạm phát là không lớn, chỉ ở mức nếu tăng 1.2% tỷ giá thực (REER) thì làm giảm tỷ lệ lạm phát đi 0,26%. Mặt khác, trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thì hàng dầu thô, dệt may và gạo chiếm chủ yếu (trên 40%) mà giá trị xuất khẩu của các mặt hàng này chủ yếu dựa vào kết quả của sản xuất và khả năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế dựa vào chất lượng sản phẩm và hàng nhập khẩu cũng chủ yếu là nguyên nhiên vật liệu nên sẽ phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh hơn là tỷ giá. Do vậy sử dụng đơn thuần công cụ tỷ giá để kiểm soát lạm phát là chưa đủ.
Đối với công cụ lãi suất, các nước không bị tình trạng đô la hoá và có mặt bằng lãi suất thấp có thể sử dụng để kiếm soát lạm phát bằng cách tăng lãi suất và thả tỷ giá tương đối tự do. Tuy nhiên ở Việt Nam, với mặt bằng lãi suất cao trong khu vực và trên thế giới và với bối cảnh khá tự do hoá các giao dịch vốn thì biện pháp tăng lãi suất để thắt chặt tín dụng sẽ khó phát huy tác dụng. Cụ thể, khi lãi suất lên cao, do chênh lệch lãi suất trong và ngoài nước và với bối cảnh lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng giảm càng làm tăng luồng vốn đổ vào Việt Nam. Tín dụng bằng USD tăng nhanh và có xu hướng nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi USD để mua trái phiếu VND của các NHTM. Khi đó, áp lực lạm phát không giảm mà còn tăng.
2.4.2.2.Điều hành chống lạm phát còn chưa đồng bộ, nhịp nhàng
Trong cuộc tọa đàm "Kiềm chế lạm phát, tiếp tục đưa nền kinh tế phát triển ổn định bền vững" ngày 14/4/2008 vừa qua, đa số ý kiến đều cho rằng: Sự phối hợp của các cơ quan quản lý vĩ mô trong "cuộc chiến" chống lạm phát còn chưa đồng bộ, nhịp nhàng.
Đơn cử trong tháng 2.2010, khi ngành ngân hàng đang cố hết sức để điều hành ổn định lãi suất, Bộ Công thương lại cho phép nhiều ngân hàng triển khai các chương trình khuyến mại lớn để huy động vốn, gây ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường tiền tệ. Nếu như cách đây vài năm, việc lạm phát mới chỉ được nhìn nhận trên cơ sở yếu tố khách quan bên ngoài thì nay, yếu tố tiền tệ đã được coi có tác động không nhỏ đến lạm phát và lạm phát đã được dồn tích từ nhiều năm. Tính đến nay, mức độ lạm phát ở Việt Nam đã tăng cao, năm 2009 và quý I/2010, chỉ số lạm phát ở Việt Nam đều tăng cao hơn một số nước láng giềng. Theo Hiệp hội Ngân hàng, vừa qua, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã vào cuộc rất nhanh trong việc đưa ra các giải pháp kiềm chế lạm phát (việc thành lập Tổ giám sát thị trường tiền tệ; thống nhất lãi suất...). Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành còn thiếu đồng bộ. Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà cũng thừa nhận: Sự phối kết hợp giữa các công cụ chính sách còn yếu, chính sách này có khi bị rào cản bởi chính sách khác.
Về phía hoạt động sản xuất kinh doanh, một yếu tố quan trọng trong chống lạm phát cũng bộc lộ nhiều vấn đề. Mặc dù các doanh nghiệp đều cố gắng hưởng ứng kêu gọi chống lạm phát của Chính phủ, nhưng ở cấp trung gian lại có khá nhiều rào cản.
2.4.3. Ảnh hưởng đến uy tín quốc tế
Trên thực tế, đặc biệt là từ những tháng nửa cuối năm 2009, đã và đang có những điểm nhấn tích cực rất căn bản và xuất hiện một số dấu hiệu mới tích cực cho phép cảm nhận về sự chuyển sáng dần của bức tranh triển vọng kinh tế nước ta trong thời gian tới.
Trong tình hình lạm phát như hiện nay, khó khăn thử thách là không tránh khỏi. Tuy vậy, uy tín quốc tế của Việt Nam ta không vì vậy mà bị thuyên giảm trong mắt các đối tác và các nhà đầu tư nước ngoài. Một minh chứng cho nhận định trên đó là phát biểu của ông Israel Hernandez, Thứ trưởng Bộ Thương mại kiêm Cục trưởng phụ trách công tác xúc tiến thương mại Hoa Kỳ trước báo giới tại TP.HCM sáng 19/6. Ông cho rằng tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay không ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hai nước, ông I. Hernandez đồng thời nhận xét: “Chính phủ Việt Nam đang làm việc rất tích cực, có thái độ cũng như những giải pháp nghiêm túc để cân bằng tăng trưởng và đối phó lạm phát”. Ông hy vọng chuyến thăm Hoa Kỳ sắp tới của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ tạo ra một bước phát triển quan trọng trong mối quan hệ giao thương Việt Nam - Hoa Kỳ ; đồng thời tìm ra biện pháp cho những vấn đề mà hai quốc gia cùng quan tâm liên quan tới Hiệp định khung về đầu tư song phương, đối phó tình trạng suy thoái kinh tế và kiềm chế lạm phát. Ông I. Hernandez cũng cho biết, hoạt động tiếp xúc trực tiếp giữa doanh nghiệp hai nước trong suốt chuyến thăm đã đáp ứng dự định và kỳ vọng của nhiều công ty Hoa Kỳ, giúp họ có thông tin rõ ràng hơn cho việc thiết lập và mở rộng kinh doanh xuất khẩu trong những lĩnh vực công nghiệp hàng đầu như: năng lượng, môi trường, viễn thông, du lịch, giao thông vận tải, giáo dục và y tế. Tại TP.HCM, các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã trực tiếp đối thoại với lãnh đạo các Sở, ngành, hiệp hội và doanh nghiệp thành phố để có những thông tin cụ thể về chính sách đầu tư cũng như các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội lớn.
PHẦN BA. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP, KẾT LUẬN
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP
3.1.1. Chính sách tài chính
Cùng với các biện pháp để tăng thu cho ngân sách nhà nước, cần thực hiện chính sách tài chính chặt chẽ, tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước
Tăng thuế xuất khẩu ở mức phù hợp đối với một số loại tài nguyên, khoáng sản, thuế nhập khẩu và thuế nội địa một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu, xa xỉ; chống thất thu thuế
Thực hiện chính sách tiết kiệm đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm ngặt trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đưa nội dung thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, trong sản xuất và đời sống vào chương trình cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong năm 2011 và những năm tiếp theo để giảm bội chi ngân sách xuống mức thấp hơn 5% GDP.
Ngoài việc tiết kiệm 10% chi thường xuyên, cần cắt giảm thêm việc mua sắm những thứ chưa cần thiết; giảm triệu tập các hội nghị toàn quốc; giảm các khoản chi tiếp khách, các đoàn công tác trong nước và nước ngoài bằng vốn ngân sách mà không thiết thực. Giảm các hoạt động lễ hội, lễ kỷ niệm, đón nhận huân chương, danh hiệu thi đua gây tốn kém, lãng phí...; tiết kiệm năng lượng, phương tiện triệt để hơn nữa. Không bổ sung chi ngân sách ngoài dự toán, trừ những khoản chi hết sức cần thiết.
Nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng. Rà soát và kiên quyết cắt giảm, không bố trí vốn đầu tư các công trình chưa thật sự cấp bách trong năm 2008 hoặc hiệu quả đầu tư thấp. Tập trung các nguồn vốn để bảo đảm hoàn thành các công trình trọng điểm quốc gia, các công trình hoàn thành vào năm 2010 đúng tiến độ, không để kéo dài. Điều chỉnh kịp thời giá đầu vào các công trình đầu tư từ ngân sách để bảo đảm đúng tiến độ.
Rà soát, chấn chỉnh hoạt động đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn. Sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) trước khi nhân rộng.
3.1.2. Chính sách tiền tệ
Ngân hàng nhà nước nắm chắc thông tin, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, việc cho vay kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh doanh tiền tệ khác. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng hợp lý dư nợ tín dụng, khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và kiềm chế lạm phát. Tăng cường công tác giám sát các tổ chức tín dụng, bổ sung các công cụ giám sát theo cơ chế thị trường, thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn những biến động trên thị trường tín dụng, tiền tệ.
Quản lý chặt chẽ việc thành lập mới, việc phát hành cổ phiếu, tăng vốn điều lệ của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bất động sản, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước, các ngân hàng thương mại theo hướng đề ra những yêu cầu, tiêu chí theo thông lệ của nền kinh tế thị trường để các chủ thể kinh doanh tiền tệ phải thật sự lành mạnh, bảo đảm lợi ích của mình và của cả nền kinh tế
Kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài và tỉ giá. Điều hành tỉ giá giữa VND với USD và các loại ngoại tệ nói chung với biên độ hợp lý. Sớm áp dụng các biện pháp quản lý nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII) như nhiều nước đã áp dụng thành công. Tiếp tục có giải pháp tích cực, có hiệu quả, chống đô la hoá nền kinh tế
3.1.3. Quản lý thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản
Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn vay ngân hàng của các công ty để đầu tư vào thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản; từng bước lành mạnh hoá hai loại thị trường này, khắc phục tình trạng đầu cơ, đẩy giá lên cao như thời gian qua.
Chỉ đạo, rà soát để những đơn vị có đủ điều kiện và năng lực kinh doanh chứng khoán hoạt động lành mạnh; kiên quyết không cho thành lập, hoạt động đối với những đơn vị không đủ điều kiện kinh doanh. Tiếp tục thực hiện tốt chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cung cấp hàng hoá có chất lượng cho thị trường
Sớm ban hành chính sách thuế chống đầu cơ bất động sản; các chính sách và thủ tục hành chính thông thoáng để thị trường chứng khoán và bất động sản phát triển một cách lành mạnh.
3.1.4. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân, chống đầu cơ, trục lợi nâng giá. Khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập siêu
Rà soát và có chính sách, giải pháp để bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, đặc biệt là các mặt hàng chiến lược phục vụ cho sản xuất và đời sống, có kế hoạch chủ động nhập khẩu bù đắp thiếu hụt. Có cơ chế, chính sách để các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn kinh doanh các mặt hàng chủ lực của nền kinh tế được hình thành quỹ bảo hiểm rủi ro theo nguyên tắc thị trường, lấy lãi bù lỗ.
Có biện pháp ngăn ngừa việc kinh doanh chồng chéo của những đơn vị này để tránh dẫn đến tăng cung, cầu giả tạo, cạnh tranh không lành mạnh, đẩy giá thị trường lên cao, sử dụng vốn nhà nước không hiệu quả.
Tăng cường hơn nữa vai trò nhà nước về quản lý giá, yêu cầu các doanh nghiệp chưa tăng giá một số mặt hàng chiến lược có ảnh hưởng tới giá cả chung trên thị trường, tới sản xuất và đời sống nhân dân (điện, xăng dầu, xi măng, sắt, thép, than, nước,...)
Tăng cường các biện pháp kiểm soát, chống đầu cơ tích trữ, xử lý nghiêm khắc, kịp thời những trường hợp đầu cơ trục lợi, buôn lậu, lợi dụng tình hình để tăng giá, kiếm lời. Phát huy vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong việc vận động, tổ chức các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cung cấp đủ hàng hoá, góp phần ổn định thị trường, giá cả
Trước mắt, cần có chính sách và tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, duy trì và thúc đẩy được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu: nghiên cứu việc giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp xuất khẩu; điều hành chính sách tài chính, tiền tệ chủ động, linh hoạt, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có hợp đồng sản xuất, xuất khẩu có hiệu quả, đa dạng các hình thức thanh toán... Về lâu dài, cần có chiến lược, kế hoạch, cơ chế, chính sách để cơ cấu lại việc sản xuất hàng xuất khẩu, giảm nhanh xuất khẩu khoáng sản và giảm dần xuất khẩu sản phẩm nguyên liệu thô, hàng gia công lắp ráp, tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao; mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác mới, các thị trường mới...
Quản lý chặt chẽ, có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Sử dụng các biện pháp không trái với các quy định của WTO để hạn chế nhập khẩu các sản phẩm không nhất thiết phải nhập khẩu, nhất là việc nhập các mặt hàng xa xỉ (ô tô, rượu ngoại đắt tiền...), giảm tối đa việc nhập siêu. Thực hiện các biện pháp tổng hợp, nghiêm ngặt, đủ mạnh để chống nhập lậu, gian lận thương mại.
3.1.5. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển đi đôi với việc tăng cường các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân
Triển khai tốt cơ chế, chính sách và hỗ trợ kịp thời những địa phương, nhân dân vùng gặp thiên tai, dịch bệnh để nhanh chóng khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh, ổn định đời sống. Có chính sách khuyến khích đầu tư cho nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, thu hút đầu tư vào khu vực nông thôn.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đơn giản, công khai, minh bạch về thủ tục, đề cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, giảm phiền hà, tiêu cực, tạo môi trường thuận lợi, hấp dẫn cho thu hút đầu tư và hoạt động của doanh nghiệp. Có biện pháp tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng do giá nguyên, nhiên liệu tăng cao. Điều chỉnh kịp thời giá dự toán các công trình đang triển khai có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có khả năng phát huy hiệu quả nhanh để sớm hoàn thành và đưa vào hoạt động. Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho những doanh nghiệp gặp khó khăn trong một thời hạn nhất định
Tăng cường thực hiện các chương trình hỗ trợ người nghèo. Tiết kiệm chi tiêu, dành ngân sách và đẩy mạnh việc huy động từ các nguồn lực xã hội bổ sung cho các chương trình trợ giúp người nghèo, vùng nghèo bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Điều chỉnh lộ trình tăng lương sớm hơn theo đề án để giảm bớt khó khăn cho cán bộ, công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và công nhân sản xuất trong các doanh nghiệp.
3.1.6. Đẩy mạnh công tác tư tưởng, chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền để thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về đánh giá tình hình, nguyên nhân, giải pháp; nêu cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của nhân dân trong việc khắc phục những khó khăn hiện nay
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân hiểu rõ tình hình, những giải pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước, giữ vững niềm tin vào sự ổn định và phát triển của đất nước
Cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt Kết luận của Bộ Chính trị, thống nhất nhận thức; theo chức năng, nhiệm vụ của mình, triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo trong Kết luận của Bộ Chính trị, động viên các tầng lớp nhân dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển sản xuất, kinh doanh; đồng tâm hiệp lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức trước mắt, tiếp tục đưa nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ năm 2010 và 5 năm 2006 - 2010 theo Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra.
3.2. KẾT LUẬN
Mặc dù lạm phát không phải là vấn đề mới, xét trên cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn, kể cả thực tiễn thế giới và Việt Nam, nhưng đây vẫn tiếp tục là vấn đề gây tranh cãi với nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối ngược nhau, đặc biệt là trong bối cảnh của một nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tỉ lệ lạm phát cao tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, hay nói cách khác tỉ lệ lạm phát gây nên những bất ổn kinh tế và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, tỷ lệ lạm phát vừa phải có tác động kích thích tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Việc chống lạm phát không phải ngày một ngày hai là có thể làm giảm tỷ lệ lạm phát mà cần phải có thời gian và phải có những giải pháp hiệu quả, khoa học Nhóm giải pháp mà chính phủ đưa ra từ đầu năm đã có những tín hiệu đáng tích cực và được đa số người dân, giới đầu tư trong và ngoài nước ủng hộ, đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào tương lai phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, không thể lơ là trong cuộc chiến chống lạm phát này, Chính phủ cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp, đặc biệt là kiểm soát đầu tư công, cắt giảm chi tiêu một cách có hiệu quả, chống đầu tư dàn trải lãng phí; kết hợp một cách hài hòa các chính sách tiền tệ, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ; Chính sách tài chính chặt chẽ, tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước;Quản lý thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản phát triển một cách lành mạnh; Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân, chống đầu cơ, trục lợi nâng giá. Khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập siêu. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển đi đôi với việc tăng cường các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân. Đẩy mạnh công tác tư tưởng, chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền để thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về đánh giá tình hình, nguyên nhân, giải pháp; nêu cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của nhân dân trong việc khắc phục những khó khăn hiện nay… có những hành động tin cậy truyền tải đến người dân để tạo niềm tin trong dân chúng, thấy được quyết tâm của chính phủ khi đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát lên hàng đầu. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển sản xuất, kinh doanh; đồng tâm hiệp lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức trước mắt, tiếp tục đưa nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững. Có như thế, tình trạng lạm phát cao mới có hy vọng đẩy lùi, ổn định kinh tế vĩ mô và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong những năm sau này.
PHỤ LỤC
1. Tình hình lạm phát của Việt Nam năm 2010
2. Biểu đồ tỉ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
.
3. Biểu đồ thể hiện CPI của Việt Nam từ 1992-2010
4. người dân mua hàng trong thời buổi bão giá
5. Cảnh người dân mua hàng lúc tình hình lạm phát giảm nhẹ.
6. Lạm phát một phần từ tỉ lệ gia tăng tiền tệ
7. Tỉ giá tiền Việt Nam so với ngoại tệ ngày càng giảm
8. Tình hình tăng trưởng tín dụng và CPI trong năm 2010
9. Nhận định về tình hình lạm phát năm 2011
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XII về tình hình kinh tế – xã hội năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011.
Báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn năm 2010.
IMF, Vietnam – Joint IMF/World Bank debt sustainability analysis, 2010.
Lương Xuân Quỳ, Mai Ngọc Cường và Lê Quốc Hội, Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2009 và khuyến nghị cho năm 2010, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số tháng 12 năm 2009.
Nguyễn Kế Tuấn và Ngô Thắng Lợi, Kinh tế Việt Nam năm 2009, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân năm 2010.
Số liệu thống kê hàng tháng của Tổng cục Thống kê trên website:
Victoria Kwakwa, Vietnam’s continued success in the post crisis world, the World Bank, 2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_chinh_tien_te_5748.doc