Luận văn Tổ chức thực hiện luật dân quân tự vệ từ thực tiễn thành phố Hà Nội

Từ việc tìm hiểu và phân tích trên, cùng với thực tiễn cuộc sống hàng ngày có thể kết luận rằng tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ là quá trình chuyển hóa từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động” ở các chủ thể trong xã hội. Đây là một quá trình phức tạp và lâu dài, do đó, hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta hiện nay phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Luận văn tổ chức thực hiện luật dân quân tự vệ - từ thực tiễn thành phố Hà Nội đã đưa ra được các giải pháp để đưa luật dân quân tự vệ đến với người dân thủ đô, việc thực hiện luật dân quân tự vệ là trách nhiệm của mọi người dân của toàn xã hội và của các cơ quan đơn vị trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các giải pháp của luận văn đã đưa ra được những vấn đề về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng, củng cố lực lượng DQTV phải gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, làm nền tảng để xây dựng khu vực phòng thủ của bộ tư lệnh thủ đô ngày càng vững chắc, tổ chức phổ biến, giáo dục luật dân quân tự vệ trong các ban chỉ huy quân sự các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội và giải pháp về công tác tuyên truyền pháp luật về dân quân tự vệ. Các giải pháp này cơ bản đã giải quyết được những vấn đề về tổ chức thực hiện luật dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội trong các năm tiếp theo.

pdf104 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 791 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức thực hiện luật dân quân tự vệ từ thực tiễn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạch, kế hoạch của Nhà nước về công tác dân quân tự vệ trong thời bình, thời chiến theo nhiệm vụ được giao; - Kết hợp việc xây dựng, huấn luyện hoạt động của dân quân tự vệ gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong quy hoạch, kế hoạch của bộ, ngành, cơ quan, tổ chức. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp - Trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn, quyết định quy hoạch, kế hoạch, đề án tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ và dự toán thu, chi ngân sách bảo đảm cho dân quân tự vệ. - Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về dân quân tự vệ ở địa phương; ban hành văn bản chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ theo thẩm quyền. - Chỉ đạo việc tổ chức, đào tạo, huấn luyện, hoạt động của dân quân tự vệ; thi hành các biện pháp huy động, sử dụng dân quân tự vệ thực hiện nhiệm 71 vụ; chỉ đạo việc quản lý và kiểm tra vận chuyển, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ của dân quân tự vệ; bảo đảm hậu cần, tài chính, thực hiện chế độ, chính sách cho dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật. - Tổ chức thực hiện quyết định mở rộng lực lượng dân quân tự vệ của cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra quốc phòng thanh tra việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ; kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về dân quân tự vệ. - Tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện việc thi đua, khen thưởng về công tác dân quân tự vệ. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức -Tổ chức thực hiện sự chỉ đạo của cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về dân quân tự vệ. - Chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ chức, huấn luyện, hoạt động của đơn vị tự vệ nòng cốt thuộc quyền theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan quân sự địa phương. - Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho việc thực hiện nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện, hoạt động của tự vệ nòng cốt thuộc cơ quan, tổ chức. - Tổ chức thực hiện quyết định mở rộng lực lượng dân quân tự vệ của cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra quốc phòng thanh tra việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ; kiểm tra, sơ kết, tổng kết và thực hiện việc thi đua, khen thưởng về công tác dân quân tự vệ thuộc cơ quan, tổ chức. - Phối hợp với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc tổ chức, huấn luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ, chính sách cho dân quân tự vệ. 72 3.1.3. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ Quốc Hội thực hiện công tác giám sát việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ qua hoạt động gián tiếp tại các kỳ họp quốc hội, Hoạt động giám sát trực tiếp của các đại biểu Quốc hội như giám sát việc thi hành Luật dân quân tự vệ ở địa phương; tiếp xúc cử tri để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri phản ánh lên Quốc hội và các cơ quan Nhà nước khác; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ. Các cấp ủy Đảng tổ chức thực hiện giám sát hoạt động đảm bảo việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ của các cơ quan cùng cấp. Hội đồng nhân dân các cấp tổ chức thực hiện việc giám sát quá trình thực hiện Luật Dân quân tự vệ. Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân các quận (huyện) đề nghị Ban Chỉ huy Quân sự các quận (huyện) tăng cường công tác kiểm tra, chỉ đạo Ban Chỉ huy Quân sự xã, phường, thị trấn tham mưu đề xuất việc giải ngạch hoặc quyết định kéo dài thời gian phục vụ của lực lượng dân quân tự vệ; tăng cường công tác tuyên truyền các văn bản Luật liên quan đến Dân quân tự vệ. Bộ Quốc phòng (Cục dân quân tự vệ) thực hiện kiểm tra đôn đốc việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ ở các địa phương. Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội thực hiện công tác kiểm tra việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ tại các quận (huyện) trên địa bàn thành phố Hà Nội, kiểm tra các công tác tuyên truyền, hướng dẫn và tổ chức đánh giá việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ. Bộ chỉ huy quân sự trực tiếp kiểm tra việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ; Nghị định số 58/NĐ-CP của Chính phủ nay là Nghị định số 03/2016 /NĐ – CP ngày 05/01/2016 của Chính phủ về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ; các quận (huyện) tổ chức quán 73 triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc đạt chất lượng hiệu quả, trong quá trình tổ chức thực hiện luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Tổ chức đánh giá sự phù hợp, thống nhất, đồng bộ giữa Luật Dân quân tự vệ với Hiến pháp năm 2013, các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế có liên quan; những hạn chế vướng mắc, bất cập của Luật dân quân tự vệ và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Phương hướng, nhiệm vụ và đề xuất chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng tổng hợp, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về dân quân tự vệ trong tình hình mới. Khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện công tác dân quân tự vệ. Các sở, ngành thành phố, UBND quận, huyện, thị xã, UBND xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức có Ban Chỉ huy quân sự cơ quan tổ chức ở cơ sở hoặc có đơn vị tự vệ, doanh nghiệp quân đội có tổ chức tự vệ không tổ chức hội nghị tổng kết, báo cáo tổng kết bằng văn bản, hoàn thành trước ngày 31/8/2017. Tổng kết thực hiện Luật dân quân tự vệ ở cấp thành phố hoàn thành trước ngày 30/9/2017. Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội chủ trì hướng dẫn nội dung tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ để các sở, ngành thành phố, các địa phương triển khai tổ chức thực hiện; phối hợp với Văn phòng UBND thành phố và các cơ quan liên quan chuẩn bị chu đáo mọi mặt giúp UBND thành phố tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ đúng thời gian quy định, đạt chất lượng, hiệu quả. 74 3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về Dân quân tự vệ 3.2.1. Những giải pháp định hướng việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ Để việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta hiện nay hoạt động có hiệu quả, cần có một số giải pháp định hướng như: Thứ nhất, Quan tâm và chú trọng tới yếu tố kinh tế, nhất là vấn đề phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới ý thức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ: Nền kinh tế- xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật về dân quân tự vệ của các tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế- xã hội chậm phát triển, kém năng động và hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Từ đó, niềm tin của các chủ thể đối với pháp luật được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực, thuận chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành. Chú trọng tới việc thực hiện chính sách xã hội đảm bảo các nguyên tắc của công bằng xã hội. Nó là điều kiện cần thiết cho sự ổn định chính trị, tăng cường pháp chế và đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội,..nhờ đó, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cũng được nâng lên một bước và việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn. Thứ hai, Chú ý tới yếu tố chính trị, tạo ra môi trường chính trị- xã hội ổn định, phát triển bền vững. xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng phù hợp với thực tiễn, tăng cường tính chất và mức độ của nền dân chủ xã hội. Yếu tố chính trị củng cố ý thức và niềm tin chính trị của cán bộ 75 đảng viên và quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, điều này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ của các chủ thể thực hiện pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Thứ ba, Hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân quân tự vệ một cách toàn diện và đồng bộ, đảm bảo thống nhất và mang tính khả thi trước yêu cầu mở rộng nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững: Điều đó tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ có thể tuân thủ pháp luật một cách dễ dàng và nhanh chóng, mặc dù đây là cách xử sự thụ động của các chủ thể, nhưng nó cũng có biểu hiện sự tự giác, nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật; cùng với đó, có thể chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật thuận lợi nhất. Một hệ thống pháp luật có chất lượng thì phải đảm bảo các yêu cầu trên, đặc biệt là tính khả khi, nghĩa là các quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong những điều kiện kinh tế, chính trị- xã hội hiện tại của đất nước. Theo đó các quy định pháp luật về dân quân tự vệ được ban hành phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành pháp luật về dân quân tự vệ phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không. Đồng thời cần phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó, trình độ văn hóa và kiến thức pháp lí của nhân dân. Thứ tư, Cùng với việc quan tâm phát triển kinh tế và ổn định chính trị thì vấn đề văn hóa- lối sống trong cộng đồng dân cư cũng rất quan trọng. Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình như phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, lễ nghi, tín ngưỡngcó ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật thể hiện trên các mặt: phong tục tập quán trong cộng 76 đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét ở khu vực nông thôn. Lối sống thành thị quan hệ dòng họ, thân tộc bộc lộ những tác động nhất định tới việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ, đặc biệt là tác động mạnh mẽ của dư luận xã hội. 3.2.2 Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn thành phố Hà Nội 3.2.2.1. Nhóm giải pháp về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ Xây dựng, củng cố lực lượng DQTV là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để hoàn thành nhiệm vụ trên, chúng ta cần nắm chắc đường lối của Đảng về xây dựng dân quân tự vệ, bám sát thực tiễn và làm tốt những vấn đề sau: Một là, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò của lực lượng DQTV đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai là, Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) của Bộ Chính trị về: "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới"; Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Nghị định số 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về khu vực phòng thủ; Kết luận số 41-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV trong tình hình mới" nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục để các tổ chức, các lực lượng, mọi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân nhận thức 77 đúng về vị trí, vai trò của lực lượng DQTV và nhiệm vụ xây dựng lực lượng DQTV. Ba là, Tập trung tuyên truyền, giáo dục về đường lối, quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng; truyền thống vẻ vang của lực lượng DQTV trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tình hình và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của lực lượng DQTV trong thời kỳ mới; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta... Để thực hiện tốt các nội dung đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các tổ chức, lực lượng cần phải tích cực, chủ động, vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp, huy động mọi phương tiện, bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Có như vậy mới tạo thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong xây dựng lực lượng DQTV hiện nay. Xây dựng, củng cố lực lượng DQTV phải gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, làm nền tảng để xây dựng khu vực phòng thủ của Bộ tư lệnh thủ đô ngày càng vững chắc. Tích cực, chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm gây mất ổn định chính trị. Chỉ đạo lực lượng DQTV phối hợp với bộ đội và các lực lượng khác để bảo vệ an ninh trật tự ở địa bàn. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật những đòi hỏi chính đáng của nhân dân, không để các thế lực thù địch lợi dụng kích động, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động chuẩn bị các phương án đấu tranh ngăn chặn các nhóm phản động, kịp thời dập tắt mọi âm mưu gây rối, bạo loạn. Động viên mọi cán bộ, chiến sĩ DQTV tích cực chủ động, làm nòng cốt cùng toàn dân phòng, chống lụt bão, tìm kiếm, 78 cứu nạn, bảo vệ rừng, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch họa. Phối hợp tuyên truyền, vận động người thân trong gia đình, mọi người chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào "xóa đói, giảm nghèo", "đền ơn, đáp nghĩa", "xây dựng nông thôn mới"... góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa bàn cơ sở. 3.2.2.2. Nhóm giải pháp về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ Một số cơ quan quân sự địa phương còn thiếu chủ động, linh hoạt, chưa tạo sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ trong tham mưu giúp cấp ủy, uỷ ban nhân dân thực hiện Đề án này. Có địa phương còn “khoán trắng” cho cơ quan quân sự; chưa tích cực, chủ động trong triển khai nhân rộng mô hình điểm ở cấp xã. Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và các doanh nghiệp còn thấp. Một số cán bộ, đảng viên, nhất là khối doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV... Để phát huy kết quả bước đầu và khắc phục những hạn chế, bất cập trên, các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề chủ yếu sau: Một là, cần xác định rõ công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công tác quốc phòng, quân sự nói chung, pháp luật về DQTV nói riêng là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, địa phương và của lực lượng vũ trang. Nhiệm vụ này cần được cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ, hiệu quả. Hai là, cần có sự phối hợp giữa BQP với Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương trong việc tuyên truyền pháp luật về DQTV. Trong 79 đó, tập trung tuyên truyền cho khối các doanh nghiệp và các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc thường xuyên đưa tin về các sự kiện, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam cần duy trì việc phổ biến kiến thức trên VTV2, mở chuyên mục phát sóng định kỳ trong Chương trình Truyền hình Quân đội nhân dân về công tác DQTV. Báo Quân đội nhân dân, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Tạp chí DQTV - Giáo dục quốc phòng... tiếp tục duy trì và phát huy các chuyên trang, chuyên mục về giáo dục quốc phòng, qua đó kịp thời làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác DQTV, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân trong xây dựng lực lượng DQTV. Mặt khác, báo chí cũng là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm và phát hiện những nhân tố mới, các điển hình trong triển khai và thực hiện Luật DQTV. Ba là, cần tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm về xây dựng mô hình điểm cấp xã về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV và triển khai nhân rộng mô hình này cho phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, cơ sở. Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV bằng nhiều hình thức, biện pháp khác, nhất là thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, báo cáo viên ở cơ sở. Hiện nay, cả nước có hàng vạn nhà văn hóa cấp xã, thôn là thiết chế văn hóa có nhiều tiềm năng, nhưng chưa được sử dụng có hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Vì vậy, các địa phương cần đầu tư kinh phí, huy động các nguồn lực, nhất là từ các doanh nghiệp, những người hảo tâm để sửa chữa, nâng cấp, mua sắm trang, thiết bị, sách, báo, tài liệu, băng hình... phục vụ cho công tác tuyên truyền pháp luật về DQTV. Trước mắt, mỗi nhà văn hóa nên có tủ sách để phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật và đọc sách, báo của nhân dân. Bốn là, thông qua tuyên truyền, phổ biến và kết quả triển khai thực hiện Luật DQTV, các địa phương, cơ sở, cần kịp thời phát hiện những vướng mắc, 80 bất cập và có những kiến nghị, đề xuất với cơ quan có thẩm quyền để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, giúp cho hệ thống pháp luật về DQTV ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN trong tình hình mới. Các cơ quan chức năng cần giúp BQP chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục cập nhật, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tài liệu, giáo trình pháp luật về DQTV, in và phát hành các tài liệu này đến từng địa phương, cơ sở. Tổ chức phổ biến, giáo dục luật dân quân tự vệ trong các Ban chỉ huy quân sự các quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Một là, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luậ về dân quân tự vệ. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và người chỉ huy ở các Ban chỉ huy quân sự các quận, huyện là yếu tố quyết định đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả thiết thực. Bởi vậy, cấp ủy, chỉ huy ban quân sự quận, huyện cần bám sát tình hình, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu quả; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vào nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, chương trình, kế hoạch công tác của Ban chỉ huy quân sự các quận, huyện và các tổ chức quần chúng. Phát huy vai trò của cấp ủy viên phụ trách công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong chỉ đạo, theo dõi, bám nắm đơn vị và chịu trách nhiệm về kết quả tổ chức thực hiện. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần nghiên cứu, nắm vững pháp luật, điều lệ, điều lệnh của quân đội, tình hình chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân nhận thức đầy đủ về vị trí, ý nghĩa, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với xây dựng và thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, người chỉ huy cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình, phối hợp tổ 81 chức thực hiện; lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật với công tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, duy trì nền nếp, chế độ, xử lý kiên quyết mọi hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy định của đơn vị. Trong quá trình thực hiện, phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo theo hướng sâu sát cơ sở, bám nắm nhu cầu bộ đội, tình hình chấp hành kỷ luật của đơn vị để triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, đảm bảo linh hoạt, sinh động, phong phú, hiệu quả. Hai là, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ các cấp. Trước mắt, các cơ quan, đơn vị cần tập trung củng cố, kiện toàn hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cả về cơ cấu, nhân sự, thành phần, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, có chất lượng; hoàn thiện thể chế, quy chế hoạt động, kế hoạch công tác của hội đồng. Đồng thời, tiến hành rà soát, đánh giá chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật của đơn vị, làm cơ sở để xây dựng, bồi dưỡng, phát huy vai trò của đội ngũ này trong thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải được lựa chọn kỹ cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, kiến thức pháp luật, khả năng truyền đạt, ý thức tổ chức kỷ luật và có sức cảm hóa, thu phục người nghe. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp cần bám sát chức năng, nhiệm vụ, tăng cường theo dõi, đôn đốc thực hiện chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật đã được xác định; kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc, những nơi làm chưa tốt để chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Quốc phòng cần tham mưu, tư vấn cho chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự các cấp làm tốt công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật; đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp triển khai tuyên truyền các đề án, các 82 luật đã được thông qua và tiếp tục theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, hiệu quả. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan, đơn vị làm tốt việc tham mưu, tư vấn, đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn, tư vấn thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú, sáng tạo, phù hợp với đặc thù quân đội. Phát huy vai trò nòng cốt trong phối hợp với các cơ quan chức năng đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện một cách toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường chấn chỉnh khâu yếu, mặt yếu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ. Việc đổi mới phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tình hình, nhận thức của các đối tượng trong đơn vị và mục đích, yêu cầu mà công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đề ra, phù hợp với sự phát triển của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Về nội dung, cần bám sát các chuyên đề phổ biến, giáo dục pháp luật của trên, cụ thể hóa sao cho sát với đặc điểm của đơn vị và từng đối tượng. Đối với can bộ trong Bộ tư lệnh Thủ đô cần được trang bị kiến thức lý luận chung về nhà nước và pháp luật; pháp luật về quốc phòng, an ninh, kinh tế, hành chính và các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn công tác. Các nhóm đối tượng khác được phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật về dân quân tự vệ. Đồng thời, các đơn vị cần tích cực tham gia phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho nhân dân trên địa bàn đóng quân, nhất là trên vùng sâu, vùng xa.. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định mặt làm được, chưa làm được, tìm cách làm hay, nhân tố mới để xây dựng và nhân rộng. Về hình thức, tiếp tục phát huy hiệu quả 83 các mô hình, cách làm đã được khẳng định; đồng thời, bám sát thực tiễn sinh động trong môi trường quân đội để bổ sung, làm phong phú thêm nội dung, hình thức, biện pháp phù hợp với nhu cầu pháp luật về dân quân tự vệ. Sử dụng có hiệu quả Tủ sách, Ngăn sách pháp luật, không ngừng cập nhật nội dung mới, phong phú, có tính giáo dục cao. Bên cạnh chương trình, đề án giáo dục chung, các đơn vị cần tăng cường giáo dục bổ trợ và các hoạt động giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thi tìm hiểu pháp luật... bằng nhiều cách làm sáng tạo, đa dạng, thu hút đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia. Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong triển khai tổ chức thực hiện. Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ mang lại hiệu quả thiết thực, cần có sự vào cuộc của các tổ chức, lực lượng, phương tiện, tạo môi trường thuận lợi đưa văn hóa pháp luật vào cuộc sống hàng ngày của cơ quan, đơn vị. Theo đó, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, duy trì chuyên trang, chuyên mục, tăng dung lượng, thời lượng phát sóng về tuyên truyền, phổ biến pháp luật; tăng cường thông tin về hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, các điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong chấp hành pháp luật. Đồng thời, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, duy trì nền nếp chính quy; giải quyết hài hòa các mối quan hệ; phối hợp với địa phương nơi đóng quân, gia đình trong việc giáo dục pháp luật cho quân nhân. Mặt khác, phải tạo điều kiện về kinh phí, vật chất, phương tiện hoạt động; chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần, động viên cán bộ, chiến sĩ tự giác phấn đấu, rèn luyện theo các chuẩn mực pháp luật đề ra. Tổ chức phổ biến, giáo dục luật dân quân tự vệ trong các Ban chỉ huy quân sự các quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Một là, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luậ về dân quân tự vệ. 84 Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và người chỉ huy ở các Ban chỉ huy quân sự các quận, huyện là yếu tố quyết định đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả thiết thực. Bởi vậy, cấp ủy, chỉ huy ban quân sự quận, huyện cần bám sát tình hình, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu quả; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vào nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, chương trình, kế hoạch công tác của Ban chỉ huy quân sự các quận, huyện và các tổ chức quần chúng. Phát huy vai trò của cấp ủy viên phụ trách công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong chỉ đạo, theo dõi, bám nắm đơn vị và chịu trách nhiệm về kết quả tổ chức thực hiện. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần nghiên cứu, nắm vững pháp luật, điều lệ, điều lệnh của quân đội, tình hình chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân nhận thức đầy đủ về vị trí, ý nghĩa, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với xây dựng và thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, người chỉ huy cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình, phối hợp tổ chức thực hiện; lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật với công tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, duy trì nền nếp, chế độ, xử lý kiên quyết mọi hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy định của đơn vị. Trong quá trình thực hiện, phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo theo hướng sâu sát cơ sở, bám nắm nhu cầu bộ đội, tình hình chấp hành kỷ luật của đơn vị để triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, đảm bảo linh hoạt, sinh động, phong phú, hiệu quả. Hai là, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ các cấp. 85 Trước mắt, các cơ quan, đơn vị cần tập trung củng cố, kiện toàn hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cả về cơ cấu, nhân sự, thành phần, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, có chất lượng; hoàn thiện thể chế, quy chế hoạt động, kế hoạch công tác của hội đồng. Đồng thời, tiến hành rà soát, đánh giá chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật của đơn vị, làm cơ sở để xây dựng, bồi dưỡng, phát huy vai trò của đội ngũ này trong thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải được lựa chọn kỹ cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, kiến thức pháp luật, khả năng truyền đạt, ý thức tổ chức kỷ luật và có sức cảm hóa, thu phục người nghe. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp cần bám sát chức năng, nhiệm vụ, tăng cường theo dõi, đôn đốc thực hiện chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật đã được xác định; kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc, những nơi làm chưa tốt để chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Quốc phòng cần tham mưu, tư vấn cho chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự các cấp làm tốt công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật; đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp triển khai tuyên truyền các đề án, các luật đã được thông qua và tiếp tục theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, hiệu quả. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan, đơn vị làm tốt việc tham mưu, tư vấn, đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn, tư vấn thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú, sáng tạo, phù hợp với đặc thù quân đội. Phát huy vai trò nòng cốt trong phối hợp với các cơ quan chức năng đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện một cách toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường chấn chỉnh khâu yếu, mặt yếu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. 86 Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ. Việc đổi mới phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tình hình, nhận thức của các đối tượng trong đơn vị và mục đích, yêu cầu mà công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đề ra, phù hợp với sự phát triển của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Về nội dung, cần bám sát các chuyên đề phổ biến, giáo dục pháp luật của trên, cụ thể hóa sao cho sát với đặc điểm của đơn vị và từng đối tượng. Đối với can bộ trong Bộ tư lệnh Thủ đô cần được trang bị kiến thức lý luận chung về nhà nước và pháp luật; pháp luật về quốc phòng, an ninh, kinh tế, hành chính và các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn công tác. Các nhóm đối tượng khác được phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật về dân quân tự vệ. Đồng thời, các đơn vị cần tích cực tham gia phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho nhân dân trên địa bàn đóng quân, nhất là trên vùng sâu, vùng xa.. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định mặt làm được, chưa làm được, tìm cách làm hay, nhân tố mới để xây dựng và nhân rộng. Về hình thức, tiếp tục phát huy hiệu quả các mô hình, cách làm đã được khẳng định; đồng thời, bám sát thực tiễn sinh động trong môi trường quân đội để bổ sung, làm phong phú thêm nội dung, hình thức, biện pháp phù hợp với nhu cầu pháp luật về dân quân tự vệ. Sử dụng có hiệu quả Tủ sách, Ngăn sách pháp luật, không ngừng cập nhật nội dung mới, phong phú, có tính giáo dục cao. Bên cạnh chương trình, đề án giáo dục chung, các đơn vị cần tăng cường giáo dục bổ trợ và các hoạt động giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thi tìm hiểu pháp luật... bằng nhiều cách làm sáng tạo, đa dạng, thu hút đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia. Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong triển khai tổ chức thực hiện. 87 Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ mang lại hiệu quả thiết thực, cần có sự vào cuộc của các tổ chức, lực lượng, phương tiện, tạo môi trường thuận lợi đưa văn hóa pháp luật vào cuộc sống hàng ngày của cơ quan, đơn vị. Theo đó, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, duy trì chuyên trang, chuyên mục, tăng dung lượng, thời lượng phát sóng về tuyên truyền, phổ biến pháp luật; tăng cường thông tin về hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, các điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong chấp hành pháp luật. Đồng thời, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, duy trì nền nếp chính quy; giải quyết hài hòa các mối quan hệ; phối hợp với địa phương nơi đóng quân, gia đình trong việc giáo dục pháp luật cho quân nhân. Mặt khác, phải tạo điều kiện về kinh phí, vật chất, phương tiện hoạt động; chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần, động viên cán bộ, chiến sĩ tự giác phấn đấu, rèn luyện theo các chuẩn mực pháp luật đề ra. 3.2.2.3. Nhóm giải pháp về phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội Trên cơ sở đó, đề ra những chủ trương, giải pháp thiết thực, hiệu quả trong tổ chức và xây dựng lực lượng DQTV theo chức năng, nhiệm vụ của từng địa phương, đơn vị, cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội... Để thực hiện tốt nội dung này, chính quyền các cấp cần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương, công tác DQTV; kịp thời ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt các đề án xây dựng DQTV của Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội theo đúng quy định. Trong xây dựng, củng cố lực lượng DQTV phải được kết hợp với các hoạt động phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh tại cơ quan và địa phương; đồng thời, thông qua hoạt động thực tiễn để đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, kịp thời rút kinh nghiệm, từ đó nâng cao chất lượng toàn diện của các đơn vị DQTV. Mặt khác, cần tăng 88 cường kiểm tra, đôn đốc trách nhiệm của cán bộ các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị, khắc phục những khuynh hướng đùn đẩy, khoán trắng cho Bộ tư lệnh thủ đô, Ban Chỉ huy Quân sự các quận, huyện trong xây dựng lực lượng DQTV tại địa phương, cơ sở. Cơ quan quân sự địa phương các cấp cần bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình để làm tốt hơn nữa công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cùng cấp ban hành nghị quyết và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo hằng năm về công tác quốc phòng, quân sự địa phương, đưa công tác quản lý DQTV ngày càng nền nếp, trở thành chế độ trên cơ sở nghĩa vụ gắn chặt với quyền lợi. Làm tốt công tác nắm và quản lý nguồn, công khai danh sách tuyển chọn, luân chuyển DQTV nòng cốt theo phương châm "Dân biết, dân bàn, dân cử", được cấp ủy, chính quyền xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan, tổ chức phê duyệt. Tập trung xây dựng, củng cố lực lượng DQTV cơ động, DQTV phòng không, DQTV thường trực vùng biên giới, hải đảo và địa bàn trọng điểm nội địa, đảm bảo đủ về số lượng, có chất lượng chính trị tốt theo đúng sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng. Coi trọng công tác tổ chức, xây dựng lực lượng DQTV đủ mạnh để tăng cường lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền và lãnh hải của Tổ quốc. Đồng thời, chú trọng xây dựng, củng cố lực lượng tự vệ trong các loại hình doanh nghiệp tại địa phương đúng với Luật DQTV và phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương, doanh nghiệp. Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn và đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự ở cơ sở. Căn cứ vào hướng dẫn của trên, cấp ủy đề xuất ban hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác và quy chế hoạt động của chi bộ quân sự cấp xã, phường, thị trấn. Coi trọng lãnh đạo công tác phát triển đảng viên, đoàn viên; qua đó nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV. Tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ Ban Chỉ huy Quân sự xã, phường, thị trấn theo đúng quy chế, 89 quy trình công tác cán bộ của Đảng. Cấp ủy, chính quyền cơ sở phải thường xuyên chăm lo chuẩn bị nguồn, gửi đi đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa trình độ nghiệp vụ chuyên môn của chỉ huy trưởng, Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự theo thẩm quyền. Hằng năm, đội ngũ cán bộ DQTV phải được bồi dưỡng, tập huấn cập nhật kiến thức mới về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và ôn luyện kiến thức cơ bản về quốc phòng, quân sự theo quy định của Bộ Quốc phòng. Đồng thời, mỗi cán bộ trong Ban Chỉ huy Quân sự phải không ngừng tự học tập, rèn luyện để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, quân sự ở cơ sở. Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trước xu thế hội nhập toàn diện đời sống kinh tế xã hội đất nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, vấn đề nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ để qua đó củng cố, tăng cường hiệu lực pháp luật đang trở nên cấp thiết, quan trọng. Để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ, nâng cao hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật của các cấp chính quyền, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau: Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp đối với công tác tuyên truyền, PBGDPLvề dân quân tự vệ: Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cần tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 32/CT-TW của Ban Bí thư và đẩy mạnh thực hiện các Đề án, Chương trình, Kế hoạch của Chính phủ, Bộ Tư pháp và UBND tỉnh về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2015 - 2020; đồng thời triển khai thực hiện tốt Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành và hưởng ứng có hiệu quả Ngày “Pháp luật Việt Nam” hằng năm, qua đó tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các 90 tổ chức Đảng và đảng viên về công tác giáo dục pháp luật, đưa công tác PBGDPL về dân quân tự vệ vào trong Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên hằng năm của Ban Thường vụ cấp ủy các cấp. Các cấp ủy phải thường xuyên tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch PBGDPL về dân quân tự vệ trên địa bàn cấp mình và phải luôn xác định vai trò gương mẫu và tiên phong của đảng viên trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Đồng thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát hoạt động, kịp thời đôn đốc, chỉ đạo xử lý những vướng mắc nảy sinh trong quá trình PBGDPL về dân quân tự vệ. Bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì sự tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn của chính quyền địa phương là một trong những yếu tố vô cùng quan trong. Để nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, chính quyền địa phương cần thực hiện tốt những vấn đề sau: Đối với Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp: Phải từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và trong việc ra Nghị quyết về công tác PBDGPL về dân quân tự vệ nói riêng. Trong quá trình hoạt động của mình, HĐND không chỉ chú ý tới việc ban hành các văn bản QPPL mà quan trọng hơn là phải chỉ đạo, giám sát hoạt động tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ, xem đây là biện pháp hàng đầu trong việc đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn. Đối với ủy ban nhân dân (UBND) các cấp: Hằng năm, UBND cần chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục pháp luật cho địa phương. Kế hoạch phải phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các Đề án, Chương trình, Kế hoạch của Bộ Tư pháp, UBND thành phố và phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế, xã hội của từng địa phương. Thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm và 91 khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác PBGDPL về dân quân tự vệ. Hai là, chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật - vai trò quyết định chất lượng tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ: Do vậy, cần tuyển chọn những người có phẩm chất, năng lực, trình độ, có khả năng tuyên truyền, giáo dục hoặc hòa giải tốt, có lòng nhiệt tình, say mê với công việc giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, phải đặc biệt chú trọng việc rà soát, phân loại, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp và định hướng nội dung giáo dục pháp luật thường xuyên cho đội ngũ làm công tác giáo dục pháp luật (chú ý cung cấp kiến thức, cần bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ, giúp họ không chỉ có kiến thức vững mà còn có khả năng truyền đạt thu hút người nghe và có hiệu quả nội dung pháp luật). Ba là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp PBGDPL về dân quân tự vệ: Cần đổi mới nội dung tuyền truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ theo hướng không chỉ đáp ứng nhu cầu kiến thức cơ bản về pháp luật, mà còn phải thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn để một mặt nâng cao trình độ nhận thức cho các đối tượng, mặt khác giúp họ có khả năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở nội dung PBGDPL về dân quân tự vệ đã được cung cấp, các báo cáo viên biên soạn lại cụ thể, phù hợp với đặc điểm, điều kiện, trình độ nhận thức, tính chất công việc của từng đối tượng. Định kỳ cần tổ chức sơ kết, đánh giá để xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xác định nội dung PBGDPL về dân quân tự vệ thời gian tiếp theo. Cần đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyền truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ, không chỉ thông qua các hội nghị, hệ thống truyền thanh, 92 công tác hòa giải ở cơ sở, hoạt động câu lạc bộ phát luật mà bằng những cách thức khác như tọa đàm, buổi nói chuyện, hoạt cảnh tình huống, lời ca, tiếng hát, cung cấp các tin bài, cấp phát tài liệu hỏi đáp, tờ gấp, tờ rơi, panô, áp phích, khai thác, tìm hiểu pháp luật qua tủ sách pháp luật,.... Cần xây dựng và mở rộng hình thức tìm hiểu pháp luật qua các hoạt cảnh trên phát thanh hoặc truyền hình, xây dựng trang web riêng về công tác tuyên truyền, PBGDPL để người dân có thể cập nhật thông tin, trao đổi, bàn luận và tìm hướng giải quyết cho những vấn đề bức xúc trong đời sống pháp luật. Ngoài ra, cần lồng ghép việc tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ tại các buổi sinh hoạt cộng đồng. Xây dựng và phát huy phương châm mỗi người dân là một tuyên truyền viên trong cộng đồng. Chú trọng nâng cao hiệu quả hình thức thi tìm hiểu pháp luật. Đối với hình thức PBGDPL về dân quân tự vệ qua hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp luật cần mở rộng phạm vi hoạt động, không chỉ tư vấn tại trụ sở mà còn đến các thôn xóm, cụm dân cư, tư vấn lưu động hoặc thông qua các câu lạc bộ trợ giúp pháp lý. Bốn là, cần nâng cao chất lượng hoạt động công tác hòa giải ở cơ sở: Đây là hình thức có tác dụng giáo dục cao vì nó không chỉ giải quyết tranh chấp thông qua cách hướng dẫn, thuyết phục các bên tự thương lượng với nhau mà còn xuất phát từ đạo lý dân tộc Việt Nam, hòa thuận, đoàn kết, “chín bỏ làm mười”. Hòa giải ở cơ sở vừa có tác dụng giáo dục hiệu quả vừa có khả năng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Khi tiến hành hòa giải cần phân tích thấu đáo mọi khía cạnh, kiên nhẫn và mềm mỏng, vừa căn cứ vào quy định pháp luật, vừa dùng tình cảm để thuyết phục. Phải xác định hòa giải có thể không thành, nhưng nhất định buổi hòa giải đó sẽ là bài học giáo dục pháp luật cho mọi người. Năm là, nâng cao chất lượng dạy học pháp luật về dân quân tự vệ trong trường học 93 Cần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và hình thức ngoại khóa pháp luật; nâng cao chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật ở các trường học. Sáu là, phải thờng xuyên hệ thống hoá văn bản QPPL về dân quân tự vệ Để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật lạc hậu, trùng lắp, mâu thuẫn, kịp thời bổ sung những thiếu sót trong mặt bằng pháp luật; có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn cụ thể; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, nâng cao kỹ thuật lập pháp, mở rộng các hình thức nhân dân tham gia vào việc xây dựng pháp luật... Đồng thời phải đảm bảo đủ kinh phí, cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động công tác tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ. Bảy là, tăng cường công tác tuyền truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ không tách rời với việc nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống cho nhân dân: Các cơ quan nhà nước cần tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật, đặc biệt là áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và nghiêm minh, nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc s PBGDPL về dân quân tự vệ hóa pháp lý của người dân. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào trình độ văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức, phụ thuộc vào việc họ thực thi pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật, nhất là trong điều kiện xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì một trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia tích cực vào hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích cực, đảm bảo hành trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật về dân quân tự vệ trong địa bàn thành phố Hà Nội. 94 Tiểu kết chương 3 Sau khi xác định những nguyên nhân của hạn chế trong việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn của Thành phố Hà Nội qua các quan điểm về việc quán triệt các nguyên tắc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ cùng với đó là việc xác định rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện lực lượng dân quân tự vệ và việc chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ luận văn đã đưa ra được các nhóm giải pháp, trong đó có giải pháp mang tính định hướng và giải pháp cụ thể để đảm bảo việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ là các nhóm giải pháp như: “Nhóm giải pháp về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, Nhóm giải pháp về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ, Nhóm giải pháp về phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Các giải pháp này phần nào đã hoàn thành việc khắc phục được những nguyên nhân hạn chế ở chương 2 của luận văn. 95 KẾT LUẬN Từ việc tìm hiểu và phân tích trên, cùng với thực tiễn cuộc sống hàng ngày có thể kết luận rằng tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ là quá trình chuyển hóa từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động” ở các chủ thể trong xã hội. Đây là một quá trình phức tạp và lâu dài, do đó, hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta hiện nay phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Luận văn tổ chức thực hiện luật dân quân tự vệ - từ thực tiễn thành phố Hà Nội đã đưa ra được các giải pháp để đưa luật dân quân tự vệ đến với người dân thủ đô, việc thực hiện luật dân quân tự vệ là trách nhiệm của mọi người dân của toàn xã hội và của các cơ quan đơn vị trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các giải pháp của luận văn đã đưa ra được những vấn đề về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng, củng cố lực lượng DQTV phải gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, làm nền tảng để xây dựng khu vực phòng thủ của bộ tư lệnh thủ đô ngày càng vững chắc, tổ chức phổ biến, giáo dục luật dân quân tự vệ trong các ban chỉ huy quân sự các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội và giải pháp về công tác tuyên truyền pháp luật về dân quân tự vệ. Các giải pháp này cơ bản đã giải quyết được những vấn đề về tổ chức thực hiện luật dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội trong các năm tiếp theo. 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương (2007), Về tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Quy định số 105 ngày 20/11/2007, Hà Nội. 2. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Kết luận Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược công tác cán bộ từ nay đến 2020, Hà Nội. 3. Bộ tổng Tham mưu (2004), Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 4. Chỉ lệnh số 82/CL-BQP ngày 14/11/2006 của BQP về sẵn sàng chiến đấu đối với Quân đội nhân dân và Dân quân Tự vệ. 5. Chỉ lệnh số 285/CL-BTL ngày 20/10/2009 của Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô về SSCĐ của lực lượng vũ trang Bộ Tư lệnh Thủ đô. 6. Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009; 7. Chỉ thị số 06/CT-UBND ngày 26/4/2017 của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 11. Đề án “xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016-2020”. 12. Hiến pháp năm 2013 13. Hướng dẫn số 958/HD-BTL ngày 04/5/2017 của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009 97 14. Phạm Hồng Hương “Kết quả và kinh nghiệm sau 2 năm thực hiện Luật DQTV”, Tạp chí quốc phòng toàn dân ngày 7/6/2012 15. Luật Dân quân tự vệ, Luật số 43/2009/QH 12 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 23/11/2009 16. Nghị định số 03/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/1/2016, quy định chi tiết về biện pháp thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ. 17. Nghị định số 133/2015/NĐ-CP ngày 28/12/2015 của Chính phủ Quy định việc phối hợp của DQTV với các lực lượng trong hoạt động bảo vệ biên giới, biển, đảo; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở; bảo vệ và phòng, chống cháy rừng... 18. Quyết định số 1133/QĐ-BQP ngày 11 tháng 4 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về ban hành kế hoạch tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ 2009. 19. Quyết định số 1073/QĐ-BTL ngày 18/5/2016 của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội về Thanh tra việc đăng ký, quản lý, tổ chức biên chế, trang bị, huấn luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ chính sách cho lực lượng DQTV. 20. Thông tư số 193/2014/TT-BQP ngày 26/12/2014 của Bộ Quốc phòng về Ban hành tiêu chuẩn, trang phục dân quân tự vệ 21. Nguyễn Xuân Thuyết,“Thực hiện Luật Dân quân tự vệ ở Vĩnh Phúc”, tạp chí quốc phòng toàn dân, ngày 22/2/2012. 98 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ / / HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN TỰ VỆ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật hành chính Mã số: 60.34.04.03 Người thực hiện: Cao Hợp Thanh HÀ NỘI - NĂM 2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_to_chuc_thuc_hien_luat_dan_quan_tu_ve_tu_thuc_tien.pdf
Luận văn liên quan