1) Cloetan là hợp chất hữu cơ có nhiệt độ sôi thấp 12,3
o
C. Khi phun cloetan vào da, nhiệt độ cơ
thể làm cloetan bay hơi nhanh, làm cho da bị lạnh cục bộ và tê cứng. Do đó thần kinh cảm giác không
truyền được cảm giác đau lên đại não. Đồng thời, do sự đông lạnh cục bộ khiến cho các huyết quản
chỗ bị thương co lại nên làm cho vết thương ngừng chảy máu. Do vậy cloetan có thể làm giảm đau
tạm thời.
2) Do metanol được oxi hoá bởi các enzim khử hiđro trong gan tạo ra fomanđehit.
CH3OH + [O] → HCHO + H2O
3) Thành phần chính của các loại đồ uống có cồn là rượu etylic. Rượu etylic là một chất dễ bị oxy
hoá. Chất oxy hoá được dùng trong các máy đo độ cồn của lái xe là crom (VI) oxit CrO3, một chất kết
tinh màu vàng da cam. Bột crom (VI) oxit CrO3khi gặp rượu etylic sẽ bị khử thành crom (III) oxit
Cr2O3có màu xanh đen. Đây là phản ứng rất nhạy dùng để phát hiện rượu trong hơi thở của người lái
xe.
4) Rượu có thành phần là cồn etylic. Cồn etylic vào cơ thể theo các biến đổi sau : đầu tiên nó biến
thành anđehit axetic nhờ men anđehit xúc tác tiến hành sau đó anđehit lai bị biến đổi thành các hợp
chất khác, cuối cùng là cacbon đioxit. Mỗi giai đoạn đảm nhận bởi một loại men xúc tác. Nhưng quyết
định là giai đoạn biến rượu thành anđêhít nếu quá trình này không kịp thì người sẽ bị say. Người uống
nhiều hay ít là tuỳ vào lượng men anđehit có trong máu họ nhiều hay ít.
134 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2872 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập hóa học gắn với thực tiễn dùng trong dạy học hóa học ở trường THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ilic là chất bán dẫn.
Tinh thể than chì cũng được cấu tạo từ cacbon nưng khác với kim cương, mỗi nguyên tử cacbon
trong tinh thể than chì đều ở dạng lai hóa sp2 liên kết cộng hóa trị với 3 nguyên tử cacbon khác bao
quanh cùng nằm trong một mặt phẳng tạo thành vòng 6 cạnh, nhũng vòng này liên kết với nhau tạo
thành lớp. Ngoài ra mỗi nguyên tử cacbon còn có một electron 2p không tham gia lai hóa, electron này
ở vùng tụ do có thể biến vị sang vùng dẫn gây ra tính dẫn điện của than chì.
2) Để khử mùi hôi trong tủ lạnh, ta có thể cho vào trong tủ vài cục than hoa. Than hoa là cacbon
vô định hình, có khả năng hấp thụ tốt các mùi hôi trong tủ lạnh.
3) Vì khi sưởi ấm bằng bếp than vì không được cung cấp đầy đủ khí oxi cho than cháy, phản ứng
không hoàn toàn thường sinh ra khí CO, con người hít phải khí này vào trong cơ thể CO sẽ kết hợp
với Hb trong máu, ngăn không cho máu nhận oxi và cung cấp oxi lên não và đến các tế bào nên gây tử
vong cho con người.
4) Khi bảo quản, bình chữa cháy phải để thẳng đứng là để tránh tiếp xúc giữa các chất tham gia
phản ứng. Khi chữa cháy lại phải dốc ngược bình lên để các chất tiếp xúc với nhau, xảy ra phản ứng:
2NaHCO3 + H2SO4 → Na2SO4 + H2O + CO2
Nguyên lí chữa cháy của bình: Khí cacbonic và nước ngăn oxi không khí tiếp xúc với chất cháy
đồng thời sự bay hơi của các chất này thu nhiệt làm giảm nhiệt độ xuống dưới điểm cháy.
5) Do có phản ứng hóa học xảy ra:
Ca(OH)2 + CO2 → CaCO3 + H2O
Các phân tử CaCO3 đã tạo ra lớp màng cứng trên mặt thùng vôi.
6) Nước đá khô là CO2 rắn, khi bay hơi thu nhiệt rất lớn, làm hạ nhiệt độ của môi trường xung
quanh, do đó làm giảm quá trình oxi hóa thực phẩm. Vì vậy nước đá khô được dùng để bảo quản thực
phẩm khi vận chuyển đi xa
7) H2SiO3 → SiO2 + H2O
Silicagen gồm: SiO2, H2SO3
8) Màu sắc trên lớp men gốm sứ cấu tạo từ các oxit kim loại, chúng được phủ lên bề mặt đồ gốm,
sau đó đem nung. Các oxit kim loại khi nung ở nhiệt độ cao sẽ nóng chảy tạo thành một lớp màng
bóng, kín trên bề mặt đồ gốm. Các hạt nhỏ oxit kim loại trong lớp men sẽ hấp thụ một phần ánh sang
chiếu vào và phản xạ phần ánh sang còn lại, làm cho đồ gốm có màu sắc khác nhau, đẹp mắt.
Chẳng hạn:
- Al2O3 lẫn Cr2O3 tạo màu hồng ngọc.
- Al2O3 tạo màu ngọc trắng.
- Fe2O3 tạo màu sẫm.
- Oxit niken tạo màu xanh.
9) Thành phần thủy tinh có thể viết như sau: Na2O.CaO.2SiO2
Khi dùng HF tác dụng lên thủy tinh thì có phản ứng sau:
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
10) Sau khi đổ bê tông được 24 giờ, người ta thường phun hoặc ngâm nước để bảo dưỡng bê tông
vì quá trình đông cứng của xi măng chủ yếu là sự kết hợp của các hợp chất trong xi măng với nước,
tạo nên những tinh thể hidrat đan xen nhau thành khối cứng và bền:
3CaO.SiO2 + 5H2O → Ca2SiO4.4H2O + Ca(OH)2
Ca2SiO4 + 4H2O → Ca2SiO4.4H2O
Ca3(AlO3)2 + 6H2O → Ca3(AlO3)2.6H2O
11) SiO2 + 2NaOH → Na2SiO3 + H2O
0,4.10-3 mol 0,4.10-3 mol
Hàm lượng SiO2 trong cát:
3
3
0, 4.10 .60
.100% 96%
25.10
12) Chọn B.
13) Chọn C.
14) Chọn D.
15) Chọn D.
16) Chọn C.
17) Chọn C.
18) Chọn B.
19) Chọn B.
20) Chọn A.
ĐẠI CƯƠNG VỀ KIM LOẠI
1) Những kim loại có khối lượng riêng bé hơn 5 g/cm3 được coi là kim loại nhẹ, ngược lại là
những kim loại nặng.
Kim loại nhẹ < 5 g/cm3 < kim loại nặng
Trong kĩ thuật, những hợp kim của sắt là gang, thép và cả sắt đều được gọi là kim loại đen. Tất
cả các kim loại còn lại đều được gọi là kim loại màu.
2) Các electron của kim loại trong tinh thể có khả năng hấp thụ năng lượng ánh sáng để chuyển từ
mức năng lượng thấp vốn có sáng mức năng lượng cao hơn trong vùng hóa trị hoặc vùng dẫn điện, sau
đó lại phát ra năng lượng để có mức năng lượng thấp hơn. Quá trình đó xảy ra trên bề mặt của tinh thể
kim loại, phản xạ lại toàn bộ phần ánh sáng đã hấp thụ nên kim loại thường có màu trắng bạc hay có
ánh kim.
Tuy nhiên trong quá trình phản xạ, có những trường hợp phản xạ không đồng đều đối với mọi
tia trong vùng nhìn thấy, nên một số kim loại có màu khác nhau, chẳng hạn Cu có màu đỏ, trong ánh
sáng phản chiếu vàng có màu vàng, nhưng trong ánh sáng xuyên qua lá vàng rất mỏng lại có màu xanh
lục.
Nói cách khác, các kim loại không có tính trong suốt, không có khả năng bị ánh sáng xuyên
thấu, điều đó chứng tỏ kim loại có cấu trúc đặc khít, trong một đơn vị thể tích tinh thể có chứa một
lượng rất lớn số nguyên tử kim loại.
3) Do tính biến vị của eletron nên mặc dù tinh thể kim loại có thể bị biến dạng dưới tác dụng của
lực cơ học, nhưng liên kết không bị phá hủy, các lớp nguyên tử trong mạng dễ dàng trượt lên nhau gây
ra tính dẻo, dễ dát mỏng, dễ kéo dài thành sợi.
4) Tương tự câu 5.
5) a. Sắt tây sẽ ăn mòn dần rồi bị thủng còn tôn chỉ bị ăn mòn lớp ngoài nhưng không bị thủng.
b. Cực dương: Trong không khí ẩm có oxi hoà tan tạo môi trường điện li:
2H2O + O2 +4e = 4OH
-
Cực âm :
-Sắt tây (Fe, Sn) có sắt là kim loại có tính khử mạnh hơn:
Fe – 2e → Fe2+ Fe2+ – 1e → Fe3+
Cứ thế sắt tây bị ăn mòn rồi thủng.
- Tôn (Fe, Zn) có kẽm là kim loại có tính khử mạnh hơn:
Zn – 2e → Zn2+
Nên kẽm bị ăn mòn nhưng sắt thì không nên tôn không bị thủng.
11) Chọn C.
12) Chọn A.
13) Chọn D.
14) Chọn D.
15) Chọn D.
16) Chọn A.
17) Chọn D.
18) Chọn B.
19) Chọn D.
20) Chọn C.
21) Chọn D.
22) Chọn C.
23) Chọn D
24) Chọn A.
25) Chọn C.
26) Chọn A.
KIM LOẠI KIỀM, KIM LOẠI KIỀM THỔ, NHÔM
1) Vì natri có tính khử mạnh, dễ phản ứng với oxi không khí tạo thành natrioxit có màu xám: 4Na
+ O2 2Na2O.
2) Dầu hỏa không tác dụng với kim loại kiềm đòng thời không thâm nước, không thấm khí nên là
chất tốt nhất bảo vệ kim loại kiềm tránh hai tác nhân oxi hóa này.
3) Hỗn hợp dùng để tái sinh O2 từ CO2 :
Na2O2 hấp thụ 2V khí CO2 do con người thở ra sẽ tái sinh được 1V khí O2
2Na2O2 + 2CO2 → 2Na2CO3 + O2↑
Hỗn hợp Na2O2 + KO2 hấp thụ 2V khí CO2 sẽ tái sinh được 2V khí O2
Na2O2 + 2KO2 + 2CO2 → Na2CO3 + K2CO3 + 2O2↑
4) Chỉ có kim loại Li là phản ứng trực tiếp với cacbon tạo ra Li2C2
2Li + 2C → Li2C2
Còn cacbua của các kim loại kiềm khác đều thu được bằng phương pháp gián tiếp.
Na và K không phản ứng trực tiếp với C nên không thể thay thế cho Li.
5) Từ cân bằng tan: NaCl (rắn) Na
+ + Cl-
Khi cho dòng khí hidro clorua lội qua dung dịch bão hòa muối ăn, nồng độ ion Cl- tăng, nên cân bằng
tan chuyển sang trái tạo điều kiện kết tinh NaCl.
6) Dung dịch muối có nồng độ muối lớn hơn nồng độ muối trong các tế bào của vi khuẩn, do hiện
tượng thẩm thấu, muối đi vào các tế bào, làm cho nồng độ muối trong vi khuẩn tăng cao và có quá
trình chuyển ngược lại từ tế bào vi khuẩn ra ngoài. Vi khuẩn mất nước nên bị tiêu diệt.
7) Đau dạ dày do dư axit trong dịch vị dạ dày, khi cho NaHCO3 vào nó trung hòa bớt HCl nhờ
phản ứng: NaHCO3 + HCl NaCl + CO2 + H2O
8) ĐS: 10 ml
9) Loại bỏ các ion dưới dạng các chất kết tủa CaCO3, Mg(OH)2, BaSO4.
Hoá chất dùng để loại tạp chất cần có các ion CO3
2-, OH-, Ba2+. Ví dụ: Na2CO3, NaOH, BaCl2.
10) Trên bề mặt trứng có nhiều lỗ nhỏ, khi ta rửa trứng làm cho lớp keo mỏng bảo vệ trên bề mặt
vỏ trứng bị rửa trôi. Vỏ trứng bị phá bỏ lớp bảo vệ nên các vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào làm hỏng
trứng.
Để bảo quản trứng lâu, không bị hư, người ta đem nhúng trứng vào nước vôi trong. Nước vôi
trong có tính sát trùng, ngoài ra nó còn phản ứng với khí CO2 do trứng thoát ra trong quá trình hô hấp,
tạo thành CaCO3
CO2 + Ca(OH)2 CaCO3 + H2O
Chính CaCO3 bịt kín các lỗ nhỏ trên bề mặt vỏ trứng và vi khuẩn không đột nhập được vào
trứng.
11) Răng chúng ta được bảo vệ bởi lớp men răng dày khoảng 2mm. Lớp men này là hợp chất
Ca5(PO4)3OH và được tạo thành bởi phản ứng:
5Ca2+ + 3PO4
3- + OH- → Ca5(PO4)3OH (1)
Trong kem đánh răng P/S người ta trộn vào các muối CaF2, NaF hay SnF2. Các muối này phân
li cho ion Ca2+ và F-
Theo nguyên lí Lơ Sa-tơ-liê, sự có mặt của Ca2+ làm cho cân bằng (1) dịch chuyển sang phải
tạo thành hợp chất men răng, bảo vệ cho răng chắc, khỏe.
Mặt khác, ion F- tạo điều kiện cho phản ứng sau xảy ra:
5Ca2+ + 3PO4
3- + F- → Ca5(PO4)3F (2)
Hợp chất Ca5(PO4)3F hơn Ca5(PO4)3OH và có thể thay thế một phần trong men răng làm cho
răng chắc khỏe hơn.
12) Quá trình hình thành men răng:
5Ca2+ + 3PO4
3- + OH- → Ca5(PO4)3OH
Trong vôi có Ca2+ và OH- nên cân bằng trên chuyển dịch theo chiều thuận tạo men răng.
13) Một kinh nghiệm nhóm bếp là hãy nhúng than vào nước vôi trong rồi phơi khô trước khi đun,
làm như vậy Ca(OH)2 sẽ hấp thụ CO2 sinh ra, khi nhóm sẽ bớt khói hơn.
14) Đất chua là đất chứa nhiều ion H+ (có môi trường axit) có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau
như: sinh ra do trong đất có nhiều ion kim loại Al3+, Fe2+, Fe3+,..thủy phân tạo thành, do mưa axit, do
bón lân, đạm, do quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng trong đất của cây.
Khi bón vôi (CaO) cho đất sẽ xảy ra quá các quá trình sau:
CaO + H2O → Ca(OH)2
Ca(OH)2 → Ca
2+ + 2OH-
Ion OH- sinh ra sẽ trung hòa lượng H+ trong đất làm cho đất có môi trường trung tính.
Trong thực tế người ta có thể bón vôi cho đất bằng CaCO3, CaO, quặng đôlômit
(CaCO3.MgCO3). Các muối cacbonat sẽ phân hủy từ từ, do đó, nó sẽ có tác dụng lâu dài hơn.
15) Không thể dùng các chất chữa cháy thông thường như nước, cát, bình cứu hỏa chứa tuyết
cacbonic để dập đám cháy do Mg gây ra vì ở nhiệt độ cao Mg phản ứng mạnh với H2O, SiO2, CO2.
16) Bột trắng thường dùng là bột magie cacbonat, một loại bột rắn mịn, nhẹ và có tác dụng hút ẩm
tốt. Magie cacbonat có tác dụng hấp thụ mồ hôi trên bàn tay của vận động viên, đồng thời tăng cường
độ ma sát giữa bàn tay và các dụng cụ thể thao.
17) Các oxit kim loại kiềm thổ có khả năng hút ẩm mạnh vì năng lượng hidrat hóa lớn và do đó
được dùng làm chất làm khô.
Làm khô các hóa chất dựa trên những nguyên tắc sau:
- Chất làm khô không có tác dụng hóa học với chất được làm khô.
- Áp suất hơi nước trên bề mặt của chất làm khô phải thấp hơn áp suất hơi nước trên bề mặt
chất được làm khô.
Các chất có khả năng làm khô phải là những chất có khả năng hidrat hóa cao. Tùy theo chất
được làm khô ở dạng nào (chất khí, lỏng, rắn hay là chất hữu cơ, vô cơ) mà sử dụng chất làm khô
thích hợp, dưới đây là những chất làm khô thường gặp:
CuSO4 khan vì có khả năng tạo ra dạng hidrat CuSO4.5H2O
H2SO4 đặc vì có khả năng tạo ra dạng hidrat H2SO4.2H2O
P2O5 vì có khả năng tạo ra dạng hidrat P2O5.3H2O
CaCl2 khan vì có khả năng tạo ra dạng hidrat CaCl2.2H2O
NaOH rắn vì có khả năng tạo ra dạng hidrat NaOH.nH2O
CaSO4 khan vì có khả năng tạo ra dạng hidrat CaSO4.2H2O
Và một số chất khác có tác dụng tương tự như CaO, BaO, Al2O3, ZnCl2, silicagen…
18) a) Trong công nghiệp, để giảm giá thành sản phẩm của Al, người ta tìm cách giảm nhiên liệu đổ
nóng chảy Al2O3 từ 2050
oC xuống khoảng 900oC bằng cách trộn Al2O3 với criolit Na3AlF6
Criolit được điều chế theo phương trình hóa học của phản ứng sau
Al2O3(r) + HF (dd) + NaOH (dd)
ot Na3AlF6 (r) + 9H2O
b) Công suất P = UI = 4,4.105 (W)
E = P.t = 4,4.105.86400 = 3,8.1010 (J)
Điện năng tiêu thụ
10
3
3,8.10
10560(kWh)
3600.10
19) Vì trên bề mặt kim thanh nhôm được phủ kín một lớp màng oxit (Al2O3) rất mỏng, mịn và bền
ngăn không cho nước thấm qua.
20) Phèn nhôm khi tan vào trong nước xảy ra quá trình điện li như sau:
K2SO4.Al2(SO4).24H2O → 2K
+ + 2Al3+ + 4SO4
2- + 24H2O
Cation Al3+ bị thủy phân:
Al3+ + 3H2O → Al(OH)3 + 3H
+.
1. Do trong dung dịch tạo ra ion H+ (môi trường axit) nên phèn chua có vị chua.
2. Nhờ có Al(OH)3 kết tủa dạng keo tạo màng có tính bá dính, nó dính chặt các hạt đất nhỏ lơ
lửng trong nước tạo thành hạt đất to hơn, nặng và chìm xuống làm trong nước.
21) Vì nhôm là một kim loại lưỡng tính và các hợp chất của nó cũng là hợp chất lưỡng tính nên
khi cho nước vôi vào chậu nhôm thì xảy ra các phản ứng sau:
Al2O3 + Ca(OH)2 → Ca(AlO2)2 + H2O
2Al(OH)3 + Ca(OH)2 → Ca(AlO2)2 + H2O
Al + Ca(OH)2 + 2H2O → Ca(AlO2)2 + H2↑
Nhôm bị hoà tan dần nên lâu ngày chậu sẽ bị thủng.
22) Chọn C
23) Chọn B
24) Chọn A
25) Chọn B
26) Chọn A
27) Chọn D
28) Chọn D
29) Chọn B
30) Chọn A
31) Chọn A
32) Chọn A
33) Chọn B
CROM, SẮT, ĐỒNG & MỘT SỐ KIM LOẠI KHÁC
1) Thành phần chủ yếu trong mực xanh đen là Fe(OH)2. Bản thân Fe(OH)2 có màu xanh nhạt, để
chữ viết được rõ nét hơn, người ta thêm vào trong mực xanh một loại bột màu xanh da trời, màu mực
trở thành xanh đen. Khi mực khô thì lớp sắt (II) hidroxit sẽ lộ ra và phản ứng với oxi tạo thành hợp
chất sắt (III) hidroxit có màu đen.
4Fe(OH)2 + O2 + 2H2O → 4Fe(OH)3
2) Các mực được chế tạo dưới dạng các dung dịch keo, ví dụ mực màu xanh đen thường chứa
tanin-sắt (II) sunfat và các loại phẩm màu xanh. Trong các dụng dịch này đều có chứa các hạt keo có
điện tích. Khi trộng hai loại mực khác loại sẽ có các hạt keo có điện tích khác nhau, các hạt keo tích
điện trái dấu sẽ hút lẫn nhau tạo thành các hạt lớn hơn và xuất hiện kết tủa. Trong bình xuất hiện nhiều
cặn, bút viết bị tắc mực và mực bị nhạt màu.
3) Màu đỏ đó là do màu của tiết ( màu của myoglobin và hemoglobin ) là màu của muối phức
Fe(II) nhưng nếu để một thời gian nó sẽ có mầu nâu mầu của Fe(III). Để giữ được mầu đỏ hấp dẫn
người ta sử dụng các muối nitrat (K, Na) khi muối thịt sẽ chuyển thành muối nitrit. Gốc nitrit dễ kết
hợp với myoglobin thành hợp chất nitrit myoprotein rất bền có màu đỏ tươi.
4) Trong nước giếng khoan của những vùng này có chứa Fe2+, ở dưới giếng, điều kiện thiếu O2
nên Fe2+ có thể được hình thành và tồn tại được. Khi múc nước giếng lên, nước tiếp xúc với O2 không
khí làm Fe2+ bị oxi hóa thành Fe3+ và Fe3+ tác dụng với H2O chuyển thành hiđroxit là một chất rất ít
tan.
5) Ở những vùng gần các vỉa quặng pirit sắt FeS2, đất thường bị chua là do quá trình oxi hóa chậm
FeS2 bởi oxi không khí sinh ra H2SO4 và Fe2(SO4)3.
4FeS2 + 15O2 + 2H2O 2Fe2(SO4)3 + 2H2SO4
Để khử chua người ta thường bón vôi (CaO) trước khi canh tác
H2SO4 + CaO CaSO4 + H2O
CaO + H2O Ca(OH)2
Fe2(SO4)3 + 3Ca(OH)2 2Fe(OH)3 + 3CaSO4
6) Thực tế người ta ít dùng quặng pirit để sản xuất gang vì hàm lượng S còn lại trong gang vượt
quá mức cho phép, làm giảm chất lượng của gang và nhất là chất lượng của thép được luyện từ gang
này.
11)
4CuSO
0,15.80 160 80
m = . . =0,16(tÊn)
100 96 100
4ddCuSO
0,16.100
m = 3,2(tÊn)
5
12) CuSO4 khan là chất rắn màu trắng, khi hấp thụ nước tạo thành muối hiđrat CuSO4.5H2O màu
xanh. Do đó người ta thường sử dụng CuSO4 khan để phát hiện dấu vết nước trong các chất lỏng.
13) Khi cho một sợi dây đồng đã cạo sạch vào bình nước cắm hoa thì một số ion Cu2+ tan vào nước
có tác dụng không làm tắc các mao quản dẫn nước đến hoa nên hoa tươi lâu hơn.
14) Tốc độ của tàu thuyền lại giảm đáng kể như vậy là do các sinh vật sống trong đại dương (rong,
sò, hà, trùng đục lỗ…) bám vào đáy táu để làm đất sống. Để tránh tình trạng trên, người ta đã pha vào
sơn hợp chất đồng (I) oxit, hợp chất chứa thủy ngân, hợp chất hữu cơ có chứa thiếc,…Khi sinh vật
biển bám vào đáy thuyền và ăn các chất này sẽ chết ngay nên chúng không còn bám vào đáy tàu để
sinh sôi được nữa.
16) Do trong không khí ẩm, với sự có mặt của khí CO2 trên bề mặt đồng bị bao phủ bởi một lớp
màng cacbonat bazơ màu xanh (Cu(OH)2.CuCO3).
17) Thành phần của thanh kiếm chính là đồng thanh (Hợp kim của đồng và thiếc). Thiếc là một kim
loại có khả năng chống ăn mòn rất tốt. Bề mặt của thanh kiếm đã qua xử lý đặc thù. Đó là sự lưu hoá
bề mặt bởi lưu huỳnh hoặc các hợp chất của lưu huỳnh tác dụng với sắt làm cho bề mặt của thanh
kiếm đẹp hơn và khả năng chống ăn mòn của thanh kiếm cũng tăng lên rất nhiều.
18) Đó là hợp kim Cu-Au, trong đó 2/3 là Cu, 1/3 là Au.
19) Các chữ mạ vàng hầu hết được chế tạo từ "vàng giả”. Vàng giả là hợp kim của đồng-kẽm được
nghiền mịn rồi cho dầu sơn vào để tạo các chữ trên bìa.
21) Trên bề mặt kim và các chữ số trong đồng hồ dạ quang có sơn một lớp chất phát quang có chứa
ZnS hoặc CaS. Các hợp chất này có khả năng hấp thụ năng lượng khi được chiếu sang do năng lượng
mặt trời. Khi không có mặt trời, các hợp chất này có thể phát ra ánh sang huỳnh quang màu lục.
22) Thanh tà vẹt bằng gỗ được tẩm dung dịch ZnCl2 hoặc ZnSO4, các chất này có tác dụng ngăn
chặn sự sinh sôi nảy nở của nấm nên bảo vệ được thanh tà vẹt không bị mục.
Hiện nay chất chống mục hiệu quả nhất là natri phenyl clorua, tác dụng chống mục vượt xa ZnCl2
hoặc ZnSO4 nên được gọi là vị cứu tinh của tà vẹt gỗ.
23) Trong không khí ẩm, Ag và Cu phản ứng với O2 và H2S tạo ra Ag2S và CuS màu đen.
4Ag + O2 + 2H2S 2Ag2S + 2H2O
2Cu + O2 + 2H2S 2CuS + 2H2O
24) Khi bạc gặp nước, sẽ có một lượng nhỏ bạc đi vào nước thành ion. Ion bạc có tác dụng diệt
khuẩn rất mạnh. Chỉ cần 2.10-10 gam bạc trong một lít nước cũng đủ diệt các vi khuẩn. Không cho vi
khuẩn phát triển và thức ăn không bị ôi.
25) Khi bị cảm gió cơ thể người thường sinh ra các hợp chất có gốc sunfua (S2-) vì vậy Ag sẽ phản
ứng với các hợp chất này tạo hợp chất kết tủa màu đen Ag2S. Vì vậy người bị cảm sẽ cảm thấy dễ chịu
hơn.
Để dây bạc sáng trắng trở lại trong dân gian người ta thường ngâm trong nước tiểu vì:
Ag2S + 2NH3 → Ag(NH3)2
+ + S2-
Lớp kết tủa tan ra nên dây bạc sáng trắng trở lại.
26) ĐS 0,045 g/ml
27) Bóng đèn có sợi đốt bằng vonfram rất mảnh. Vonfram là kim loại khó nóng chảy (tnc=3380
oC)
và có điện trở rất lớn, khi được đốt nóng sẽ trở nên sáng trắng. Khi đạt đến nhiệt độ sáng trắng, có một
phần nhỏ vonfram trên bề mặt sợi wonfram sẽ bay hơi, gặp bóng thuỷ tinh lạnh sẽ ngưng tụ lại, lâu
ngày tạo nên lớp màu đen. Sợi vonfram càng bay hơi sẽ càng bé, điện trở ngày càng tăng cao, do đó
nhiệt độ sợi đốt càng cao và vonfram càng bay hơi nhanh. Đến một mức độ sợi vonfram sẽ không chịu
đựng được nữa và sẽ bị đứt.
Để hạn chế sự bay hơi của vonfram, khí trơ nitơ được đưa vào trong bóng đèn làm cho bóng khó bị
đen hơn và tuổi thọ sẽ lâu hơn.
28) Hàm lượng Pb cao đột biến trong các cây xanh trồng bên đường quốc lộ đó là do cây đã hấp thụ
Pb trong khói xăng dầu do các phương tiện cơ giới thải ra. Như ta đã biết rằng trước đây trong xăng
dầu người ta thường pha một lượng tetraetyl chì Pb(C2H5)4 để tăng chỉ số octan, do đó khi xăng cháy
thải ra ngoài môi trường một lượng lớn chì.
29) Số gam chì trong 1 lit nước là 1,31 mg/ml. Vậy nước này đã bị nhiễm độc chì.
30) ĐS 156,89 tấn PbO.
32) Chọn D.
33) Chọn B.
34) Chọn A.
35) Chọn B.
36) Chọn B.
37) Chọn B.
38) Chọn D.
PHẦN HÓA HỮU CƠ
ĐẠI CƯƠNG VỀ HÓA HỌC HỮU CƠ
1)
HOOC-CH-CH2-COOH
OH
HOOC-C=CH-COOH + H2O
C C
HH
HOOC
COOH
C C
COOHH
HOOC
H
2) π + v = (2.30 + 2 – 50)/2 = 6
3) π + v = (2.10 + 2 – 18)/2 = 2
mà π = 1 v = 1 có 1 vòng.
4) π + v = (2.20 + 2 – 30)/2 = 6
mà v=1 π = 5 có 5 liên kết đôi.
5) CH3(CH2)2COOCH2CH3
6) Chọn C.
HIDROCACBON
1) Bọt khí thoát ra có thành phần chính là metan (do các vi khuẩn có mặt trong nước đã phân huỷ
các hợp chất mùn có ở đáy hồ ao).
Về mùa hè, những lúc trời nắng nóng nhiệt độ của hồ ao cao hơn bình thường vì vậy độ tan của
các khí trong nước hồ ao sẽ giảm xuống và thấp hơn nồng độ của chúng trong nước, một số khí thoát
ra (ngoài CH4 còn có oxi, nitơ,…) Khí metan là chất khí không màu, không mùi và hầu như không tan
trong nước, do đó thoát ra ngoài tạo nên các bóng khí trên mặt hồ ao.
2) - “Ga” dùng để đun nấu và nạp bật lửa là hỗn hợp butan và một phần propan được nén thành
chất lỏng trong bình thép.
- “Ga” dùng làm nhiên liệu trong công nghiệp (xăng, dầu hoả…) là hỗn hợp các ankan lỏng.
3) Cho khí biogas qua nước có môi trường kiềm ( Ví dụ: nước có pha ít sữa vôi) thì hiđrosunfua sẽ
bị giữ lại.
4) a A, b D, c B, d C.
6) 425,6 lit.
7) Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua, khi tác dụng với nước sinh ra khí axetilen và
canxi hyđroxit:
2 2 2 2 2CaC 2H O C H Ca OH
Axetilen có thể tác dụng với H2O tạo ra anđehit axetic. Các chất này làm tổn thương đến hoạt
động hô hấp của cá vì vậy có thể làm cá chết.
8) 2 2 2 2 2C H 2,5O 2CO H O
2 6 2 2 2C H 3,5O 2CO 3H O
Đốt 1 mol C2H6 tạo ra 3 mol H2O, trong khi đó 1 mol C2H2 chỉ tạo ra 1 mol H2O. Nhiệt lượng
tiêu hao (làm bay hơi nước) khi đốt C2H6 gấp 3 lần C2H2. Vì vậy nhiệt độ ngọn lửa C2H2 cao hơn nhiệt
độ ngọn lửa C2H6.
9) Muốn điều chế đất đèn từ C và CaO, người ta phải tốn rất nhiều năng lượng điện, vì phản ứng
xảy ra ở nhiệt độ rất cao 25000C trong lò điện, với các điện cực lớn bằng than chì.
02500 C
2CaO 3C CaC CO
Chính vì vậy hiện nay trên quy mô công nghiệp người ta ít sản xuất axetilen từ đất đèn nữa, mà
từ khí metan.
Không nên xây dựng các lò sản xuất đất đèn ở khu vực đông dân vì quá trình sinh ra khí CO là
một khí rất độc.
10) Khi để những trái cây chín cạnh những trái cây xanh thì C2H4 sinh ra từ trái cây chín sẽ kích
thích những trái cây xanh chín nhanh hơn.
11) Khi để đất đèn ngoài không khí, nó có thể tác dụng với hơi nước trong không khí tạo thành
C2H2. C2H2 có tác dụng kích thích trái cây mau chín. Ngoài ra, phản ứng giữa đất đèn với hơi nước là
phản ứng toả nhiệt cũng góp phần giúp trái cây mau chín.
12) Vì:
- Etilen là nguyên liệu rẻ hơn, tiện lợi hơn nhiều so với axetilen (etilen thu được từ quá trình
khai thác và chế biến dầu mỏ).
- Phương pháp điều chế các monome để tổng hợp các polime đi từ etilen kinh tế hơn và ít ảnh
hưởng đến môi trường.
Ví dụ: Sơ đồ điều chế vinyl clorua từ etilen dưới đây có chất thải ra môi trường chỉ là nước.
13) Xăng và dầu hoả đều được chế tạo từ dầu mỏ và chứa các hidrocacbon nhưng với số nguyên tử
cacbon khác nhau. Xăng chứa các phân tử có số cacbon 5-11, còn dầu hoả là 11-16. Sự cháy của xăng
và dầu hoả thuộc loại cháy do bay hơi và liên quan đến sự dẫn lửa và điểm bắt lửa. Điểm bắt lửa của
một nhiên liệu lỏng là nhiệt độ thấp nhất để trên bề mặt nhiên liệu lỏng tạo thành hỗn hợp cháy của
hơi với không khí.
Xăng có điểm bắt lửa thấp hơn nhiệt độ môi trường, khoảng - 46oC nên trên bề mặt của xăng ở
nhiệt độ thường tồn tại hỗn hợp cháy với không khí. Khi hỗn hợp này chỉ cần tiếp xúc với ngọn lửa
hoặc tia lửa là sẽ bắt cháy. Sau khi lớp hơi trên mặt xăng lỏng cháy, xăng lại tiếp tục bay hơi mạnh và
sự cháy tiếp tục dược duy trì.
CH2=CH2 ClCH2–CH2Cl CH2=CHCl
Cl2
HCl Cl2 H2O
O2
+
Dầu hoả có điểm bắt lửa 28-45oC cao hơn nhiệt độ môi trường. ở nhiệt độ thường trên bề mặt dầu hoả
không có hỗn hợp cháy nên không dễ bắt lửa để cháy. Khi tẩm dầu hoả vào bấc đèn, dầu sẽ ngấm vào
bấc. Bấc đèn dễ cháy và làm nhiệt độ xung quanh sợi bấc vượt quá điểm bắt lửa của dầu hoả làm cho
dầu hoả trên bề mặt bấc đèn bốc cháy. Dầu hoả liên tục ngấm lên sợi bấc bảo đảm duy trì sự cháy.
14) Xăng có thể rửa sạch các chất dầu mỡ nhưng đồng thời cũng làm mất lớp mỡ bảo vệ trên da,
làm cho da tay khô ráp, nứt nẻ tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập. Ngoài ra, trong xăng còn chứa cả
phenol, toluen và các hợp chất thơm khác gây độc hại cho có thể. Hơn nữa, xăng dễ bay hơi, nếu tiếp
xúc nhiều gây ngộ độc.
15) Các con số ghi đây chính là chỉ số octan của các loại xăng bán. Xăng có thành phần chính là
các ankan lỏng, do ankan lỏng dễ bay hơi nên các điểm bán xăng luôn có hơi xăng, khi sử dụng điện
thoại di động thì khi điện thoại reo sẽ phát ra tia lửa điện có thể kích thích hơi xăng trong không khí
cháy, cũng như vậy đối với việc sử dụng bật lửa. Vì vậy những điều này đều bị cấm.
16) Propan, butan là những khí không có mùi, không màu nên khi bị dò rỉ không thể nhận ra được
chính vì thế thương phẩm xuất ra thị trường người ta phải pha 1 lượng mercaptan (ethyl, methyl-
mercaptan) vốn có mùi thối rất đặc trưng và nhạy với mũi người lại có KLR, áp suất hơi xấp xỉ C3, C4
vào để đảm bảo an toàn trong sử dụng.
17) Dầu hỏa chứa những hidrocacbon thể lỏng khó cháy hơn hidrocacbon thể khí (nén trong các
bình gas) nên khi cháy dễ sinh ra muội than.
18) Xăng và cồn chứa những hợp chất hữu cơ dễ cháy (hidrocacbon, rượu) nên khi đốt các thành
phần của chúng đều cháy hết tạo CO2 và H2O.
Gỗ và than đá lại có thành phần hết sức phức tạp. Trong gỗ có những thành phần dễ cháy như
xelulozơ, nhựa... nhưng gỗ còn chứa các khoáng chất không cháy được và tạo thành tro. Trong than đá
ngoài cacbon và các hợp chất hữu cơ phức tạp còn có các chất khoáng là các muối silicat khi đốt sẽ
không cháy và tạo tro.
19) Hắc ín là hỗn hợp các hiđrocacbon, ít tan trong dung môi phân cực (thí dụ H2O), tan nhiều
trong dung môi không phân cực (thí dụ xăng, dầu hoả).
20) Vì trong các củ, quả đó có chứa - caroten, khi thuỷ phân cho vitamin A.
21) Caroten trong cà rốt là nguồn sinh ra vitamin A. Tuy nhiên, đây là chất khó hấp thụ đối với cơ
thể. Vì vậy, nếu ăn sống hay làm nộm thì 90% caroten không được hấp thụ.
Bản chất caroten chỉ tan trong dầu mỡ nen việc ninh, nấu chín cà rốt với dầu mỡ hay thịt là cách
tốt nhất để sử dụng triệt để lượng vitamin dồi dào trong loại củ này.
22) Chọn D.
23) Chọn B.
24) Chọn D.
25) Chọn B.
26) Chọn A.
DẪN XUẤT HALOGEN. ANCOL – PHENOL
1) Cloetan là hợp chất hữu cơ có nhiệt độ sôi thấp 12,3oC. Khi phun cloetan vào da, nhiệt độ cơ
thể làm cloetan bay hơi nhanh, làm cho da bị lạnh cục bộ và tê cứng. Do đó thần kinh cảm giác không
truyền được cảm giác đau lên đại não. Đồng thời, do sự đông lạnh cục bộ khiến cho các huyết quản
chỗ bị thương co lại nên làm cho vết thương ngừng chảy máu. Do vậy cloetan có thể làm giảm đau
tạm thời.
2) Do metanol được oxi hoá bởi các enzim khử hiđro trong gan tạo ra fomanđehit.
CH3OH + [O] → HCHO + H2O
3) Thành phần chính của các loại đồ uống có cồn là rượu etylic. Rượu etylic là một chất dễ bị oxy
hoá. Chất oxy hoá được dùng trong các máy đo độ cồn của lái xe là crom (VI) oxit CrO3, một chất kết
tinh màu vàng da cam. Bột crom (VI) oxit CrO3 khi gặp rượu etylic sẽ bị khử thành crom (III) oxit
Cr2O3 có màu xanh đen. Đây là phản ứng rất nhạy dùng để phát hiện rượu trong hơi thở của người lái
xe.
4) Rượu có thành phần là cồn etylic. Cồn etylic vào cơ thể theo các biến đổi sau : đầu tiên nó biến
thành anđehit axetic nhờ men anđehit xúc tác tiến hành sau đó anđehit lai bị biến đổi thành các hợp
chất khác, cuối cùng là cacbon đioxit. Mỗi giai đoạn đảm nhận bởi một loại men xúc tác. Nhưng quyết
định là giai đoạn biến rượu thành anđêhít nếu quá trình này không kịp thì người sẽ bị say. Người uống
nhiều hay ít là tuỳ vào lượng men anđehit có trong máu họ nhiều hay ít.
5) a) C
b) Cồn có khả năng thẩm thấu cao nên có thể thấm sâu vào trong tế bào vi khuẩn, gây đông tụ
protein làm cho vi khuẩn chết. Tuy nhiên ở nồng độ cao sẽ làm protein trên bề mặt của vi khuẩn đông
tụ nhanh tạo ra lớp màng ngăn không cho cồn thấm sâu vào bên trong, làm giảm tác dụng diệt khuẩn.
Ở nồng độ thấp, khả năng làm đông tụ protein giảm, vì vậy hiệu quả sát trùng kém. Thực nghiệm cho
thấy cồn 75o có tác dụng sát trùng mạnh nhất.
6) Quá trình lên men rượu từ đường là một quá trình phức tạp, diễn ra theo nhiều giai đoạn, trong
đó có qua các giai đoạn trung gian tạo anđehit. Anđehit làm giảm chất lượng, mùi vị của rượu, vì vậy
nếu hàm lượng anđehit càng thấp thì rượu càng ngon.
Rượu càng để lâu thì quá trình lên men rượu càng xảy ra hoàn toàn, các sản phẩm anđehit trung
gian cũng sẽ chuyển thành rượu, do đó rượu càng để lâu càng ngon.
7) Do sự tan của phenol trong glixerol lớn hơn rất nhiều trong da nên glixerol sẽ kéo/chiết dần
phenol ra.
8)
ANDEHIT – XETON – AXIT CACBOXYLIC
1) Trong khói bếp có chứa một lượng nhỏ anđehit fomic HCHO, chất này có tính sát trùng, chống
mọt nên làm những vật liệu bằng tre, nứa được bền hơn.
2) Fomon là dung dịch anđehit fomic trong nước có nồng độ khoảng 37-40%. Fomon làm cho
protein đông cứng lại và không thối rữa. Ngoài ra, do tính độc đối với vi khuẩn, anđehit fomic trong
dung dịch còn có tính sát trùng.
3) Axeton rất dễ bay hơi (ts=57
0C), quá trình bay hơi thu nhiệt của móng tay làm ta cảm thấy
móng tay mát lạnh.
4) Các nhà sinh học đã tìm thấy chất propylthial CH3-CH2CH=SO, một anđehit có lưu huỳnh ở
trong nước hành. Khi tiếp xúc với bề mặt ướt của mắt chất này phản ứng với nước tạo thành axit
sunfurơ - chất làm cay và chảy nước mắt.
5) Khi đốt muỗi tiết vào nốt đốt một ít axit fomic. Axit fomic sẽ đi vào da thịt làm cho da thịt bị
viêm, gây cảm giác đau, ngứa. Do đó nếu bôi một chút nước xà phòng có tính kiềm sẽ làm trung hoà
lượng axit fomic nên sự tấy ngứa sẽ giảm nhẹ đi nhiều.
6) Đốm gỉ đó là oxit kim loại như CuO, ZnO … Giấm là dung dịch axit axetic có nồng độ khoảng
5%. Axit axetic phản ứng với các oxit kim loại tạo ra muối tan, do đó làm bề mặt của đồ dùng sẽ hết
gỉ.
CuO + 2CH3COOH → (CH3COO)2Cu + H2O
7) Trong nọc ong có axit fomic HCOOH. Dùng vôi bôi vào chỗ ong đốt để trung hoà axit HCOOH
theo phương trình:
3 2 2
3 4
2 4
2
3
CH CH CH O
6 6 6 5 3 6 5 3H PO
3
H SO 5%
6 5 3 3 H O
CH
C H C H CH CH C H C CH
CH O O H
C H OH CH C CH
O
phenol axeton
Ca(OH)2 + 2HCOOH → (HCOO)2Ca + 2H2O
8) a) Men rượu hoạt động không cần oxi không khí, nó chuyển hoá đường thành rượu và khí
cacbonic.
men rîu
6 12 6 2 5 2C H O 2C H OH 2CO
Men giấm cần oxi không khí để oxi hoá rượu thành giấm.
men giÊm
2 5 2 3 2C H OH O CH COOH H O
b) Lên men giấm từ dung dịch đường, rượu ngoài axit axetic ra trong giấm thu được còn có các
chất hữu cơ không những không độc hại mà còn có hương vị dễ chịu. Axit axetic sản xuất trong công
nghiệp thường chứa các tạp chất có hại cho sức khoẻ vì vậy không dùng để pha thành giấm ăn.
9) Tinh bột, đường, rượu là những nguyên liệu của quá trình lên men rượu, tinh bột thuỷ phân
thành đường, đường bị lên men rượu thành rượu.
Chuối, dứa một phần cung cấp nguyên liệu (đường) cho quá trình lên men, một phần tạo hương
liệu (mùi thơm) cho giấm, vì trong chuối, dứa có các este có mùi thơm đặc trưng.
Giấm gốc có vai trò cung cấp men giấm (enzim) xúc tác cho quá trình lên men giấm, nếu không
cho giấm gốc vào thì quá trình lên men vẫn xảy ra nhưng chậm hơn do trong không khí vẫn có các
enzim.
ESTE – LIPIT
1)
COOH
OH
+ CH3OH
COOCH3
OH
+ H2O
H2SO4
COOH
OH
+ (CH3CO)2O
COOH
OCOCH3
+ CH3COOH
COOCH3
OH
+ NaOH
COONa
OH
+ CH3OH
COOH
+ 2NaOH
COONa
OH
+ CH3COONa + H2O
OCOCH3
4) Dầu thực vật (dầu lạc, dầu dừa,…) thuộc loại chất béo (este của glixerin và các axit béo).
Dầu mỡ bôi trơn là hỗn hợp của các hiđrocacbon.
Vậy dầu thực vật và dầu bôi trơn có thành phần hóa học khác nhau.
7) Chất béo lỏng là chất béo chứa nhiều gốc axit không no, nên bị oxi hoá nhiều hơn do đó dễ bị ôi
hơn chất béo rắn (là chất béo chứa nhiều gốc axit béo no, rất ít gốc axit béo không no).
Người ta thường pha thêm vào dầu ăn những chất chống oxi hoá để chống ôi mỡ.
8) Dầu mỡ để lâu ngày trở thành có mùi khét, khó chịu đó là sự ôi mỡ. Có nhiều nguyên nhân gây
ôi mỡ, nhưng chủ yếu nhất là do oxi không khí cộng vào nối đôi ở gốc axit không no tạo ra peoxit,
chất này bị phân huỷ thành các anđehit có mùi khó chịu. Có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:
' " ' "
2
' "
R CH CH R O R CH CH R
gèc axit bÐo kh«ng no O O
peoxit
R CH O R CH O
an®ehit
Để tránh ôi mỡ cần bảo quản dầu mỡ ở nơi mát mẻ, đựng đầy, nút kín (tránh oxi của không khí)
và có thể cho vào mỡ những chất chống oxi hoá không độc hại.
9) Thành phần chính của dầu ăn là este của các axit béo, khi đun nóng ở nhiệt độ không quá 1020C
thì chúng không có biến đổi đáng kể ngoài hóa lỏng. Khi đem dầu đun lâu ở nhiệt độ cao thì các axit
béo không no sẽ bị oxi hóa làm mất tác dụng có ích với cơ thể, các liên kết kép trong cấu trúc của
chúng bị bẽ gãy tạo thành các sản phẩm trung gian như peoxit, andehit, xeton và nhiều phân tử nhỏ
khác làm dầu có mùi khó ngửi và ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe.
10) Mỡ là este của glixerol với các axit béo C3H5(OCOR)3. Dưa chua cung cấp H+ có lợi cho việc
thuỷ phân este do đó có lợi cho sự tiêu hoá mỡ.
11) Dưa chua cung cấp môi trường axit xúc tác cho phản ứng thuỷ phân chất béo tạo ra glixerol là
chất có vị ngọt:
C3H5(OCOR)3 + 3H2O
oH , t C3H5(OH)3 + 3RCOOH
Cũng trong điều kiện đó các chất gluxit, protit có trong dưa cũng bị thuỷ phân tạo ra các chất
đường và các amino axit đều có vị ngọt. Như vậy ta có được canh dưa không chua gắt mà chua ngọt,
lượng mỡ bị giảm đi làm cho canh không quá béo.
12) Nhiệt độ cao tăng tốc độ phản ứng thuỷ phân. Kiềm vừa làm xúc tác vừa trung hoà axit béo làm
cho phản ứng nghịch không xảy ra:
C3H5(OCOR)3 + 3NaOH
oH , t C3H5(OH)3 + 3RCOONa
Trong bộ máy tiêu hoá chất béo bị nhũ tương hoá bởi muối của axit mật. Sau đó nhờ tác dụng
xúc tác đặc hiệu của enzim lipaza nó bị thuỷ phân hoàn toàn ở nhiệt độ của cơ thể:
C3H5(OCOR)3 + 3H2O
Lipaza C3H5(OH)3 + 3RCOOH
13) Quả bồ kết và quả bồ hòn.
Cách dùng: Đun sôi với nước, vò kĩ, bỏ bã, dùng nước.
- Ưu điểm: Không gây phản ứng phụ cho da, cho tóc, không gây ô nhiễm môi trường.
- Nhược điểm: Khó bảo quản, ít tiện lợi (khi dùng phải đun nấu)
14) Khi giặt rửa trong nước cứng, xà phòng bị giảm tác dụng giặt rửa do các ion Ca2+, Mg2+ gây ra
phản ứng kết tủa, thí dụ:
2CH3(CH2)14COONa + Ca
2+ → [CH3(CH2)14COO]2Ca + 2Na
+
- Các muối sunfonat hoặc sunfat canxi, magiê không bị kết tủa (chúng tan được). Vì vậy chất
giặt rửa tổng hợp dùng được cả trong nước cứng.
CACBOHIĐRAT
1) Cơm có thành phần chính là tinh bột. Ngay ở miệng, nhờ enzim amilaza có trong nước bọt, tinh
bột đã bị thủy phân chút ít thành mantozơ (vì thế khi nhai kĩ sẽ thấy vị ngọt) Ở dạ dày mặc dù môi
trường axit khá mạnh (pH=1,5-2,5) tinh bột bị thủy phân không đáng kể vì men amilaza không hoạt
động trong môi trường axit. Ở ruột, nhờ các enzim amilaza, mantaza của dịch tụy… tinh bột bị thủy
phân hoàn toàn thành glucozơ rồi thấm qua thành ruột vào máu.
2) Trong bánh mì, dưới tác dụng của nhiệt, một phần tinh bột đã biến thành đextrin (oligosaccarit)
nên khi ta ăn, chúng dễ bị thuỷ phân thành saccarit ngay bởi các enzim trong nước bọt, nên dạ dày sẽ
phải làm việc ít hơn.
3) Trong cháy cơm, dưới tác dụng của nhiệt, một phần tinh bột đã biến thành đextrin
(oligosaccarit) nên khi ta ăn, chúng dễ bị thuỷ phân thành mantozơ ngay bởi các enzim trong nước
bọt, nên ta thấy có vị ngọt hơn cơm phía trên nồi.
4) Tiêu hoá là quá trình biến đổi thức ăn từ dạng phức tạp thành dạng đơn giản.
Cơm có thành phần chính là tinh bột, thực chất đó là một polisaccarit. Khi ta ăn cơm, đầu tiên tinh
bột sẽ bị thuỷ phân một phần bởi các enzim trong tuyến nước bọt. Sau đó chúng lại tiếp tục bị thuỷ
phân khi đi vào trong dạ dày và ruột. Vì vậy nếu ta nhai càng lâu thì quá trình thuỷ phân bởi enzim sẽ
triệt để hơn do đó năng lượng được cung cấp nhiều hơn, vì vậy ta cảm thấy no lâu hơn.
5) Trong bộ máy tiêu hóa, tinh bột bị thủy phân dần nhờ các enzim (amilaza, mantaza) thành
glucozơ. Ở tế bào, glucozơ được oxi hóa thành khí cacbonic và nước, đồng thời giải phóng năng lượng
cho cơ thể hoạt động. Một phần glucozơ được dùng để tổng hợp ra các hợp chất khác cần thiết cho cơ
thể hoạt động. Phần glucozơ còn dư được tổng hợp thành glicogen.
Glicogen là nguồn dự trữ năng lượng cho cơ thể vì khi cần nó lại thủy phân thành glucozơ và
chuyển tới các mô trong cơ thể.
6) Khi ta uống nước đường (đường saccarozơ) vào dạ dày sẽ bị thủy phân cho đường glucozơ. Sắn
chứa axit xianhiđric (HCN) là chất độc. Khi HCN gặp glucozơ sẽ có phản ứng xảy ra ở nhóm chức
anđehit của glucozơ, sau đó tạo ra hợp chất dễ thủy phân giải phóng NH3. Như vậy, HCN đã chuyển
sang hợp chất không độc theo các phản ứng được biểu diễn phương trình hóa học sau:
HOCH2[CHOH]4CHO + HCN HOCH2[CHOH]4CH-CN
OH
HOCH2[CHOH]4CH-CN + 2H2O
OH
HOCH2[CHOH]5COOH + NH3
7) a) CH2OH[CHOH]4CHO + 2[Ag(NH3)2]OH
ot
CH2OH[CHOH]4COONH4 + 2Ag + 3NH3 + H2O
b) Vì HCHO bốc ra, gây độc cho con người.
8) Người ta thường cho thêm đường, chọn rau cải già hoặc rau được phơi héo sẽ có hàm lượng
đường cao hơn, do đó quá trình làm dưa chua nhanh hơn (đường chuyển hoá thành axit). Dưa được
nén ngập trong nước vì quá trình lên men làm chua dưa là loại vi khuẩn yếm khí.
9) a) - Đường kính (là saccarozơ kết tinh thành những tinh thể nhỏ không màu).
- Đường phèn được kết tinh ở 300C tạo ra những cục lớn.
- Đường thốt nốt lấy từ quả thốt nốt.
- Đường cát tinh thể nhỏ màu gần như cát vàng, đường hoa mai tinh thể nhỏ màu gần như hoa
mai vàng, màu vàng của hai loại đường này là của tạp chất chưa bị loại hết.
Các loại đường kể trên về cơ bản đều là saccarozơ, chúng khác nhau về nguồn gốc, về cách kết
tinh và các chất khác có mặt trong đó.
b) Mật ong do ong tiết ra, đó là một dung dịch quá bão hoà của fructozơ, glucozơ, saccarozơ,
ngoài ra còn có các chất khác với lượng nhỏ như protein, vitamin, chất khoáng, chất thơm… Tỉ lệ các
loại đường kể trên có thay đổi nhưng thường vào khoảng 42% fructozơ, 34% glucozơ và 25%
saccarozơ. Mật mía được tạo ra bằng cách cô đặc nước mía đã được loại bớt tạp chất. Tuỳ theo mức
độ cô đặc người ta có thể thu được mật ở dạng dung dịch nhớt, sánh, màu nâu đậm hoặc dạng quánh
dẻo như keo. Mật mía chứa chủ yếu là saccarozơ.
c) Thực hiện phản ứng tráng bạc.
10) Nếu để nơi ẩm thấp và không đậy nút chặt,mật ong sẽ bị lên men theo phương trình
C6H12O6 → 2C2H5OH + 2CO2
Khí CO2 sinh ra sẽ làm nút lọ bật ra, lúc đó sẽ có sự xâm nhập của vi khuẩn làm mật ong biến
chất.
11) Đó không phải là đường kính (đường kính là saccarozơ kết tinh). Những hạt rắn đó là đường
glucozơ, fructozơ do nước trong mật ong bay hết.
12) Trong mỗi hạt tinh bột, amilopectin là vỏ bao bọc nhân amilozơ.. Amilopectin hầu như không
tan trong nước nguội, trong nước nóng nó trương lên thành hồ. Trong gạo tẻ, hàm lượng amilopectin
(80%) ít hơn trong gạo nếp (98%), nên khi nấu cơm nếp cần ít nước hơn khi nấu cơm tẻ (cùng lượng
gạo) nhưng cơm nếp lại dẻo hơn cơm tẻ.
13) Sơ đồ phản ứng
(C6H10O5)n → nC6H12O6 → 2nC2H5OH
H = 80%
2 5C H OH
10.85 46.2 80
m . . 3,861(kg)
100 162 100
m 3,861
V 4,89(l)
D 0,789
17) Trong dịch vị dạ dày của trâu bò có enzim xenlulaza có thể thủy phân xenlulozơ (trong rơm, rạ)
tạo thành glucozơ cung cấp năng lượng cho chúng
18) Trong củ sắn có chứa nhiều tinh bột. Còn thân cây sắn chủ yếu là xenlulozơ.
19) Trước hết, thực phẩm nở to không chỉ thay đổi hình dáng, kích thước hạt mà còn thay đổi về
cấu trúc bên trong. Trong quá trình nở to, các phần tinh bột có chuỗi liên kết dài, không tan trong
nước bị cắt nhỏ thành loại tinh bột có mạch ngắn tan được trong nước là hồ tinh bột và đường. Các sản
phẩm này dễ được cơ thể tiêu hoá, hấp thụ.Thực phẩm qua quá trình làm nở to còn có lợi cho việc giữ
gìn các sinh tố. Ví dụ với bỏng gạo, các sinh tố B1, B6 được bảo tồn có tỷ lệ tăng từ 1/5 đến 2/3 so với
khi đem gạo nấu thành cơm.
Hơn nữa qua trình chế biến thực phẩm nở to được thực hiện ở nhiệt độ cao sẽ tiêu diệt hết vi
khuẩn, phù hợp với yêu cầu vệ sinh.
20) Tuy gọi là giấy gạo nếp nhưng thực ra không phải chế tạo từ gạo nếp mà được làm bằng tinh
bột khoai lang, tinh bột ngô, tinh bột tiểu mạch. Người ta đem tinh bột chế tạo thành bột nhão, loại bỏ
các tạp chất, dùng nhiệt biến thành hồ, dùng máy để trải thành lớp mỏng, sấy sẽ tạo thành lớp màu
trắng đục.
21) Giấy được cấu tạo bao gồm các sợi xelulozơ khi để lâu trong không khí có thể bị oxi hoá bởi
oxi của không khí. Ngoài ra ánh sáng mặt trời cũng có tác động đến giấy trong các phản ứng quang
hoá với xelulozơ. Do đó khi bảo quản lâu thì giấy sẽ ngả màu vàng.
22) Bột gạo có thành phần protein là 7-8%, trong đó chủ yếu là các protein tan trong nước. Bột mì
có 8-15% protein, trong đó có đến 4/5 protein không tan trong nước. Khi nhào bột mì có thể dùng
nước để rửa hết tinh bột để thu được một chất có tính dính, đàn hồi có thể kéo thành sợi nhỏ (mì cân,
gân bột mì). Trong mì cân khô có đến 80% là các protein không tan trong nước. Khi nhào bột gạo thì
không thể có “gân bột gạo”.
Tính đàn hồi của bột mì là do có chứa các protein không tan trong nước như protein keo,
gluten. Trong đó có chứa thành phần aminoaxit systein có nhóm hydrosunfua -SH. Các nhóm này sẽ
tạo liên kết đisunfua S-S kết nối giữa các phân tử protein thành chuỗi xích dài hơn.
23) Tinh bột chứa trong hạt là nguồn dự trữ nguyên liệu và năng lượng cho hạt nảy mầm thành cây
con.
24) a) Ribozơ có độ không no là: (2.5+2-10)/2=1
Ribozơ có phản ứng tráng gương và làm mất màu nước brom có nhóm CH=O
Phương pháp cộng hưởng từ cho thấy nó có 4 nhóm OH đính với 4 nguyên tử cacbon.
CTCT của Ribozơ là: HOCH2[CHOH]3CH=O
b) HOCH2[CHOH]3CH=O + 2[Ag(NH3)2]OH
ot
CH2OH[CHOH]3COONH4 + 2Ag + 3NH3 + H2O
HOCH2[CHOH]3CH=O + Br2 + H2O HOCH2[CHOH]3COOH + 2HBr
25) a) Saccarin không thuộc loại saccarit vì CTPT không có dạng cacbonhiđrat và cấu tạo cũng
không có gì giống với saccarit.
b) Saccarin ngọt gấp 300 lần sacarozơ (435:1,45=300), do đó nếu cùng một khối lượng như
nhau thì từ saccarin tạo được thể tích nước ngọt gấp 300 lần so với saccarozơ 300.1 lit = 300 lit.
c) Saccarin dùng làm chất ngọt cho những người kiêng đường và dùng để tăng thêm vị ngọt
cho kẹo bánh. Nó chỉ đơn thuần để gây vị ngọt mà không có giá trị về mặt dinh dưỡng vì thế không
nên lạm dụng.
AMIN – AMINO AXIT – PROTEIN
1) Mùi tanh của cá là hỗn hợp các amin (nhiều nhất là trimetylamin) và một số chất khác. Vậy để
khử mùi tanh của cá trước khi nấu ăn người ta thường rửa lại bằng giấm để amin tác dụng với axit
axetic làm giảm mùi tanh.
RNH2 + CH3COOH → CH3COONH3R
2) Trong cá có các amin như đimetyl amin, trimetyl amin là các chất tạo ra mùi tanh của cá. Khi
cho thêm chất chua, tức là cho thêm axit vào để chúng tác dụng với các amin trên tạo ra muối làm
giảm độ tanh của cá.
RNH2 + HCl → RNH3Cl
3) Vì nó làm tăng ion Na+ trong cơ thể, làm hại các nơron thần kinh nên được khuyến cáo không
nên lạm dụng gia vị này.
4) Trong gạch cua có protein, khi nung nóng bị đông tụ lại thành kết tủa.
5) Vì protein trong nước đậu bị đông tụ bởi axit (H+).
6) Protein trong cơ thể giữ nhiều chức năng quan trọng. Các ion kim loại nặng làm kết tủa và biến
tính protein dẫn đến mất chức năng của chúng, gây rối loạn các hoạt động trong cơ thể.
Protein trong sữa giúp kết tủa các kim loại nặng ở ngay bộ phận tiêu hóa, ngăn cản chúng thâm
nhập vào các cơ quan khác.
7) Ở da có chứa protein. HNO3 tác dụng với các nhóm p-OH-C6H4- có trong protein tạo thành dẫn
xuất nitro (-NO2) có màu vàng.
8) Trong số 20 aminoaxit tạo nên protein thì có 2 aminoaxit chứa lưu huỳnh. Khi bị phân hủy dễ
chuyển thành H2S.
9) Đó là dung dịch các aminoaxit cần cho cơ thể, chúng đều là các α- aminoaxit có công thức
chung là R-CH(NH2)-COOH.
10) – Trước hoặc sau khi uống sữa đậu nành 1 giờ không nên ăn cam quýt vì axit và vitamin trong
cam quýt tác dụng lên protêin trong sữa đậu nành kết thành khối ở ruột non làm ảnh hưởng đến quá
trình tiêu hóa gây đầy bụng, đau bụng.
11) Trong sữa có thành phần protein gọi là cazein. khi vắt chanh vào sữa sẽ làm tăng độ chua tức là
làm giảm độ pH của dung dịch sữa. Tới pH đúng với điểm đẳng điện của cazein thì chất này sẽ kết
tủa. Khi làm phomat người ta cũng tách cazein rồi cho lên men tiếp.
POLIME VÀ VẬT LIỆU POLIME
1) Không được. Vì phản ứng thế không tạo ra mạch polime có clo luân phiên đều đặn.
2) Không được. Vì flo hoá PE chỉ cho các sản phẩm cắt mạch và phân huỷ, không cho teflon.
4) Dưới tác dụng của oxi không khí, của hơi ẩm, của ánh sáng và nhiệt, polime và các phụ gia có
trong đồ nhựa có thể tham gia các phản ứng ở nhóm chức của nó. Kết quả là: Mạch polime bị phân cắt
hoặc vẫn giữ được mạch nhưng đều làm thay đổi cấu tạo của chúng dẫn tới làm thay đổi màu sắc và
tính chất. Hiện tượng đó gọi là sự lão hoá polime.
5) Politetrafloetilen (CF2-CF2)n được ứng dụng rộng rãi trong đời sống vì nó có nhiều tính chất tốt
như:
+ Phân tử có cấu trúc đối xứng cao, có cấu trúc tinh thể, độ bền nhiệt và bền hoá học cao (bền
với axit đặc ở nhiệt độ cao).
+ Momen lưỡng cực bằng không nên dùng làm chất cách điện.
+ Hệ số ma sát nhỏ nên được dùng để sản xuất vòng bi làm việc trong môi trường xâm thực mà
không cần bôi trơn.
6) Do trong phân tử PVC có liên kết C-Cl phân cực mạnh hơn nên PVC cách điện kém hơn.
Nhưng lực tương tác giữa các phân tử trong PVC lớn hơn (lực Van-đec-van…) lực tương tác giữa các
phân tử trong PE nên PVC bền hơn, tính tan kém hơn khi tan trong dung môi hữu cơ như đicloetan,
clobenzen…
7) Trong cao su lưu hoá và trong chất dẻo đều có chứa các phụ gia chống oxi hoá, tạo màu, dẻo
hoá… Chúng là các chất có thể tan vào rượu và là những chất độc hại đối với cơ thể, một số chất có
khả năng gây ung thư.
8) Tơ nilon (tơ poliamit), len và tơ tằm (protit) đều có các nhóm -CO-NH- trong phân tử. Các
nhóm này dễ bị thuỷ phân trong môi trường kiềm và axit, vì vậy độ bền của quần áo (sản xuất từ nilon,
len, tơ tằm) sẽ bị giảm nhiều khi giặt bằng xà phòng có độ kiềm cao.
Len, tơ tằm, tơ nilon kém bền đối với nhiệt.
Len (từ lông thú) thuộc loại polipeptit. Dung dịch xà phòng có môi trường kiềm sẽ xúc tác
cho phản ứng thuỷ phân liên kết peptit (-CONH-) làm đứt chuỗi polipeptit, làm cho sợi len mau
hỏng.
9) Khi đốt, da thật cho mùi khét, da nhân tạo không cho mùi khét.
Có thể làm thêm thí nghiệm sau: Nhỏ vài giọt AgNO3 vào thành phía trong của phễu thuỷ tinh.
Úp phễu ở phía trên miếng da bị đốt. Mẩu da nhân tạo (PVC) sẽ cho kết tủa trắng (AgCl) ở thành
phễu:
0
2O ,t
2 2PVC HCl CO H O
Cl Ag AgCl
10) Chất dẻo làm bao bì đựng thực phẩm cần tuân theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt, ví dụ không
được chứa các chất độc hại đối với sức khoẻ. Các bao bì bằng chất dẻo sau khi sử dụng thường rất khó
tiêu huỷ do đó gây ô nhiễm cho môi trường. Không nên quá lạm dụng chúng mà nên dùng các bao bì
truyền thống từ các vật liệu thiên nhiên dễ phân huỷ như tre, gỗ, lá, xenlulozơ,…
Phụ lục 2. PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN
Kính chào quý thầy/cô!
Hiện nay chúng tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “TUYỂN CHỌN VÀ XÂY
DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP HÓA HỌC GẮN VỚI THỰC TIỄN DÙNG TRONG DẠY HỌC
HÓA HỌC Ở TRƯỜNG THPT”. Chúng tôi xin được gởi đến quí thầy/cô Phiếu tham khảo ý kiến,
xin quí thầy/cô đánh dấu vào những phần mình chọn. Những thông tin mà quí thầy/cô cung cấp sẽ
giúp chúng tôi đánh giá được sự cần thiết của việc đưa các kiến thức hóa học có nội dung gắn với thực
tiễn vào quá trình dạy học ở trường THPT. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của quý
thầy/cô.
Xin quí thầy/cô vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân?
Tôi dạy ở trường THPT …............................ tỉnh, thành phố ......................
Số năm kinh nghiệm:
Dưới 5 năm. Từ 15 đến dưới 25 năm.
Từ 5 đến 15 năm. Trên 25 năm.
1. Trong thực tế, quí thầy/cô có thường hay sử dụng bài tập hóa học gắn với thực tiễn trong dạy học
không ?
Rất thường xuyên. Đôi khi.
Thường xuyên. Không sử dụng.
2. Xin quí thầy/cô cho biết mức độ sử dụng bài tập hóa học gắn với thực tiễn trong dạy học.
3. Xin quí thầy/cô cho biết mức độ sử dụng dạng bài tập hóa học gắn với thực tiễn trong dạy học.
Mức độ sử dụng
Trường hợp sử dụng
Rất
thường
xuyên
Thường
xuyên
Đôi khi
Không
sử dụng
Khi dạy bài mới
Khi luyện tập, ôn tập, tổng kết
Khi kiểm tra – đánh giá kiến
thức
Hoạt động ngoại khóa
Mức độ sử dụng
Trường hợp sử dụng
Rất
thường
xuyên
Thường
xuyên
Đôi
khi
Không
sử
dụng
4. Theo quí thầy/cô, thông qua việc giải các bài tập hóa học gắn với thực tiễn sẽ giúp cho học sinh:
Nhiều
Vừa
phải
Ít Không
Tăng vốn kiến thức về hóa học có nội dung liên
quan đến thực tiễn.
Vận dụng các kiến thức hóa học giải đáp được
những tình huống có vấn đề nảy sinh trong đời
sống, trong lao động, sản xuất.
Hiểu rõ mối quan hệ mật thiết giữa hóa học với đời
sống.
Có hứng thú tìm tòi, tham khảo các tài liệu (trong
sách giáo khoa, báo chí, internet,..) có liên quan
đến ứng dụng của hóa học.
Phát triển tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn
đề.
Yêu thích môn hóa học.
5. Quí thầy/cô ít hoặc không sử dụng bài tập hóa học gắn với thực tiễn trong dạy học vì những lí do
nào sau đây?
Không có nhiều tài liệu.
Mất nhiều thời gian tìm kiếm tài liệu.
Trong các kì kiểm tra, kì thi không yêu cầu có nhiều câu hỏi có nội dung gắn với thực
tiễn.
Lí do khác: ..................................................................................
.......................................................................................................................
Chỉ yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức để trả lời câu hỏi lí
thuyết.
Yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức để giải thích được các
sự kiện, hiện tượng của câu hỏi lí thuyết
Yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức hoá học để giải thích
những tình huống xảy ra trong thực tiễn
Yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng hoá học để
giải quyết những tình huống thực tiễn hoặc để thực hiện
một công trình nghiên cứu khoa học nhỏ, đơn giản, đề ra kế
hoạch hành động cụ thể, viết báo cáo.
.......................................................................................................................
6. Theo quí thầy/cô việc xây dựng hệ thống bài tập hóa học gắn với thực tiễn trong dạy học cần thiết
không?
Rất cần thiết.
Cần thiết.
Không cần thiết.
Ý kiến khác: .............................................................................
..................................................................................................................
Xin chân thành cám ơn những ý kiến đóng góp của quí thầy /cô.
Liên hệ: LÊ THỊ KIM THOA - Email: thoac.tc@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tc_va_xd_he_thong_bai_tap_hoa_hoc_gan_voi_thuc_tien_dung_trong_day_hoc_hoa_hoc_o_truong_thpt_6767.pdf