Đề tài luận văn “Tự do hoá thương mại của Singapore và những bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO” đã có những đóng
góp sau, thể hiện qua việc hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Thứ nhất, tìm hiểu khái niệm tự do hóa thương mại, những nội dung của tự
do hoá thương mại cũng như xu hướng tự do hóa thương mại trên thế giới hiện
nay. Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu những quy định cơ bản của WTO về
tự do hóa thương mại và những cơ hội, thách thức đối với các nước đang phát triển
trong quá trình tự do hoá thương mại.
- Thứ hai, bằng việc nghiên cứu chính sách tự do hoá thương mại hàng hoá
và dịch vụ của Singapore, luận văn khẳng định Singapore là một nước có nền
thương mại rất tự do, thể hiện trên cả ba cấp độ: thương mại đa phương, khu vực
và song phương. Qua đó, luận văn đúc kết một số bài học kinh nghiệm về tự do
hoá thương mại của Singapore như: xây dựng, đổi mới cơ chế quản lý hàng hoá
xuất nhập khẩu nhanh gọn và tương đối thông thoáng, thực hiện một chính sách tự
do hoá thương mại kết hợp với bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, xây dựng các
hàng rào kỹ thuật cần thiết đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, thúc đẩy xuất khẩu và
chủ động mở rộng thị trường quốc tế thúc đẩy quan hệ thương mại, tự do hoá trên
lĩnh vực thương mại dịch vụ tiến hành theo từng bước
114 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3563 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tự do hoá thương mại của singapore và những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan: Về thuế nhập khẩu, mức cam kết chung là
đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình
quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện
dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ
81
mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công
nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm. [18]
Cụ thể, có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các
dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế
như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy... vẫn duy trì
được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm:
dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị
điện - điện tử. Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối
với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Việt Nam cũng
cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế
xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước
mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là
sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Việt Nam cũng tham gia
một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa
chất và thiết bị xây dựng.
Về các nội dung khác liên quan đến cam kết đa phương, về thuế xuất khẩu
Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu
theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.
- Về xoá bỏ các hình thức trợ cấp: Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam
đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp
xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng
xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, Việt Nam được bảo lưu thời gian quá
độ là 5 năm, trừ ngành dệt may.
Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu
đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên Việt Nam bảo lưu quyền được
hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh
vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung Việt
Nam duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, nước
82
ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm.
[18]
- Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất nhập khẩu hàng hóa, tuân thủ
quy định WTO, Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được
quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối
với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá
điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà nước ta
chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm. Việt Nam đồng
ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam
được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất khẩu chỉ là quyền
đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường
hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ
thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh
hưởng đến quyền của Việt Nam trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ
phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo -
tạp chí.
- Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu: Về một số biện pháp hạn chế
nhập khẩu, Việt Nam đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn
hơn ngày 31-5-2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, Việt Nam đồng ý bỏ biện pháp
cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một doanh nghiệp Nhà
nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu
mà nước ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ Việt Nam
cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm.
- Về yêu cầu minh bạch hóa: Việt Nam cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ
công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc
góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai
các văn bản pháp luật trên.
83
- Cam kết về hạn ngạch thuế quan: theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam
đã bảo lưu được quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với 4 nhóm mặt hàng là:
đường ăn, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối (riêng muối là mặt hàng WTO không
coi là nông sản, do vậy thường không được áp dụng công cụ hạn ngạch thuế quan
nhưng Việt Nam kiên quyết đàm phán quyền áp dụng để bảo vệ lợi ích của diêm
dân). Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương với mức
thuế MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 40-50%, lá thuốc lá
30%, muối ăn 30%), mức thuế ngoài hạn ngạch cao hơn rất nhiều. [20]
Việt Nam còn đàm phán một số vấn đề đa phương khác như bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ.
Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại,
các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại... Với nội dung này, Việt Nam
cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập.
3.2.2. Cam kết về thƣơng mại dịch vụ
- Các cam kết chung về thương mại dịch vụ: Về cam kết mở của thị trường
dịch vụ. Xét về diện cam kết, trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (gọi tắt là
BTA) Việt Nam đã cam kết 8 ngành dịch vụ khoảng 65 phân ngành. Trong thỏa
thuận WTO, Việt Nam cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng
110. Về mức độ cam kết. Thỏa thuận WTO đi xa hơn Hiệp định thương mại Việt -
Mỹ nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành
nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch... Việt Nam giữ được mức độ cam kết
gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, Việt Nam đã
có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù
hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này. Trong đó
cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty
nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi
điều đó được Việt Nam cho phép trong từng ngành cụ thể mà những ngành như
thế là không nhiều. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản
84
lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là
người Việt Nam. [18]
Cuối cùng, cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần
trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị
trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối
đa 30% cổ phần.
- Cam kết trong các lĩnh vực dịch vụ cụ thể:
+ Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí, Việt Nam đồng ý cho phép các doanh
nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ
khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí.
Tuy nhiên, Việt Nam còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên
biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các công ty thăm dò, khai thác tài nguyên.
Việt Nam cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các doanh
nghiệp Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho
dàn khoan xa bờ. Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu
khí đều phải đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
+ Dịch vụ viễn thông, Việt Nam có thêm một số nhân nhượng so với BTA
nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của Việt Nam. Cụ thể là
cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn
thông không gắn với hạ tầng mạng, phải thuê mạng do doanh nghiệp Việt Nam
nắm quyền kiểm soát và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới
để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng chỉ các
doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài
chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã
được cấp phép.
+ Dịch vụ phân phối, trước hết về thời điểm cho phép thành lập doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA vào 1-1-2009. Thứ hai, Việt Nam không
mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình,
thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm
85
như sắt thép, xi măng, phân bón. Việt Nam chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. Quan
trọng nhất, Việt Nam hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được Việt
Nam cho phép theo từng trường hợp cụ thể.
+ Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang bằng với cam kết
trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tuy nhiên, Việt Nam đồng ý cho Hoa Kỳ
thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập.
+ Dịch vụ ngân hàng, Việt Nam đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100%
vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1-4-2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài
muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được
phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND
từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi nước ta gia nhập WTO. Việt
Nam vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam, không quá
30%. Đây là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng.
+ Dịch vụ chứng khoán, Việt Nam cho phép thành lập công ty chứng khoán
100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO [18]
+ Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế
toán, xây dựng, vận tải..., mức độ cam kết về cơ bản không khác xa so với Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn-xuất bản.
3.3. GIẢI PHÁP TỰ DO HOÁ THƢƠNG MẠI ĐỐI VỚI VIỆT NAM QUA
KINH NGHIỆM CỦA SINGAPORE
3.3.1. Đối với thƣơng mại hàng hoá
3.3.1.1. Tiếp tục đổi mới chính sách quản lý xuất nhập khẩu theo hướng tự do
hóa
- Thứ nhất, cần tự do hoá hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu:
Có thể nói một phần thành công trong chính sách tự do hoá thương mại của
Singapore là nước này đã tự do hoá hoàn toàn quyền kinh doanh xuất nhập khẩu
cho các doanh nghiệp. Để phát triển thương mại theo hướng tự do thì yêu cầu
trước hết đối với Việt Nam là tiếp tục thực hiện tự do hóa quyền kinh doanh xuất
86
nhập khẩu. Tự do hoá hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn đang là
mong muốn của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam. Đối với một số mặt hàng xuất nhập khẩu đang là đặc quyền
của một số doanh nghiệp thì quyền xuất nhập khẩu cần được mở rộng cho các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, về mặt pháp lý họ là
doanh nghiệp Việt Nam, do vậy cần từng bước xóa bỏ những vấn đề còn có sự
phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp trong nước như hiện nay. Cần cho phép
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài quyền được kinh doanh xuất khẩu bình đẳng
như các doanh nghiệp trong nước, từng bước nới lỏng những hạn chế về quyền
tham gia nhập khẩu. Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, nước ta cho
phép dành quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực sản xuất và chế biến, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài chiếm
không quá 49% được phép tham gia xuất nhập khẩu. Từ ngày 1/1/2008, các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài chiếm không quá 51% sẽ được quyền kinh doanh xuất
nhập khẩu. Từ ngày 1/1/2009 các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu. Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải khẩn trương
xây dựng lộ trình cụ thể để trong vòng 1-3 năm tới xoá bỏ những hạn chế về quyền
tham gia hoạt động thương mại quốc tế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Việc thực hiện bình đẳng về quyền tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu sẽ làm gia tăng mức độ cạnh tranh trong hoạt động xuất nhập khẩu trong nội
bộ các doanh nghiệp Việt Nam, và điều quan trọng hơn là tận dụng được tiềm lực
của tất cả các loại hình doanh nghiệp để phát triển hoạt động xuất nhập khẩu.
- Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu
Một trong các nguyên tắc quan trọng nhất của WTO là các thành viên chỉ
được sử dụng thuế quan làm công cụ hợp pháp duy nhất để bảo hộ sản xuất trong
nước, nhưng phải có lộ trình từng bước cắt giảm; đồng thời chính sách thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu phải đảm bảo ổn định, minh bạch, phù hợp với chuẩn mực
87
và thông lệ quốc tế. Do vậy, trong tiến trình tự do hoá thương mại, việc hoàn thiện
hệ thống luật pháp, chính sách về thuế quan là một nhiệm vụ trọng tâm của Việt
Nam. Để thực hiện được vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập, việc cải cách
hệ thống pháp luật và chính sách thuế quan cần tập trung giải quyết những vấn đề
chính sau:
+ Tiếp tục hoàn thiện Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Để đảm bảo cho
Biểu thuế xuất nhập khẩu không phải thay đổi một cách liên tục như trong thời
gian qua và thuận tiện cho việc áp mã thuế, tránh tình trạng thất thu thuế thì Biểu
thuế cẩn phải quy định một cách chi tiết hơn nữa, đảm bảo các mặt hàng có tên
trong Biểu thuế đều được phân loại một cách cụ thể hơn. Các khái niệm trong Biểu
thuế nhập khẩu cũng cần quy định rõ ràng, tránh tình trạng giải thích cách nào
cũng được, tạo kẽ hở cho các hiện tượng tiêu cực. Bên cạnh đó, cần hợp lý hoá và
thống nhất cách xây dựng biểu thuế, tạo thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết
cắt giảm thuế quan. Căn cứ xây dựng biểu thuế suất của Việt Nam hiện nay chưa
thống nhất, lúc thì căn cứ vào mục đích sử dụng, lúc thì căn cứ vào tính chất hàng
hoá. Do đó, một mặt hàng có thể áp dụng được nhiều mã số thuế khác nhau, dễ
phát sinh tiêu cực. Biểu thuế nhập khẩu cũng còn thiếu những chú thích rõ ràng
nên việc áp mã tính thuế cũng hay dẫn đến những tranh chấp giữa doanh nghiệp
với cơ quan hải quan. Để giải quyết tình trạng này, cần phải thống nhất căn cứ xây
dựng biểu thuế suất, trong đó việc phân loại hàng hoá phải rõ ràng theo một tiêu
chí duy nhất. Để phù hợp với thông lệ quốc tế, cần thống nhất cách xây dựng biểu
thuế suất dựa trên tính chất hàng hoá, không nên theo mục đích sử dụng như hiện
nay.
+ Xây dựng lộ trình tổng thể và đẩy nhanh tiến trình cắt giảm thuế quan
Hiện nay, Việt Nam đang phải thực hiện các chương trình cắt giảm thuế
quan theo cam kết nhằm tự do hoá thương mại, bao gồm: Chương trình cắt giảm
thuế quan theo quy định của CEPT giai đoạn 2007-2018, Chương trình giảm thuế
trong khuôn khổ xây dựng khu vực AFTA giai đoạn 2005-2015, Chương trình
giảm thuế quan đối với các mặt hàng quy định của Hiệp định Thương mại Việt -
88
Mỹ, và quan trọng nhất là xây dựng chương trình cam kết cắt giảm thuế quan gia
nhập WTO. Tuy nhiên, về cơ bản, các chương trình nói trên có thể phân tách thành
hai lớp đối tượng, tương ứng với hai lớp hàng rào thuế quan đối với các nước có
thoả thuận thương mại tự do (các nước thành viên AFTA, các nước ký kết thoả
thuận thành lập khu vực mậu dịch tự do với ASEAN như Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ…). Đối với lớp thứ nhất, mức thuế suất nhập khẩu cuối cùng sẽ
xuống mức 0% vào năm 2018. Đối với lớp thứ hai, Việt Nam đã cam kết giảm
mức thuế bình quân hiện hành là 17,4% xuống 13,4% thực hiện dần trong 5-7
năm. Việt Nam cần chủ động xây dựng lộ trình tích cực và cụ thể hạ thấp hàng rào
thuế quan ít nhất là trong vòng 5 năm tới và lộ trình dài hạn hơn như đã cam kết.
Việc hoạch định được lộ trình cắt giảm thuế quan trong dài hạn, một mặt sẽ tạo ra
áp lực buộc các doanh nghiệp trong nước phải chủ động vươn lên, hạn chế trông
chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, mặt khác thể hiện quyết tâm hội nhập của Việt
Nam với cộng đồng kinh tế thế giới. [12]
- Thứ ba, hoàn thiện các quy định về hạn chế định lượng
+ Sắp xếp lại Danh mục hàng cấm nhập khẩu. Về nguyên tắc, WTO không
yêu cầu loại bỏ hoàn toàn các hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu nhưng đòi hỏi
phải công khai các quy định này và phải lý giải được tính hợp lý của nó. Ví dụ như
ở Singapore, danh mục cấm xuất khẩu, nhập khẩu là những hàng hoá gây ảnh
hưởng xấu tới an toàn xã hội, an ninh quốc gia hay huỷ hoại môi trường. Do vậy,
Việt Nam cần xem xét lại và có thể giảm bớt danh mục các hàng hoá cấm xuất
khẩu, cấm nhập khẩu hiện nay cho phù hợp hơn. Một mặt, vẫn duy trì quy định
cấm xuất nhập khẩu đối với những mặt hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, chẳng
hạn như các loại hàng có liên quan đến an ninh quốc gia, sức khoẻ con người, bảo
vệ con người và môi sinh, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ truyền thống văn hoá,
v.v…. Mặt khác, đối với những sản phẩm không thực sự cần thiết hoặc không lý
giải được thì có thể đưa ra khỏi danh sách những mặt hàng cấm xuất, nhập khẩu và
chuyển sang bảo hộ bằng các biện pháp khác. Hay có thể chuyển từ cấm nhập
khẩu những mặt hàng tiêu dùng và một số vật tư, phương tiện đã qua sử dụng
89
(quần áo cũ, hàng điện tử, hàng gia dụng, xe máy) sang quản lý nhập khẩu bằng
biện pháp cấp phép không tự động, hoặc đặt ra các tiêu chuẩn về kỹ thuật, tiêu
chuẩn vệ sinh, môi trường để hạn chế nhập khẩu. Danh mục những hàng hoá cấm
xuất khẩu, cấm nhập khẩu cần chi tiết hơn và các quy định, hướng dẫn của các Bộ
ngành liên quan cần phải rõ ràng, thống nhất.
+ Hoàn thiện quy định về cấp giấy phép nhập khẩu. Việc hoàn thiện các
quy định về cấp giấy phép nhập khẩu cần đảm bảo yêu cầu chung là luôn công bố
rõ ràng, không sử dụng các biện pháp mang tính áp đặt đi ngược lại tiến trình giảm
hàng rào phi thuế quan tiến tới tự do hoá thương mại. Cho đến nay, chúng ta đã cơ
bản dỡ bỏ hạn ngạch trong quản lý xuất nhập khẩu, chuyển sang quản lý bằng thuế
quan. Chỉ còn một số nhóm hàng nhập khẩu và một số hàng xuất khẩu được quản
lý bằng giấy phép của Bộ Công thương và Bộ chuyên ngành. Tuy nhiên, việc áp
dụng các quy định đối với danh mục này còn một số bất cập, do vậy cần tiến hành
sắp xếp lại việc quản lý hàng hoá nhập khẩu theo chuyên ngành để việc quản lý
theo cách này có hiệu quả hơn. Điều quan trọng hơn là việc thực hiện quản lý bằng
giấy phép của Bộ chuyên ngành hiện nay cần được nghiên cứu kỹ và chuyển dần
sang chế độ quản lý bằng các hàng rào kỹ thuật, như quy định tiêu chuẩn kỹ thuật,
tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, điều kiện an toàn đối với người
sử dụng,… Điều này một mặt giải quyết được những yêu cầu của các đối tác nước
ngoài về dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan mang tính hành chính không phù hợp với
thông lệ quốc tế, mặt khác giúp Việt Nam xây dựng được một hàng rào phi thuế
quan tinh vi hơn, có hiệu quả hơn, nhưng lại phù hợp với xu hướng mà hầu hết các
quốc gia trên thế giới đang áp dụng rộng rãi hiện nay. [12]
- Thứ tư, hoàn thiện và triển khai áp dụng rộng rãi các quy định của
Hiệp định TBT và SPS
Gia nhập WTO, Việt Nam cũng phải thực hiện nhiều cam kết liên quan đến
Hiệp định TBT và SPS mà mục tiêu chung là đảm bảo hệ thống các tiêu chuẩn,
các văn bản pháp quy kỹ thuật phải tạo được sự thuận lợi hoá thương mại theo quy
định, lại vừa thực sự là một “hàng rào” vừa đủ để đảm bảo chất lượng hàng hoá
90
xuất nhập khẩu, bảo vệ sức khoẻ con người và động thực vật, bảo vệ an ninh quốc
gia và môi trường. Điểm hỏi đáp và thông báo về các rào cản kỹ thuật đối với
thương mại của Việt Nam đã được thành lập theo Quyết định 356/QĐ-BKHCN,
nằm trong Bộ Khoa học và Công nghệ. Điểm hỏi đáp này đã đi vào hoạt động từ
cuối năm 2005. Từ trước khi vào WTO, Chính phủ Việt Nam đã tiến hành chương
trình rà soát các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo sự phù hợp với các nghĩa vụ
trong WTO về lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp. Hiện nay có
khoảng 5800 tiêu chuẩn quốc gia nêu trong Danh mục tiêu chuẩn Việt Nam năm
2004 trong đó có 231 tiêu chuẩn bắt buộc. Cho đến nay Việt Nam đã hài hoà được
trên 200 tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế [20]. Trong thời gian tới, Việt
Nam cần hoàn thiện các tiêu chuẩn theo hướng hài hoà hoá ở cấp độ khu vực và
quốc tế, như tham gia vào các hiệp định hài hoà hoá tiêu chuẩn khu vực như của
ASEAN, APEC và ASEM. Hiện nay, các quy định pháp luật về tiêu chuẩn hoá
được thể hiện ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhưng chưa đầy đủ,
thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với cơ chế thị trường và thực tiễn phát triển kinh tế
xã hội của đất nước, chưa tương thích với các quy định quốc tế. Do vậy, cần nhanh
chóng ban hành Luật tiêu chuẩn hoá nhằm đổi mới một cách toàn diện hoạt động
tiêu chuẩn hoá và phương pháp tiếp cận về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ, môi trường và các đối tượng tiêu chuẩn khác. Việt Nam cũng đã xây
dựng hệ thống các quy định về kiểm định hàng hoá nông sản nhập khẩu và các quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo đánh giá chung, hệ thống những quy định
này về cơ bản là phù hợp với các quy định của WTO. Tuy nhiên, các quy định này
còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và đơn giản, nhất là việc tổ chức thực hiện không
nghiêm túc, vì vậy hiệu lực và tác động trên thực tế còn rất thấp. Do vậy, cần tiếp
tục hoàn thiện các quy định nói trên, phấn đấu đạt tỷ lệ hài hoà về các quy định
kiểm định động thực vật đạt 70-80% với quy định quốc tế năm 2010 (so với tỷ lệ
50% hiện nay) [12].
91
3.3.1.2. Xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo hộ và tự do hóa thương mại
Do có đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam khác hẳn Singapore: đất nước
xuất phát điểm là thuần nông, các ngành công nghiệp non trẻ trong nước nếu
không được bảo hộ thích đáng sẽ bị hàng hoá nước ngoài đánh bại và chiếm lĩnh
thị trường. Như vậy, vừa để tăng cường hội nhập, tự do hoá dần dần vừa để bảo hộ
hợp lý sản xuất trong nước nhằm củng cố vững chắc nền kinh tế. Chúng ta chưa
thể loại bỏ hoàn toàn các rào cản thương mại như Singapore những cũng cần phải
xác định loại bỏ rào cản thương mại là mục tiêu lâu dài, còn trước mắt cũng cần
phải thực hiện các biện pháp minh bạch hoá: chuyển hình thức quản lý nhập khẩu
thông qua chính sách thuế thay cho các biện pháp quản lý bằng hạn ngạch, giấy
phép nhiều nhất có thế.
Hiện nay, Việt Nam đang phải thực hiện hàng loạt cam kết mở cửa thị
trường trong nước, trong đó quan trọng nhất là cam kết sau khi gia nhập WTO.
Tuy nhiên, tự do hoá thương mại không có nghĩa là từ bỏ tất cả các biện pháp bảo
hộ. Nếu duy trì chính sách tự do hoá mà không có bảo hộ thì sẽ dẫn đến tình trạng
nhiều ngành sản xuất trong nước bị phá sản bởi hàng hoá nước ngoài, còn nền kinh
tế sẽ rơi vào tình trạng không thể kiểm soát nổi, do các công cụ điều tiết thương
mại bị dỡ bỏ. Nhưng việc lạm dụng chính sách bảo hộ sẽ dẫn đến tình trạng nền
kinh tế bị tụt hậu và trì trệ. Vì vậy, trên thực tế việc áp dụng chính sách tự do hoá
thương mại ở các quốc gia luôn được kết hợp một cách khéo léo với chính sách
bảo hộ mậu dịch ở những mức độ và dưới những hình thức khác nhau. Việc thực
thi một chính sách bảo hộ có mức độ tạo điều kiện cho phép các ngành sản xuất
trong nước hoặc thay thế hàng nhập khẩu hoặc đảm bảo sự cân đối trong quan hệ
trao đổi và duy trì một mức độ ổn định nào đó. Vấn đề này càng quan trọng hơn
đối với những mặt hàng nhạy cảm về mặt kinh tế xã hội. Bảo hộ có giới hạn sẽ làm
giảm áp lực do sự biến đổi giá cả trên thị trường, tránh gây xáo trộn đối với thị
trường trong nước. Trước hết, cần xác định rõ những tiêu chí bảo hộ và gắn bảo hộ
với mục tiêu tăng cường xuất khẩu. Việt Nam cần thực hiện bảo hộ dựa trên trên
sự kết hợp giữa năng lực cạnh tranh trong nước với lợi thế so sánh xuất khẩu thay
92
vì chỉ căn cứ vào khả năng cạnh tranh nội địa của ngành hàng để xây dựng đối
tượng và mức độ bảo hộ. Hay nói cách khác, cần chuyển từ việc xác định tiêu chí
bảo hộ dựa trên căn cứ về khả năng cạnh tranh trong nước sang chủ yếu dựa trên
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới trong bối cảnh Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu rộng và kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam cần bảo hộ các lĩnh
vực có chọn lọc theo từng cấp độ bảo hộ và phù hợp với lộ trình hội nhập. Hiện
nay, còn quá nhiều lĩnh vực ưu tiên được lựa chọn, vì vậy sự lựa chọn đó không
phù hợp với điều kiện về nguồn lực, đặc biệt là vốn và kỹ thuật, công nghệ cũng
như trình độ lao động. Bởi vậy, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước trong thời
gian tới cần phải đảm bảo đúng hướng, có chọn lọc, có điều kiện và thời hạn cụ
thể, theo từng cấp độ bảo hộ. Mức độ bảo hộ cao hay thấp phụ thuộc vào lợi thế so
sánh của từng loại hàng hoá đối với từng loại thị trường và chính sách của Nhà
nước về định hướng phát triển từng ngành. Ngoài ra, cũng cần nhanh chóng khắc
phục sự mất cân đối về đối tượng bảo hộ. Đồng thời, tiến hành bảo hộ phải được
thực hiện bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế. Điều này góp phần hạn chế
được nguy cơ trong tương lai là việc chống lại quá trình tự do hoá từ phía một
thành phần kinh tế riêng biệt vốn được hưởng nhiều đặc lợi do bảo hộ mang lại.
Nó cũng đặt tất cả các doanh nghiệp trong một môi trường kinh doanh bình đẳng,
có tính cạnh tranh cao và chính điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả của
các ngành được bảo hộ.
3.3.1.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy định liên quan đến hoạt động
thương mại một cách tương ứng với các định chế thương mại của WTO
Đây là vấn đề quan trọng trong các giải pháp phát triển thương mại Việt
Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh tự do hoá thương mại trong bối cảnh gia nhập
WTO của Việt Nam. Trong quá trình đàm phán gia nhập cũng như sau khi đã là
thành viên WTO các nước luôn phải điều chỉnh, hay cải cách chính sách, mà trước
hết là các chính sách liên quan đến hoạt động thương mại (cả thương mại trong và
ngoài nước).
93
WTO hoạt động dựa trên các luật lệ và các quy tắc tương đối phức tạp, bao
gồm trên 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau điều chỉnh hầu
hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó đều được xây
dựng trên cơ sở 5 nguyên tắc cơ bản của WTO: 1 , không phân biệt đối xử (đãi
ngộ tối học quốc - MFN, đãi ngộ quốc gia - NT); 2, mở cửa thị trường; 3, thông
thoáng và có khả năng dự báo; 4, minh bạch hoá chế độ thương mại; 5, đối xử ưu
đãi đối với các nước đang phát triển. Đương nhiên, các nguyên tắc này sẽ có ảnh
hưởng đến các chính sách có liên quan của nền kinh tế, theo nghĩa chính sách của
nền kinh tế phải phù hợp với nguyên tắc của WTO. Từ đó, những hướng cơ bản
của Việt Nam cần quan tâm tháo gỡ để đạt được sự phù hợp của chính sách với
các nguyên tắc của WTO, như sau:
Nguyên tắc chung của việc phân biệt đối xử đòi hỏi mỗi thành viên của
WTO phải dối xử bình đẳng đối với tất cả các nhà cung cấp cạnh tranh và không
phân biệt đối xử giữa hàng hoá, hoặc dịch vụ được sản xuất trong nước và hàng
hoá, dịch vụ nhập khẩu vào nước đó. Đối với nước ta, việc áp dụng nguyên tắc
chung này còn liên quan đến một số vấn đề giải quyết, như: hệ thống hai giá, các
chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, các quy định hành chính không nhất quán.
Nguyên tắc mở cửa thị trường được thể hiện bằng cam kết giảm thuế, dỡ bỏ
các biện pháp phi thuế và mở cửa khu vực dịch vụ. Những tồn tại của Việt Nam
cần tiếp tục hoàn thiện, như: mức độ phân tán thuế qua, giảm bớt các quy định
hành chính liên quan đến thương mại, đưa ra các cam kết về thời hạn và mức độ
mở thị trường đối với khu vực dịch vụ.
Nguyên tắc đảm bảo tính thông thoáng và khả năng dự báo của chính sách
thương mại như sự cần thiết thông báo các quy định và luật lệ thương mại, bao
gồm cả các điều khoản về áp dụng thống nhất cơ chế thương mại và đối xử bình
đẳng, mà theo đó các bên có liên quan có thể yêu cầu chính phủ xem xét các vấn
đề về chủ nghĩa bảo hộ địa phương. Đối với nước ta, nguyên tắc này có liên quan
đến vấn đề về quyền thương mại đối với các sản phẩm và mở rộng sự cho phép
tham gia của các nhà cung cấp trong và ngoài nước.
94
Như vậy, Nhà nước phải rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy định có liên
quan không chỉ đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu mà cả lĩnh vực thương mại nội
địa. Nhìn chung, đây là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm. Điều quan trọng là
có thể chứng minh đã áp dụng các biện pháp nhằm loại bỏ, thay thế chính sách phù
hợp theo quy định của WTO.
3.3.1.4. Chủ động thúc đẩy quan hệ thương mại và mở rộng thị trường xuất
khẩu
Singapore là nước chịu sự phụ thuộc lớn vào thị trường bên ngoài, do vậy để
phát triển thương mại, nước này luôn tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất
nhập khẩu của mình. Một mặt, Singapore chủ động hướng tới các trung tâm kinh
tế lớn của thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đây là những thị trường có độ tự do
hoá cao, và có những ưu đãi nhất định về thuế đối với các nước kém phát triển
hơn. Mặt khác, Singapore cũng không ngừng mở rộng thị trường sang các nước và
các khu vực khác qua việc ký kết các hiệp định thương mại song phương và khu
vực. Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO với nhiều cơ hội tiếp cận thị trường
hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được
cắt giảm, do vậy Việt Nam cần tận dụng mọi cơ hội để thúc đẩy hơn nữa quan hệ
thương mại với bên ngoài, mở rộng những thị trường hiện có và khai thác những
thị trường mới trong số 150 nước thành viên khác của WTO hiện nay. Để mở rộng
thị trường xuất khẩu, Việt Nam cần chú trọng vào các hoạt động sau:
Thứ nhất, Việt Nam cần đẩy mạnh và đổi mới hơn nữa hoạt động xúc tiến
xuất khẩu. Singapore đã rất quan tâm đến hoạt động này và có nhiều hỗ trợ cần
thiết cho các doanh nghiệp xuất khẩu của họ trong hoạt động marketing và xúc
tiến xuất khẩu. Nhà nước và các bộ, ngành liên quan sớm thay đổi cơ bản các
chương trình xúc tiến xuất khẩu theo hướng thiết kế các chương trình xúc tiến
chuyên ngành đối với từng mặt hàng mới (hoặc mặt hàng cần hỗ trợ), tập trung
vào một số thị trường mới (hoặc thị trường cụ thể cần ưu tiên phát triển); triển khai
thực hiện một số chiến dịch lớn để quảng bá hình ảnh quốc gia, sản phẩm của Việt
Nam trên các phương tiện thông tin, truyền thông ở nước ngoài, đặc biệt trên các
95
kênh truyền hình, tạp chí quốc tế nổi tiếng (CNN, BBC, Economics...); nâng cao
vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao và đại diện thương mại của Việt Nam ở
nước ngoài, để làm cầu nối giúp doanh nghiệp trong nước tìm hiểu thông tin, thâm
nhập thị trường. Nhà nước cần ưu tiên và dành nguồn vốn để tập trung đầu tư nâng
cấp cơ sở hạ tầng thương mại, đặc biệt tại các cửa khẩu cũng như đường bộ, đường
sắt dẫn tới biên giới, cảng biển, cảng sông và các phương tiện liên quan. Các cơ
quan quản lý nhà nước cần tăng cường áp dụng quy trình quản lý chất lượng công
việc và chất lượng cung cấp dịch vụ công, nhằm thường xuyên giám sát, quản lý
hiệu quả chất lượng các thủ tục hành chính cũng như dịch vụ công. Bên cạnh đó,
các hiệp hội ngành hàng cần nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức, mô hình hoạt
động theo hướng chuyên nghiệp hoá, thực hiện tốt vai trò là người hỗ trợ doanh
nghiệp tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, giúp liên kết các doanh nghiệp với
nhau nhằm mở rộng năng lực sản xuất; là đại diện hữu hiệu để phản ánh nhu cầu,
yêu cầu của doanh nghiệp tới Chính phủ; cần tổ chức thu thập, phân tích và xử lý
thông tin về thị trường, về yêu cầu của nhà nhập khẩu, về chính sách nhập khẩu
của thị trường nhập khẩu, về đối thủ cạnh tranh để tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp
trong khâu tiếp cận thị trường, tổ chức sản xuất và xuất khẩu.
Thứ hai, cùng với việc giải quyết vấn đề thị trường phục vụ cho xuất khẩu
hiện nay, Việt Nam cần tổng kết về công tác thị trường vừa qua, kết hợp dự báo xa
về kinh tế thế giới, nghiên cứu dài hạn đối với từng thị trường, khu vực thị trường,
xây dựng chiến lược thị trường cho thời kỳ tiếp theo, trước mắt là đến năm 2010.
Cần thực hiện chủ trương đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh sự phụ thuộc
vào một số ít thị trường truyền thống. Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa
Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ bình thường. Việt Nam gia nhập Hiệp hội các
nước Đông Nam Á, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã
tăng nhanh. Đặc biệt, từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được ký kết năm
2000 và khi Việt Nam trở thành thành viên WTO năm 2007, hầu hết các nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam. Việc tập trung quá
lớn vào thị trường Châu Mỹ mà chủ yếu là Hoa Kỳ đã đạt được mục tiêu cần phải
96
thực hiện là chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới nhưng đã làm suy
giảm khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường mới, và mục tiêu duy trì và
mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc. Nếu tiếp tục phát triển thị trường
xuất khẩu theo chiều hướng trên sẽ dẫn tới nguy cơ tự chúng ta đánh mất thị
trường (đặc biệt là các thị trường quen thuộc và thị trường liền kề biên giới như
Trung Quốc) và điều nguy hiểm hơn là khó có thể phát triển bền vững khi tập
trung vào một thị trường với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn hơn 30% như các
nhà kinh tế đã từng khuyến cáo. Do đó, cần có sự điều chỉnh hợp lý thị trường xuất
khẩu để giảm thiểu rủi ro và sự phụ thuộc trong khi vẫn mở rộng được thị trường
xuất khẩu.
Thứ ba, do là nước đi sau, chưa đạt đến trình độ phát triển về thương mại
như Singapore, Việt Nam nên xác định một số mặt hàng trọng điểm trong cơ cấu
xuất khẩu. Một số hướng đó là: trước mắt, xác định những mặt hàng tỷ trọng xuất
khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới còn nhỏ nhưng tốc độ tăng trưởng
nhanh, trong khi nhu cầu thế giới cao và ổn định và ta có lợi thế sản xuất; Các mặt
hàng có tính liên kết cao, nếu xuất khẩu được cuối cùng sẽ thúc đẩy sự phát triển
của các ngành khác, trước hết là ngành sản xuất nguyên liệu cho sản xuất hàng
xuất khẩu; Các mặt hàng có sử dụng nhiều lao động, ít phụ thuộc vào hàng nguyên
liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu; về lâu dài, chúng ta cần xác định cả các mặt
hàng công nghệ chiến lược để có thể theo kịp nhu cầu ngày càng hiện đại và tinh
vi của người tiêu dùng nước ngoài. Ngoài ra, thực hiện chiến lược hướng về xuất
khẩu như nước ta hiện nay cũng cần phải chú ý đến mặt trái của nó, đó là có thể
dẫn tới một cơ cấu kinh tế mất cân đối, tình trạng ô nhiễm môi trường, sự cạnh
tranh bất bình đẳng.
3.3.2. Đối với thƣơng mại dịch vụ
3.3.2.1. Chủ động mở cửa thị trường dịch vụ
Trong xu thế tự do hóa thương mại dịch vụ ngày này, Việt Nam không thể
tránh khỏi việc mở cửa thị trường cho cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài. Đây chắc chắn vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với việc phát triển các
97
ngành dịch vụ của Việt Nam. Nhất là trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập WTO
và thực thi BTA Việt Nam - Hoa Kỳ. Kinh nghiệm của Singapore cho thấy cần
chủ động thực hiện mở cửa thị trường và phát triển các ngành dịch vụ theo yêu cầu
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc mở cửa một cách chủ động ở đây có
nghĩa là trên cơ sở nhận thức được lợi ích của tự do hóa và căn cứ vào lợi thế so
sánh của đất nước. Cụ thể, Singapore đã tiến hành tự do hóa mạnh mẽ trong các
ngành tài chính, vận tải, viễn thông, du lịch bởi đây là những ngành mà Singapore
có lợi thế và việc phát triển các dịch vụ này sẽ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là việc mở cửa thị trường cần phải trên cơ sở căn
cứ vào lợi thế so sánh của Việt Nam. Những ngành mà ta có lợi thế so sánh cần
được phát huy tối đa đó là dịch vụ du lịch, các dịch vụ đòi hỏi chuyên môn thấp
như dịch vụ giúp việc … Sự phát triển của các dịch vụ đó có thể thu hút một lực
lượng lao động tại chỗ không nhỏ và có thể phát triển xuất khẩu dịch vụ. Cần thực
hiện tự do hóa trong những ngành không mang tính nhạy cảm cao và thậm chí cần
hết sức khuyến khích phát triển vì có liên quan nhiều đến khả năng thay thế nhập
khẩu dịch vụ như các dịch vụ quảng cáo, nghiên cứu phát triển, dịch vụ hỗ trợ vận
tải hàng không vốn là những ngành mà xu hướng nhập khẩu đang ngày càng tăng
do không có khả năng cưng cấp trong nước.
3.3.2.2. Duy trì bảo hộ hợp lý trong chính sách thương mại dịch vụ
Do hạn chế về tính chất thương mại của nhiều ngành dịch vụ mà các dịch vụ
của Việt Nam vẫn phát triển tốt trong điều kiện chưa hội nhập với hiệu quả rất
thấp. Tuy nhiên một khi tính chất thương mại của dịch vụ ngày càng được cải
thiện thì sức ép nhập khẩu các dịch vụ có chất lượng cao hơn sẽ tăng. Trong khi
đó, khả năng phát triển xuất khẩu dịch vụ của nước ta còn hạn chế và ta phải nhập
khẩu với kim ngạch ngày càng tăng. Do đó, mặc dù xác định tự do hóa thương mại
dịch vụ là xu hướng chủ đạo nhưng cũng như thương mại hàng hóa, thương mại
dịch vụ của Việt Nam cần được bảo hộ. Kinh nghiệm của Singapore cho thấy bảo
hộ phải tùy theo ngành với mức độ bảo hộ khác nhau, đồng thời bảo hộ cũng
không có nghĩa là bất chấp hiệu quả kinh tế. Bảo hộ đối với thương mại dịch vụ có
98
nghĩa là dành một phần thị trường để các doanh nghiệp trong nước có cơ hội phát
triển trong một giai đoạn nhất định. Việc bảo hộ trong thương mại dịch vụ có thể
được thực hiện thông qua các biện pháp hạn chế sự thâm nhập thị trường qua
phương thức 3 và 4 (vì khó có thể hạn chế nhập khẩu theo phương thức 1 và 2).
Tuy nhiên mâu thuẫn ở chỗ, nếu như bảo hộ ngăn chặn sự cung cấp dịch vụ theo
hai phương thức này thì có nghĩa là ta bỏ qua cơ hội thu hút vốn, công nghệ của
nước ngoài. Do đó, cách thức bảo hộ của Việt Nam nên tập trung vào bảo hộ
những dịch vụ có khả năng cạnh tranh với dịch vụ nhập khẩu nước ngoài (cung
cấp theo phương thức 1 và 2). Trên cơ sở đó có thể từng bước mở cửa thị trường
cho hợp tác và đầu tư với dịch vụ của nước ngoài theo phương thức 3 và 4 nhằm
thu hút được vốn và công nghệ, lao động có trình độ của nước ngoài nhưng vẫn
bảo đảm cho các doanh nghiệp trong nước đang hoạt động có hiệu quả có cơ hội
tự điều chỉnh và thích nghi với môi trường cạnh tranh mới. [11], [13]
3.3.2.3. Xây dựng chiến lược phát triển thương mại dịch vụ thống nhất
Thương mại dịch vụ của Singapore đã phát triển từ rất lâu cả về chất lượng
và số lượng các ngành dịch vụ. Quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ của nước
này được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, lợi thế so sánh của các lĩnh
vực dịch vụ và kinh nghiệm phát triển trước đó. Do đó, ở mỗi thời kỳ chính phủ
Singapore đều đề ra được những chiến lược phát triển thương mại địch vụ thống
nhất và phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Cụ thể chiến lược của
Singapore trong thời gian tới là đưa nước này trở thành trung tâm dịch vụ của khu
vực. Theo đó, bên cạnh việc tăng cường tự do hóa ở những lĩnh vực đã dần tự do
hóa trước đó như tài chính, viễn thông, du lịch thì chính phủ Singapore cũng có
những biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tự do hóa trong những lĩnh
vực mới như dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục, dịch vụ chuyên môn. Mỗi ngành dịch
vụ có một cơ quan chức năng chuyên trách đủ mạnh để cùng thực hiện chiến lược
chung. Sẽ là khập khiễng nếu so sánh quá trình phát triển và kinh nghiệm trong
lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam với Singapore nhưng kinh nghiệm xây dựng chiến
lược phát triển thương mại dịch vụ của Singapore vẫn có ý nghĩa như một bài học
99
kinh nghiệm để Việt Nam nghiên cứu và vận dụng. Việc xây dựng chiến lược cần
dựa trên tình hình thực tế và thống nhất giữa các ngành với nhau. Mỗi ngành dịch
vụ có một cơ quan chuyên trách nghiên cứu, hoạch định chính sách và các cơ quan
này đều chịu sự quản lý chung thống nhất của một cơ quan cao hơn. Trong trường
hợp của Singapore là Uỷ ban Phát triển Kinh tế - EDB.
3.3.2.4. Ký kết các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) song phương có liên
quan đến thương mại dịch vụ
FTA song phương và khu vực đang diễn ra phổ biến và rộng khắp ở hầu hết
các khu vực trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế, do vậy cũng không nên là ngoại lệ của xu hướng ký kết FTA song
phương này. Tuy nhiên việc đàm phán ký kết FTA song phương nói chung và khía
cạnh thương mại dịch vụ trong FTA nói riêng cần phải trên cơ sở nghiên cứu kinh
ngiệm của các nước. Qua nghiên cứu tình hình ký kết FTA song phương của
Síngapore cho thấy, Singapore rất quan tâm đến tự do hóa thương mại dịch vụ
thông qua ký kết FTA song phương. Các nước được Singapore xúc tiến ký FTA
song phương đầu tiên đều là những nước phát triển và những nước có nền kinh tế
lớn. Sở dĩ như vậy vì việc ký kết này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế
Singapore vốn đã có mức độ mở cửa thương mại dịch vụ cao. Đặc biệt, chính phủ
Singapore rất quan tâm tới việc phổ biến kiến thức, lợi ích của tự do hóa thương
mại dịch vụ thông qua FTA song phương. Cụ thể, trang web của Bộ Thương mại
và Công nghiệp Singapore có chuyên mục giới thiệu về các cam kết trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ của các FTA song phương. Ngoài ra, trang web này còn
hướng dẫn cụ thể cách đọc hiểu và áp dụng các điều khoản cam kết cho doanh
nghiệp. Nhờ đó, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cả trong và ngoài nước có
thể nắm rõ quyền và lợi ích của mình khi tham gia kinh doanh
100
KẾT LUẬN
Đề tài luận văn “Tự do hoá thương mại của Singapore và những bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO” đã có những đóng
góp sau, thể hiện qua việc hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Thứ nhất, tìm hiểu khái niệm tự do hóa thương mại, những nội dung của tự
do hoá thương mại cũng như xu hướng tự do hóa thương mại trên thế giới hiện
nay. Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu những quy định cơ bản của WTO về
tự do hóa thương mại và những cơ hội, thách thức đối với các nước đang phát triển
trong quá trình tự do hoá thương mại.
- Thứ hai, bằng việc nghiên cứu chính sách tự do hoá thương mại hàng hoá
và dịch vụ của Singapore, luận văn khẳng định Singapore là một nước có nền
thương mại rất tự do, thể hiện trên cả ba cấp độ: thương mại đa phương, khu vực
và song phương. Qua đó, luận văn đúc kết một số bài học kinh nghiệm về tự do
hoá thương mại của Singapore như: xây dựng, đổi mới cơ chế quản lý hàng hoá
xuất nhập khẩu nhanh gọn và tương đối thông thoáng, thực hiện một chính sách tự
do hoá thương mại kết hợp với bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, xây dựng các
hàng rào kỹ thuật cần thiết đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, thúc đẩy xuất khẩu và
chủ động mở rộng thị trường quốc tế thúc đẩy quan hệ thương mại, tự do hoá trên
lĩnh vực thương mại dịch vụ tiến hành theo từng bước
- Thứ ba, với việc đánh giá tổng quan về thực trạng hoạt động thương mại
của Việt Nam, nghiên cứu những cam kết của Việt Nam trong WTO cũng như
quan điểm và định hướng phát triển thương mại của nước ta, luận văn đề ra một số
giải pháp tự do hoá thương mại của Việt Nam trên qua những bài học kinh nghiệm
mà Singapore đem lại.
Sự thành công của chính sách thương mại tự do của Singapore đã để lại
những kinh nghiệm quý giá cho các nước đi sau như Việt Nam. Đây là một quá
trình liên tục đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách chủ động, nhất quán và
đồng bộ để đáp ứng yêu cầu hội nhập khi đã là thành viên của WTO.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Báo ảnh Việt Nam
D_Cat=1&ID_NEWS=8772&language=vi-VN&number=10&year=2007
2. Báo điện tử VN Media ngày 28/6/2006, Tự do hoá thương mại và hai nhóm rào
cản lớn:
3. Bộ Công thương, ngày 1/6/2004, Một số đặc điểm của quá trình tự do hoá
thương mại hiện nay, trang web:
4. Bộ Ngoại giao, Thông tin cơ bản về Cộng hòa Singapore và Quan hệ Việt
Nam-Singapore, trang web:
5. Bộ Thương mại, Báo cáo tóm tắt kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới và phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiện định thành lập tổ chức
thương mại thế giới (WTO)
6. Bộ Thương mại, Báo cáo Hoạt động thương mại năm 2005 và phương hướng
công tác năm 2006
7. Bộ Thương mại, Báo cáo Kế hoạch phát triển xuất khẩu năm 2008
8. Bộ Thương mại, Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 27/2007/QĐ-TTg
ngày 15/2/2007 phê duyệt đề án phát triển thương mại trong nước đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020
9. Bộ Thương mại (2005), Tổng quan các vấn đề tự do hoá thương mại dịch vụ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
10. Bộ Tư pháp (2007), Việt Nam với WTO – Chuyên đề số 01/2007, Nxb Tư
pháp
11. PGS., TS. Nguyễn Phúc Khanh (2004), Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
nhanh quá trình Hội nhập của thương mại việt nam vào kinh tế khu vực và
quốc tế
12. Nguyễn Quang Minh (2006), Tự do hoá thương mại hàng hoá của Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học
Ngoại thương, Hà Nội
13. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2004), Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế: Quá khứ - Hiện tại – Tương lai
14. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2004), Tìm hiểu tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Hà Nội
15. Nhịp cầu thương mại Á- Âu,
&SubId=1&NewsId=8331
16. Quỹ nghiên cứu ICARD – MISPA, Khả năng cạnh tranh của các mặt hàng
nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA,
%20VER%2003_15582.doc
17. Thông tin xúc tiến thương mại Việt Nam, Hồ sơ thị trường - Singapore
18. Trang web tư vấn pháp luật Việt Nam, Bản tóm tắt cơ bản về cam kết WTO
của Việt Nam tại law-
consultancy.com/vietnamese/content/browse.php?action=shownews&categor
y=&id=41&topicid=1170
19. Lương Văn Tự (2004), Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế
20. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2007), Sổ tay về các quy định của
WTO và cam kết gia nhập của Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân
21. Văn phòng TBT bộ GTVT
Tiếng Anh
22. Bernard Hoekman and Michel M.Kostecki (1997), Political Economics of the
Multilateral Trading System: From GATT to WTO, Oxford Pulisher, London
23. Ministry of Trade and Industry of Singapore, Economic Survey of Singapore
2004
24. Ministry of Trade and Industry of Singapore, Economic History of Singapore,
25. Ministry of Trade and Industry of Singapore (2007), Economic Survey of
singapore 2007
26. WTO, International Trade Statistics 2007
27. WTO , Trade Policy Review – Singapore – 1999
28. WTO, Trade Policy Review – Singapore – 2004
29. WTO, Trade Policy Review – Singapore – Press Release 1996
30. WTO, Trade Policy Review – Singapore – Press Release 2000
Các trang web:
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47. http:// www.wto.org
PHỤ LỤC
Bảng 1: Các luật chính liên quan đến thƣơng mại của Singapore
Luật Phạm vi điều chỉnh
Luật Hải quan Thủ tục hải quan và các yêu cầu
hải quan
Chỉ thị thuế hải quan Thuế hải quan
Quy định trị giá hải quan Trị giá hải quan
Chỉ thị miễn thuế hải quan Miễn thuế hải quan
Luật Bảo vệ người tiêu dùng (thương mại công
bằng) 2003
Bảo vệ người tiêu dùng từ hoạt
động thương mại không công
bằng
Luật Quy định hàng hoá xuất nhập khẩu Quy định đối với hàng hoá xuất
nhập khẩu
Quy định hàng hoá xuất nhập khẩu (Cấp phép
xuất nhập khẩu); Luật xuất nhập khẩu động vật
quý hiếm
Cấp phép nhập khẩu
Các quy định về hàng hoá xuất nhập khẩu Hàng hoá xuất nhập khẩu và hàng
hoá trung chuyển; giấy chứng
nhận xuất xứ
Luật chống phá giá và trợ cấp; Các quy định về
thuế chống bán phá giá và trợ cấp
Các biện pháp chống bán phá giá
và trợ cấp
Luật khuyến khích mở rộng kinh tế; Luật thuế
thu nhập
Ưu đãi thuế
Luật Bằng sáng chế; Luật Bản quyền; Luật
Thương hiệu hàng hoá; Luật Đăng ký kiểu dáng;
Luật Xác định nguồn gốc địa lý; Luật Kiểu dáng
thiết kế của vi mạch tích hợp
Quyền sở hữu trí tuệ
Luật Uỷ ban tiêu chuẩn, năng suất và cải tiến
Singapore
Các tiêu chuẩn
Luật Buôn bán thực phẩm; Các quy định thực
phẩm; Luật Chất độc hại và các quy tắc của nó
An toàn và tiêu chuẩn thực phẩm,
nhãn mác hàng hoá
Pháp lệnh đo lường Đóng gói
Luật Kiểm soát thực vật; Luật Động vật và chim Các biện pháp đối với thực vật và
động vật
Luật mua bán của chính phủ Thủ tục chính phủ bắt buộc
Nguồn: WTO, Trade Policy Review – Singapore – 2004
Bảng 2: Các cơ quan chức năng của Singapore có liên quan đến thƣơng mại
Bộ/Cơ quan chức năng Chức năng
Bộ phát triển quốc gia
Cơ quan Nông-Lương và Thú y Ban hành tiêu chuẩn về nông-ngư nghiệp,
vệ sinh dịch tễ
Cơ quan Tái phát triển Đô thị Lên kế hoạch và quản lý quyền sử dụng
đất, các dự án kiểm soát phát triển
Bộ Thương mại và Công nghiệp Ban hành chính sách thương mại; các
biện pháp chống phá giá, biện pháp trả
đũa và tự vệ
Cộng đồng Doanh nghiệp quốc tế
Singapore
Xúc tiến thương mại
Uỷ ban Phát triển kinh tế Xúc tiến đầu tư; chính sách phát triển;
phát triển công nghiệp
Uỷ ban Tiêu chuẩn, Năng suất và
Đổi mới Singapore (SPRING)
Ban hành các tiêu chuẩn và đảm bảo tuân
thủ
Uỷ ban Du lịch Singapore Du lịch
Uỷ ban Cấp phép khách sạn Cấp phép cho khách sạn
Cơ quan Khoa học, Công nghệ và
Nghiên cứu (A*STAR)
Khoa học và công nghệ; phát triển công
nghệ ứng dụng trong doanh nghiệp
Bộ Tài chính
Cục Hải quan Singapore Thuế quan; định giá hải quan; quy định về
xuất xứ; tạo điều kiện thuận lợi thương
mại; đảm bảo tuân thủ thương mại
Ngân hàng Trung ương Singapore Bảo hiểm; ngân hàng; thị trường chứng
khoán và chứng khoán phái sinh
Bộ Tư pháp
Cục Sở hữu trí tuệ Singapore Quyền sở hữu trí tuệ
Bộ Thông tin, Truyền thông và Nghệ
thuật
Cơ quan phát triển Thông tin-
Truyền thông Singapore
Viễn thông; thương mại điện tử; công
nghệ thông tin
Bộ Giao thông
Cơ quan Giao thông Đường bộ Giao thông đường bộ
Cơ quan Vận tải biển và Cảng biển Vận tải biển và cảng biển
Cơ quan Hàng không Dân dụng
Singapore
Vận tải hàng không
Nguồn: Chính phủ Singapore
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3181_3346.pdf