Luận văn Tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Đô thị ngày càng có vai trò to lớn trong sự phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hoá xã hội, không có một quốc gia nào được gọi là phát triển nếu như không có các đô thị phát triển đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của người dân, thực hiện tốt chức năng phục vụ nhân dân; đồng thời làm nền tảng, động lực, vai trò thúc đẩy sự phát triển của đất nước, vùng lãnh thổ hoặc địa phương khác. Để đổi mới tổ chức chính quyền đô thị trước hết cần phải sửa đổi bổ sung Luật Hành chính địa phương theo hướng điều chỉnh một cách chuyên biệt về chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị. Khi cần có thể quy định bằng những văn bản pháp luật chuyên biệt khác nhau cho từng loại thành phố để phù hợp với điều kiện, đặc điểm riêng có, và tùy vào qui mô lớn, nhỏ khác nhau cho phù hợp. Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh và áp dụng mô hình mới trong thực tế là một quá trình lâu dài, phức tạp động chạm tới nhiều vấn đề mang tính chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội đòi hỏi quyết tâm của các nhà chính trị, các nhà lập pháp, nó vượt ra khỏi những quan niệm khoa học thông thường về tổ chức chính quyền địa phương. Việc xây dựng mô hình tổ chức chính quyền đô thị phải bảo đảm được sự ổn định về mặt chính trị, kinh tế xã hội, không làm đảo lộn đời sống của các cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương. Thiết lập mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị xuất phát từ đòi hỏi khách quan của đời sống đô thị, bảo đảm sao cho việc quản lý đô thị được thống nhất, thông suốt, không bị chia cắt, cản trở bởi các cấp quản lý đô thị như hiện nay. Đã đến lúc CHDCND Lào cần phải nghiêm túc và khẩn trương nghiên cứu, xem xét toàn diện, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh theo hướng nghiên cứu lại cơ cấu chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh; giảm thiểu sự phân chia cấp chính quyền trong nội bộ đô thị, đảm bảo hoạt động hành chính ở đô thị tập trung thống nhất112 cao, nhanh nhạy, có hiệu lực trực tiếp, đồng thời phát huy được những yếu tố tự quản, cộng đồng trong việc tự giải quyết những vấn đề riêng, đặt ra từ thực tiễn của các thành phố trực thuộc tỉnh. Đây thực sự là một đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, là giải pháp tích cực, cụ thể để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Để áp dụng mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh, cần phải có những bước thực nghiệm thích hợp, tránh tình trạng duy y chí chủ quan, nóng vội. Mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh trong luận văn này đã đề xuất là mô hình kết hợp sự quản lý tập trung thống nhất của nhà nước với sự trao một số quyền tự quản cho chính quyền đô thị nhằm mục đích vừa đảm bảo tính tập trung quyền lực của nhà nước, thống nhất quản lý đô thị, đồng thời khuyến khích tính chủ động, tính hiệu quả và huy động nguồn lực của chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh hiện nay.

pdf119 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 572 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách là yếu tố vô cùng quan trọng trong hệ thống chính trị kinh tế - xã hội. Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã khẳng 89 định “Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, kiện toàn Nhà nước dân chủ nhân dân phải gắn liền với việc nâng cao quyền làm chủ của dân và tất cả vì lợi ích của dân”. Nền hành chính hiện đại là nền hành chính phục vụ, nền hành chính đáp ứng các yêu cầu của một xã hội dân sự. Do vậy, nền hành chính đó cần phải được củng cố trên nguyên tắc đảm bảo quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Theo nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin, dân chủ là hình thức Nhà nước, dân chủ phải được quan niệm trong kỉ cương và trật tự; không thể có dân chủ “vô chính phủ”, vì dân chủ mà không trong khuôn khổ nhất định thì về thực chất là sự hỗn độn, vô trật tự mà điều này trái với yêu cầu khách quan về sự ổn định và phát triển của chính các quan hệ kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là cần tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước như thế nào để vừa đảm bảo chất nhân dân của Nhà nước, vừa phát huy được tiềm năng trí tuệ và công sức của nhân dân các bộ tộc Lào lại vừa đảm bảo, tính tập trung thống nhất, hiệu lực và hiệu quả của bộ máy hành chính Nhà nước. Đó cũng là điều có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của công cuộc cải cách nền hành chính ở nước CHDCND Lào hiện nay. Yêu cầu này phải được tiếp tục quán triệt, đề cao trong suốt tiến trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước Lào trên tất cả các khía cạnh của vấn đề; từ thể chế hoá chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; xác định mô hình tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ đến xây dựng các nguyên tắc hoạt động của bộ máy... Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu phát huy dân chủ, đảm bảo quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước cần được nhận thức với những nội dung căn bản như sau: Tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước đảm bảo nguyên tắc phục vụ nhân dân, lấy sự phục vụ nhân dân, tạo điều kiện thuận 90 lợi cho người dân trong việc làm ăn, kinh doanh và sinh sống làm mục tiêu cao cả, niềm vinh quang của bộ máy chính quyền và mỗi cán bộ công chức; Đảm bảo để nhân dân tham gia được nhiều nhất, tốt nhất vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước, các quyết định hành chính, hành vi hành chính đều phải dựa trên các căn cứ pháp luật, đảm bảo tính công khai, minh bạch; Thứ hai: Xây dựng bộ máy hành chính Nhà nước thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò, chức năng của Nhà nước đã thay đổi một cách căn bản. Bản chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hoạt động tự do, tự định đoạt trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể độc lập trong kinh doanh. Do vậy, Nhà nước với tư cách là người nắm quyền lực công phải đóng vai trò trọng tài, duy trì trật tự theo luật pháp để cho các hoạt động kinh tế - xã hội được vận hành một cách tự do, an toàn và đạt hiệu quả. Nhà nước quản lý ở tầm vĩ mô, đảm bảo môi trường thuận lợi và hỗ trợ khi cần thiết cho hoạt động kinh tế - xã hội mà không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động tác nghiệp của các chủ thể kinh tế - xã hội. Việc đầu tư vốn và sử dụng tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà nước hay các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cũng phải được tiến hành thông qua cơ chế kinh doanh và có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng cũng như của quần chúng nhân dân. Nhà nước nói chung và bộ máy hành chính Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động tác nghiệp của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập. Với cơ chế luật pháp rõ ràng, các chủ thể kinh tế, các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính, tự giác tuân thủ pháp luật, tự do và bình đẳng cạnh tranh để cung cấp cho xã hội và người tiêu dùng những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tốt nhất. Nhà nước hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi, duy trì trật tự, tiến hành thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm đối với các hoạt động kinh tế - xã hội. Vai trò mới này của Nhà nước là đòi hỏi khách quan của chính các quan hệ kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường chứ không phải 91 là điều xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người. Và từ vai trò, chức năng đó của Nhà nước đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với việc xây dựng tổ chức và các nguyên tắc hoạt động của bộ máy chính quyền Nhà nước cần phải phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong cơ chế kinh tế thị trường. Đảng nhân dân cách mạng Lào đã chỉ rõ: “...Chúng ta phải chú ý củng cố hệ thống hành chính Nhà nước theo hướng cơ quan hành chính cấp trung ương gọn nhẹ và thực hiện vai trò quản lý vĩ mô là chính, làm cho cơ quan hành chính địa phương có khả năng và năng lực hơn nữa trong việc tổ chức điều hành” [35, tr.61]. Có thể nhận thức được những yêu cầu của nền kinh tế thị trường đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước trên những nét chủ yếu như sau: - Bộ máy hành chính Nhà nước cần phải tinh, gọn. Về nguyên tắc, bộ máy hành chính phải đáp ứng yêu cầu phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo các quyền con người, nó không thể trở thành gánh nặng hay sự cản trở phát triển kinh tế - xã hội. Yêu cầu tinh gọn là tất yếu khách quan của chính các quan hệ kinh tế - xã hội đối với tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, như trên đã phân tích vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là quản lý ở tầm vĩ mô (vai trò gián tiếp so với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung) nên mỗi cơ quan trong bộ máy hành chính Nhà nước cần phải thực hiện sự quản lý tổng hợp, đa năng đối với ngành, lĩnh vực được phân công ở phạm vi tất cả các thành phần kinh tế chứ không chỉ riêng đối với kinh tế Nhà nước. Mặc khác, nội dung của quản lý Nhà nước đã có sự thay đổi, không phải với những can thiệp, chỉ đạo trực tiếp vào các hoạt động nghiệp vụ như trước mà chủ yếu là tạo môi trường chính sách, luật pháp, hỗ trợ, kiểm tra xử lý vi phạm... Chính vì vậy, sự cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian của bộ máy hành chính Nhà nước là điều trái với yêu cầu cho sự phát triển các quan hệ kinh tế - 92 xã hội trong cơ chế thị trường và nhất thiết phải khắc phục. Trên thực tế ở nước CHDCND Lào hiện nay, vấn đề đặt ra cần khắc phục một quan niệm sai lầm chỉ đơn giản tiến hành cải cách bộ máy hành chính theo kiểu “cơ học” là thu gọn số lượng đầu mối các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và số lượng các sở ban ngành ở địa phương. Ở một tư duy và tầm nhìn chiến lược về cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước, cần phải nghiên cứu quán triệt các quan điểm về bản chất, chức năng, vai trò của Nhà nước, của hệ thống hành chính Nhà nước cũng như của mỗi cơ quan trong hệ thống đó theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường, tuỳ theo trình độ và cấp độ phát triển của nó, từ đó xác định nhiệm vụ quyền hạn cùng với tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực, tài chính cần thiết, xác định thẩm quyền của mỗi cấp, mỗi cơ quan; phân công chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức một cách khoa học. Với tầm tư duy chiến lược về cải cách hành chính nói chung như vậy, việc cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính hiện nay cũng cần tránh cách hiểu và vận dụng sự phân cấp theo nghĩa là giao nhiều hơn các quyền vốn trước đây là của trung ương, của cấp trên cho chính quyền địa phương, cho cấp dưới thực hiện. Mỗi cấp, mỗi cơ quan, chức trách trong bộ máy hành chính Nhà nước có vị trí độc lập tương đối trong hệ thống hành chính thống nhất và sự phân cấp chính là sự xác định bằng luật pháp nhiệm vụ, quyền hạn một cách hợp lí, khoa học theo các cấp quản lý hành chính chứ không phải là quyền hạn của trung ương đem giao cho địa phương hay quyền hạn của cấp trên giao cho cấp dưới. Tất cả tạo nên tính thống nhất và sức mạnh cần thiết cho bộ máy hành chính Nhà nước nhằm đáp ứng những đòi hỏi lớn lao và phức tạp của các quan hệ kinh tế xã hội trong nền kinh tế thị trường. - Bộ máy hành chính nhà nước hiệu lực và hiệu quả. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi một bộ máy hành chính Nhà nước thống nhất, mạnh mẽ, đó là điều có tính quy luật. Sự mạnh mẽ của quyền lực Nhà nước trong thế giới hiện đại thể hiện chủ yếu ở quyền hành pháp và hệ thống 93 hành chính Nhà nước. Bởi lẽ nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh một cách bình đẳng nhưng cũng với nhiều diễn biến rất phức tạp, mau lẹ, khó lường và trong nó cũng chứa đựng nhiều nguy cơ mất ổn định, mất trật tự và nhiều hành vi vi phạm, xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể và của xã hội nói chung. Không ai ngoài Nhà nước có thể đóng vai trò là người duy trì trật tự pháp luật, đảm bảo để tự do và quyền của con người không bị xâm hại, để các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra trong an toàn và đạt hiệu quả cao. Bộ máy hành chính Nhà nước mạnh nghĩa là bộ máy ấy có đủ quyền uy và sức mạnh duy trì và củng cố trật tự, có đủ năng lực định hướng, hỗ trợ, dẫn dắt nền kinh tế - xã hội phát triển theo mục tiêu vì con người và tiến bộ xã hội. Trong nền kinh tế thị trường và hoàn cảnh quốc tế như hiện nay, bộ máy hành chính Nhà nước mạnh có nghĩa là bộ máy ấy phải đảm bảo vận hành một cách thông suốt, kịp thời bảo vệ, ngăn ngừa một cách hữu hiệu tất cả những gì xâm hại đến cuộc sống của người dân. Đồng thời hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước cũng phải hướng đến sự đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, đảm bảo cho mọi hoạt động của tổ chức Nhà nước, của xã hội đều nhằm phục vụ con người. Điều này thể hiện uy tín và sức mạnh của nền hành chính thông qua việc xác định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiệu quả của nền kinh tế - xã hội nói chung phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Hay nói cách khác, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước và hiệu quả của các hoạt động kinh tế - xã hội cùng được đánh giá trong một hệ thống chuẩn về hiệu quả kinh tế - xã hội nói chung. Hiệu quả của hệ thống hành chính Nhà nước có thể xác định được thông qua việc xác định, so sánh các chi phí cần thiết và kết quả đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước nói chung hay trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, một trong những đòi hỏi khách quan đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước là phải tiết kiệm 94 và hiệu quả. Không thể tổ chức và duy trì hoạt động một hệ thống hành chính không có hiệu quả, gây lãng phí cho Nhà nước và cho xã hội. Nói cách khác, bộ máy Nhà nước nói chung, bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng phải là tấm gương sáng cho sự tận tụy phục vụ xã hội, cho việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả những đồng tiền vốn mà xã hội và Nhà nước đầu tư vào đây. Ngày nay, tính hiệu quả về kinh tế - xã hội là một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với hệ thống bộ máy hành chính Nhà nước, cần phải được xem xét đánh giá thường xuyên từ phía Nhà nước và công dân cũng như các tổ chức xã hội. Nếu hoạt động không có hiệu quả, toàn bộ hệ thống tổ chức hay một khâu nào trong đó nhất thiết phải được xem xét lại và khắc phục vì sự thông suốt của bộ máy hành chính có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế - xã hội và đời sống hàng ngày của người dân. Thứ ba: Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào xác định điều cần thiết nhất hiện nay là phải cải cách chế độ phân chia cấp quản lý, cần phải giải quyền và trách nhiệm giải quyết vấn đề cho từng cấp một cách rõ ràng, nhất định. Đồng thời, cần phải có thể thức phối hợp chặt chẽ để phát triển quyền làm chủ của từng cấp trong việc thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình [35, tr.62]. Chúng ta có thể nhận thức được rằng về mặt cơ cấu tổ chức, chính quyền Nhà nước là khối thống nhất nhưng không phải là một thực hiện thể đơn lẻ. Sự phân chia thành các cấp trong bộ máy chính quyền Nhà nước là yêu cầu khách quan xuất phát từ phân tầng các phạm vi lợi ích của xã hội, trong đó có lợi ích toàn quốc, toàn dân tộc, lợi ích các địa phương và vùng lãnh thổ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước. Nguyên tắc này đòi hỏi đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước vào chính quyền trung ương đồng thời phát huy mạnh mẽ tính chủ động, độc lập, sáng tạo của chính quyền 95 địa phương. Để thực hiện nguyên tắc này, Chính phủ Lào phải tiếp tục được củng cố tổ chức một cách hợp lý, đảm bảo có một chính phủ mạnh với hiệu lực quản lý thông suốt từ trung ương đến cơ sở, tương xứng với vị trí, vai trò cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của đất nước. Các cơ quan của Chính phủ (bộ, cơ quan ngang bộ) phải đủ năng lực quản lý một cách toàn diện các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, mỗi cơ quan phải là đầu mối đắc lực giúp Chính phủ thống nhất quản lý thông suốt đối với các ngành các cấp, trên phạm vi cả nước về lĩnh vực liên quan. Trong điền kiện hiện nay, phân cấp, phân quyền cho địa phương, không đối lập với việc tập trung thống nhất quyền lực vào chính quyền trung ương, không đối lập với nguyên tắc tập trung dân chủ mà người lại là sự đảm bảo vững chắc cho nguyên tắc trung dân chủ. Xu hướng của các nền hành chính hiện đại trên thế giới là phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho chính quyền địa phương, đảm bảo tính độc lập trên cơ sở pháp luật của mỗi cấp chính quyền. Mỗi cấp chính quyền trong hệ thống hành chính Nhà nước hoạt động chủ yếu trên cơ sở luật pháp chứ không phải theo mệnh lệnh trực tiếp của cấp trên. Yêu cầu này thể hiện một trong những nội dung văn bản của Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Muốn đẩy mạnh được sự phân cấp, phân quyền trong hệ thống chính cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế luật pháp, đẩy mạnh sự kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan và người thiết chế và thể chế giảm sát tư pháp đối với hoạt động của bộ máy hành chính. 3.1.2. Phương hướng cụ thể của Bộ Nội vụ Lào Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đất nước đến nay, những tồn tại, hạn chế trong hoạt động quản lý các đô thị làm kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước Lào nói chung, Bộ Nội vụ Lào nói riêng đã nhận định phải đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, yêu cầu tổ chức chính quyền đô thị phải đảm bảo tính thống nhất và liên thông trên địa bàn về quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng và đời sống dân cư. Tinh thần của 96 việc đổi mới mô hình chính quyền địa phương chính là tạo lập được chính quyền địa phương ở các đô thị có sự khác biệt hợp lý với chính quyền địa phương ở vùng nông thôn, định hướng xây dựng đô thị theo hướng đổi mới cơ chế, chính sách, nâng cao chất lượng và quản lý chặt chẽ quy hoạch phát triển đô thị. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường gồm một số thành phố lớn, nhiều thành phố vừa và nhỏ liên kết và phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị ven biển. Như vậy, phương hướng của Bộ Nội vụ trong xây dựng mô hình chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh là vẫn tồn tại cơ quan chính quyền thành phố với vai trò, chức năng như chính quyền cấp huyện. Và việc thiết lập bộ máy hành chính ở đô thị vẫn chưa dựa trên căn cứ phân loại đô thị và mức độ phức tạp của các loại đô thị. Nhưng Bộ cũng đã bước đầu đề cập đến việc đảm bảo tính chỉnh thể thống nhất, không bị chia cắt về một lãnh thổ của một đô thị. Điều này có ý nghĩa là các đơn vị hành chính trong nội bộ đô thị không có ý nghĩa về mặt lãnh thổ, không phải là một đơn vị hành chính - lãnh thổ. Các đơn vị hành chính thuần túy trong nội bộ đô thị chỉ có ý nghĩa về mặt quản lý hành chính, không có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội. Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết để xây dựng bộ máy quản lý nhà nước ở đô thị phù hợp với tính chất, đặc điểm của đô thị về mặt hành chính - lãnh thổ, kết cấu hạ tầng, quy hoạch phát triển cũng như về hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh trật tự và đời sống của cộng đồng dân cư đô thị. Xây dựng chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh phải xác định tách bạch tổ chức và nhiệm vụ của chính quyền ở đô thị và chính quyền nông thôn; chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh với chính quyền huyện, để thiết lập tổ chức bộ máy chính quyền đô thị phù hợp với đặc điểm của đô thị, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Tuy nhiên, do chưa có sự thống nhất về tư tưởng, nhận thức nên thực tế việc xây dựng mô hình chính quyền đô thị các thành phố trực thuộc tỉnh còn chậm, thiếu đồng bộ, còn nhiều lúng túng, 97 vướng mắc. Do đó, cần thống nhất về mặt tổ chức bộ máy chính quyền đô thị các thành phố trực thuộc tỉnh theo hướng: - Chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh là một cấp chính quyền hoàn chỉnh, gồm cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương và cơ quan hành chính tại địa phương. Giảm bớt cấp chính quyền trong nội bộ đô thị - cấp dưới thành phố là cấp cơ sở (cấp phường), không tổ chức bộ máy chính quyền hoàn chỉnh, chỉ có cơ quan hành chính phường hay phường là cơ quan nối dài để thực hiện hoạt động quản lý điều hành của thành phố. - Các cơ quan chuyên môn được tổ chức theo hướng quản lý tập trung, thống nhất, thông suốt; quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; trách nhiệm rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy tinh gọn và hợp lý; tăng cường tính chuyên nghiệp, giải quyết nhanh công việc của người dân, tổ chức; cải tiến phương thức quản lý; định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị về kết quả hoạt động. - Đối với cấp làng, không tổ chức HĐND thì vai trò giám sát của HĐND được thay thế bằng hoạt động giám sát của đại biểu HĐND theo địa bàn; tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp, tự quản, bảo đảm cho nhân dân có thể tham gia rộng rãi, liên tục vào quá trình quản lý đô thị. 3.2. Đề xuất mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào, luận văn thực hiện nghiên cứu mô hình chính quyền đô thị phù hợp với định hướng xây dựng chính quyền địa phương và bối cảnh đất nước trong thời kỳ mới. Theo yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong nền kinh tế thị trường, chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh cần phải có sự nhanh nhạy, thông suốt, đảm bảo gọn nhẹ, ít tầng nấc. 98 Trong điều kiện nước CHDCND Lào hiện nay, chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh nên tổ chức theo mô hình “một cấp chính quyền, hai cấp hành chính”. Theo mô hình này, cơ quan đại diện và cơ quan hành chính chỉ có ở cấp thành phố, còn ở cấp cơ sở chỉ thiết lập cơ quan hành chính, không tổ chức cơ quan đại diện để đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất. Sơ đồ 3.1. Đề xuất mô hình tổ chức chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào (Nguồn: Nghiên cứu của tác giả) 3.2.1. Hội đồng thành phố Chỉ thiết lập cơ quan đại diện ở cấp thành phố và sử dụng tên gọi Hội đồng thành phố thay cho tên gọi Hội đồng nhân dân, để đảm bảo tính bao quát, thể hiện rõ Hội đồng thành phố là cơ quan đại diện của nhân dân toàn thành phố. Nhiệm kỳ hoạt động của Hội đồng thành phố là 5 năm, và do cử tri thành phố bầu ra, số lượng đại biểu Hội đồng thành phố theo quy định của pháp luật, số lượng đại biểu quy định theo số lượng cử tri từng khu vực, từng cụm hay theo từng địa bàn, chịu trách nhiệm trước cử tri thành phố. Hội đồng thành phố thực hiện chức năng giám sát các cơ quan hành chính ở cấp thành phố. CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ - Chủ tịch thành phố - Văn phòng thành phố - Các phòng chuyên môn CƠ QUAN HÀNH CHÍNH LÀNG - Trưởng làng - Các chức danh chuyên môn - 99 Hội đồng thành phố có chức năng quyết định những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội của đô thị phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển của cả nước, hay vùng lãnh thổ và phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện mục tiêu và hoạt động quản lý của bộ máy hành chính các cấp trong phạm vi đô thị. 3.2.2. Cơ quan hành chính thành phố Cơ quan hành chính thành phố có chức năng thực hiện các nghị quyết của Hội đồng thành phố về thực hiện nhiệm vụ quản lý phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, lợi ích của xã hội...; thực thi nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn đô thị. Cơ quan hành chính cơ sở chủ yếu đóng vai trò thực thi các quyết định của cơ quan hành chính thành phố và Hội đồng thành phố; chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành phố và cơ quan hành chính thành phố về kết quả thực hiện nhiệm vụ và những vấn đề xảy ra trên địa bàn cơ sở. Với đặc điểm, tính chất phức tạp, đa dạng của vùng đô thị so với vùng nông thôn và do tính chất đặc biệt của thành phố trực thuộc tỉnh - là những khu vực đô thị đã và đang phát triển nên nhiệm vụ của bộ máy chính quyền thành phố rất nặng nề, phức tạp, nhất là những nhiệm vụ liên quan tới lĩnh vực quản lý đô thị (nhà, đất, kết cấu hạ tầng, giao thông, môi trường, an ninh trật tự...); nhu cầu cung cấp dịch vụ cũng rất lớn. Để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan hành chính thành phố cần phải được: - Trao thẩm quyền đủ lớn để có thể chủ động, tự chủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước một cách nhanh nhạy, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh ở thành phố - nơi luôn luôn biến động về các vấn đề xã hội thường xuyên, phức tạp hơn nhiều so với vùng nông thôn. - Thực hiện chế độ thủ trưởng: Chế độ quản lý, điều hành của chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh nên giữ nguyên phương thức thực hiện chế độ thủ trưởng. Vì chế độ điều hành tập thể thực sự không phù hợp với đặc trưng quản lý của chính quyền đô thị. Nếu theo chế độ điều hành tập thể, 100 những công việc chủ yếu được quyết định theo đa số trong các phiên họp của cơ quan hành chính thành phố, khi đó, thẩm quyền, vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch - người đứng đầu cơ quan hành chính thành phố rất hạn hẹp, chưa rõ ràng, cụ thể, không phát huy được vai trò, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu (vì không có được thẩm quyền quyết định cá nhân), làm chậm trễ, ách tắc trong việc điều hành hành chính (chờ ý kiến tập thể) và không ít trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời, kém hiệu lực vì bàn bạc tập thể quá nhiều. Xảy ra tình trạng cái gì muốn làm thì không bàn, cái gì không muốn làm thì đưa ra bàn tập thể. Mặt khác, phương thức quyết định tập thể tạo điều kiện cho việc đùn đẩy, trốn tránh trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cũng như của mỗi thành viên khi có vấn đề xảy ra. Những thiếu sót, sai lầm, khuyết điểm trong quản lý, điều hành gây hậu quả nặng nề, nghiêm trọng nhưng không thể quy trách nhiệm rõ ràng, cụ thể hay một cá nhân nào chịu trách nhiệm vì có quyết định tập thể, có thể dẫn đến trường hợp dựa vào tập thể, viện cớ bàn bạc tập thể, tập thể quyết định, lạm dụng, lợi dụng để tham nhũng, mưu cầu lợi ích riêng nhưng vẫn hợp pháp. Những hạn chế của phương thức điều hành hành chính tập thể lại càng bộc lộ rõ nét hơn hơn trong quản lý hành chính ở đô thị - nơi mà do đặc điểm, tính chất của nó đòi hỏi quản lý hành chính nhà nước phải rất nhanh nhạy, thông suốt, có hiệu lực cao và trực tiếp. Do đó, phương thức điều hành hành chính tập thể ở các thành phố trực thuộc tỉnh dù theo hình thức nào thì cũng không phù hợp. Cần áp dụng chế độ thủ trưởng, trao quyền đủ mạnh để người đứng đầu có thể điều hành bộ máy quản lý hành chính nhà nước ở đô thị một cách hiệu quả, phù hợp. Chủ tịch thành phố có thể do Hội đồng thành phố bầu ra hoặc do nhân dân thành phố bầu trực tiếp. 101 3.2.3. Thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa Hội đồng thành phố và Chủ tịch thành phố Mối quan hệ giữa Hội đồng thành phố và Chủ tịch thành phố được xác định trên cơ sở quy định về chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên nhưng đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của Hội đồng thành phố, quyền hạn của Chủ tịch. Trên cơ sở đó: - Hội đồng thành phố quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quyết định ngân sách và tổ chức nhân sự của bộ máy chính quyền đô thị. Các quyết định của Hội đồng thành phố được thể chế hóa bằng các Nghị quyết. Chủ tịch thành phố có nhiệm vụ tổ chức thực hiện tốt các Nghị quyết của Hội đồng thành phố (thực hiện chức năng là cơ quan chấp hành của Hội đồng thành phố). Mặt khác, Chủ tịch thành phố còn có vai trò là người đứng đầu hành chính ở thành phố, có nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện luật pháp, chính sách nhà nước và các quyết định, chỉ thị hành chính của các cơ quan nhà nước cấp trên theo cơ chế phân cấp và ủy quyền với hai nhiệm vụ này. - Mọi hoạt động của Chủ tịch thành phố (và bộ máy hành chính thành phố) đều đặt dưới sự giám sát của Hội đồng thành phố kể cả hoạt động chấp hành nghị quyết Hội đồng thành phố và thực thi pháp luật, chính sách nhà nước trên địa bàn. Mặt khác, Chủ tịch thành phố và bộ máy hành chính còn chịu sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở các cấp trên. - Hội đồng thành phố giám sát đối với Chủ tịch thành phố bằng các hình thức chủ yếu: + Yêu cầu Chủ tịch thành phố báo cáo kết quả hoạt động quản lý, điều hành của bộ máy hành chính trong các kỳ họp Hội đồng thành phố. + Chất vấn trong kỳ họp với Chủ tịch thành phố và những người đứng đầu các cơ quan chuyên môn của Chủ tịch thành phố. 102 + Đại biểu Hội đồng thành phố từng khu vực dân cư thực hiện quyền chất vấn cơ quan hành chính khi cần thiết (không nhất thiết chỉ ở các kỳ họp). + Hội đồng thành phố bỏ phiếu tín nhiệm Chủ tịch thành phố định kỳ hoặc đột xuất (khi xảy ra vấn đề nghiêm trọng). 3.2.4. Bộ máy chuyên môn của Chủ tịch thành phố - Giúp việc Chủ tịch thành phố là các Phó chủ tịch thành phố, số lượng Phó chủ tịch phụ thuộc vào quy mô thành phố. Các Phó chủ tịch thành phố chịu trách nhiệm, trực tiếp phụ trách một hoặc một số lĩnh vực quản lý, chịu trách nhiệm trước Chủ tịch thành phố và trước Hội đồng thành phố cùng cấp về kết quả thực hiện nhiệm vụ được phân công. Trong quản lý, điều hành, những người này trực tiếp thay mặt Chủ tịch thành phố điều hành, giải quyết công việc chứ không chỉ nhân danh người đứng đầu một cơ quan chuyên môn như hiện nay. Do đó sẽ có thẩm quyền đủ lớn để giúp việc hiệu quả cho Chủ tịch, cũng như có khả năng chịu trách nhiệm về những vấn đề xảy ra trước Chủ tịch và Hội đồng thành phố. - Cơ cấu bộ máy các cơ quan chuyên môn giúp việc Chủ tịch thành phố phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm, tính chất, yêu cầu quản lý nhà nước ở đô thị, đặc điểm đô thị; đảm bảo có hiệu quả cao nhất, đảm bảo tính khả thi, quản lý thông suốt, liên tục, thống nhất, cần thiết lập các cơ quan chuyên môn quản lý đô thị như: Nhà, đất, giao thông công chính, môi trường, an sinh xã hội... phù hợp, đảm bảo giải quyết nhanh nhất các vấn đề phát sinh thường xuyên, liên tục trên địa bàn đô thị. Các cơ quan chuyên môn giúp việc cho Chủ tịch cũng cần phải được tổ chức theo ngành dọc đến tận đơn vị cơ sở (phường, khu phố, cụm dân cư) không bị chia tách quản lý ra thành các cấp khác nhau trong nội bộ đô thị như hiện nay. Theo cơ chế ủy quyền chứ không phân cấp, phân quyền trong nội bộ đô thị. 103 - Số lượng, cơ cấu bộ máy, biên chế cán bộ, công chức của bộ máy quản lý nhà nước được bố trí trên cơ sở quy mô, đặc điểm, tính chất của từng thành phố, do Hội đồng thành phố quyết định theo quy định của pháp luật. - Về cơ bản, có thể đề xuất các đầu mối phòng chuyên môn, giúp việc cho Chủ tịch thành phố như trong Sơ đồ 3.2. Sơ đồ 3.2. Đề xuất bộ máy chuyên môn của Chủ tịch thành phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào (Nguồn: Nghiên cứu của tác giả) 3.3. Một số điều kiện và các bước triển khai để đảm bảo cho mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh đi vào hoạt động 3.3.1. Một số điều kiện đảm bảo cho mô hình đi vào hoạt động Để thực hiện được mô hình chính quyền đô thị trực thuộc tỉnh như trên cần có một số điều kiện cơ bản như sau: PHÓ CHỦ TỊCH (Phụ trách quản lý văn phòng) - Phòng Nội vụ - Phòng Tư pháp - Phòng Quan hệ quốc tế - Văn phòng thành phố PHÓ CHỦ TỊCH (Phụ trách quản lý kinh tế) - Phòng Nông nghiệp và rừng - Phòng Tài chính - Phòng Kế hoạch - Phòng Công nghiệp và Thương mại - Phòng Khoa học & Công nghệ - Phòng Tài nguyên thiên nhiên - Phòng Bưu chính - Phòng mỏ PHÓ CHỦ TỊCH (Phụ trách quản lý văn hóa, xã hội) - Phòng Lao động và Bảo hiểm - Phòng Y tế công cộng - Phòng Văn hóa, Thông tin - Phòng Giáo dục, Thể thao - Phòng Di sản thể giới CHỦ TỊCH THÀNH PHỐ 104 - Cần có đủ điều kiện pháp lý để áp dụng mô hình và tạo điều kiện cho mô hình đi vào hoạt động, cần phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp theo hướng tạo điều kiện pháp lý cao nhất để pháp luật quy định mô hình tổ chức bộ máy, quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm và cơ chế hoạt động phù hợp với chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn nhằm bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả quản lý của mỗi cấp chính quyền. - Để triển khai được chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ bộ máy của hệ thống chính trị tại địa phương như các tổ chức Đảng, đoàn thể, MTTQ và các cơ quan tư pháp theo mô hình tương ứng. - Chính quyền đô thị phải được hỗ trợ bởi chính quyền điện tử (e-Gov). Trong đó, các giao dịch nội bộ và dịch vụ hành chính công được ứng dụng trên môi trường mạng. Chính quyền đô thị hướng đến lấy sự hài lòng của khách hàng - công dân làm với việc cung ứng các dịch vụ công làm thước đo, vì vậy rất cần thiết phải hình thành tổ chức độc lập và chuyên nghiệp giám sát, đánh giá chất lượng các dịch vụ công cung cấp cho cộng đồng xã hội. - Chính quyền đô thị phải được phục vụ bởi đội ngũ công chức được tuyển chọn cạnh tranh, lấy năng lực và kết quả công việc làm thước đo để tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm (dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng cơ chế, chính sách phù hợp), bảo đảm tính chuyên nghiệp cao. - Cần đổi mới về tổ chức, phương thức quản lý và nội dung phân cấp, uỷ quyền quản lý nhà nước của chính quyền đô thị được thể hiện trong Luật và các qui định của trung ương về phân cấp, ủy quyền. Đổi mới phương thức quản lý của chính quyền đô thị chính là triển khai những giải pháp về cải cách hành chính mang tính hệ thống, tạo ra sự thay đổi căn bản, hiệu quả hơn trong hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương. Chính quyền đô thị cũng rất cần những thay đổi mang tính đột phá về cơ chế quản lý tài chính - ngân sách, quy trình xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện quyết định hành chính ở chính quyền đô thị; cơ chế huy động sự tham gia của nhân dân vào công tác quản lý 105 của chính quyền đô thị; xã hội hóa các dịch vụ công; hình thành trung tâm hành chính tập trung của đô thị; hệ thống dự báo, giám sát hiệu quả phát triển đô thị trong một số lĩnh vực... Có như vậy, mới có thể đáp ứng yêu cầu phát huy hơn nữa sự sáng tạo, tính chủ động của các đô thị trong việc triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. 3.3.2. Các bước triển khai mô hình 3.3.2.1. Xây dựng thể chế Tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức chính quyền địa phương hiện nay theo hướng trao nhiều thẩm quyền hơn cho chính quyền đô thị, quy định bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh theo hướng “một cấp chính quyền, hai cấp hành chính” và tổ chức Hội đồng thành phố ở các đô thị thành phố trực thuộc tỉnh. Quy định thực hiện chế độ thủ trưởng (Chủ tịch thành phố và Trưởng làng) trong quản lý hành chính nhà nước ở các cấp đô thị trực thuộc tỉnh. Phân cấp nhiều hơn, rõ hơn về thẩm quyền và trách nhiệm trong việc quyết định các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố. Phân định rành mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính các cấp trong chính quyền đô thị. Việc phân cấp cho chính quyền cơ sở quản lý các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, kinh tế, văn hoá, xã hội, phúc lợi công cộng... chỉ có ý nghĩa tương đối và hạn hẹp, đơn thuần về hành chính, chủ yếu mang tính kiểm tra, giám sát. Khi tiến hành xây dựng thể chế để thực hiện mô hình cần phải xem xét, cân nhắc các vấn đề sau: 1. Không có cơ quan đại diện ở cấp làng thì cần có cơ chế như thế nào để thực hiện hiệu quả giám sát và thực hành dân chủ? 2. Mối quan hệ với cấp tỉnh sẽ được tự chủ như thế nào đối với đô thị trực thuộc tỉnh? 106 3. Trao quyền tự chủ cho các đô thị có quy mô khác nhau sẽ theo tiêu chí nào? Cấp nào trao quyền gì và tại sao? 4. Nhân sự đứng đầu chính quyền đô thị có nên theo cơ chế tranh cử và bầu trực tiếp không? 5. Nghị quyết của Hội đồng thành phố có trở thành hiệu lực pháp luật và luôn đi với ngân sách tương ứng không? 6. Đô thị có được ngân sách chủ động với các loại phí - thuế riêng đáp ứng theo thực tế không? 7. Đô thị có được ban hành chính sách riêng để triển khai nhiệm vụ không? 3.3.2.2. Trang bị cơ sở vật chất, đội ngũ nhân sự Chuẩn bị những trang thiết bị cần thiết (phòng làm việc, máy vi tính, máy chiếu, điện thoại, hệ thống mạng Internet...) để các giao dịch nội bộ và dịch vụ hành chính công được ứng dụng trên môi trường mạng. Đào tạo, rèn luyện đội ngũ nhân sự hiện hành có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức theo tiêu chí của từng loại công việc và cần tuyển dụng nhân sự để thành lập một tổ chức độc lập, chuyên nghiệp giám sát, đánh giá chất lượng các dịch vụ công cung cấp cho cộng đồng dân cư đô thị. 3.3.2.3. Tuyên truyền, phổ biến Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đến tận người dân về tổ chức bộ máy chính quyền theo mô hình mới. Công khai rộng rãi vai trò, chức năng của Hội đồng thành phố và cơ quan hành chính các cấp. Tuyên truyền, phổ biến về quyền và nghĩa vụ của người dân trong việc bầu Hội đồng thành phố, nghĩa vụ của đại biểu Hội đồng thành phố trong tiếp xúc với nhân dân, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, cũng như giải quyết các vấn đề mà cử tri quan tâm, kiến nghị. 107 3.3.2.4. Thực hiện thí điểm mô hình Thực hiện mô hình chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở CHDCND Lào. Mặc dù đã được thể chế hóa trong văn bản Luật và dưới luật, nhưng hiện nay, trên thực tế, vẫn chưa có chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh nào được thành lập một cách chính thức. Tất cả các địa phương có nhu cầu thành lập đều mới chỉ đang trong giai đoạn xây dựng Đề án. Mặt khác, với những đòi hỏi của thực tiễn về tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, nhất là tổ chức bộ máy chính quyền đô thị các thành phố trực thuộc tỉnh hiện nay, đây là một điều mới, chưa có kinh nghiệm, cũng như đánh giá một cách đầy đủ để thực hiện. Do đó, việc thí điểm bộ máy chính quyền đô thị các thành phố trực thuộc tỉnh theo mô hình đề xuất là điều cần thiết. Qua việc tổ chức thí điểm có thể đánh giá được một cách tổng quát, đầy đủ các vấn đề, những bài học, những định hướng cần thiết khi áp dụng cho các đô thị thành phố trực thuộc tỉnh khác. Bên cạnh đó, với việc áp dụng mô hình đề xuất sẽ tạo ra một sự thay đổi đột ngột, mất thời gian thích ứng trong hoạt động quản lý nhà nước. Do đó, để thích ứng trong hoạt động quản lý nhà nước và để đánh giá được tác động của mô hình này đến đời sống của người dân cần thí điểm mô hình này ở một số thành phố có qui mô vừa và ở thành phố không quá đặc thù (hải đảo, miền núi...) thì sẽ phù hợp hơn và sẽ giúp cho việc đánh giá chính xác hơn. Sau thời gian thí điểm, nếu kết quả thu được khả quan và thuận lợi, tiến hành tổ chức áp dụng mô hình cho các thành phố khác trên phạm vi cả nước. 3.3.2.5. Hoàn chỉnh mô hình và triển khai trên diện rộng Việc thí điểm mô hình là cần thiết, tuy nhiên cần phải xác định thời gian thí điểm mô hình một cách hợp lý, đảm bảo đánh giá đầy đủ những tác động của mô hình. Trong khoảng thời gian xác định thí điểm, từng bước, liên tục đánh giá mô hình để có những thay đổi phù hợp, tiến tới hoàn chỉnh mô hình. Đồng thời, tiến hành một cách thận trọng, từng bước việc đổi mới tổ 108 chức bộ máy, chuyển dần bộ máy chính quyền các thành phố trực thuộc tỉnh còn lại theo hướng “một cấp chính quyền, hai cấp hành chính” theo như mô hình đã thí điểm. Trên cơ sở mô hình hoàn chỉnh, triển khai áp dụng cho các thành phố trực thuộc tỉnh còn lại; sửa đổi, bổ sung các điều kiện cần thiết để mô hình được triển khai ở tất cả các thành phố trực thuộc tỉnh. Việc huy động, chuẩn bị các nguồn lực để triển khai mô hình là một vấn đề lớn, việc triển khai áp dụng mô hình là cần thiết và cũng là một khó khăn lớn của toàn xã hội, của bản thân các đô thị nói riêng. Cho nên để hoàn chỉnh mô hình và triển khai một cách toàn diện, có hiệu quả cần phải có sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là vấn đề đầu tiên, mang tính định hướng cao nhất. 109 Tiểu kết chương 3 Với những chức năng, đặc trưng riêng có của đô thị đòi hỏi phải có cách tổ chức chính quyền đô thị với những chức năng, quyền hạn, tính tự quản khác với chính quyền ở các vùng nông thôn. Để xây dựng được một tổ chức bộ máy chính quyền địa phương nói chung cũng như một chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh nói riêng một cách hợp lý và hiệu quả cần phải tính đến những nguyên tắc mang tính kỹ thuật của khoa học tổ chức và quản lý như: Nguyên tắc về sự phân chia lãnh thổ, nguyên tắc về sự phù hợp giữa chủ thể và khách thể quản lý, nguyên tắc về sự tự điều chỉnh - tự quản lý trong xã hội... Thực tiễn tổ chức bộ máy chính quyền địa phương nói chung và xây dựng mô hình chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh của Lào trong thời gian qua đã không quan tâm đến những nguyên tắc này, thậm chí đã vi phạm một số nguyên tắc mang tính tất yếu khách quan. Đây cũng chính là nguyên nhân quan trọng, trực tiếp làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở các thành phố trực thuộc tỉnh, góp phần gây nên những bất cập hiện nay trong quản lý, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội đang ngày càng phức tạp hơn ở các đô thị nói chung, ở các thành phố trực thuộc tỉnh nói riêng. Trong những năm gần đây, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đang từng bước quan tâm, định hướng xây dựng chính quyền đô thị theo cơ chế đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền đô thị, đó cũng là xu hướng cải cách, phát triển hiện nay. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế trong cách thưc tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh, tác giả mạnh dạn nghiên cứu và đề xuất mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh theo mô hình một cấp chính quyền - hai cấp hành chính. Đồng thời, xác định lại tư tưởng, nhận thức, cũng như chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các thành phố trực thuộc tỉnh ở Lào hiện nay. Đề xuất áp dụng mô hình Chủ tịch điều hành và thiết lập mối quan hệ giữa Hội đồng thành phố và Chủ tịch trong bộ máy chính quyền mới, một số giải pháp tổ chức bộ máy chuyên 110 môn của Chủ tịch thành phố; đồng thời từng bước tiến hành hiện đại hóa cơ sở, trang thiết bị, công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý ở đô thị. Những khác biệt giữa đô thị và nông thôn là rất rõ ràng, tuy nhiên, việc xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền đô thị các thành phố trực thuộc tỉnh cần phải được tiến hành từng bước, CHDCND Lào chưa có kinh nghiệm nên tổ chức thí điểm mô hình chính quyền đô thị ở một số thành phố, sửa đổi, đề ra mô hình riêng cho chính quyền đô thị và nông thôn trên cơ sở sửa đổi luật và các văn bản liên quan. 111 KẾT LUẬN Đô thị ngày càng có vai trò to lớn trong sự phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hoá xã hội, không có một quốc gia nào được gọi là phát triển nếu như không có các đô thị phát triển đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của người dân, thực hiện tốt chức năng phục vụ nhân dân; đồng thời làm nền tảng, động lực, vai trò thúc đẩy sự phát triển của đất nước, vùng lãnh thổ hoặc địa phương khác. Để đổi mới tổ chức chính quyền đô thị trước hết cần phải sửa đổi bổ sung Luật Hành chính địa phương theo hướng điều chỉnh một cách chuyên biệt về chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị. Khi cần có thể quy định bằng những văn bản pháp luật chuyên biệt khác nhau cho từng loại thành phố để phù hợp với điều kiện, đặc điểm riêng có, và tùy vào qui mô lớn, nhỏ khác nhau cho phù hợp. Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh và áp dụng mô hình mới trong thực tế là một quá trình lâu dài, phức tạp động chạm tới nhiều vấn đề mang tính chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội đòi hỏi quyết tâm của các nhà chính trị, các nhà lập pháp, nó vượt ra khỏi những quan niệm khoa học thông thường về tổ chức chính quyền địa phương. Việc xây dựng mô hình tổ chức chính quyền đô thị phải bảo đảm được sự ổn định về mặt chính trị, kinh tế xã hội, không làm đảo lộn đời sống của các cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương. Thiết lập mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị xuất phát từ đòi hỏi khách quan của đời sống đô thị, bảo đảm sao cho việc quản lý đô thị được thống nhất, thông suốt, không bị chia cắt, cản trở bởi các cấp quản lý đô thị như hiện nay. Đã đến lúc CHDCND Lào cần phải nghiêm túc và khẩn trương nghiên cứu, xem xét toàn diện, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh theo hướng nghiên cứu lại cơ cấu chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh; giảm thiểu sự phân chia cấp chính quyền trong nội bộ đô thị, đảm bảo hoạt động hành chính ở đô thị tập trung thống nhất 112 cao, nhanh nhạy, có hiệu lực trực tiếp, đồng thời phát huy được những yếu tố tự quản, cộng đồng trong việc tự giải quyết những vấn đề riêng, đặt ra từ thực tiễn của các thành phố trực thuộc tỉnh. Đây thực sự là một đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, là giải pháp tích cực, cụ thể để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Để áp dụng mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh, cần phải có những bước thực nghiệm thích hợp, tránh tình trạng duy y chí chủ quan, nóng vội. Mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh trong luận văn này đã đề xuất là mô hình kết hợp sự quản lý tập trung thống nhất của nhà nước với sự trao một số quyền tự quản cho chính quyền đô thị nhằm mục đích vừa đảm bảo tính tập trung quyền lực của nhà nước, thống nhất quản lý đô thị, đồng thời khuyến khích tính chủ động, tính hiệu quả và huy động nguồn lực của chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh hiện nay. 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. ADB, Phục vụ và duy trì, Nhà nước trong thế giới cạnh tranh. Chương 4. 2. Athiphon Bunnaphôn (2003), Hoàn thiện bộ máy quản lý đô thị CHDCND Lào, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia. 3. Báo cáo khoa học đề tài cấp bộ (2001), Thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước các nước ASEAN, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (Chủ nhiệm đề tài Trương Đắc Linh), mã số đề tài: B 98-20-04, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. 4. Phan Xuân Biên (2006), Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tuổi trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 5. Bouaphanh Xayasongkham (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền cấp tỉnh nước CHDCND Lào, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia. 6. Cay-Xỏn-Phôm-Vi-Hẳn (1978), Xây dựng một nước Lào hoà bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa; NXB. Sự thật, Hà Nội. 7. Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 20 năm xây dựng và phát triển (1995); NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Nguyễn Đăng Dung (2001), Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương (Lịch sử và hiện tại), NXB. Đồng Nai. 9. Đại học Luật Tp. HCM (2004), Các tài liệu tham khảo về chính quyền địa phương, Khoa Luật hành chính, Tổ bộ môn Luật Hiến Pháp, Trường Đại học Luật TP. HCM. 10. Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội. 114 11. Đại học Quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, NXB. Đại học Quốc gia, Hà Nội. 12. Bùi Xuân Đức (2005), Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật thuộcTrung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. 13. Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức (1998), Cải cách hành chính địa phương: lý luận và thực tiễn; NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14. Hệ thống công vụ một số nước ASEAN và Việt Nam; NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Học viện hành chính quốc gia (2003), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước, Hà Nội. 16. Học viện hành chính quốc gia (2002), Hành chính công, NXB. Đại học quốc gia, Hà Nội. 17. Lịch sử Lào (1997), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội. 18. Vũ Thị Lan (2014), Đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền đô thị ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia. 19. Văn Đức Mạnh (2015), Tổ chức chính quyền đô thị ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia. 20. Tài liệu Hội thảo khoa học (1995), Thực tiễn Việt - Lào về cải cách hành chính, Phần hệ thống cán bộ, công chức Lào trong thời kỳ đổi mới, Viêng-chăn. 21. Thang Văn Phúc (2001), Cải cách hành chính nhà nước thực trạng, nguyên nhân và giải pháp; NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 22. Võ Kim Sơn (2006), Giáo trình quản lý và phát triển tổ chức hành chính nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội. 115 23. Võ Kim Sơn (2001), Quản lý học đại cương, Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội. 24. Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát (2013), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Lê Minh Thông (2007), Chính quyền địa phương trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Tổng cục thống kê Việt Nam, Số liệu cập nhật tháng 5/2017. 27. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2001), Đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước Việt Nam ở xã hiện nay, Luận văn thạc sỹ quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội. 28. Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIII, Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về Phân loại đô thị. 29. Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1998), Lịch sử Lào, NXB. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 30. Trương Trung Việt (2000), Hoàn thiện một bước tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân Tp. HCM, Luận văn thạc sỹ quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia. 31. Nguyễn Văn Vinh (2006), Lào - đất nước và tài nguyên, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TIẾNG LÀO, TIẾNG NƯỚC NGOÀI 32. Báo Viêng-chăn-mai, ngày 09/06/2006. Nhà nước Lào. 33. Cay-Xỏn-Phôm-Vi-Hẳn (1997), Tác phẩm lựa chọn 3, NXB. Quốc gia Lào, Viêng-chăn. 34. Đảng NDCM Lào (2001), Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VII, NXB. Quốc gia Lào, Viêng-chăn. 116 35. Đảng NDCM Lào (2006), Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VIII, NXB. Quốc gia Lào, Viêng-chăn. 36. Giáo trình Địa lý nước CHDCND Lào (2000), NXB. Quốc gia Lào. 37. Giáo trình môn quản lý hành chính nhà nước của Chính phủ Vương quốc Lào (1972), NXB. Bộ Giáo dục, Viêng-chăn. 38. Học viện Chính trị và hành chính Quốc gia Lào (2000), Đề cương bài giảng môn quản lý hành chính nhà nước, NXB. Học viện hành chính Quốc gia. 39. Lịch sử Lào tập 3 (1996); NXB. Nhà nước, Viêng-chăn. 40. Lịch sử Lào từ thời kỳ cổ đại đến hiện nay, Bộ Thông tin - Văn hóa (2000), NXB. Nhà nước, Viêng-chăn. 41. Local Government Department (2011), Criteria Status for Local Authority. 42. Phông sa vắt Búb phá (2005), Sự phát triển của Nhà nước Lào, NXB. Thành phố, Viêng-chăn. 43. Quốc hội Lào, Hiến pháp Vương quốc Lào năm 1957. 44. Quốc hội Lào, Hiến pháp nước CHDCND Lào năm 1991, NXB. Nhà nước, Viêng-chăn. 45. Quốc hội Lào, Hiến pháp nước CHDCND Lào sửa đổi năm 2003, Nxb. Nhà nước, Viêng-chăn. 46. Quốc hội Lào, Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng nước CHDCND Lào năm 1978, số 100/CHDCND ngày 31/7/1987. 47. Quốc hội Lào, Luật Tổ chức Chính phủ nước CHDCND Lào năm 1995, số 01/QH ngày 8/3/1995. 48. Quốc hội Lào, Luật Tổ chức Chính phủ nước CHDCND Lào năm 2003, số 02/QH ngày 6/5/2003. 49. Quốc hội Lào, Luật Hành chính địa phương nước CHDCND Lào năm 2003, số 03/QH, ngày 21/10/2003. 117 50. Quốc hội Lào, Luật Hành chính địa phương nước CHDCND Lào năm 2015, số 68/QH, ngày 14/12/2015. 51. United Nations (2016), Department of Economic and Social Affairs, Population Division, The World’s Cities in 2016 – Data. 52. University of the Punjab – Lahore (2015), Institute of Social & Cultural Studies, Changing Forms of Urbanization. 53. Ủy ban cải cách cơ cấu tổ chức cấp trung ương, Thông báo số 78 ngày 17/12/1994 về việc kiện toàn cơ cấu Chính quyền địa phương Lào. TRANG WEB 54. (Thông tin về Lào) 55. (Trung tâm thống kê quốc gia) 56. (Báo nhân dân Lào) 57. (Báo Viêng-chăn mới) 58. (Quốc hội nước CHDCND Lào) 59. ào (Thông tin về Lào) 60. m/ChiTietVeQuocGia (Chính phủ Việt Nam)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_to_chuc_bo_may_chinh_quyen_do_thi_thanh_pho_truc_th.pdf
Luận văn liên quan