Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, công tác phổ biến,
GDPL là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta
quan tâm, nhằm từng bước nâng cao dân trí pháp lý, nâng cao năng lực áp
dụng đúng đắn, nghiêm chỉnh pháp luật, giữ vững kỷ cương phát huy dân chủ,
ổn định chính trị ã hội, ây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh góp phần
tạo điều kiện phát triển kinh tế - ã hội; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, GDPL là công việc quan trọng hơn cả trong
quy trình tổ chức thực hiện pháp luật, là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống.
Mục tiêu của công tác này là làm cho mỗi cá nhân nói riêng, cộng đồng ã hội
nói chung không chỉ nắm vững pháp luật mà phải hiểu và làm theo pháp luật.
Để có thể đáp ứng được đòi hỏi này, điều nhạy cảm nhất chính là vai
trò của ý thức pháp luật của mọi công dân. Khi nói đến sức mạnh của Quân
đội bên cạnh sức mạnh về quân sự, chính trị thì kiến thức về pháp luật Nhà
nước, kỷ luật quân đội là yếu tố rất quan trọng tạo thành sức mạnh tổng hợp
của Quân đội. Công tác tổ chức giáo dục pháp luật đối với sinh viên các
trường ĐHQS có vai trò hết sức quan trọng trong thực tiễn hoạt động quân sự,
giúp cho sinh viên nhận thức rõ ràng, sâu sắc, đầy đủ về các quy định của
pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội để từ đó mỗi người có thái độ, tình cảm
đúng đắn, niềm tin đối với pháp luật, là cơ sở để hình thành động cơ, hành vi
và thói quen ử sự hợp pháp, tích cực trong quá trình học tập cũng như trong
quá trình công tác và trong cuộc sống hàng ngày. Trong phạm vi luận văn,
những kết quả nghiên cứu mà đề tài triển khai như sau:
Dưới góc độ lý luận, chương 1 của luận văn đã giải quyết những nội
dung sau: đưa ra khái niệm, đặc điểm sinh viên trường ĐHQS. Luận văn đã
làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của TCGDPL cho sinh viên trường
ĐHQS. Luận văn phân tích chủ thể, nội dung, phương pháp, hình thức
TCGDPL cho sinh viên trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
101 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 727 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học quân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển và hoàn thiện, thể chế hoá kịp thời các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào việc ổn định ã
hội, tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho việc ây dựng nhà nước quản lý bằng
pháp luật. Tuy vậy, hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều hạn chế và chính
sự hạn chế này làm giảm hiệu lực của pháp luật trong cuộc sống, ảnh hưởng
đến khâu thực thi pháp luật. Các văn bản pháp luật đều có khiếm khuyết
chung như: Thiếu cụ thể, rõ ràng; trùng lặp chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn
nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả thi; tính ổn định của hệ thống quy phạm
còn yếu, nhiều đạo luật, bộ luật liên tục bị sửa đổi, thay thế, bổ sung. Công tác
rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật cũng chưa thực sự được chú
trọng. Hệ thống pháp luật như vậy làm cho nội dung của GDPL cũng thường
xuyên phải sửa đổi, cập nhật cho phù hợp, công tác TCGDPL phải lặp đi lặp
lại nhiều lần gây lãng phí không ít tiền của và công sức. Chính vì vậy, cần đổi
mới, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, đảm bảo các văn bản được ban
hành phải cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện và có tính áp dụng lâu dài, hạn chế
việc sửa đổi, bổ sung. Đây là những biện pháp thiết thực tạo nên một hệ thống
pháp luật ổn định, là môi trường thuận lợi để công tác TCGDPL cho sinh viên
nói chung và sinh viên các trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói
riêng được diễn ra trên thực tế.
69
Thứ hai, cần khẩn trương hoàn thiện các văn bản pháp luật, chương
trình, kế hoạch về GDPL cho sinh viên các trường ĐHQS.
Để làm được điều này, cần rà soát lại hệ thống pháp luật đã ban hành
liên quan đến sinh viên các trường ĐHQS. Sau đó, cần có các văn bản pháp
luật, chương trình, kế hoạch quy định cụ thể về hoạt động phổ biến, GDPL
cho đối tượng là sinh viên các trường ĐHQS. Bộ Tư pháp cần ban hành các
chương trình, đề án, kế hoạch GDPL; các quy định về chuyên môn, nghiệp
vụ, tiêu chuẩn, quy tắc nghề nghiệp GDPL; ban hành Bộ tiêu chí đánh giá
hiệu quả công tác GDPL. Các trường quân sự cần rà soát để tham mưu, kiến
nghị, đề uất với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ sung, hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về GDPL nói chung, GDPL cho sinh viên
các trường ĐHQS nói riêng.
3.2.2. Tăng cường sự l nh đạo, quản lý và bồi dưỡng, giáo dục cho
sinh viên
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc trang bị những tri thức pháp
luật, ây dựng tình cảm và thói quen pháp luật cho mọi công dân là trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là hệ thống các cơ quan có chức
năng giáo dục đào tạo nói chung, GDPL nói riêng. Để tăng cường sự lãnh
đạo, quản lý công tác TCGDPL của Nhà trường điều quan trọng là phải nâng
cao hiệu lực công tác lãnh đạo, quản lý, ác định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan đối với công tác TCGDPL. Chất lượng của công tác TCGDPL
cho sinh viên ở các trường ĐHQS phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện của cấp ủy Đảng các cấp, của chỉ huy các cơ quan, khoa
đơn vị của Nhà trường. Do đó, để thực hiện tốt công tác TCGDPL cho sinh
viên phải phát huy được vai trò, trách nhiệm của các lực lượng này góp phần
làm cho sinh viên hiểu rõ được GDPL là một nội dung quan trọng nằm trong
chương trình giáo dục chung của người sinh viên; vì vậy, phải được tiến hành
70
thường uyên, để họ có thể nhận thức một cách đầy đủ, đề cao trách nhiệm
thực hiện quyền và nghĩa vụ của người quân nhân, người sinh viên, người
công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong quá trình lãnh đạo của mình, các tổ chức Đảng các cấp của Nhà
trường phải tăng cường vai trò lãnh đạo của mình, trong đó hạt nhân là các
cấp ủy Đảng đối với công tác TCGDPL. Đây là yếu tố quyết định đến chất
lượng, hiệu quả cuả công tác TCGDPL ở các đơn vị sinh viên. Các tổ chức
Đảng các cấp phải thấy rõ việc quan tâm chỉ đạo, định hướng, đôn đốc của
mình là biện pháp thực tiễn, thiết thực giúp cho công tác TCGDPL tiến hành
một cách thường uyên và có hiệu quả, góp phần quản lý, giáo dục, rèn luyện
bộ đội chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội.
Trong Nghị quyết thường k của các cấp ủy Đảng phải thường uyên có
nội dung lãnh đạo công tác này, phải căn cứ vào các chỉ thị, kế hoạch phổ biến,
GDPL của cấp trên và tình hình, đặc điểm nhiệm vụ chính trị của đơn vị để định
ra chủ trương, nội dung, biện pháp và hình thức TCGDPL cho phù hợp. Phải
biết hướng mọi hoạt động TCGDPL bám sát vào việc thực hiện nhiệm vụ của
đơn vị, vào chỉ tiêu thi đua rèn luyện, ây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Trên cơ sở quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, các cấp ủy Đảng và tổ chức các cấp cần thực hiện tốt chế độ
phân công, ác định rõ trách nhiệm của người trực tiếp chỉ đạo, điều hành thực
hiện công tác giáo dục pháp luật ở các đơn vị theo đúng quy định của cấp trên và
Nghị quyết của tổ chức Đảng cấp mình.
Do đó, để chất lượng TCGDPL cho sinh viên ở các trường ĐHQS ngày
càng được nâng cao trong thời gian tới yêu cầu đặt ra là phải phát huy được sức
mạnh tổng hợp của tất cả các cơ quan, tổ chức, các lực lượng tham gia GDPL
của Nhà trường. Bởi vì, quá trình hình thành, phát triển ý thức pháp luật của
sinh viên là kết quả nỗ lực chung của tất cả các chủ thể tham gia GDPL. Đây là
71
lực lượng luôn tác động trực tiếp, mạnh mẽ nhất và có ý nghĩa quyết định đến
chất lượng của công tác TCGDPL trong thời gian qua.
Nhà trường Quân đội là nơi đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, sĩ quan
Quân đội. Đây sẽ là những cán bộ có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý con
người, tổ chức mọi hoạt động của cơ quan đơn vị theo đúng đường lối, quan
điểm của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, điều lệnh Quân đội. Vì
vậy, TCGDPL trong trường ĐHQS có vai trò quan trọng trong đào tạo cán bộ,
sĩ quan theo mô hình, mục tiêu đào tạo. Do đó, phải thường uyên bồi dưỡng,
giáo dục cho mọi sinh viên hiểu rõ tính tất yếu khách quan, sự cần thiết của
việc nhận thức và hiểu biết pháp luật, có quan niệm đúng đắn về môn học
pháp luật, khắc phục tình trạng coi thường môn học này, cho rằng đó là môn
học phụ dẫn đến tình trạng học cho ong, mang tính hình thức. Trên cơ sở đó
hình thành và phát triển cho sinh viên nhu cầu sống và học tập có ý thức về
pháp luật, kỷ luật quân đội, ây dựng cho họ ý thức trách nhiệm, tính tự giác,
thái độ tích cực, chủ động trong thực hiện và chấp hành các quy định của
pháp luật, điều lệnh, điều lệ của quân đội, mệnh lệnh, chỉ thị của người chỉ
huy. Làm cho quân nhân luôn cảm thấy thoải mái, tự tin và hoàn toàn làm chủ
bản thân trong việc chấp hành các quy định, không còn bị gò bó, lo sợ và cảm
giác nặng nề trong việc chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội.
Để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội
cho sinh viên trước hết phải tổ chức giáo dục cho họ có trình độ hiểu biết, có
nhận thức đúng đắn về các quy định của pháp luật Nhà nước, các quy tắc về
công tác quản lý bộ đội, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ,
lễ tiết tác phong, chế độ học tập, sinh hoạt của quân nhânTrên cơ sở nhận
thức đúng, mỗi quân nhân ác định và điều chỉnh hành vi phù hợp với yêu
cầu của pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Đồng thời hình thành động cơ
đúng đắn, có tình cảm và ý chí quyết tâm, đặt ra yêu cầu rèn luyện thói quen,
72
hành vi, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật
quân đội, chế độ quy định của Nhà trường, phân biệt rõ đúng sai, tích cực đấu
tranh với những biểu hiện vi phạm pháp luật. Công tác bồi dưỡng, giáo dục
nâng cao ý thức pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội đối với sinh viên được
ác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường uyên, lâu dài trong
công tác giáo dục - đào tạo của Nhà trường.
Tóm lại, nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường ĐHQS là
trách nhiệm chung của mọi tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; do đó, phải phát
huy vai trò của các tổ chức và tính tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đoàn viên thanh niên, hội đồng quân nhân...,góp phần nâng cao
chất lượng TCGDPL trong thời gian tới. Bằng nhiều hình thức, biện pháp
hoạt động phong phú, đa dạng của tổ chức đảng, đoàn thanh niên, hội đồng
quân nhân ở đơn vị để giáo dục, quản lý, rèn luyện nếp sống chính quy có văn
hóa của sinh viên trong mọi lúc, mọi nơi. Trong những ngày nghỉ, giờ nghỉ tại
đơn vị cần có các biện pháp quản lý phù hợp như tổ chức hội thi, hội thao,văn
hóa văn nghệ...nhằm thu hút mọi quân nhân tham gia vào các hoạt động vui
chơi giải trí lành mạnh.
3.2.3. Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục pháp luật cho phù
hợp sinh viên các trường đại học quân sự
Nội dung, chương trình GDPL là một trong những nhân tố cơ bản của
quá trình TCGDPL cho sinh viên các trường ĐHQS. Việc tiếp tục đổi mới nội
dung, chương trình GDPL là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng trực tiếp
quyết định, bảo đảm cho GDPL phù hợp với yêu cầu, đặc điểm của từng đối
tượng sinh viên góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn các hình
thức và phương pháp giáo dục cho phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục
pháp luật của Nhà trường. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của các quan hệ ã hội trên các lĩnh vực của đời sống ã hội,
73
trên cơ sở đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ cách mạng của Quân đội và yêu cầu,
nhiệm vụ trong giai đoạn mới đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy và các cơ quan chức
năng của Nhà trường cần phải luôn quan tâm, chú ý đổi mới nội dung, chương
trình GDPL cho phù hợp với các đối tượng sinh viên.
Hiện nay, việc ác định và ây dựng nội dung, chương trình GDPL
cho các đối tượng sinh viên ở các trường ĐHQS là căn cứ vào mục tiêu, yêu
cầu đào tạo và trên cơ sở chương trình khung của Tổng cục chính trị vẫn còn
bộc lộ một số bất cập như đã trình bày ở phần thực trạng đã ảnh hưởng nhất
định đến chất lượng, hiệu quả công tác TCGDPL trong thời gian qua; vì vậy,
trong thời gian tới để chất lượng TCGDPL đạt được kết quả cao hơn cần
phải ây dựng được nội dung GDPL cho phù hợp, khắc phục những điểm
còn hạn chế trong thời gian qua. Để đổi mới nội dung, chương trình GDPL
cần tập trung một số vấn đề sau:
Một là, ây dựng nội dung, chương trình dạy và học bộ môn Nhà nước
và pháp luật phù hợp với các đối tượng sinh viên. Đây là biện pháp cơ bản và
quan trọng góp phần đổi mới nội dung, chương trình GDPL cho sinh viên các
trường ĐHQS. Nếu quá trình đào tạo người học không được trang bị đầy đủ
những kiến thức cần thiết về nhà nước và pháp luật, tất yếu dẫn đến trình độ
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, duy trì kỷ luật đơn vị của cán bộ, sĩ quan sau khi
tốt nghiệp ra trường sẽ rất hạn chế, lúng túng trong ử lý các tình huống pháp
luật. Hiện nay một số trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố Hà Nội có hai hệ:
hệ quân và hệ dân sự, nên các đối tượng sinh viên đa dạng, phong phú với
nhiều chuyên ngành khác nhauTrong khi đó đối tượng đào tạo sinh viên
luôn có sự biến động khá phức tạp trong những năm qua theo sự chỉ đạo của
Bộ quốc phòng. Vì vậy, hệ thống kiến thức pháp luật cần giáo dục phải phù
hợp với quá trình nhận thức của từng đối tượng sinh viên và bảo đảm được
thời gian truyền đạt các nội dung cho sinh viên.
74
Đối tượng sinh viên ở các trường ĐHQS nên nâng thời lượng từ 75 tiết
như hiện nay lên 120 tiết, trong đó 50% số tiết dành cho phần lý luận chung
về Nhà nước và pháp luật, 50% dành cho một số ngành luật. Cần bổ sung
thêm nội dung giảng dạy pháp luật một số vấn đề như: Luật Quốc tế, Luật
biển, Luật biên giới quốc gia, Luật giao thông đường bộ
Đối với bất k một môn học nào, chương trình, nội dung cũng là yếu
tố cơ bản, quan trọng quyết định đến chất lượng hoạt động dạy và học. Hàng
năm Nhà trường cần phải tiến hành rà soát lại nội dung, chương trình GDPL
cho từng đối tượng sinh viên, đảm bảo các nội dung sát với từng đối tượng
đào tạo, nội dung nào không cần thiết mạnh dạn cắt bỏ, bổ sung các nội dung
thiết thực, cập nhật thường uyên các thông tin và các văn bản quy phạm
pháp luật mới ban hành sát với thực tiễn công tác sau này của sinh viên; kịp
thời điều chỉnh, khắc phục được sự trùng lặp về nội dung, chương trình, đảm
bảo được sự kế thừa, liên thông về nội dung, chương trình giữa các cấp học,
các chuyên ngành đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đào tạo của Nhà trường.
Hoạt động giáo dục nói chung và GDPL nói riêng phải trang bị cho sinh
viên nhất là sinh viên hệ quân có kiến thức toàn diện trên mọi lĩnh vực như
quân sự, chính trị, đạo đức và pháp luật, đặc biệt là những kiến thức đối với
các ngành luật về các lĩnh vực của đời sống ã hội như: luật Hiến pháp, luật
Dân sự, luật Hình sự, luật hôn nhân và gia đình, luật quốc phòng, các qui định
của Điều lệnh, Điều lệ quân đội, các qui định về quan hệ cấp trên cấp dưới,
quan hệ với đồng chí đồng đội, trong mối quan hệ với nhân dân, trong việc
thực hiện các nhiệm vụ của Quân đội, những kiến thức trong việc bảo vệ bí mật
nhà nước, bí mật quân sự, giữ gìn và bảo vệ vũ khí, trang bị khí tài quân sự,
bảo vệ các công trình quốc phòng, các qui định về biên giới, biển, đảo... đồng
thời phải ây dựng bản lĩnh, tâm lý, thái độ trước những âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch. Đối với sinh viên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu sau
75
khi ra trường sẽ đảm nhiệm là người quản lý, chỉ huy đơn vị, điều hành hoạt
động chấp hành pháp luật, vừa là chủ thể trực tiếp GDPL cho các quân nhân
thuộc quyền; họ cần phải được trang bị những kiến thức pháp luật về các lĩnh
vực của đời sống ã hội, đặc biệt là những kiến thức về lĩnh vực quân sự, quốc
phòng, an ninh; vì vậy, cần phải tăng thời lượng số tiết học đối với các
ngành luật mới đảm bảo được nội dung chuyển tải.
Hai là, nội dung, chương trình giáo dục phải bám sát với yêu c u thực
tiễn cách mạng, ph hợp với yêu c u phát triển của Quân đội hiện nay.
Với nội dung, chương trình như hiện nay chúng tôi nghĩ rằng nội dung
học chính khóa môn Nhà nước và pháp luật là chưa phù hợp với đối tượng
sinh viên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu khi ra trường họ sẽ đảm nhiệm
các nhiệm vụ khác nhau sẽ gặp nhiều tình huống khác nhau trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị cũng như ngoài ã hội. Vì vậy, cần phân bổ
thêm thời gian thực hành các bài tập tình huống giúp cho sinh viên nắm được
một số quy định của các văn bản luật liên quan đến chức trách, nhiệm vụ của
người sinh viên đang học tập và người chỉ huy trong khi đang thực hiện
nhiệm vụ tại đơn vị và địa bàn đóng quân sau này.
Cùng với quá trình ây dựng và phát triển đất nước thì ây dựng Quân
đội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đòi hỏi rất cao về sự am hiểu pháp
luật của những sinh viên là quân nhân trong QĐND Việt Nam. Đối với sinh
viên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu, họ là những sĩ quan trẻ tương lai của
đất nước sau khi ra trường nhận công tác ở các đơn vị họ vừa là chủ thể quản
lý, điều hành hoạt động chấp hành pháp luật, vừa là chủ thể trực tiếp GDPL
cho các quân nhân thuộc quyền, góp phần vào việc đấu tranh phòng chống
các hành vi vi phạm pháp luật trên địa bàn đơn vị đóng quân. Vì vậy, cần phải
đổi mới nội dung, chương trình GDPL cho các đối tượng sinh viên theo
hướng cơ bản, toàn diện, phổ cập, chuyên sâu, đồng thời có trọng tâm, trọng
điểm, phù hợp với từng đối tượng sinh viên.
76
3.2.4. Nâng cao chất lượng của các chủ thể làm công tác tổ chức
giáo dục pháp luật cho sinh viên trường quân sự
TCGDPL không thể đạt được hiệu quả cao nếu không có chủ thể làm
công tác GDPL chất lượng cao. Công tác TCGDPL có được thực hiện tốt hay
không; ý thức chấp hành pháp luật của sinh viên trường quân sự có được nâng
cao hay không, điều này phụ thuộc trước hết vào chất lượng đội ngũ làm công
tác TCGDPL. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém”, nên có thể nói hiệu quả công tác TCGDPL đối với sinh viên phụ
thuộc phần lớn vào chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác này.
Có thể khẳng định rằng, các chủ trương đường lối của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước đều thông qua những chủ thể này mà đến với
sinh viên các trường ĐHQS. Công tác TCGDPL không thể có hiệu quả cao
khi mà hiểu biết pháp luật và kỹ năng truyền đạt của đội ngũ cán bộ làm
công tác GDPL thấp. Điều này đồng nghĩa với việc đội ngũ cán bộ làm
công tác GDPL vừa là chủ thể GDPL, nhưng đồng thời chính họ cũng lại là
đối tượng cần được GDPL. Từ sự phân tích trên, đặc biệt là từ thực trạng
công tác TCGDPL đối với sinh viên các trường ĐHQS trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong những năm vừa qua cho thấy sự cần thiết phải nâng cao
hơn nữa trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm
công tác TCGDPL đối với sinh viên.
Cán bộ TCGDPL là chủ thể của mọi hoạt động, do đó, nếu không ây
dựng được một đội ngũ cán bộ am hiểu sâu sắc về chuyên môn, tinh thông về
nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giàu nhiệt tình cách mạng thì khó
mang lại hiệu quả mong muốn cho công tác này trong thời k đất nước đổi
mới. Công việc này phải đáp ứng hai yêu cầu cơ bản: có đủ lực lượng cán bộ
làm công tác GDPL cho sinh viên với các phương thức khác nhau và lực
77
lượng này phải được đào tạo, tái đào tạo bài bản để có một trình độ, kiến thức
chính trị, ã hội, pháp luật cần thiết cũng như có kỹ năng sư phạm, phương
pháp GDPL hiệu quả nhất. Vì vậy, cần bồi dưỡng, tập huấn cập nhật kiến
thức pháp luật mới, nghiệp vụ phổ biến, GDPL nhằm nâng cao năng lực cho
người thực hiện công tác phổ biến, GDPL luật đối với sinh viên.
Đối với cấp ủy, tổ chức đảng ở các đơn vị sinh viên phải thường uyên
quan tâm và quán triệt sâu sắc các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của tổ chức
Đảng cấp trên, từ đó hàng tháng triển khai và thực hiện Nghị quyết của tổ
chức Đảng cấp mình về công tác TCGDPL cho sinh viên.
Trên cơ sở lãnh đạo toàn diện, các cấp ủy, tổ chức đảng phải tăng
cường thường uyên coi trọng lãnh đạo các khâu, các bước quan trọng trong
nhiệm vụ TCGDPL cho các đối tượng sinh viên, tránh không để ảy ra và kịp
thời khắc phục tình trạng buông lỏng lãnh đạo, phân công không rõ ràng trách
nhiệm của từng bộ phận, thiếu kiểm tra, sâu sát trong lãnh đạo công tác
TCGDPL cho sinh viên.
Thông qua Nghị quyết của cấp ủy thì người chỉ huy, chính ủy, chính trị
viên các cấp phải thường uyên trao đổi thống nhất kế hoạch TCGDPL, phân
công tổ chức thực hiện và chỉ đạo thực hiện đúng kế hoạch đã được phê
duyệt. Duy trì nghiêm túc về nề nếp, các chế độ học tập, công tác và quản lý
chặt chẽ mọi mặt của đơn vị. Kịp thời biểu dương thành tích, ngăn chặn, ử lý
những biểu hiện sai trái, lệch lạc trong quá trình học tập cũng như trong việc
chấp hành các quy định của pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội.
Đối với Hội đồng phối hợp công tác tổ chức phổ biến, GDPL của Nhà
trường cần phát huy vai trò là cơ quan tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo, chỉ
huy Nhà trường về chương trình, nội dung, hình thức và yêu cầu GDPL cho
sinh viên, đồng thời tích cực, chủ động tham gia chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra
công tác TCGDPL đối với các đơn vị sinh viên.
78
Đối với Phòng chính trị, Phòng Đào tạo, Khoa Công tác đảng, công tác
chính trị cần phải thường uyên có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong công
tác ây dựng, điều chỉnh và quản lý về nội dung, chương trình GDPL cho sinh
viên, nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp
cho phù hợp với từng đối tượng sinh viên. Tăng cường việc tiến hành rà soát,
sắp ếp và chuẩn hóa các chương trình GDPL cho sinh viên; trong biên soạn
giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu đối với từng đối
tượng đào tạo.
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng về công
tác cán bộ và ây dựng đội ngũ cán bộ, trực tiếp là Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI), Nghị quyết 769-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Xây
dựng đội ng cán bộ quân đội giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp
theo”, Theo đó, các trường ĐHQS cần tiếp tục rà soát chất lượng đội ngũ cán
bộ, giảng viên làm công tác GDPL, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch đảm bảo
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục đào tạo của Nhà trường cả trước mắt và
lâu dài. Mặt khác, phải coi trọng bồi dưỡng cán bộ, giảng viên theo hướng “cơ
bản, toàn diện, chuyên sâu, thiết thực”. Do đó, để phát huy và nâng cao chất
lượng của đội ngũ trực tiếp làm công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên cần
phải có những giải pháp cụ thể sau:
Đối với đội ng giảng viên giảng dạy pháp luật
- Phải ây dựng quy hoạch đảm bảo đủ giảng viên tham gia giảng dạy
pháp luật. Thường uyên tuyển chọn, bổ sung kịp thời vào đội ngũ giảng viên
pháp luật từ các nguồn đào tạo chính quy, đúng chuyên ngành vào phục vụ
công tác giảng dạy pháp luật, đồng thời luôn khuyến khích, tạo điều kiện và
có chế độ, chính sách hợp lý để các giảng viên theo học các lớp đào tạo sau
đại học ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội để nâng cao trình
độ chuyên môn. Tiếp tục tuyển chọn, điều động từ các nguồn đào tạo chuyên
79
ngành về lý luận Nhà nước và pháp luật chính quy tại các trường của Nhà
nước hoặc đã qua thực tiễn làm công tác pháp luật, có khả năng sư phạm để
làm công tác giảng dạy pháp luật.
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, về phương pháp
sư phạm giảng dạy về pháp luật để các giảng viên tham dự. Bởi vì, trong thời
gian qua những lớp bồi dưỡng, tập huấn về pháp luật trong quân đội được tổ
chức còn ít, số lượng tham dự lại hạn chế. Do đó, để khắc phục tình trạng này
đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy và các cơ quan có chức năng của Nhà trường cần
phải liên hệ, tạo điều kiện để các giảng viên giảng dạy pháp luật được tham
dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn; chú trọng kết hợp giữa gửi đi
đào tạo, bồi dưỡng ở các nhà trường trong và ngoài quân đội với bồi dưỡng
tại chỗ, tích cực đưa cán bộ, giảng viên đi thực tế ở các đơn vị cơ sở. Thường
uyên tổ chức cho cán bộ, giảng viên đi tham quan, nghiên cứu thực tế, uống
cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu những nhu cầu thực tiễn trong việc quản lý bộ đội
theo pháp luật để nâng cao kinh nghiệm thực tiễn từ đó liên hệ, vận dụng vào
các bài giảng, góp phần nâng cao chất lượng bài giảng.
Đối với đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ chính trị làm
công tác giáo dục pháp luật
- Thường uyên mở các lớp tập huấn báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật để bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tuyên truyền,
kỹ năng ây dựng chương trình, nội dung và cập nhật những thông tin pháp
luật cần phổ biến, giáo dục cho sinh viên để họ có đủ điều kiện và khả năng
thực hiện nhiệm vụ giáo dục pháp luật cho học viên.
- Khuyến khích, tạo điều kiện để đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên,
học tập nâng cao trình độ chuyên môn, tạo điều kiện thuận lợi để họ có thời gian
nghiên cứu, tìm hiểu những văn bản pháp luật, thông tin pháp luật mới.
80
Đối với cán bộ quản lý đơn vị sinh viên
Đây là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong công tác GDPL, là những
người trực tiếp quản lý sinh viên trong việc rèn luyện chấp hành pháp luật Nhà
nước, kỷ luật Quân đội; tham gia phổ biến một số vấn đề về pháp luật, điều lệnh,
điều lệ của Quân đội trong chương trình ngoại khóa. Trình độ, phẩm chất của
người chỉ huy, quản lý đơn vị có ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả công
tác GDPL cho sinh viên. Vì vậy, người cán bộ chỉ huy, quản lý đơn vị phải có
lượng kiến thức pháp luật cần thiết, có năng lực chuyên môn về mọi mặt để tổ
chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động của đơn vị.
Bên cạnh đó, do điều kiện đóng quân phân tán, thường uyên đi dã
ngoại học tập a sự chỉ huy trực tiếp của cấp trên, trong nhiều tình huống phải
tự mình đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời khi giải quyết những vụ
việc đột uất ảy ra. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức
chuyên môn về pháp luật cho đội ngũ này để họ nắm chắc, vận dụng tốt trong
thực tiễn là rất cần thiết, đặc biệt là trong quá trình GDPL cho sinh viên góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của đơn vị.
Vì vậy, trong thời gian tới các trường cần phải tiếp tục ây dựng đội ngũ
làm công tác TCGDPL ngoài những yêu cầu về trình độ, năng lực còn phải thực
sự là những người có phẩm chất chính trị, đạo đức trong sáng, là những tấm
gương mẫu mực về học tập, rèn luyện, chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật
Quân đội, là tấm gương sáng cho lớp lớp các thế hệ sinh viên noi theo.
3.2.5. Đổi mới các hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục pháp
luật cho sinh viên các trường đại học quân sự
Công tác TCGDPL để đạt được hiệu quả, chất lượng cao thì chủ thể giáo
dục phải có hình thức, phương pháp phù hợp tạo ra sự cuốn hút và hứng thú đối
với đối tượng giáo dục. Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua đã quan tâm
đáng kể đến công tác GDPL, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Đại hội
81
Đảng toàn quốc lần thứ VI một lần nữa lại nhấn mạnh phải: "Coi trọng công tác
giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật" và "cần sử dụng nhiều hình thức và
biện pháp để giáo dục nâng cao ý thức pháp luật.... cho nhân dân” [5, tr.121].
Cùng với đổi mới nội dung, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác
định rõ: “Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng, lý
tưởng truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, ây dựng
đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp và Pháp luật cho thế hệ trẻ” [9, tr.162]. Đây là những vấn đề cơ
bản, quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả GDPL cho sinh viên ở
các trường ĐHQS. Theo tinh thần của Nghị quyết số 93/ĐU - QSTW:
Tiếp tục cải tiến phương pháp giáo dục, thực hiện tốt các quan điểm
khuyến khích và tạo điều kiện phát triển tư duy độc lập, sáng tạo
của người học, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo; gắn lý
thuyết với thực hành làm chính, cả trong giảng dạy và học coi trọng
kinh nghiệm truyền thống, coi trọng rèn luyện thực hành; kết hợp
giảng dạy, học tập với nghiên cứu khoa học [12, tr.7].
Đối với các trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố Hà Nội thời gian qua
đã sử dụng rất nhiều các hình thức, phương pháp khác nhau để tác động trực
tiếp đến việc hình thành ý thức pháp luật, cung cấp một cách có hệ thống
những tri thức lý luận và thực tiễn cho sinh viên. Mỗi hình thức, phương pháp
có vị trí, vai trò và ưu thế riêng của nó, do đó cần tiếp tục sử dụng những hình
thức GDPL đang phát huy tác dụng, kết hợp đồng bộ, hài hòa các phương
pháp giáo dục, đồng thời đổi mới các hình thức, phương pháp để công tác
giáo dục pháp luật đạt được hiệu quả cao hơn. Theo tinh thần tại Khoản 3 -
Điều 5 Luật giáo dục quốc phòng và an ninh: “Kết hợp giáo dục quốc phòng
và an ninh với giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến, giáo dục pháp luật và gắn
với ây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện” [18].
82
Đối với hình thức giáo dục chính khóa
Giảng dạy pháp luật là hình thức giáo dục rất quan trọng, giữ vai trò
trọng tâm của công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường ĐHQS.
Để hình thức này phát huy được hiệu quả cao hơn trong việc truyền đạt một
cách có hệ thống những kiến thức lý luận và thực tiễn pháp lý cho các đối
tượng sinh viên thì yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ làm công tác này cần phải
thường uyên đổi mới phương pháp sau đây:
- Đổi mới phương pháp truyền đạt, từng bước thay thế kiểu giảng độc
thoại, thuyết trình của giảng viên bằng các phương pháp sư phạm tích cực,
tăng cường áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại, chuyển từ phương pháp
giảng dạy lấy giảng viên làm trung tâm sang phương pháp học tập lấy người
học làm trung tâm, phát huy tích cực học tập của sinh viên.
- Tăng cường, chú trọng kết hợp một cách linh hoạt phương pháp
thuyết trình với phương pháp phân tích, gợi mở, nêu vấn đề thảo luận nhóm
nhằm kích thích và gây hứng thú cho sinh viên trong quá trình học tập. Đồng
thời, tạo điều kiện cho sinh viên phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập,
tạo ra động lực bên trong thúc đẩy phong trào học tập tốt, rèn luyện nghiêm.
- Tăng cường phương pháp giảng dạy thực hành nghề nghiệp quân sự.
Đây là phương pháp có vai trò to lớn trong việc kích thích tính tích cực nhận
thức của sinh viên trong quá trình dạy - học. Vì vậy, cần phải luôn chú trọng
cả trong giảng dạy lý thuyết đến tổ chức thực hành các tình huống pháp luật
cụ thể. Mục tiêu cần đạt được trong phương pháp giảng dạy thực hành không
chỉ dừng lại ở các kỹ năng nghề nghiệp mà phải phát triển thái độ nghề
nghiệp đúng đắn cho sinh viên.
- Đẩy mạnh việc áp dụng đa dạng hóa các hình thức, phương pháp
giảng dạy pháp luật như ây dựng các bài tập tình huống pháp luật có thật
mới diễn ra ở các đơn vị khác, trong Quân đội hoặc ngay trong Nhà trường để
83
sinh viên tự căn cứ vào các quy định của pháp luật đánh giá, thiết kế và ử lý
tình huống pháp luật gắn liền với nhiệm vụ quyền hạn của người quản lý, chỉ
huy. Từ đó phát huy vai trò làm chủ của sinh viên trong tự học, tự nghiên cứu,
luôn chủ động, tích cực và độc lập trong quá trình học tập. Đặc biệt, trong quá
trình giảng dạy, giảng viên phát hiện và bồi dưỡng những sinh viên học giỏi,
có năng lực nghiên cứu khoa học để định hướng, gợi mở, giúp đỡ sinh viên
nghiên cứu các vấn đề của khoa học pháp lý.
- Trong quá trình đánh giá kết quả cần có sự đổi mới về cơ chế thi,
kiểm tra đó là đổi mới cách thức ra đề thi, câu hỏi thi với những hình thức đa
dạng như tự luận, trắc nghiệm, nêu tình huống, kết hợp cả những câu hỏi có
tính chất học thuộc với những câu có tính chất tư duy tổng hợp để buộc sinh
viên phải học tập, nghiên cứu toàn diện tất cả các nội dung được truyền đạt, từ
đó mới đánh giá một cách đúng đắn, khách quan thực chất kiến thức của sinh
viên, đồng thời qua đó có cơ sở để điều chỉnh đối với phương pháp giảng dạy
của giảng viên.
Đối với hình thức giáo dục ngoại khóa
Bên cạnh việc giảng dạy pháp luật trong chương trình huấn luyện chính
khóa thì hoạt động GDPL thông qua các hoạt động ngoại khóa cũng đóng vai
trò rất quan trọng của công tác giáo dục pháp luật. Đây là những hình thức
cần thiết nhằm thực hiện phương châm “Lý luận gắn với thực tiễn”, “Học đi
đôi với hành” để bổ sung, củng cố những kiến thức pháp luật mà học viên đã
được học. Do vậy, việc tăng cường tổ chức có nề nếp các hoạt động ngoại
khóa góp phần thu hút, định hướng cho sinh viên tham gia vào các hoạt động
thiết thực, lành mạnh và bổ ích cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
- Duy trì thường uyên tổ chức hoạt động GDPL trong chương trình
giáo dục chính trị tại đơn vị. Đây là hoạt động được thực hiện thông qua việc
tổ chức học tập, báo cáo các chuyên đề về pháp luật, điều lệnh, điều lệ Quân
84
đội và các chuyên đề bổ trợ kiến thức pháp lý khác. Quán triệt và triển khai
học tập các Quyết định, Chỉ thị của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng
tham mưu về công tác GDPL, về quốc phòng, an ninh.
- Đẩy mạnh tổ chức hoạt động GDPL thông qua các buổi thông báo
chính trị - thời sự, qua các phương tiện truyền thông.
Thông qua việc tổ chức các buổi thông báo chính trị - thời sự, thông tin
pháp luật của các phương tiện truyền thông đã giúp cho sinh viên tích lũy
được những kiến thức pháp luật nhất định, đồng thời, góp phần động viên tính
tích cực, tự giác trong thực hiện nhiệm vụ, chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ
luật Quân đội, nâng cao hiểu biết pháp luật cho sinh viên. Vì vậy, quá trình
thông báo chính trị - thời sự đặt ra yêu cầu đối với những cán bộ được phân
công thực hiện nội dung phải đề cao tinh thần trách nhiệm, chủ động chuẩn bị
chu đáo, tỉ mỷ các nội dung thông báo, tổng hợp tin tức có liên quan đến chấp
hành pháp luật, kỷ luật để thông tin cho sinh viên. Phải lựa chọn thông tin bảo
đảm tính thời sự, thiết thực, thông tin đa chiều nhưng có tính định hướng,
được lựa chọn kỹ lưỡng và phù hợp với sinh viên.
- Tăng cường tổ chức các hội thảo, diễn đàn, phát động các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật, thi nét đẹp quân nhân có lồng ghép nội dung pháp luật và điều
lệnh Quân đội, tổ chức các phong trào thi đua đột kích gắn với các cuộc vận
động lớn của Nhà trường, Quân đội và Nhà nước, nhất là cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm thu hút đông đảo
học viên tham gia, tạo động lực thúc đẩy việc tìm hiểu, học tập pháp luật.
- Khai thác, sử dụng có hiệu quả tủ sách pháp luật. Lãnh đạo, chỉ huy
và cơ quan chức năng phải quan tâm ây dựng và tổ chức hoạt động thường
uyên tủ sánh pháp luật. Đây là công cụ, phương tiện giúp cho sinh viên dễ
dàng tìm hiểu, nghiên cứu để vận dụng những kiến thức hiểu biết về pháp luật
vào trong quá trình học tập, sinh hoạt và công tác. Căn cứ vào nội dung, kế
85
hoạch TCGDPL, cần cập nhật, bổ sung các loại sách, báo, tạp chí, văn bản
pháp luật mới phù hợp với nhu cầu sử dụng của sinh viên.
- Tổ chức phát động phong trào thi đua rèn luyện kỷ luật, ây dựng
chính quy tại các đơn vị sinh viên. Tiến hành ây dựng các tổ, mũi ung kích
rèn luyện kỷ luật, chấp hành pháp luât, điều lệnh, điều lệ; ây dựng những
điển hình tiên tiến trong việc chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật
Quân đội. Trong quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên phải luôn gắn hoạt
động GDPL, rèn luyện kỷ luật với việc thực hiện nhiệm vụ diễn tập, hành
quân dã ngoại. Đây là hoạt động thiết thực nhằm gắn lý thuyết với thực hành,
qua đó góp phần củng cố thêm tri thức pháp luật cho sinh viên, rèn luyện tác
phong và kỷ luật của bộ đội.
- Tăng cường công tác TCGDPL thông qua phương tiện thông tin đại
chúng. Đây là hình thức GDPL phổ biến và đem lại kết quả cao như thông qua
phương tiện truyền thanh, truyền hình của Nhà trường nhằm cung cấp những
thông tin, định hướng tư tưởng đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu pháp luật
của sinh viên; vì vậy, phải coi trọng việc lựa chọn tin tức, biên tập, hình thức
trình bày để thu hút được sự chú ý theo dõi của sinh viên. Kịp thời giới thiệu các
chuyên đề pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Thực
tế cho thấy nhu cầu tìm hiểu pháp luật của sinh viên là rất lớn, do đó cần phải
tăng thời lượng hoạt động của đài truyền thanh nội bộ, chia nhỏ nội dung thông
tin pháp luật để tuyên truyền trực quan trên hệ thống băng rôn, pano, áp phích
của đơn vị để phổ biến, GDPL, khai thác có hiệu quả tủ sách pháp luật ở các đơn
vị sinh viên, các loại sách báo, tạp chí ở thư viện Nhà trường và ở từng đơn vị.
Như vậy, để nâng cao ý thức chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ
luật Quân đội của sinh viên; lãnh đạo, chỉ huy đơn vị phải căn cứ vào đặc điểm
tâm lý và khả năng nhận thức của từng đối tượng để ác định hình thức, phương
pháp giáo dục cho phù hợp. Giáo dục cho sinh viên thấy rõ được quyền, nghĩa
86
vụ và chức trách của mình, ây dựng quan điểm, thái độ đúng đắn trong việc
chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật Quân đội, quy
định của đơn vị. Do đối tượng học viên phần lớn còn ít kinh nghiệm thực tiễn,
các vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội chủ yếu là do nhận thức còn
đơn giản, bồng bột nhất thời chưa ý thức hết được tính nghiêm trọng, tác hại do
lỗi phạm gây ra. Do đó phải nghiên cứu, sáng tạo, cải tiến các hình thức và
phương pháp tuyên truyền, phổ biến và giải thích pháp luật cho phù hợp.
Xây dựng chính quy là quá trình đưa các hoạt động của Quân đội vào
nền nếp của một quân đội chính quy. Tính chất chính quy được thể hiện ở sự
thống nhất chặt chẽ về tổ chức biên chế, dựa trên sự thống nhất về điều lệnh
và sự nghiêm ngặt về kỷ luật, mọi mặt huấn luyện, giáo dục, sinh hoạt, công
tác và chiến đấu đều phải được quy định trong điều lệnh, điều lệ tương ứng.
Kỷ luật là sức mạnh của Quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Bộ đội
không có kỷ luật đánh giặc nhất định thua” [13, tr.611].
Kỷ luật trong Quân đội là sự tuân thủ nghiêm ngặt và chính ác Hiến
pháp, pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của Quân
đội, mệnh lệnh chỉ thị của cấp trên, nhằm bảo đảm cho mọi hoạt động của
Quân đội, từng đơn vị trên mọi lĩnh vực được chỉ huy thống nhất, phát huy
trí tuệ, tài năng của mọi quân nhân tạo thành sức mạnh của tập thể đơn vị
và quân đội để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ. Kỷ luật trong QĐNDVN được
ây dựng trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ ây dựng Quân đội bao gồm: Điều lệnh, điều lệ, chế độ, chỉ thị,
quy định... về tổ chức, duy trì, quản lý, ử lý kỷ luật trong Quân đội và
từng đơn vị. Do đó, ây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật là yêu cầu
khách quan, trực tiếp góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn
sàng chiến đấu của Quân đội và từng đơn vị. Đối với đơn vị sinh viên các
trường ĐHQS, ây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật là một trong những
87
nhiệm vụ chính trị trung tâm, thường uyên, uyên suốt, là trách nhiệm
chính trị của mọi tổ chức, mọi lực lượng.
Cần phải thúc đẩy tạo điều kiện để mọi quân nhân hiểu biết và chấp
hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Bởi vì, ý thức tự giác
chấp hành pháp luật, kỷ luật là một trong những phẩm chất chính trị, đạo đức,
đảm bảo cho họ có khả năng tự nhận thức, điều chỉnh và quyết định một cách
độc lập, sáng tạo những suy nghĩ, lời nói, hành động của mình theo đúng quy
định của pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, chế độ, quy định của Nhà
trường trong mọi nhiệm vụ và hoàn cảnh.
Giáo dục học viên chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước kết hợp với kỷ
luật Quân đội đòi hỏi phải chú trọng các biện pháp giáo dục thuyết phục, đề cao
ý thức kỷ luật tự giác nghiêm minh, chống áp đặt các mệnh lệnh hành chính, ây
dựng mối quan hệ đồng chí, đồng đội bền vững. Phải phát huy được tính dân chủ
rộng rãi tạo điều kiện cho quân nhân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, ây dựng đời sống văn hóa tinh thần vui tươi
lành mạnh, góp phần phòng chống được các tệ nạn ã hội âm nhập vào hoạt
động của đơn vị học viên; hạn chế những vụ việc, hiện tượng vi phạm ảy ra, ý
thức pháp luật của mỗi quân nhân sẽ không ngừng được củng cố và nâng cao.
3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kịp thời hành vi
vi phạm, thường xuyên rút kinh nghiệm công tác tổ chức giáo dục pháp luật
Công tác kiểm tra, giám sát quá trình TCGDPL, chấp hành pháp luật, kỷ
luật quân đội chỉ thực sự đạt được hiệu quả cao khi có sự kết hợp chặt chẽ giữa
hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp trên với cấp dưới, khi phát động được
phong trào quần chúng cùng tham gia và quan trọng nhất là các cán bộ, chỉ huy
trong các đơn vị học viên thực hiện tốt nề nếp, chế độ kiểm tra. Do đó, tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát công tác TCGDPL ở các đơn vị sinh viên là
việc làm rất cần thiết, bởi vì, bất k một hoạt động nào nếu thiếu sự kiểm tra,
giám sát mà đánh giá kết quả thì chất lượng, hiệu quả đạt được không cao.
88
Đi đôi với công tác kiểm tra, giám sát là việc ử lý kịp thời các hành vi
vi phạm. Trong quản lý bộ đội phải thường uyên sâu sát, cụ thể, tỷ mỉ phát
hiện nắm chắc và ử lý kịp thời các vụ việc ảy ra, tránh từ vi phạm nhỏ dẫn
đến vi phạm lớn hơn. Khi có hành vi vi phạm ảy ra, trước hết phải nghiên
cứu, tìm hiểu, phân tích nguyên nhân, thực hiện đúng quy trình, nguyên tắc
ử lý kỷ luật phải bảo đảm đúng người, đúng việc, khách quan, kịp thời, góp
phần giáo dục làm gương đối với các quân nhân khác. Chống các biểu hiện
coi nhẹ, ử lý cho qua, bỏ qua khuyết điểm, bao che những hành vi sai phạm.
Tổ chức rút kinh nghiệm để đánh giá đúng thực trạng kết quả, chất
lượng TCGDPL nhằm tìm ra những ưu, khuyết điểm, từ đó rút ra những
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong quá trình TCGDPL để làm cơ sở bổ
sung, hoàn thiện nội dung, chương trình, kế hoạch, tổ chức phương pháp và
hình thức sát với mục đích, yêu cầu đặt ra trong công tác TCGDPL trong
thời gian tới. Theo định k , Hội đồng phối hợp công tác tổ chức phổ biến,
GDPL và lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, khoa, đơn vị phải ây dựng kế
hoạch cụ thể và tổ chức chặt chẽ, bám sát yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị để
tiến hành rút kinh nghiệm về công tác TCGDPL cho sinh viên khắc phục
những thiếu sót và bất cập trong công tác TCGDPL, trách nhiệm của từng cá
nhân, tập thể để từ đó kịp thời đề ra được những biện pháp thích hợp, phù
hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của từng đơn vị sinh viên góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác TCGDPL ở các trường ĐHQS
trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
3.3.7. Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo
đảm triển khai công tác tổ chức giáo dục pháp luật đối với sinh viên các
trường đại học quân sự
Công tác giáo dục pháp luật nói chung và hoạt động giáo dục pháp luật
đối với sinh viên các trường ĐHQS nói riêng là một loại hình hoạt động vì lợi
89
ích lâu dài, kết quả cuối cùng của nó không thể đo đếm trực tiếp, tức thời sau
khi tiến hành các hoạt động giáo dục. Vì vậy, để hoạt động GDPL đối với
sinh viên các trường quân sự đạt hiệu quả thì phải đảm bảo kinh phí cần thiết
cho hoạt động này. Trong những năm qua, nguồn kinh phí cho hoạt động
GDPL đối với sinh viên các trường ĐHQS chủ yếu từ ngân sách nhà nước,
kinh phí được quan tâm hơn, năm sau cao hơn năm trước, song với yêu cầu
của công tác GDPL nói chung hiện nay thì yêu cầu về kinh phí và các trang
thiết bị cần có sự đầu tư nhiều hơn.
Hiện nay, kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc dành cho đội ngũ
thực hiện công tác GDPL nhìn chung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Đối với hoạt động GDPL cho sinh viên các trường quân sự, sự đầu tư kinh phí
cho hoạt động này chưa đáp ứng yêu cầu, chưa có sự quan tâm thỏa đáng đối với
đội ngũ làm công tác GDPL; việc đầu tư cho tủ sách pháp luật còn hạn chế, các
đầu sách còn thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu tìm đọc của sinh viên các trường
quân sự. Số lượng tài liệu, sách báo, tờ rơi phục vụ cho công tác GDPL vẫn còn
ít, hệ thống loa đài ở nhiều trường còn chưa đảm bảo về chất lượng.
Để công tác TCGDPL đối với sinh viên các trường ĐHQS đạt hiệu quả
cao hơn trong thời gian tới thì việc đầu tư ngân sách và huy động kinh phí từ
nhiều nguồn khác nhau là rất quan trọng. Đồng thời, để đảm bảo hiệu quả của
hoạt động TCGDPL và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác
này thì cần cung cấp đủ kinh phí theo Thông tư số 63/2005/TT-BTC ngày
05/8/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn về lập dự toán kinh phí phổ biến, GDPL
Cần phải đảm bảo các phương tiện làm việc tối thiểu cho các trường
trong công tác giáo dục pháp luật, quan tâm kiện toàn và luôn bổ sung những
đầu sách cần thiết cho tủ sách pháp luật ở trường để có thể khai thác, sử dung
một cách có hiệu quả thiết thực, đảm bảo chế độ thù lao, cung cấp các tài liệu,
sách báo, đề cương đầy đủ cho đội ngũ làm công tác GDPL.
90
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước Đảng, và kỷ
luật của Quân đội về hoàn thiện GDPL cho sinh viên các trường ĐHQS luận
văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác TCGDPL cho sinh
viên các trường ĐHQS như sau: (1)Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, chương trình, kế hoạch về phổ biến, GDPL; (2) Tăng cường sự lãnh
đạo, quản lý và bồi dưỡng, giáo dục cho sinh viên; (3)Đổi mới nội dung,
chương trình giáo dục phù hợp cho sinh viên các trường ĐHQS; (4) Nâng cao
chất lượng của các chủ thể làm công tác TCGDPL cho sinh viên trường
ĐHQS; (5) Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến, GDPL; (6)
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kịp thời hành vi vi phạm,
thường xuyên rút kinh nghiệm công tác TCGDPL ở đô thị; (7) tăng cường
đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm triển khai công tác phổ
biến, GDPL cho sinh viên các trường ĐHQS.
91
KẾT LUẬN
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, công tác phổ biến,
GDPL là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta
quan tâm, nhằm từng bước nâng cao dân trí pháp lý, nâng cao năng lực áp
dụng đúng đắn, nghiêm chỉnh pháp luật, giữ vững kỷ cương phát huy dân chủ,
ổn định chính trị ã hội, ây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh góp phần
tạo điều kiện phát triển kinh tế - ã hội; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, GDPL là công việc quan trọng hơn cả trong
quy trình tổ chức thực hiện pháp luật, là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống.
Mục tiêu của công tác này là làm cho mỗi cá nhân nói riêng, cộng đồng ã hội
nói chung không chỉ nắm vững pháp luật mà phải hiểu và làm theo pháp luật.
Để có thể đáp ứng được đòi hỏi này, điều nhạy cảm nhất chính là vai
trò của ý thức pháp luật của mọi công dân. Khi nói đến sức mạnh của Quân
đội bên cạnh sức mạnh về quân sự, chính trị thì kiến thức về pháp luật Nhà
nước, kỷ luật quân đội là yếu tố rất quan trọng tạo thành sức mạnh tổng hợp
của Quân đội. Công tác tổ chức giáo dục pháp luật đối với sinh viên các
trường ĐHQS có vai trò hết sức quan trọng trong thực tiễn hoạt động quân sự,
giúp cho sinh viên nhận thức rõ ràng, sâu sắc, đầy đủ về các quy định của
pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội để từ đó mỗi người có thái độ, tình cảm
đúng đắn, niềm tin đối với pháp luật, là cơ sở để hình thành động cơ, hành vi
và thói quen ử sự hợp pháp, tích cực trong quá trình học tập cũng như trong
quá trình công tác và trong cuộc sống hàng ngày. Trong phạm vi luận văn,
những kết quả nghiên cứu mà đề tài triển khai như sau:
Dưới góc độ lý luận, chương 1 của luận văn đã giải quyết những nội
dung sau: đưa ra khái niệm, đặc điểm sinh viên trường ĐHQS. Luận văn đã
làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của TCGDPL cho sinh viên trường
ĐHQS. Luận văn phân tích chủ thể, nội dung, phương pháp, hình thức
TCGDPL cho sinh viên trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
92
Trên cơ sở khái quát chung về các trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố
Hà Nội và ác định đặc thù của sinh viên các trường này, chương 2 luận văn đã
đánh giá thực trạng TCGDPL đối với sinh viên các trường ĐHQS trên địa bàn
Thành phố Hà Nội ở những nội dung sau:
- Chỉ ra những ưu điểm trong hoạt động TCGDPL luật đối với sinh
viên các trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố Hà Nội về chủ thể, nội dung,
hình thức và phương pháp GDPL.
- Chỉ ra những hạn chế về tổ chức và đội ngũ nhân sự làm công tác
GDPL đối với sinh viên các trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố; hạn chế
về nội dung, hình thức, phương pháp GDPL luật đối với sinh viên các trường
ĐHQS trên địa bàn Thành phố và nguyên nhân của hạn chế.
Chương 3 luận văn đã ác định các quan điểm bảo đảm TCGDPL cho
sinh viên các trường ĐHQS trên địa bàn Thành phố. Trên cơ sở đó, luận văn đã
đưa ra các giải pháp để bảo đảm GDPL cho sinh viên các trường ĐHQS trên
địa bàn Thành phố Hà Nội.
Với những kết quả nghiên cứu trên sẽ đóng góp một phần vào khoa học lý
luận cũng như hoạt động thực tiễn TCGDPL cho sinh viên các trường ĐHQS nói
chung và sinh viên trường ĐHQS trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Quốc phòng (2000), Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân
dân Việt Nam, N b QĐND,Hà Nội.
2. Bộ Tổng Tham mưu (1991), Điều lệnh quản lý bộ đội, n b QĐND, Hà Nội.
3. V.Đ. Cu – la – Cốp (1979), iáo dục tính kỷ luật cho chiến s Xô- Viết,
N b QĐND, Hà Nội.
4. Đảng bộ Học viện Khoa học quân sự (2010), Nghị quyết Đại hội đảng
bộ Học viện l n thứ VII nhiệm kỳ 2015-2020, Hà Nội
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc
l n thứ VI, N b Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam(1996), Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc
l n thứ VIII, BCHT khóa VII, N b CTQG, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc
l n thứ IX, N b Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc
l n thứ X, N b Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc
l n thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng.
10. Đảng ủy Quân sự Trung ương (2007), Nghị quyết về công tác giáo dục-
đào tạo trong tình hình mới, Hà Nội
11. Trần Ngọc Đường - Dương Thanh Mai(1995),- Bàn về giáo dục pháp
luật, N b CTQG, Hà Nội.
12. Hồ Chí Minh (2000), Tuyển tập, tập 5, N b Chính trị Quốc gia, Hà Nội
13. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, N b Chính trị Quốc gia, Hà Nội
14. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Quốc phòng
(2012), Báo cáo tổng kết giáo dục pháp luật năm 2013 và phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2014, Hà Nội
94
15. Phạm Minh Hạc (1996), Chương trình KHCN cấp nhà nước KX-07
Nghiên cứu của con người giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
16. Một số vấn dề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công tác
đổi mới, N b Thanh niên, Hà Nội.
17. Nguyễn Ngọc Quang (1968), Những khái niệm cơ bản về lý luận quản
lý giáo dục.Trường quản lý giáo dục trung ương, Hà Nội.
18. Quốc Hội (2013), Luật phổ biến giáo dục pháp luật, N b CTQG, Hà nội.
19. Đinh Xuân Thảo (1996), iáo dục trong các trường đại học, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội.
20. Tổng cục chính trị (2003), iáo dục quân sự, N b QĐND, Hà Nội.
21. Trường Đại học Lục quân 1(2015), Báo cáo bình xét an toàn năm học
2014 – 2015, Hà Nội
22. Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, N b Đà Nẵng, Đà nẵng.
23. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển
Tiếng Việt, Đà Nẵng.
24. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ và ngữ Hán, N b Bách Khoa, Hà Nội
25. Vụ phổ biến pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về phổ biến,
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, N b Thanh Niên, Hà Nội
26. Nguyễn Tất Viễn (2006), Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục
pháp luật, N b Tư pháp, Hà Nội.
27.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên: Cần hướng đến
đối tượng có nguy cơ cao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_to_chuc_giao_duc_phap_luat_cho_sinh_vien_cac_truong.pdf