Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án
và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận sau:
Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền
lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa
án là cơ quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Để Tòa án thực
hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là cần có những đảm
bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang tính phổ quát
trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành
chính lãnh thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết
các việc khác theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp tỉnh là cấp
Tòa án có vai trò quan trọng, thực hiện việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ
án theo thẩm quyền.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực
hiện cải cách tư pháp hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cần hướng tới các
mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa
án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với
hoạt động xét xử.
Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ
thẩm, phúc thẩm theo thẩm quyền. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng108
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có những bước phát
triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá
trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.
121 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 931 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cấp tỉnh – Từ thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thẩm khi tham gia xét xử cũng chỉ mang
tính tượng trưng, hình thức. Bởi vì, một Thẩm phán phải có trình độ thấp nhất
là cử nhân Luật, phải qua lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện tư pháp,
Học viện Tòa án, có thời gian công tác Pháp luật từ 4 năm trở lên (đối với cấp
huyện), từ 6 năm trở lên (đối với cấp tỉnh).Thẩm phán hoạt động xét xử lâu
dài, tích lũy được nhiều kinh nghiệm, Thẩm phán có nhiệm vụ thụ lý hồ sơ vụ
án, có quyền tiến hành các hoạt động theo tố tụng như: ghi lời khai, thu thập
chứng cứ và tiếp xúc với các đương sự trong thời gian khá dài. Đó là điều
kiện đưa ra những quyết định đúng đắn về vụ án. Còn đối với Hội thẩm nhân
dân chưa được đào tạo bài bản, không được trang bị kiến thức cơ bản về pháp
luật mà chỉ sau khi được bầu họ mới được tham dự một số buổi tập huấn ngắn
hạn về kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử, nên việc xem xét các vấn đề
85
đặt ra đối với họ chủ yếu bằng kinh nghiệm sống chứ không hoàn toàn dựa
trên cơ sở pháp luật. Sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân là cần thiết
nhưng phần lớn Hội thẩm nhân dân không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
hiểu biết pháp luật không sâu thì làm sao họ có thể “ngang quyền” với Thẩm
phán khi xét xử được. Hơn nữa, quy định về chế độ nghiên cứu hồ sơ của Hội
thẩm nhân dân cũng còn nhiều bất cập, trong thời gian quá ngắn (kể từ khi
Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Hội thẩm nhân dân mới chính
thức tham gia nghiên cứu, xét xử vụ án đó), hơn nữa đã là Hội thẩm nhân dân
thì sẽ được tham gia xét xử tất cả các loại án từ hình sự, dân sự, đến hành
chính, kinh tế, lao động Với trình độ, kiến thức pháp luật của Hội thẩm
nhân dân như hiện nay, với thời gian nghiên cứu hồ sơ ít hơn Thẩm phán, thì
Hội thẩm nhân dân không có đủ điều kiện để đánh giá hết các chứng cứ trong
hồ sơ để có quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là đối với những vụ án có
nhiều tình tiết phức tạp như án dân sự về tranh chấp đất đai, thừa kế, những
vụ án hình sự có nhiều bị cáo tham gia, hồ sơ dày đến hàng trăm, hàng ngàn
bút lục. Phải khẳng định rằng, việc xét xử các vụ án là hết sức phức tạp đòi
hỏi các thành viên Hội đồng xét xử phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc pháp
luật, am hiểu xã hội. Yêu cầu đặt ra là như vậy, nhưng theo các quy định hiện
hành về tiêu chuẩn để được bầu làm Hội thẩm nhân dân thì nêu rất chung
chung là “có kiến thức pháp luật”, vậy căn cứ vào đâu để đánh giá một người
là có kiến thức pháp luật? Với quy định chưa rõ ràng này việc tham gia xét xử
của Hội thẩm nhân dân còn mang tính cơ cấu và hình thức. Số Hội thẩm nhân
dân có bằng cấp về pháp luật chiếm tỷ lệ rất thấp. Hơn nữa theo quy định của
pháp luật hiện hành thì Hội thẩm nhân dân cũng như Thẩm phán khi có tỷ lệ
vụ việc do mình tham gia xét xử, giải quyết bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của
Hội đồng xét xử thì ngoài việc không được xét thưởng, còn bị xem xét mức
độ để có thể đề nghị miễn hoặc bãi nhiệm, nhưng trên thực tế, nếu trách
86
nhiệm của Hội thẩm nhân dân được xác định một cách rõ ràng đối với các bản
án bị hủy, cải, sửa thì e rằng không ai dám chấp nhận làm Hội thẩm nhân dân
trong một điều kiện với tiêu chuẩn, chế độ như hiện nay.
Để nguyên tắc này có tính khả thi, không tượng trưng, hình thức, hơn
nữa để nâng cao chất lượng xét xử, tôi cho rằng trong thành phần Hội đồng
xét xử sơ thẩm, số lượng thành viên Hội thẩm nhân dân nên ít hơn Thẩm
phán. Đặc biệt, để Hội thẩm nhân dân đảm đương được chức trách, nhiệm vụ
của mình cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân
phải có trình độ cử nhân Luật hoặc đã qua công tác pháp luật từ 3 – 5 năm,
phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử; cần quy định về mặt tổ chức, cụ thể:
Đoàn Hội thẩm nhân dân là một tổ chức chính trị xã hội không chịu
sự quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp, có kinh phí hoạt động
riêng. Đoàn Hội thẩm có Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn làm việc theo
chế độ chuyên trách là người trực tiếp quản lý, phân công việc tham gia xét
xử của Hội thẩm nhân dân. Theo đó, cơ chế phối hợp với Tòa án sẽ là: Sau
khi thụ lý, Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án cho Trưởng đoàn Hội thẩm để
sắp xếp, phân công Hội thẩm nhân dân tham gia nghiên cứu, xét xử và gửi
văn bản phân công cho Tòa án để ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Làm như vậy, một mặt giảm bớt công việc cho Tòa án, mặt khác việc lựa
chọn Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án cụ thể trở nên khách
quan hơn. Đặc biệt trong thời gian chuẩn bị xét xử Hội thẩm nhân dân phải
hết sức nỗ lực trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét những tình tiết, tài liệu
liên quan đến vụ án, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh vụ án, trên cơ
sở đó Hội thẩm nhân dân phải chuẩn bị cho mình một kế hoạch thẩm vấn
tại phiên tòa, có như vậy mới chủ động khi tham gia xét xử và thể hiện sự
“ngang quyền” với Thẩm phán được. Đi đôi với việc tiêu chuẩn hóa đội
ngũ Hội thẩm nhân dân, cần phải có một chính sách đãi ngộ, chế độ bồi
87
dưỡng thỏa đáng, thích hợp đối với Hội thẩm nhân dân, để tương xứng với
trọng trách mà pháp luật quy định.
Pháp luật hiện hành trao cho Hội thẩm nhân dân quyền năng pháp lý
khá lớn, song chưa có cơ chế để Hội thẩm nhân dân phát huy vai trò, trách
nhiệm của mình, do vậy hoạt động còn mang tính hình thức. Muốn giải
quyết vấn đề này, đòi hỏi phải có các phương án và giải pháp đồng bộ cùng
với sự tham gia tích cực, trách nhiệm từ nhiều phía. Do đó, trên cơ sở tổng
kết thực tiễn, chế định về Hội thẩm nhân dân cần phải được nghiên cứu,
sửa đổi để bảo đảm yếu tố khoa học và tính pháp lý trong hoạt động xét xử
của Tòa án.
88
Tiểu kết chương 2
Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ
thẩm, phúc thẩm theo thẩm quyền. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có những bước phát
triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá
trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cũng còn những hạn
chế, bất cập trước yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân không đồng đều, một bộ phận còn hạn chế; hoạt
động của Tòa án còn bị tác động, bởi những mối quan hệ từ bên ngoài (mối
quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương; cơ quan giám sát...) ảnh hưởng
đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử; cơ sở vật
chất, điều kiện làm việc của Tòa án nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh trước yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong tổng thể đổi mới
tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, cải cách tư pháp, cải cách
hành chính và những yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
89
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH HIỆN NAY
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Trong bộ máy nhà nước ta, Tòa án nhân dân có vị trí, vai trò hết sức
quan trọng. Vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân được quy định
trong Hiến pháp (Điều 20, Điều 31 và Điều 102 Hiến pháp 2013) đã tạo cơ sở
pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp. Trong lịch sử, Tòa án nhân dân đã trải qua những cuộc cải cách và đổi
mới về tổ chức và phương thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng
nặng nề trong việc bảo vệ pháp chế, bảo vệ công lý, nhất là trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện cải cách tư
pháp hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét xử, việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp
tỉnh nói riêng cần bám sát các quan điểm, mục tiêu cải cách tư pháp thể hiện
trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian gần
đây. Cụ thể là một số quan điểm cơ bản sau:
3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải
gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân.
Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân gần đây nhất
tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI với định
hướng: Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải
cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền
xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính.[10] Định hướng trên
90
nhằm đảm bảo sự minh bạch, sự tôn trọng pháp luật, sự độc lập và tuân theo
pháp luật của hoạt động xét xử.
3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải
được tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ
quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh là một cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án nhân
dân và cho dù yêu cầu có sự độc lập trong hoạt động xét xử nhưng không thể
tách rời với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân
dân cấp huyện cả về cơ cấu tổ chức và các mối liên hệ trong hoạt động xét xử,
đặc biệt là mối quan hệ theo 2 cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Điều này đòi
hỏi việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải có
sự gắn kết, tương xứng và đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống Tòa án nhân dân nói chung. Bên cạnh đó, hoạt động xét xử của Tòa án
còn dựa trên pháp luật, căn cứ vào các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, hoạt
động bổ trợ tư pháp, hoạt động hành chính của các cơ quan nhà nước và sự
lãnh đạo, phối hợp của các thiết chế chính trị khác, bởi vậy, đổi mới tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói
riêng còn phải đặt trong mối quan hệ với quá trình đổi mới các thiết chế trong
hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng và các hoạt động lập pháp, hành
pháp (hoàn thiện pháp luật, cải cách hành chínhvv).
3.1.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải
được thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế.
Việc cải cách thể chế không chỉ là cơ sở để thực hiện đổi mới mô hình
tổ chức, phương thức hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh mà còn là cơ sở
pháp lý để Tòa án áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đảm bảo kịp thời
giải quyết, xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, tranh chấp phát sinh, góp
phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
91
của Nhà nước, tổ chức và công dân. Chính vì vậy, việc cải cách, hoàn thiện
thể chế là điều kiện cơ bản cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét
xử của Tòa án; nâng cao trình độ Thẩm phán và ý thức chấp hành pháp luật
của công dân.
3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải
gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế, phục vụ cho việc xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hợp tác quốc tế là nhu cầu, xu thế tất yếu trong sự tồn tại và phát triển
của tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay. Nhận thức được tầm quan
trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự
chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, bên cạnh những
cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, quá trình hội nhập cũng đặt nền
kinh tế nước ta trước những thách thức lớn, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu
vượt qua mới có thể tận dụng tốt cơ hội phát triển. Hội nhập, mở rộng quan
hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài sẽ làm gia tăng các quan hệ dân sự,
kinh tế, lao động có yếu tố nước ngoài và đi cùng với sự gia tăng này là các
tranh chấp phát sinh. Vì vậy các Tòa án phải có sự đổi mới, thích ứng để giải
quyết các tranh chấp phát sinh có yếu tố nước ngoài, đảm bảo tôn trọng pháp
luật, các chuẩn mực tư pháp quốc tế và bảo vệ quyền bình đẳng của tất cả
các bên liên quan.
92
3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của
Tòa án
Ban cán sự Đảng, lãnh đạo TAND tỉnh Quảng Ngãi cần thường xuyên
phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương
để đề xuất kịp thời xây dựng đường lối, lộ trình cải cách tư pháp phù hợp với
đặc thù tỉnh Quảng Ngãi. Bên cạnh đó các cấp ủy Đảng cần thường xuyên
giáo dục chính trị tư tưởng, quán triệt các văn kiện, nghị quyết, đường lối của
Đảng với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, cán bộ Tòa án để
họ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Các cấp ủy Đảng cần thực hiện kiểm tra định kỳ đối với đối với Đảng
viên công chức Tòa án, kịp thời phát hiện, xử lý đối với những Đảng viên
không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có sai phạm.
Ban cán sự Đảng TAND tỉnh Quảng Ngãi phải luôn phối hợp chặt chẽ
với các cấp ủy Đảng chăm lo công tác cán bộ, kịp thời phát hiện, tuyển chọn
những Đảng viên xuất sắc để đào tạo, bổ nhiệm Thẩm phán và các vị trí lãnh
đạo Tòa án. Giới thiệu các đồng chí Đảng viên đủ trình độ, năng lực, uy tín,
trách nhiệm và bản lĩnh chính trị vào cấp ủy Đảng và để giữ vị trí đứng đầu
các Tòa chuyên trách.
3.2.2. Trong hoạt động xét xử của Tòa án phải tuyệt đối trung thành với
Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ công
lý, công bằng xã hội.
Tòa án là cơ quan bảo vệ pháp luật nên quan trọng nhất, Tòa án phải là
chủ thể tuyệt đối trung thành với Hiến pháp và pháp luật. Đối với mỗi vụ việc
thuộc thẩm quyền xét xử của mình, Tòa án cần xem xét một cách khách quan,
toàn diện để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, hợp tình, hợp
93
lý. Với các vụ án hình sự là việc xem xét toàn diện tính chất nguy hiểm đến
khách thể mà tội phạm xâm hại, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, nhân thân người phạm tội khi quyết định một mức hình phạt đủ sức
răn đe và cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người công dân có ích
cho xã hội. Với các vụ án dân sự là việc xem xét loại quan hệ, mức độ lỗi, giá
trị thiệt hại, sự thỏa thuận của các bên, sự tác động của tranh chấp đến các
quan hệ xã hội khác.
Trong hoạt động xét xử của mình, Tòa án phải thật sự tôn trọng và bảo
vệ các quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và các
văn bản pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng xét xử oan, sai trong
các loại án, mà đặc biệt là trong án hình sự. Dù với bất kỳ nguyên nhân gì dẫn
đến việc xét xử oan, sai thì đều làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền công
dân, quyền con người, từng vụ án oan, sai tăng lên sẽ tỷ lệ nghịch với lòng tin
của nhân dân vào vai trò bảo vệ công lý của Tòa án. Chính vì vậy, việc phòng
chống oan, sai phải được coi là mục tiêu quan trọng trong cải cách tư pháp nói
chung và cải cách hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hơn nữa quy chế tranh tụng tại phiên
tòa, xác định đúng vị trí của Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư, tạo điều
kiện cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự tham gia tích cực vào quá trình xét xử, đảm bảo phán quyết của
Tòa án xuất phát từ quá trình tranh tụng công khai, minh bạch mà không
phải "án tại hồ sơ".
Xử lý nghiêm minh các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động tố tụng.
Kiên quyết nói không với hiện tượng chạy án, nhận hối lộ trong quá trình giải
quyết án. Ngoài ra, TAND tối cao cũng cần nghiên cứu áp dụng án lệ trong
hoạt động xét xử một cách hợp lý để việc giải quyết án được thống nhất và
đảm bảo sự công bằng trong quá trình xét xử. Bởi lẽ trong thực tế hiện nay
94
mặc dù án lệ đã được ban hành, tuy nhiên có những vụ án tình tiết tương đối
giống nhau nhưng các Tòa án khác nhau, thậm chí mỗi cấp Tòa án có mức
hình phạt khác nhau, mặc dù đều trong cùng một khung, khoản hình phạt của
một tội cụ thể, cho dù phán quyết đưa ra có thể là đúng luật nhưng xét một
cách toàn diện sẽ là không công bằng. Có thể xem đây là chức năng "sáng
tạo" luật của Tòa án. Muốn vậy, Hiến pháp và pháp luật tố tụng phải quy định
làm tiền đề cho Tòa án thực hiện các biện pháp cần thiết để triển khai hiệu
quả trong việc áp dụng án lệ.
Tuy nhiên, khi Tòa án được tăng thẩm quyền, vị trí của Tòa án ngày
càng độc lập với các cơ quan Nhà nước khác, khả năng tác động của Tòa án
lên mọi mặt của đời sống xã hội được nâng cao thì cũng dễ làm cho Tòa án
trở nên chuyên quyền, độc đoán, xét xử tùy tiện nếu không có cơ chế giám sát
hữu hiệu đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Việc giám sát chặt chẽ hoạt
động xét xử của Tòa án cũng góp phần không nhỏ vào hiệu lực và hiệu quả
của các bản án mà Tòa án đã tuyên, nâng cao uy tín của Tòa án trong quần
chúng nhân dân. Chính vì vậy, phải tăng cường hiệu quả trong hoạt động chất
vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với hoạt động
xét xử của Tòa án. Đồng thời tạo cơ chế giám sát trực tiếp từ nhân dân, thiết
lập các hòm thư phản ánh, khuyến khích việc tố cáo những hành vi tiêu cực
trong xét xử của Tòa án. Sự lãnh đạo của Đảng cũng rất quan trọng để kiểm
soát việc thực hiện đúng pháp luật của Tòa án. Cần nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, xây dựng và nhân rộng các điển hình Đảng bộ Tòa án trong
sạch vững mạnh, có tinh thần phê và tự phê trong tổ chức Đảng.
95
3.2.3. Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật,
phán xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan Nhà nước ban hành.
Chức năng giải thích pháp luật, phán xét tính hợp pháp, hợp hiến của
các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay được giao cho các cơ quan như
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ và các cơ quan khác. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy, hoạt động giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các
văn bản quy phạm pháp luật đạt hiệu quả chưa cao, biểu hiện là tình trạng các
quy định của văn bản dưới luật mâu thuẫn với các quy định của văn bản luật
diễn ra khá phổ biến. Kinh nghiệm của các nước trong việc giải quyết vấn đề
này là chuyển việc giám sát và tuyên bố tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản
quy phạm pháp luật cho Tòa án và thực tiễn cho thấy cách thức này đã đạt
được hiệu quả ở nhiều nước và có thể coi là kinh nghiệm tốt đối với nước ta.
Thực tế cho thấy Tòa án nhân dân tối cao có nhiều hướng dẫn không chính
thức dưới dạng văn bản về nội dung một số điều luật, đây thực chất là việc
giải thích pháp luật nhưng do không có chức năng giải thích pháp luật nên sự
hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao không phải là căn cứ pháp lý công
khai của việc tuyên án. Vì vậy, trong thời gian tới, cần quy định chính thức
thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án nhân dân tối cao tạo cơ sở cho
việc xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân cũng như phù hợp với các nguyên
tắc, thông lệ quốc tế về vấn đề này.
3.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của
đội ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án.
Thực tế hoạt động xét xử cho thấy, đội ngũ Thẩm phán, cán bộ của Tòa
án đã có những đóng góp đáng kể trong việc thực hiện chức năng xét xử, bảo
vệ pháp luật. Tuy nhiên, trước yêu cầu cải cách tư pháp, trình độ chuyên môn,
đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ Tòa án chưa
96
thật sự đáp ứng yêu cầu. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử của
Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng, cần thực hiện
một số giải pháp trước mắt và mang tính chiến lược như sau:
Cần xây dựng chiến lược nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán
bộ Hệ thống Tòa án; trang bị cơ sở vật chất – kỹ thuật tốt hơn nữa cho Tòa án
nhân dân cấp tỉnh – với vị trí là cầu nối giữa Tòa án cấp huyện, Tòa án nhân
dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao và đảm bảo tốt cho việc thực hiện
thẩm quyền xét xử theo mô hình tổ chức Tòa án mới được pháp luật quy định.
Về đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán, cần mở rộng nguồn để tuyển
chọn. Để có được những Thẩm phán thật sự có năng lực, cần tuyển chọn
Thẩm phán không chỉ từ đội ngũ cán bộ Tòa án mà còn từ đội ngũ các chức
danh khác như Điều tra viên, Công tố viên, Luật sư, kể cả những luật gia đã
qua đào tạo nghề Thẩm phán nhưng chưa làm Thẩm phán. Để được làm Thẩm
phán, các ứng viên cần trải qua một kỳ thi quốc gia như hiện nay, nhằm tạo ra
sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa họ cho chức danh này. Những người
trúng tuyển kỳ thi Thẩm phán quốc gia nếu có đủ các tiêu chuẩn khác mà
pháp luật quy định sẽ được Chủ tịch nước xem xét và ra quyết định bổ nhiệm
làm Thẩm phán. Thẩm phán sẽ là thẩm phán của quốc gia, nên có thể điều
động họ dễ dàng khi thấy cần thiết. Việc bổ nhiệm Thẩm phán cần tiến hành
theo ngạch, bậc và theo nguyên tắc Thẩm phán không được bổ nhiệm ở ngạch
cao hơn nếu chưa có đủ số năm nhất định giữ chức danh thẩm phán ở ngạch
thấp hơn hoặc giữ các chức danh tư pháp khác (công tố viên, luật sư, chấp
hành viên...). Cũng cần xem xét việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán so với hiện
nay, tiến tới việc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, bởi vì quy định nhiệm kỳ
Thẩm phán quá ngắn (Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường
hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì
nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm).
97
Cần tiếp tục cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và
tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán. Chế độ sử dụng và
đãi ngộ cần đảm bảo cho Thẩm phán không phải lo mưu sinh, đảm bảo để họ
và gia đình có thể sống đầy đủ bằng chính đồng lương, không bị phụ thuộc
vào những tác động vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến công
vụ của họ. Mặt khác, cần thiết lập một chế độ giám sát chặt chẽ để kịp thời
phát hiện, cảnh báo, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những Thẩm phán
hành động không xứng đáng với chức danh cao quý của mình. Về mặt chuyên
môn, nghiệp vụ, các Thẩm phán sau khi được bổ nhiệm phải tham gia bắt
buộc vào các khoá bồi dưỡng định kỳ và phải trải qua các kỳ sát hạch, kiểm
tra về kiến thức, kỹ năng xét xử, tác phong làm việc. Giống như các chức
danh hành chính cao cấp, Thẩm phán phải thực hiện chế độ công khai tài sản
và tài chính cá nhân trong suốt thời kỳ giữ chức danh và một thời gian sau khi
bãi nhiệm hoặc về hưu.
Quy định và cá thể hóa trách nhiệm của Thẩm phán trong việc thực
hiện xét xử, nhất là trách nhiệm cá nhân, bồi thường nhà nước khi để xảy ra
oan, sai trong hoạt động xét xử. Vấn đề càng trở nên không rõ ràng và phức
tạp trong điều kiện thực tế của Việt Nam khi mà chế độ làm việc nội bộ của
từng cơ quan Tòa án và giữa các cấp Tòa án vẫn còn hiện tượng bàn án, thỉnh
thị án, phê duyệt án. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu có thể truy cứu trách nhiệm cá
nhân Thẩm phán khi mà tính độc lập tự quyết, tự chịu trách nhiệm của Thẩm
phán không được bảo đảm đầy đủ trên thực tế.
Về chính trị, tư tưởng, để nâng cao trách nhiệm, ý thức chấp hành pháp
luật của đội ngũ Thẩm phán, các đơn vị trong hệ thống Tòa án nhân dân phải
thường xuyên thực hiện nghiêm túc công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
Thẩm phán, cán bộ, công chức trong đơn vị mình; nâng cao tinh thần cảnh
giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch khi quán
98
triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội
liên quan đến cải cách tư pháp, tổ chức, hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân
dân và công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, nhằm đảm bảo cho Thẩm phán, cán bộ, công chức trong đơn vị thống
nhất cao về nhận thức, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, từ đó thực hiện tốt cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức hệ
thống Tòa án nhân dân”. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có
liên quan ở Trung ương, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong công tác
quản lý, giáo dục cán bộ, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống cho đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của hệ thống Tòa án nhân
dân. Nội dung về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống mà Thẩm phán, cán bộ,
công chức Tòa án phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện là: cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, gương mẫu, tự giác; không quan liêu tham nhũng, lãng
phí; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức kỷ luật cao và phong cách làm
việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm. Để từng bước cụ thể hóa các nội dung tu dưỡng, rèn
luyện đó, các đơn vị phải thực hiện việc công khai, minh bạch các hoạt động
của Tòa án theo quy định của pháp luật; thực hiện “Quy tắc ứng xử của cán
bộ, công chức hệ thống Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật
phòng, chống tham nhũng; định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ,
công chức không giữ chức vụ lãnh đạo theo đúng quy định của Chính phủ;
triển khai và thực hiện nghiêm túc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
Luật phòng, chống tham nhũng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đẩy mạnh phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”
với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, gắn với cuộc vận
động “đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
99
Chí Minh”, với trọng tâm là học tập và làm theo phong cách, tác phong Hồ
Chí Minh về dân chủ, nêu gương, quần chúng, khoa học, nói đi đôi với làm,
với mục tiêu tạo động lực mới trong việc đổi mới phong cách, tác phong công
tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong hệ thống Tòa
án nhân dân. Trong phong trào thi đua này lấy cuộc vận động “nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ,
công chức hệ thống Tòa án nhân dân” làm nòng cốt nhằm xây dựng hình ảnh
Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân thực sự gương mẫu, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sạch, lành mạnh ở cơ
quan và nơi cư trú, để củng cố lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với Thẩm
phán, cán bộ, công chức Tòa án.
Giải pháp về tổ chức cán bộ: Chú trọng chất lượng cán bộ, Thẩm phán
Tòa án ngay từ khi tuyển dụng phải đảm bảo tiêu chuẩn về chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ, sức khỏe, tư cách đạo đức, những địa phương thiếu nguồn cán
bộ tuyển dụng không phải vì lý do đó mà hạ thấp tiêu chuẩn cán bộ tuyển
dụng. Quan tâm làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho cán bộ Thẩm phán; tiếp tục đổi mới công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ trong toàn hệ thống, trong đó không chỉ tập trung vào việc bồi
dưỡng nghiệp vụ mà cần chú trọng cả việc đào tạo, bồi dưỡng về lý luận
chính trị, trình độ quản lý, tin học, ngoại ngữ và các kiến thức xã hội khác,
trong đó có kỹ năng về công tác dân vận. Đặc biệt là, để xây dựng đội ngũ
Thẩm phán đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, cần
làm tốt công tác quy hoạch cán bộ để tạo nguồn nhằm bổ sung đội ngũ cán bộ
quản lý của từng đơn vị và của toàn hệ thống. Tòa án nhân dân tối cao cần
tăng cường phối hợp với cấp ủy địa phương để rà soát, đánh giá về đội ngũ
cán bộ quản lý (Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân địa phương) và
Thẩm phán các cấp theo phân cấp quản lý cán bộ. Thông qua rà soát, đánh giá
100
cán bộ có các giải pháp điều chuyển hoặc thay thế những cán bộ quản lý thiếu
năng lực, không đáp ứng được yêu cầu, những trường hợp để xảy ra mất đoàn
kết nội bộ, có biểu hiện vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống. Đồng thời,
thông qua rà soát, đánh giá cán bộ để có những chính sách sử dụng cán bộ
hợp lý, đưa những cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào quy hoạch, bồi dưỡng tạo
nguồn cán bộ cho hệ thống Tòa án, coi đây là giải pháp vừa mang tính đột
phá, vừa mang tính chất thường xuyên. Cũng thông qua rà soát để đánh giá
kết quả xét xử của từng Thẩm phán trong năm để có biện pháp xử lý phù hợp.
Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm công vụ đối với
Thẩm phán, cán bộ, công chức, trong đó trọng tâm là kiểm tra đối với Thẩm
phán trong công tác xét xử. Thông qua công tác kiểm tra kịp thời uốn nắn các
biểu hiện hoặc khuynh hướng lệch lạc như tuyệt đối hóa nguyên tắc độc lập
xét xử hoặc biểu hiện pháp lý đơn thuần; kịp thời xác minh để kết luận và xử
lý nghiêm những Thẩm phán, cán bộ, công chức có sai phạm; kiên quyết
chuyển cơ quan có thẩm quyền để xem xét trách nhiệm hình sự đối với những
trường hợp có dấu hiệu phạm tội. Công tác kiểm tra phải tiến hành đúng
phương hướng, phương châm, thủ tục và nguyên tắc, kiên quyết đưa ra khỏi
Hệ thống Tòa án những Thẩm phán, cán bộ, công chức có biểu hiện tham
nhũng, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống.
3.2.5. Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân.
Hội thẩm là một chế định tồn tại với truyền thống hơn 60 năm trong
nền tư pháp dân chủ ở Việt Nam. Trong cải cách tư pháp, chế định Hội thẩm
tiếp tục được đặt ra. Có nhiều ý kiến về việc bỏ chế độ Hội thẩm hoặc thay
chế độ Hội thẩm bằng hình thức khác mà vẫn bảo đảm tính nhân dân trong xét
xử. Tuy nhiên, với đặc điểm chính trị, xã hội của Việt Nam, theo tác giả, cần
tiếp tục duy trì chế độ Hội thẩm tham gia xét xử nhưng với thành phần không
phải đa số như hiện nay. Nhiều ý kiến cho rằng việc Hội đồng xét xử gồm 2
101
Thẩm phán và 1 Hội thẩm (hoặc 3 Thẩm phán, 2 Hội thẩm) sẽ vừa bảo đảm
tính chuyên nghiệp, vừa bảo đảm có đại diện của nhân dân tham gia xét xử,
thể hiện và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; vẫn có thể sử dụng được
kinh nghiệm xã hội và khả năng phán quyết các vấn đề của những người xét
xử "không chuyên nghiệp", những người đại diện cho mức hiểu biết pháp luật
ở mức "phổ thông" của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, cải cách tư pháp sẽ
không đi theo hướng "chuyên môn hoá", "Thẩm phán hoá" hội thẩm mà trái
lại, tiếp tục duy trì và củng cố chế định này theo hướng lựa chọn những người
có đủ khả năng, kiến thức và kinh nghiệm xã hội cần thiết để tham gia xét xử.
Hội thẩm nhân dân cần được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức độ
cơ bản nhất để có thể tham gia có hiệu quả vào hoạt động xét xử.
3.2.6. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án thông qua các bản
án, quyết định đảm bảo công bằng, đúng pháp luật, khả thi.
Để đảm bảo việc xét xử khách quan, đúng pháp luật, cùng với việc
nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của Thẩm phán, cần phải
thực hiện một số giải pháp như:
Đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử theo hướng xác định cụ thể quyền
hạn, trách nhiệm pháp lý của cả những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng; bảo đảm nguyên tắc tranh tụng công khai, dân chủ và
nghiêm minh trong xét xử; bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ
chức và hoạt động của Tòa án trên cơ sở đổi mới sự lãnh đạo của Đảng (cần
tăng cường hoạt động kiểm tra của Đảng, công tác cán bộ Đảng, kết hợp với
hoạt động giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án; đồng
thời, nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, của Hội thẩm nhân dân trước
nhân dân và trước Đảng);
Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của Tòa án trên cơ sở đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy, cần tăng
102
cường hoạt động kiểm tra của Đảng, công tác cán bộ Đảng, kết hợp với hoạt
động giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án; đồng thời,
nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, của Hội thẩm nhân dân trước nhân dân
và trước Đảng.
Nâng cao ý thức trách nhiệm của Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ
xét xử, theo đó Tòa án phải làm tốt vai trò bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng,
hợp pháp của nhân dân, của các tổ chức và cá nhân khác theo quy định của
pháp luật, nhằm khẳng định và thể hiện đúng bản chất Tòa án nhân dân đúng
với tên gọi của mình.
3.2.7. Kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức Hệ thống Tòa án theo hướng
tinh giản, hiệu quả, bố trí sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, sử dụng nhân
sự đúng người đúng việc, đúng sở trường; đồng thời có chính sách phù
hợp để thu hút đội ngũ những người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt
phục vụ cho sự phát triển của Hệ thống Tòa án.
Song song với quá trình từng bước mở rộng thẩm quyền cho Tòa án,
công tác cán bộ cũng là vấn đề quan trọng bậc nhất trong quá trình xây dựng
Tòa án tương xứng với vị trí, vai trò, đáp ứng được đòi hỏi của Tòa án trong
Nhà nước. Trọng tâm của công tác cán bộ là phải thu hút được những người
thực sự có đức, có tài phục vụ cho sự nghiệp phát triển của ngành.
Phát huy những kết quả đã đạt được, trong công tác cán bộ thời gian
tới, TAND tỉnh Quảng Ngãi cần tập trung kiện toàn hơn nữa đội ngũ cán bộ,
công chức Tòa án theo hướng chuẩn hóa, đồng bộ và trọng điểm. Tích cực
đào tạo, đào tạo lại đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, nâng
cao trình độ pháp luật quốc tế, trình độ ngoại ngữ, tin học... để tạo nguồn cán
bộ tốt cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài ra cần tập trung
đào tạo cho được một bộ phận cán bộ có năng lực thực sự để họ trở thành
những người đầu ngành trong hoạt động xét xử của Tòa án, có khả năng đảm
103
đương những việc khó, áp lực cao mà ít ai làm được. Thông qua việc hợp tác
tư pháp với các nước trên thế giới, TAND tỉnh Quảng Ngãi có thể gửi một số
cán bộ, công chức có năng lực sang học tập, nghiên cứu tại các nước có nền
tư pháp mạnh như Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc... để nâng cao trình độ
cho cán bộ Tòa án, bổ sung nguồn cán bộ am hiểu về pháp luật quốc tế đáp
ứng với yêu cầu xét xử ngày càng gia tăng các vụ án có yếu tố nước ngoài,
liên quan đến pháp luật quốc tế.
Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Ban cán sự Đảng và lãnh đạo Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi cần có chính sách trọng dụng nhân tài, khuyến khích cán bộ,
công chức cống hiến tài năng, trí tuệ bằng một mức lương tương xứng với
công sức đóng góp của họ, không mang tính chất cào bằng, đến kỳ lại lên như
hiện nay; tạo đầy đủ điều kiện thuận lợi để họ phát huy tài năng phục vụ sự
nghiệp chung của ngành. Chính sách cán bộ cũng phải có sự điều chỉnh cho
hợp lý, trong đó phải sử dụng cán bộ đúng năng lực sở trường mà họ có, sắp
xếp họ vào những vị trí phù hợp, phát huy tính chủ động sáng tạo, tinh thần tự
chủ, tự chịu trách nhiệm.
Mặt khác nên kéo dài nhiệm kỳ đầu Thẩm phán lên 10 năm so với
nhiệm kỳ 5 năm như hiện nay và dần tới bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời. Có
như vậy Thẩm phán mới yên tâm công tác, bảo đảm tính độc lập của Thẩm
phán cũng như của Tòa án trong hoạt động xét xử. Tiết kiệm được thời gian
và tiền bạc cho việc làm thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán. Tuy nhiên, để chọn
được đội ngũ Thẩm phán có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt thì công tác
tuyển chọn phải làm hết sức cẩn trọng, có trách nhiệm với ngành, với nhân
dân. Việc bổ nhiệm Thẩm phán không nhất thiết phải là người trong Đảng mà
có thể tuyển chọn những người ngoài Đảng; bổ nhiệm cả các luật sư vào các
chức danh tư pháp, miễn là họ yêu nghề, phấn đấu cho sự nghiệp bảo vệ công
lý, tuyệt đối trung thành với Hiến pháp, tận tâm phục vụ nhân dân. Thu hút
104
thêm một số chuyên gia, những người uyên thâm trong lĩnh vực pháp luật
cộng tác với hệ thống Tòa án.
Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng một phong cách ứng xử có văn hóa,
lịch sự, nhã nhặn nơi công sở cho đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi, thể hiện văn hóa của cán bộ Tòa án trong Nhà nước pháp quyền: Tận
tâm, nhiệt huyết, năng động, sáng tạo.
3.2.8. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thống nhất,
đồng bộ phù hợp, khả thi, dễ hiểu và dễ tiếp cận làm cơ sở pháp lý trong
hoạt động xét xử của Tòa án.
Quốc hội cần kiện toàn hệ thống pháp luật của Việt Nam theo hướng
thống nhất, đồng bộ, phù hợp, và có tính khả thi cao. Hệ thống pháp luật vừa
phản ánh được thái độ của Nhà nước với các quan hệ đang tồn tại trong xã hội
nhưng đồng thời nó cũng phải có tính dự báo trong một thời hạn nhất định đối
với những quan hệ xã hội có thể phát sinh, cần sự điều chỉnh bằng pháp luật
trong tương lai. Khi đó pháp luật mới đảm bảo được tính ổn định tương đối,
tránh tình trạng vừa ban hành đã dự định sửa đổi bổ sung, thiếu tính khả thi.
Pháp luật phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng, đưa lên Internet để người dân khi cần thì có thể đọc, tham khảo bất kỳ
ở đâu, bất cứ lúc nào. Một hệ thống pháp luật ít biến động, đồng bộ, dễ tiếp
cận, dễ hiều là điều kiện tốt nhất để Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Có được một hệ thống pháp luật tốt đã khó nhưng để phát huy hiệu quả
trên thực tế lại càng khó hơn. Theo PGS-TS. Nguyễn Minh Đoan thì: "Nhiều
người dân không biết được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên không
dám đòi hỏi, không dám đấu tranh"; cũng có khi "người dân biết được các
quyền và lợi ích mà mình có nhưng lại không biết làm thế nào để bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp đó. Cũng do chưa hiểu biết đầy đủ về
pháp luật mà nhiều người dân thờ ơ với pháp luật, không tin tưởng vào khả
105
năng của pháp luật, hoài nghi việc giải quyết các công việc của một số cơ
quan, cán bộ Nhà nước"1. Chính vì vậy mà công tác tuyên truyền phổ biến
kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân là vô cùng quan
trọng đảm bảo tính khả thi và hiệu quả tác động của pháp luật.
1
"Nâng cao hiệu quả của pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của
Nguyễn Minh Đoan, tr 159.
106
Tiểu kết chương 3
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét
xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói
chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cần bám sát các quan điểm của
Đảng và mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn liền với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân; tiến
hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp và
các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước; thực hiện đồng bộ với quá trình cải
cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế.
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh cần thực hiện là:
- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án.
- Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán
xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ
quan Nhà nước ban hành.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán;
xem xét quy định kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán để tiến tới chế độ bổ nhiệm
Thẩm phán suốt đời; cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và
tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán; nâng cao năng lực
của Hội thẩm nhân dân.
- Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho đội
ngũ thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân.
107
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án
và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận sau:
Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền
lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa
án là cơ quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Để Tòa án thực
hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là cần có những đảm
bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang tính phổ quát
trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành
chính lãnh thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết
các việc khác theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp tỉnh là cấp
Tòa án có vai trò quan trọng, thực hiện việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ
án theo thẩm quyền.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực
hiện cải cách tư pháp hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cần hướng tới các
mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa
án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với
hoạt động xét xử.
Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ
thẩm, phúc thẩm theo thẩm quyền. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng
108
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có những bước phát
triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá
trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cũng còn những hạn
chế, bất cập trước yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân không đồng đều, một bộ phận còn hạn chế; hoạt
động của Tòa án còn bị tác động, bởi những mối quan hệ từ bên ngoài (mối
quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương; cơ quan giám sát...) ảnh hưởng
đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử; cơ sở vật
chất, điều kiện làm việc của Tòa án nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh trước yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong tổng thể đổi mới
tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, cải cách tư pháp, cải cách
hành chính và những yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét
xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói
chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cần bám sát các quan điểm của
Đảng và mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn liền với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân; tiến
hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp và
các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước; thực hiện đồng bộ với quá trình cải
cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế.
109
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh cần thực hiện là:
- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án.
- Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán
xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ
quan Nhà nước ban hành.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán;
xem xét quy định kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán để tiến tới chế độ bổ nhiệm
Thẩm phán suốt đời; cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và
tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán; nâng cao năng lực
của Hội thẩm nhân dân.
- Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho đội
ngũ thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân.
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trước Quốc hội, nhiệm kỳ
2011-2016.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TƯ ngày 02/01 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48/NQ-TƯ ngày 24/5 của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ- TƯ ngày 02/06 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 - KL/TW, ngày 28/7/2010 của Bộ
Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm
sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
6. Các Sắc lệnh và Thông tư liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm từ năm
1945 đến nay.
7. GS.TS Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp
quyền”, NXB Tư pháp, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội hội nghị lần thứ IX
BCH TƯ khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111
12. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
13. Đặng Quang Phương (1995), “Vài nét về quá trình hình thành và phát
triển của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (06), (07), (08).
14. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (2006), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
15. Giáo trình Luật hành chính do Gs.Ts.Phạm Hồng Thái & GS.Ts. Đinh
Văn Mậu biên soạn.
16. Giáo trình Hành chính công (2010), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
17. Giáo trình Luật Hành chính (2008), Nxb Công an nhân dân.
18. Hồ Chí Minh (1995, 2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
19. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Học viện Hành chính (2016), Khoa quản lý nhà nước về xã hội, Bài giảng
Những vấn đề cơ bản về kiểm soát quyền lực nhà nước, Tài liệu lưu hành
nội bộ, Hà Nội.
21. Hoàng Văn Thành (2015), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
22. Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
23. Lê Thành Dương (2002), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện
nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
24. Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
112
25. Nguyễn Đăng Dung (2010), Cải cách tổ chức và hoạt động hệ thống Tòa
án Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Nguyễn Mạnh Kháng (2008), “Chức năng tố tụng của Tòa án và vấn đề
độc lập xét xử”, bài trình bày tại Hội thảo quốc tế về độc lập xét xử do
Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức năm 2008.
27. Nguyễn Văn Cường (2014), Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và
Hiến pháp 2013, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
(1945, 1959, 1980, 1992), Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân (năm 1960, 1981, 1992, 2002), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà
Nội.
32. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán.
33. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, 2013,
2014, 2015, 2016 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2017 của Hệ thống
Tòa án nhân dân.
34. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo tổng kết của ngành Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2002, 2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao động
113
36. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân, Hà Nội.
37. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
38. V.ILê Nin toàn tập (1980), tập 27 Nxb Tiến bộ, Matsxcova.
39. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án Tiến
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
40. Tô Văn Hòa (2007), Tính độc lập của Tòa án – Nghiên cứu pháp lý về các
khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị
đối với Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
41. . Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp nước
ngoài, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
42. . Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Website:
www.toaan.gov.vn
www.quangngai.toaan.gov.vn
www.thuvienphapluat.vn
www.chinhphu.vn
114
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_to_chuc_va_hoat_dong_cua_toa_an_nhan_dan_cap_tinh_t.pdf