Về quản lý xuất khẩu tiểu ngạch: Đánh thuế, phí xuất khẩu tiểu ngạch sao cho giá xuất
khẩu tiểu ngạch tương đương với giá xuất khẩu chính ngạch vừa quản lý chặt chẽ được xuất
khẩu tiểu ngạch, vừa tăng thu cho ngân sách Nhà nớc.
Thực hiện các vấn đề trên sẽ giúp cho Tổng Công ty chủ động trong giao dịch, kinh
doanh xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh công bằng và đẩy mạnh được hoạt động kinh doanh
xuất khẩu, đa kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lên vị trí hàng đầu, tăng thu ngoại tệ
cho đất nước. Giữ vững và phát huy truyền thống của Tổng Công ty trong những năm qua.
53 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2836 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng may mặc của
Tổng Công ty đối với các nớc Châu á. Bên cạnh đó, việc Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam
và xu thế trong một vài năm tới Việt Nam sẽ đợc hởng quy chế tối huệ quốc. Hơn nữa,
theo hiệp định hàng dệt (ATC) ký tại vòng đàm phán thơng mại đa biên tháng 4/1997 ở
Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho hiệp định đa sợi (MFA) đến ngày 1-1-2005, tất cả
hàng dệt may phải đợc hoà nhập trở lại theo những nguyên tắc thơng mại thông thờng của
WTO và nh vậy hàng rào hạn ngạch hàng may mặc vào Mỹ sẽ đợc loại bỏ và thuế trung
bình sẽ giảm 9%. Đây là một thời cơ để có thể đi vào thị trờng đầy tiềm năng này. Nhờ
những cơ hội trên mà trong suốt thời kỳ 1998-2001 hàng may mặc xuất khẩu không ngừng
tăng lên, đặc biệt là hạn ngạch xuất khẩu vào EU luôn tăng tạo ra một thị trờng vững chắc
cho Tổng Công ty. Do biết vận dụng những cơ hội về chính sách mở cửa của Chính Phủ vì
vậy cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực vừa qua không làm ảnh hởng lớn
đến sản lợng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty so với năm 2000, 2001 sản lợng
xuất khẩu hàng may mặc vẫn tăng khoảng 8% nhng kim ngạch xuất khẩu vẫn không đạt
đợc mức kế hoạch do nguyên nhân chính là do tác động của khủng hoảng tài chính khu
vực làm sức mua của các bạn hàng lớn nh Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc... giảm mạnh.
Ngoài ra, nguồn hàng may mặc chủ yếu phải thu mua, gia công ở các cơ sở sản xuất
dẫn tới giá thành cao, không chủ động, hạh chế hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc thu
gom khối lợng hàng xuất khẩu thờng gặp nhiều khó khăn.
Ngành may chủ yếu là may gia công cho nớc ngoài nên kim ngạch xuất khẩu lơn nhng
thực thu ngoại tệ thấp, chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch. Thị trờng xuất khẩu không
ổn định, bị động, bị ép giá... Có tới 85% sản phẩm may là làm gia công, chỉ còn 10-15%
sử dụng vải trong nớc. Thị trờng nội địa còn để cho sản phẩm ngoại chiếm phần lớn.
Đặc biệt, đối với thị trờng phi hạn ngạch, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vẫn cha
ổn định chủ yếu là do:
+ Hàng hoá của ta sản xuất cha phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng.
+ Phơng thức hoạt động chủ yếu là gia công xuất khẩu.
+ Việc tổ chức mạng lới thông tin, tiếp thị ở nớc ngoài cha đợc triển khai thống nhất.
+ Một số thị trờng cha đợc hởng các quy chế u đãi.
+ Còn thiếu hiểu biết về thủ tục, tập quán và luật lệ của các nớc và khu vực trên toàn
thế giới.
Do xu hớng tự do hoá thơng mại, nên hàng may mặc bên ngoài tràn vào nớc ta từ nhiều
nguồn: Hàng nhập lậu, trồn thuế, hàng SIDA... giá rất rẻ, tràn ngập thị trờng trong nớc làm
cho sản xuất hàng may mặc trong nớc bị thu hẹp. Hơn nữa, ngành may còn gặp nhiều khó
khăn ở cả đầu vào và đầu ra. ở đầu vào, nguyên kiệu trong nớc ( ngành Dệt) cha đáp ứng
đợc do chất lợng vải thấp nên phải nhập khẩu, vì vậy rất bị động thờng không đồng bộ và
bị hạn chế nhiều mặt về thời gian (nếu xuất sản phẩm quá 90 ngày thì phải chịu thuế nhập
khẩu). Giá gia công những năm gần đây không tăng, thậm chí còn giảm. Chẳng hạn nh giá
gia công một áo sơ mi năm 1995 là 10 nghìn đồng thì giảm xuống còn 5 nghìn đồng năm
1997; áo Jaket từ 80 nghìn đồng xuống còn 30 nghìn đồng, thậm chí gia công lại chỉ còn
20 nghìn ...Năng suất ngành may còn thấp (một công lao động ở ta chỉ làm đợc 10 áo sơ
mi thấp hơn 27 áo ở nớc ngoài). ở đầu ra, đối với EU có đến một nửa thị trờng tiêu thụ bị
khống chế bằng hạn ngajch. Hạn ngạch 2001-2003 với sơ loại sản phẩm lên tới 54 nhóm
so với 20 nhóm của các nớc ASEAN khác. Thị trờng không hạn ngạch gần đây giảm nh
Nhật, thị trờng Mỹ cha sử dụng quy chế tối huệ quốc nên vẫn chịu thuế suất cao. Đối với
thị trờng trong nớc cũng đang bị hàng nhập lậu trốn thuế cạnh tranh gay gắt.
Về mặt quản lý vĩ mô, một số chính sách hiện hành vẫn cha thực sự tạo điều kiện cho
hoạt động xuất khẩu hàng may mặc, nh hiện tợng thuế trùng thuế, không cạnh tranh đợc
với giá thành, giá bán trên thị trờng. Chính phủ cha có u đãi về vốn vay hoặc miễn giảm
thuế cho đầu t phát triển ngành Dệt-May nên các dự án đầu t mới, vốn lớn không dám triển
khai vì không tính toán trả đợc lãi vay và vốn.
Vấn đề tỷ lệ xuất khẩu quy định tại giấy phép cũng cần có sự nhất trí chỉ đạo trong các
cơ quản lý Nhà nớc sao cho công bằng và hợp lý.
Bên cạnh những khó khăn tồn tại, Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam cũng phải đơng
đầu với không ít những thách thức mới.
Cùng với tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thực hiện viẹc cắt giảm thuế quan
CEPT của khối mậu dịch ASEAN (AFTA), đàm phán để gia nhập tổ chức thơng mại quốc
tế (WTO) đặt ra những thời cơ và thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam,
trong đó những cố gắng nỗ lực trong việc điều hành hoạt động xuất nhập khẩu nói chung,
xuất khẩu may nói riêng.
Hiện nay, hiệp định mới đợc ký kết với EU cho giai đoạn 2001-2003 có tăng lên nhng
thực tế ngành may Việt Nam vẫn d thừa từ 20-25% năng lực. Trong khi tình hình kinh tế
Nhật Bản và Hàn Quốc đang có những diễn biến phức tạp với những ảnh hởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế và tài chính, do vậy sức mua trong nớc sẽ trì trệ, thậm chí giảm. Theo
nguồn tin thơng mại Nhật Bản, nhập khẩu quần áo năm 2000 đã giảm 13% về sản lợng và
5% về giá trị so với năm 1999. Năm 2001, nhập khẩu quần áo tiếp tục giảm xuống còn
20% về số lợng. Trong số các thị trờng xuất khẩu lớn nhất phi hạn ngạch của Tổng Công
ty thì Nhật bản là thị trờng lớn nhất. Hiện tợng thị trờng xuất khẩu của Tổng Công ty bị trì
trệ, cơ cấu cung cầu không cân đối này sẽ ảnh hởng đến hoạt động xuất khẩu hàng may
mặc của Tổng Công ty, đòi hỏi Tổng Công ty phải có biện pháp kịp thời để ổn định và
thức đẩy sự phát triển hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của mình.
Mặt khác, do cơn bão tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam á đã làm một số nớc phải
phá gái hoặc thả nổi đồng tiền nớc họ, do vậy cạnh tranh xuất khẩu hàng may mặc vào EU,
Mỹ sẽ rất ác liệt. Khi đầu t, mở rộng sản xuất Tổng Công ty cần thấy rõ để tính toán đầy
đủ các yếu tố rủi ro nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Hơn nữa, nớc ta đã là thành viên đầy đủ của ASEAN và thực hiện các điều khoản của
hiệp định AFTA, tiến trình giảm thuế nhập khẩu là không thể đảo ngợc. Xu thế hội nhập
thế giới ngày càng cao nên việc lựa chọn và định hớng đầu t đúng, có hiệu quả đang đặt ra
rất bức thiết. Đón nhạn thời cơ đồng thời dám chấp nhận thử thách, Tổng Công ty Dệt-
May Việt Nam cần phải có những bớc đi và giải pháp phù hợp trong hoạt động xuất khẩu
hàng may mặc. Cạnh tranh gay gắt song không có nghĩa là không dám cạnh tranh, đây là
một bài toán khó đối với Tổng Công ty. Đặc biệt Tổng Công ty đang phải đơng đầu với
những đối thủ trên sức mình trong lĩnh vực hàng may mặc cả về thị trờng trong và ngoài
nớc. Chẳng hạn nh Trung Quốc, một nớc láng giềng của ta có hoạt động xuất khẩu hàng
may mặc rất phát triển. Hàng may mặc Trung Quốc tràn ngập trên thị trờng Việt Nam với
những u thế hơn hẳn cả về chất lợng và giá cả. Năm 2000, hàng may mặc xuất khẩu chiếm
hơn 1/4 tổng xuất khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc đã mở rộng xuất khẩu sang các thị
trờng Liên Xô cũ và các nớc Châu Phi-đây vốn là những thị trờng dễ tính đối với hàng
may mặc xuất khẩu của Việt Nam. Liệu Tổng Công ty sẽ đối phó ra sao để cạnh tranh với
một đối thủ tầm cỡ nh vạy để có thể duy trì và phát triển thị trờng xuất khẩu của mình.
Với những thách thức đó, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần phải cân nhắc và
chuẩn bị thị trờng xuất khẩu thật chu đáo mới có thể có cơ hội thắng lợi trong cạnh tranh
quốc tế.
2. Vềmặt chủ quan
Tuy mới đợc thành lập, nhng Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam đã không ngừng vơn
lên, khẳng định chỗ đứng của mình ở cả thị trờng trong nớc và ngoài nớc. Với một đội ngũ
cán bộ tinh thông nghiệp vụ, am hiểu thị trờng đồng bộ và phối hợp chặt chẽ giữa khâu ở
công đoạn từ giao dịch đàm phán với khách hàng đến ký kết các điều khoản trong hợp
đồng, bảo đảm đợc chất lợng và tiến bộ giao hàng gắn với thời gian nhập khẩu nguyên phụ
liệu. Tổng Công ty lại có u thế về nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, tiên tiến, qua
đó tạo đợc thế ổn định trong kinh doanh. Tổng Công ty rất có uy tín, đợc Nhà nớc và Bộ
thơng mại tin cậy nên Tổng Công ty luôn đợc u đãi trong việc ký kết hợp đồng xuất khẩu
hàng may mặc. Mặt khác, do Tổng Công ty đợc Bộ gia cho làm hàng trả nợ và ký kết đợc
hợp đồng gia công nên kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc luôn ổn định và ở mức cao.
Hiện nay, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là Tổng Công ty có giá trị xuất khẩu trong các
Tổng Công ty trực thuộc Bộ công nghiệp (56%) và cũng là một trong những Tổng Công ty
có xuất siêu lớn nhất của ngành công nghiệp.
Tổng Công ty cũng nhận biết thế mạnh của từng đơn vị trực thuộc, các phòng ban,
phân công nhiệm vụ cụ thể, nguồn hàng may mặc chất lợng cao, đảm bảo hợp lý về sản
lợng và giá cả. Với những đóng góp của ngành may trong thời gian qua đã chứng minh
cho khả năng phát triển mạnh mẽ của ngành.
Đến nay, Tổng Công ty đã khẳng định đợc vị thế của mình bằng việc phát triển với tốc
độ nhanh, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, tạo nguồn ngoại tệ
cho đất nớc, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế, nhanh chóng hội nhập
vào quốc tế và khu vực, từng bớc thiết lập nền công nghiệp chuyên ngành trên phạm vi
toàn quốc. Những thành tựu đạt đợc đó góp phần không nhỏ vào công việc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc, Tổng Công ty cũng còn có những hạn chế nh:
- Cha có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với dệt, may với may trong
việc khai thác năng lực thiết bị và trong tiêu thụ sản phẩm (còn có tình trạng cạnh tranh
nội bộ , thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích riêng).
- Thị trờng xuất khẩu còn dựa nhiều vào quato và hạn ngạch Nhà nớc, sức cạnh tranh
hàng may mặc còn yếu nên thị trờng nội địa không đủ sức cạnh tranh với hàng nhập ngoại,
hàng của các Công ty 100% vốn nớc ngoài.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu t cha cao, còn nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ, một số đơn vị cha
mạnh dạn đầu t. Việc quản lý sản xuất, quản lý thiết bị. Quản lý lldj, vệ sinh môi
trờng...còn nhiều việc phải củng cố lại. Cha có sự liên kết giữa các đơn vị thuộc Tổng
Công ty với các ngành khác, với địa phơng dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm trong nớc
sản xuất ra đảm bảo chất lợng nhng vẫn còn nhập, quá trình cổ phần hoá triển khai còn
chậm cha đạt đợc tiến độ nh mong muốn...
Nhìn lại những năm qua, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện vô
cùng khó khăn do ảnh hởng còn thiên tai, hạn hán, bão lụt...đặc biệt gần đây do ảnh hởng
nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam
vẫn đảm bảo đợc nhịp độ tăng trởng khá, ổn định sản xuất, không ngừng đầu t phát
triển...tuy vậy vẫn còn tồn tại một số hạn chế không thể tránh khỏi nhng đay cũng là một
thành tựu đáng ghi nhận của toàn Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
CHƠNG III
III. PHƠNG HỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG
MAY MẶC Ở TỔNG CÔNG TY DỆT - MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
TỚI.
I. TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA TỔNG CÔNG TY
TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. Mục tiêu và định hớng phát triển của Tổng Công ty:
1.1. Một số quan điểm cơ bản phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt
Nam.
a/ Công nghiệp Dệt-May phải đợc u tiên phát triển và đợc coi là một trong những
ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta những năm tiếp
theo:
Trong bốn năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt-may đều tăng và đã vơn tới đứng
thứ hai (sau dầu khí) trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nớc. Dự báo tốc độ tăng
trởng sẽ vào khoảng 10% trong giai đoạn 1999-2003 và trên 10% giai đoạn 2003-2010. Đó
là tỷ lệ tăng trởng cao so với nhiều ngành công nghiệp khác. Nh vậy, trong những năm tiếp
theo cảu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành dệt may phải đợc u tiên phát triển.
b/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hớng hiện đại và đa dạng về sản phẩm.
Công nghiệp hiện đại ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn vinh của
một quốc gia, hay sức mạnh cạnh tranh kinh tế cảu một sản phẩm. Chúng ta chỉ có thể thu
hẹp khoảng cách so với các nớc phát triển và tham gia vào quá trình phân công lao động
quốc tế thông qua việc tăng cờng năng lực công nghệ quốc gia, tiếp cận và làm chủ công
nghệ tiến tiến và công nghệ cao.
Từ nhận thức đó, công nghiệp Dệt-May phảu đợc u tiên phát triển theo hớng hiện đại
và đa dạng về sản phẩm.
Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nớc nhu cầu hàng tiêu dùng sẽ
tăng lên nhng không đơn giản tăng về số lợng các mặt hàng cao cấp cũng tăng lên. Theo
quy luật tiêu dùng thì khi thu hập tăng lên, tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ giảm tơng đối, còn tỷ
lệ tiêu dùng cho các nh cầu khác cũng sẽ tăng lên trong đó có nhu cầu về may mặc. Nh vậy,
cũng với việc tăng dan số và tăng thu nhập, trong những năm tới thị trờng trong nớc sẽ là
tiền đề phát triển cho công nghiệp sản xuất tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May
nói riêng.
Đối với thị trờng nớc ngoài, để tiếp nhạn thành công có sự dịch chuyển kinh tế từ các
nớc phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ xâm nhập vào các thị trờng quốc tế mới,
ngành Dệt-May càng cần phải đợc trang bị lại theo hớng hiện đại. Có nh vậy mới có thể
đáp ứng đợc đòi hỏi ngày càng cao, càng đa dạng của thị trờng trong và ngoài nớc
Tất cả các yếu tố đó đòi hỏi bức xúc ngành phải có kế hoạch hiện đại hoá từng bớc, kết
hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới để giảm
bớt khoảng cách tụt hậu.
c/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hớng kết hợp hớng về xuất khẩu với thay thế
nhập khẩu.
Hớng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó là kinh nghiệm
cuả nhiều nớc công nghiệp mới (NICs) và ở nớc ta cũng đã đợc xác nhận. Đó là một chiến
lợc cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những điều kiện của thế giới
ngày nay. Chúng ta phải tận dụng các lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên để đẩy
mạnh nhịp độ phát triển của các ngành và sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, xem đây là
mục tiêu hàng đầu. Xuất khẩu càng nhiều, kinh tế phát triển càng nhanh, có hiệu quả và
bền vững, đồng thời càng có thêm khả năng thay thế hiệu quả, không mâu thuẫn với hớng
về xuất khẩu.
Ngành Dệt-May Việt Nam là một trong những ngành có khả năng làm đuợc điều đó.
Thực tế những năm qua cho thấy, chiến lợc hớng về xuất khẩu đã thu đợc những kết quả
đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may không ngừng tăng lên. Nhờ nguồn
ngoại tệ thu đợc, ngành có điều kiện phát triển tái đầu t để hiện đại hoá, đẩy mạnh sản xuất.
Song song với xu hớng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các mặt hàng thay
thế nhập khẩu. Thị trờng trong nớc với số dân đông và sức mua ngày càng lớn là đối tợng
rất quan trọng mà công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May
nói riêng phải đáp ứng cho đợc các nhu cầu cơ bản, từ những sản phẩm dệt may bình
thờng, phù hợp với đa số ngời dân lao động đến các sản phẩm cao cấp hơn phục vụ những
nhóm ngời có thu nhập cao. Để làm đợc điều này, vấn đề quyết định là phải nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trờng trong nớc, thị trờng khu vực và thế giới,
trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lợng và hiệu qủa.
Trớc mắt cần có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, những ngời làm công tác nghiên
cứu, lựa chọn ra những mặt hàng thích hợp đang đợc nhập khẩu nhiều mà năng lực sản
xuất và trình độ kỹ thuật, công nghệ của các doanh nghiệp trong nớc có khả năng đáp ứng.
Sau đó, các doanh nghiệp trong nớc phối hợp với nhau tập trung vào sản xuất các mặt
hàng này.
Hiện tại, các sản phẩm dệt may của ta bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm nhập
khẩu chủ yếu ở giá cả. Mặc dù chất lợng có kém hơn song do thắng áp đảo về giá nên họ
chiếm lĩnh đợc thị trờng rộng lớn ở khu vực nông thôn.
Đó là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất bằng nhiều cách để tiết kiệm chi phí,
giảm giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh đợc.
d/ Phát triển công nghiệp Dệt-May phải gắn liền với sự phát triển của ngành nông
nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nớc ta.
Trong chiến lợc phát triển kinh tế-xã hội từ nay đến năm 2003 và 2010 Đảng ta chỉ rõ,
cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế mà trớc hết là công
nghiệp hóa nông thôn.
Nh vậy, đối với tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp Dệt-May
là ngành sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp nh bông, tơ tằm, trong chiến lợc
phát triển của mình cần xác định đợc hớng phát triển là gắn với sự phát triển của ngành
nông nghiệp.
Trong suốt quá trình phát triển của mình, ngành công nghiệp Dệt-May Việt Nam luôn ở
trong tình trạng bị động về nguyên liệu. Hầu hết tất cả các loại nguyên liệu đều phải nhập
khẩu. Kể cả bông xơ là loại nguyên liệu mà ta có thể cung cấp một phần. Tơ tằm tuy
không phải nhập khẩu, nhng nguồn tơ sản xuất bị hạn chế cả về chất lợng lẫn số lợng nên
giá trị xuất khẩu thấp.
Do vậy, muốn từng bớc tiến tới sự phát triển ổn định, bền vững, ngành Dệt-May phải
tạo đợc cho mình một một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn định.
Phát triển công nghiệp Dệt-May còn gắn liền với sự phát triển của một loạt các ngành
công nghiệp khác nh hoá chất, hoá dầu để tạo ra các dạng nguyên liệu tổng hợp, nhân tạo,
các loại hoá chất, thuốc nhuộm... Công nghiệp cơ khí chế tạo để sản xuất ra các loại máy
móc từ đơn giản đến phức tạp cho ngành. Ngoài ra còn kéo theo sự phát triển của các
ngành sản xuất phụ liệu, bao bì.
Để làm đợc những vấn đề trên,điều đặc biệt có ý nghĩa quan trọng là phải xây dựng đợc
hệ thống các qui hoạch phát triển ngành và liên ngành, tạo ra sự liên kết ngang chặt chẽ
giữa ngành công nghiệp Dệt-May với các ngành công nghiệp khác và nông nghiệp. Các
qui hoạch này cần đợc phối hợp, bảo đảm tính cân đối, ăn khớp giữa chúng với nhau. Đặc
biệt đối với nông nghiệp, thì phải có qui hoạch từ khâu sản xuất nguyên liệu, sơ chế đến
tiêu thụ sản phẩm.
Làm đợc nh vậy, ta sẽ đáp ứng đợc yêu cầu phát triển của bản thân ngành công nghiệp
Dệt-May, đồng thời còn góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiều
ngành khác.
1.2. Mục tiêu và định hớng phát triển của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
Ngành công nghiệp dệt may là ngành truyền thống lâu đời của nhân dân ta, từ trồng
bông, nuôi tằm đến ơm tơ dệt vải đã có những làng nghề từ xa đến nay. Nhiều mặt hàng
dệt may đã có uy tín trên thị trờng trong và ngoài nớc.
Kinh nghiệm của nhiều nớc, thời kỳ đầu phát triển ngành dệt may làm tiền đề phát triển
các ngành kinh tế khác phù hợp với khả năng vốn đầu t vừa phải, vòng quay vốn nhanh,
giải quyết nhiều lao động, góp phần tăng tích luỹ. Với nền kinh tế Việt Nam, thời gian trớc
mắt và vài ba thập kỷ tới đẩy nhanh phát triển ngành dệt may là đúng hớng và cần thiết.
Nhận thức rõ đợc vai trò của mình Tổng Công ty dệt-May Việt Nam đang đặt ra cho
mình những mục tiêu phấn đấu lớn nh: đảm bảo nhu cầu của hơn 100 triệu dân vào năm
2010 với mức tiêu thụ 3,6 kg vải/ ngời và nhu cầu an ninh quốc phòng; phấn đấu đạt mức
tăng trởng bình quân 13% năm, sau năm 2005 có mức tăng trởng trên mức tiên tiến trong
khu vực, tơng đơng với Hongkong, Thái Lan hiện nay...
Để thực hiện đợc những mục tiêu trên Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam đang từng bớc
định hớng phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà đặc biệt là hàng
may mặc. Các xí nghiệp may đợc phân bố rộng rãi trên các địa phơng tại các thị trấn, thị
xã, thành phố để phục vụ nhân dân địa phơng, đáp ứng yêu cầu phong tục tập quán địa
phơng. Các công trình may xuất khẩu thì trọng tâm vào 3 vùng phát triển ngành Dệt, u tiên
thuận tiện giao thông đến các cảng. Đầu t những năm tới tập trung vào những mặt hàng
cao cấp nh: mặt hàng sợi bông 100% cho thị trờng Mỹ, EU...và nội địa; hàng len và giả len
cho thị trờng EU, Mỹ, Đông âu...
Đầu t chiều sâu là đầu t bổ sung để cân đối lại dây chuyền cho đồng bộ, bổ sung thiết bị
lẻ hoặc loại trừ các máy cũ trong dây chuyền đã quá lạc hậu, cải tạo nâng cấp một số trang
bị, đổi mới công nghệ nhằm tăng chất lợng, mở rộng mặt hàng, khắc phục ô nhiễm môi
trờng đồng thời tăng sản lợng giảm chi phí sản xuất.
Thời kỳ 200-2005 là thời kỳ năng cao chất lợng và giá trị sản phẩm, phong phú mặt
hàng, tăng sản lợng, đặc biệt tăng sản lợng vải may cho xuất khẩu, giảm gia công, tăng
hàng may bán đứt (FOB). Mặt khác, Tổng Công ty cũng lựa chọn, từng bớc mở rộng thêm
các mặt hàng mà ta có khả năng vơn lên đỉnh cao và chiếm u thế trên thị trờng nh: vải tơ
tằm, tơ phế, tissulen, vải PE, PE Microfilament, dệt kim tơ tằm, dệt kim cotton OE, chỉ
khâu cotton, PE/Co, bít tất...
Thời kỳ 2005-2010 là giai đoạn đầu t chiều sâu tổng thể, tập trung đầu t phần mềm,
trọng tâm là tổ chức theo I S O 9000 nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng
mặt hàng mới, đa dạng hoá mặt hàng. Chuẩn bị tốt trớc khi hội nhập hoàn toàn vào AFTA
và WTO ,tạo cơ hội cho hàng may mặc của tổng công thuốc thú y có cơ hội đứng vững và
phát triển không bị nớc ngoài lấn át.
2. Những thời cơ và thách thức đang đặt ra.
Năm 2001 là năm có nhiều khó khăn, nhng dự báo năm 2002 vẫn cha có dấu hiệu tốt
hơn. Cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực đang tiếp tục lan rộng đến các khu vực
khác nh Nhật Bản, đặc biệt cuộc khủng hoảng đã làm cho tính cạnh tranh vốn có trong cơ
chế thị trờng càng thêm quyết liệt, sức mua giảm sút, giá gia công và giá bán sản phẩm
giảm. Thị trờng hàng free quota trong năm 2002 tiếp tục thu hẹp, trong khi đó khả năng
các thị trờng Nga và Mỹ vẫn cha đợc khaiong. Thị trờng trong nớc do thời tiết ma bão
lanm cho ngời dân các vùng miền Trung và miền Nam bị thiệt hại nhiều nên sức mua cũng
sẽ giảm sút. Các biện pháp chống hàng nhập lậu, hàng trốn thuế, hàng giả cha có dấu hiệu
sẽ đạt đợc kết quả khả quan...
Bên cạnh những thách thức trên Tổng Công ty cũng đang đứng trớc nhiều thời cơ lớn
nh: Việt Nam đã đợc trỏ thành thành viên chính thức của các bnớc ASEAN, AFTA... Việt
Nam có quyền ký hiệp định song phơng đối với các nớc khác trong khu vực, đặc biệt các
nớc ASSEAN đang có xu hớng giảm thuế xuất khẩu hàng Dệt-May đối với các nớc
ASEAN xuống còn từ 0-5%. Hơn nữa, theo hiệp định hàng dệt (ATC) ký tại vòng đàm
phán thơng mại đa biên tháng 4-1997 ở Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho hiệp định
đa sợi (MFA) đến ngày 1-1-2005 tất cả hàng dệt may phải đợc hoà nhập trở lại theo
nguyên tắc thơng mại thông thờng của WTO và nh vậy hàng rào hạn ngạch hàng may vào
Mỹ sẽ đợc loại bỏ và thuế trung bình sẽ giảm 9%. Đây là một thời cơ lơn mà Tổng Công
ty Dệt-May cần phải chuẩn bị đầu t đón trớc thời cơ để có thể đi vào thị trờng đầy tiềm
năng này.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ PHÍA TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT
NAM.
Qua phân tích thực trạng xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam,
đồng thời có tham khảo bài học kinh nghiệm của một số nớc, có thể thấy rằng đẩy mạnh
xuất khẩu hàng may mặc ở Tông Công ty là một vấn đề rất quan trọng góp phần thực hiện
thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, và phát triển kinh tế. Phát
triển xuất khẩu ở đây có nghĩa là làm sao để thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hớng tận
dụng đợc nhiều nhất các lợi thế so sánh của đất nớc, tăng số lợng và chất lợng từng mặt
hàng xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ và nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Xét trên góc độ thơng mại, thúc đẩy xuất khẩu là thúc đẩy bán hàng nên nguyên lý
chung là mở rộng thị trờng xuất khẩu và thực hiện tốt việc tạo nguồn hàng, giảm chi phí.
Trên cơ sở thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty và cũng theo
hớng trên, tôi xin đa ra một số biện pháp sau:
1. ĐA DẠNG HOÁ MẶT HÀNG VÀ THỊ TRỜNG
1.1. MỞ RỘNG THỊ TRỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ.
Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trờng có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đó là nhân tố quyết
định sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Mở rộng thị trờng xuất khẩu, khách hàng
của hàng xuất khẩu còn làm tăng tính cạnh tranh của khách hàng, tăng khả năng lựa chọn
của doanh nghiệp, từ đó tăng đợc hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Bởi vì, mở rộng thị
trờng, khách hàng, tức là tăng cầu, mà cầu tăng sẽ kéo theo cung tăng lên và giá cũng tăng
lên.
Theo qui luật của nền sản xuất hàng hoá, không còn tồn tại khái niệm tính toán áp đặt
một nhu cầu để bố trí sản xuất, mà cần nắm bắt đợc diễn biến của thị trờng đểt phát triển
sản xuất theo qui luật khách quan của nó. Phơng châm của Tổng Công ty Dệt-May Việt
Nam là: Hớng ra xuất khẩu và coi trọng thị trờng nội địa-nên phải hoà mình vào thị trờng
may mặc thế giới và khu vực để đặt ra mục tiêu chiến lợc phát triển và khi hiệp định
AFTA có hiệu lực thì hàng may mặc vẫn đủ sức cạnh tranh ngay tại thị trờng trong nớc và
có sức vơn lên hơn nữa.
Do đó, phát triển thị trờng may mặc thực sự là một yêu cầu cấp thiết hiện nay cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Để giải quyết vấn đề này Tổng Công ty cần thực hiện một số giải
pháp sau:
Một là: Uy tín sản phẩm.
Việc tạo đợc uy tín cho một loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trờng quốc tế là cực kỳ khó
khăn. Nó bao gồm từ mẫu mã, chủng loại, kiểu cách đến chất lợng sản phẩm.
Đối với Tổng Công ty Dệt-May, hiện tại việc thực hiện xuất khẩu sản phẩm đợc thực
hiện dới hai hình thức: gia công xuất khẩu và mua nguyên liệu bán sản phẩm. Việc xuất
khẩu theo hình thức gia công đã góp phần quan trọng vào giải quyết công ăn việc làm cho
ngời lao động, song hiệu quả thấp. Tuy vậy, ở giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các
nớc đều phải trải qua hình thức này. Đây cũng là cơ hội để Tổng Công ty tập dợt, làm
quen với cách thức làm ăn trên thị trờng quốc tế, từ việc tiếp nhận nguyên phụ liệu gia
công sản xuất đến tiến độ giao hàng ... để tiến đến hình thức xuất khẩu sản phẩm cao hơn:
mua nguyên liệu, bán sản phẩm.
Để đạt đợc việc xuất khẩu sản phẩm theo hình thức này, Tổng Công ty cần phải huy
động một lực lợng tổng lực từ điều tra nhu cầu thị trờng nớc ngoài để tạo ra các mẫu mốt
ăn khách, hợp thị hiếu, đến tổ chức sản xuất đúng với tiến độ tiêu dùng của thị trờng mà
sản phẩm cần tới. Làm đợc điều này, ngoài việc giải quyết lao động nh hình thức trên, nó
còn gòp phần thúc đẩy bản thân ngành Dệt (cung cấp các loại vải cho may mặc) và nhiều
ngành công nghiệp khác phát triển. Đồng thời hiệu quả về thu ngoại tệ cũng tăng lên
nhiều.
Hai là: Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng uy
tín hàng may mặc Việt Nam, đồng thời đa hàng xuất khẩu Việt Nam vào các kênh tiêu thụ
hợp lý (trên cơ sở kinh nghiệm từ kiến thức của nhà phân phối ) qua đó xâm nhập và
chiếm lĩnh đợc thị trờng.
Ba là: Đặt những đại diện, các cửa hàng chào bán các sản phẩm may mặc của Tổng
Công ty tại các thị trờng lớn ở nớc ngoài. Lập kho hàng ở các cảng lớn để giao nhận hàng
kịp thời.
Bốn là: Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nớc ngoài hoặc Việt kiều để làm cơ
sở đẩy mạnh hàng xuất khẩu may mặc ra thị trờng thế giới. Một điều đáng chú ý ở đây là
tiềm năng của Việt kiều và ngời Việt Nam định c ở nớc ngoài: có nhiều ngời là các ông
chủ lớn với các doanh nghiệp sở tại, nh ở Nga và một số nớc Trung Đông. Đây là một thị
trờng không nhỏ cho hàng may mặc của Tổng Công ty.
Năm là: Đẩy mạnh hoạt động mốt, đào tạo đội ngũ tiếp thị, tăng cờng các hoạt động
quảng cáo, khuyến mãi, tuyên truyền nhằm bán trớc sản phẩm. Các hoạt động dịch vụ trớc,
trong và sau khi bán hàng tạo điều kiện thuận lợi cho ngời mua nhằm thắng đợc đối thủ
cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trờng. Sớm hoà nhập vào thị trờng quốc tế và khu vực bằng đầu
t phát triển và tổ chức lại hoạt động xuất khẩu hàng may mặc theo cơ chế thị trờng, theo hệ
thống quản lý chất lợng quốc tế ISO 9000, bằng tiếp thị, hội thảo, hội trợ, triển lãm, gia
nhập các hiệp hội Dệt-May quốc tế và khu vực, giao lu với thời trang thế giới.
Để hỗ trợ đảm bảo cho hoạt động trên đem lại kết quả mong muốn thì trớc tiên doanh
nghiệp phải tự bảo đảm đợc chất lợng, qui cách chủng loại của sản phẩm, phù hợp với
"thợng đế ngoại".
Một thị trờng vừa hé mở nhng rất có triển vọng đối với Tổng Công ty đó là thị trờng
Mỹ và đằng sau đó là khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA: Mỹ-Canada-Mehico). Trong
ba năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty sang Mỹ không
ngừng tăng lên. Tuy hiện tại giá trị xuất khẩu có nhỏ hơn EU, song đây là một thị trờng rất
hấp dẫn nếu biết khai thác sẽ đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, Tổng Công ty cần chú
trọng hơn nữa tới một số thị truờng truyền thống nh Nhật Bản, SNG và một số nớc Đông
Âu...
Tăng cờng tìm kiếm các thị trờng không hạn ngạch và có chính sách sản phẩm đối với
từng thị trờng. Việc đề ra chính sách sản phẩm đúng đắn đối với từng thị trờng có ý nghĩa
hết sức to lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm, đến chi phí, giá thành và lợi nhuận của Tổng
Công ty.
Chính sách sản phẩm đúng đắn sẽ làm tăng khả năng xâm nhập, chiếm lĩnh thị trờng và
tăng lợi nhuận của Tổng Công ty.
1.2. MỞ RỘNG NĂNG LỰC SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU VÀ GIẢM CHI
PHÍ.
Dễ thấy rằng việc mở rộng thị trờng xuất khẩu sẽ không có ý nghĩa nếu nh không tăng
năng lực sản xuất trong nớc. Vì theo một nguyên lý trong kinh doanh thơng mại là nếu nh
khi khách hàng tới mà không có hàng cho khách thì ta sẽ mất khách vĩnh viễn. Đây là hai
mặt của một vấn đề: nếu nh không có đủ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu khách hàng thì sẽ
không cần và không thể mở rộng đợc thị trờng xuất khẩu, cho nên mở rộng thị trờng xuất
khẩu phải gắn với việc tăng năng lực sản xuất trong nớc, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì
phải giảm đợc chi phí của hàng xuất khẩu.
Hơn nữa, sản xuất và xuất khẩu ở nớc ta còn mang tính chất manh mún cho nên phải
chấp nhận giá thị trờng quốc tế. Trong điều kiện đó, để tăng kim ngạch xuất khẩu yêu cầu
trớc tiên là phải tăng đợc lợng hàng xuất khẩu, tức là phải tăng năng lực sản xuất, có nh
vậy Tổng Công ty mới có thể vơn lên chiếm lĩnh, chi phối một thị trờng nào đó.
Tóm lại, tăng năng lực, giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu là điều không thể thiếu đợc
khi muốn mở rộng thị trờng, tăng kim ngạch xuất khẩu. Để làm đợc điều này, Tổng Công
ty cần áp dụng các biện pháp sau:
*. Chuyển từ hình thức gia công xuất khẩu sang hình thức mua nguyên liệu bán thành
phẩm.
Hình thức xuất khẩu này có hiệu quả hơn từ 4-5 lần. Chẳng hạn, tính theo đơn vị qui
chuẩn áo sơ mi thì với 840 triệu sản phẩm xuất khẩu theo hình thức gia công sẽ thu
khoảng 600 triệu USD, còn theo giá bán 3.4 USD/1SP thì kim ngạch xuất khẩu sẽ là 3 tỷ
USD, tức là tăng 5 lần. Chú ý rằng, để chuyển đổi hình thức này đòi hỏi ngời quản lý phải
am hiểu, tránh tình trạng mua nguyên liệu lúc đắt bán thành phẩm lúc rẻ.
2. Giải pháp đầu t hiện đại hoá công nghệ - mẫu mã hàng may.
Thực trạng rõ nét đối với hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty là chủ
yếu xuất khẩu dới hình thức gia công (chiếm 80%). Do vậy, hiệu quả đem lại không cao.
Nguyên nhân chủ yếu là do ngành Dệt ở nớc ta cha phát triển, công nghệ lạc hậu và không
đồng bộ, thiết bị kĩ thuật chậm so với Trung Quốc, Thái Lan khoảng 5-7 năm, hàng năm
sản xuất mới đạt 50-60% năng lực. Do vậy, chất lợng và số lợng vải trong nuớc kém,
không đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Nh trên đã phân tích, để nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc,
Tổng Công ty cần giảm dần hình thức gia công xuất khẩu và đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu theo phơng thức FOB.
Do vậy, giải pháp cần thiết ở đây là phải đầu t phát triển ngành dệt để phát triển ngành
may, bao gồm cả đâù t chiều sâu và đầu t các công trình mới, nâng cao trình độ công nghệ
phát triển sản xuất đồng bộ.
Đầu t chiều sâu bao gồm cả đầu t mở rộng là một yêu cầu cấp thiết để có nhiều mặt
hàng thị trờng trong và ngoài nớc có nhu cầu, mặt hàng đạt chất lợng cao, giá thành hạ, có
vải cho ngành may xuất khẩu theo phơng thức FOB, chiếm lĩnh lại thị trờng nội địa và hoà
nhập vào thị trờng may ASEAN khi hiệp định AFTA có hiệu lực.
Tổng Công ty cần tăng vốn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ hiện đại, đặc biệt u tiên các công nghệ tiên tiến cho ngành dệt nhằm tăng nhanh
các loại vải đủ tiêu chuẩn cho ngành may xuất khẩu. Đầu t chiều sâu nhằm khắc phục các
mất cân đối, đồng bộ hoá các dây chuyền thiết bị, bổ sung mới, cải tạo nâng cấp thiết bị cũ,
đầu t công nghệ mới, đào tạo nâng cao kỹ thuật quản lý tiếp thị, tổ chức lại sản xuất... để
tăng một số mặt hàng chủ lực, có uy tín về nhãn hiệu hàng hoá, có giá cạnh tranh ở cả thị
trờng trong và ngoài nớc.
Các dự án đầu t chiều sâu phải có bớc đi phù hợp với tình hình kinh tế, kỹ thuật, với
chiến lợc phát triển của Tổng Công ty. Dù là bổ sung một máy, một dây chuyền công
nghệ... đều phải đảm bảo đồng bộ với công nghệ phụ trợ, đào tạo, quản lý ... nhằm phát
huy hiệu quả kinh tế sớm nhất. Song tìm giải pháp để tạo nguồn vốn cho đầu t phát triển là
một vấn đề quan trọng và cấp thiết, có tính quyết định tới tốc độ phát triển. Ngân sách Nhà
nớc thì hạn chế, nhiều công trình hạ tầng y tế và giáo dục Nhà nớc phải u tiên. Bớc đầu
công nghiệp hoá của các nớc nghèo Châu Á vẫn phải dựa vào vốn đầu t nớc ngoài để phát
triển. Do vậy, với phơng châm thực tế trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, Tổng Công ty
cần nhanh chóng đa Công ty tài chính đi vào hoạt động. Nhiệm vụ của Công ty tài chính là
huy động vốn (phát hành trái phiếu vay từ các nguồn tín dụng trong và ngoài nớc ...) để
cho vay (các dự án đầu t) và thực hiện một số dịch vụ tài chính khác.
Bên cạnh đó, Tổng Công ty cần đầu t phát triển sản xuất phụ liệu, nguyên liệu mà trong
nuớc có điều kiện. Đây là chất xúc tác để chuyển đổi hình thức gia công xuất khẩu sang
hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. Vì theo hình thức mua nguyên liệu bán thành
phẩm, Tổng Công ty có thể tận dụng đợc những nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong nớc,
giá cả rẻ hơn làm tăng thêm lợi nhuận. Đồng thời thu hút thêm lao động, tạo thu nhập góp
phần giải quyết thất nghiệp. Mặt khác, hình thức xuất khẩu này còn vừa tạo đầu ra cho
ngành dệt vừa tạo đầu vào cho ngành may.
Đặc biệt trong lĩnh vực mốt, Tổng Công ty còn có nhiều bỡ ngỡ, cha có đủ hiểu biết về
yêu cầu thị hiếu của từng thị trờng EU, Mỹ, Nhật... nên sớm đầu t thích đáng về cơ sở tạo
mốt và nâng cao nghiệp vụ tạo mốt, sử dụng các thiết bị chuyên dùng computer, điện tử
trong thiết kế cắt may, có kế hoạch hợp tác với viện Mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết kế
mốt ngời nớc ngoài để rút ngắn quá trình thâm nhập và đẩy nhanh sản phẩm của ta tới các
thị trờng rộng lớn đó.
* Nâng cao chất lợng mặt hàng.
Với mục tiêu sản xuất các mặt hàng có chất lợng, mẫu mã phong phú đẹp, hợp thời
trang, hạ giá thành, tăng dần vải dệt cho ngành may xuất khẩu theo FOB đạt 70% vào năm
2010. Tổng Công ty cần xây dựng đợc qui chế quản lý chất lợng mặt hàng, xây dựng các
hoạt động bảo đảm chất lợng và hoạt động quản lý, hoạch định chất lợng.
Ngoài ra, Tổng Công ty cũng cần xây dựng chiến lợc nâng cao chất lợng không ngừng
và tăng cờng trách nhiệm xét duyệt chính sách về quản lý chính sách chất lợng. Triển khai
xây dựng hệ thống chất lợng ISO 9000 và TMQ. Điều này đòi hỏi công sức trí tuệ, thời
gian đầu t đổi mới mạnh mẽ, và quyết tâm của lãnh đạo Tổng Công ty mới có thể đạt đợc.
3. Nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất khẩu.sử dụng có hiệu quả nguồn lực.
Thị trờng may thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may mặc biến động theo mùa. Hơn
nữa, tập quán thơng mại, ngôn ngữ giao dịch với các nớc ở các thị trờng khác nhau có sự
khác nhau. Do vậy, đòi hỏi ngời làm công tác xuất nhập khẩu phải hết sức linh hoạt tinh
thông nghiệp vụ ngoại thơng, giỏi ngoại ngữ và phải hiểu biết chuyên môn về ngành may.
Tổng Công ty cần có chiến lợc đào tạo lại cả cán bộ quản lý và nhân viên một cách
thờng xuyên, có hệ thống về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ... phải đợc nâng
lên nhanh chóng và tơng xứng. Qui mô đào tạo và loại hình đào tạo cần đợc mở rộng để
đáp ứng các nhu cầu đa dạng của hoạt đông xuất nhập khẩu. Mặt khác, hàng năm Tổng
Công ty nên tổ chức các đợt học nâng cao bồi dỡng chuyên môn nghiệp vụ xuất nhập khẩu
cho nhân viên. Đây là một mắt xích quan trọng trong công tác đào tạo. Nếu không đợc chú
ý thích đáng sẽ làm hao mòn vô hình đội ngũ đã đợc đào tạo. Cần tổ chức theo các hình
thức: theo chuyên đề, chơng trình nâng cao, tu nghiệp ở nớc ngoài... theo một chơng trình
kế hoạch thờng niên.
Bên cạnh đó, Tổng Công ty cũng cần có những khuyến khích về mặt lợi ích thoả đáng
cho ngời theo học các chơng trình trên, để họ yên tâm, dốc lòng, dốc sức cho công việc.
Qua đó, giúp cho họ hiểu rõ, nắm chắc, sâu sắc các nghiệp vụ xuất nhập khẩu khơi dậy
tính tích cực sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên. Đây thực sự là cách đầu t lâu dài tạo
ra động lực mạnh thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty.
4. GIẢI PHÁP VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ.
Hoà nhập với khu vực và quốc tế là một nhu cầu khách quan, là lợi ích sống còn của
Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, buộc Tổng Công ty phải tự thân phát triển, nâng cao
vơn cao lên tơng xứng, đồng thời sự hội nhập còn tạo sự hiểu biết lẫn nhau và tạo cơ hội
thu hút vốn đầu t cao hơn.
Với đờng lối mở cửa và hoà nhập vào thị trờng thế giới nói chung và các nớc khu vực
nói riêng, cùng với sự chuyển dịch công nghệ đang sôi động, Tổng Công ty Dệt-May Việt
Nam cần nhanh chóng đẩy mạnh công tác đầu t, tự tổ chức lại sản xuất cho phù hợp những
yêu cầu của cơ chế thị trờng, phù hợp với tiêu chuẩn chất lợng quốc tế ISO 9000 va nhãn
hiệu hàng hoá CE. Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, hiện đã là hội viên chính thức của
hiệp hội Dệt-May Đông Nam Á (AFTEX) cần nhanh chóng gia nhập vào hiệp hội Dệt-
May thế giới, trực tiếp tham gia vào quá trình phân công hợp tác chung về lĩnh vực lao
động, mậu dịch và các chính sách bảo hộ quốc tế và khu vực, tham gia các hoạt động quốc
tế về mẫu mốt thời trang, về hội thảo, triển lãm, tiếp thị... nhằm không ngừng mở rộng uy
tín của mình trên thị trờng quốc tế.
Mặt khác, xu hớng thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ với ba làn sóng tự do hoá, t
nhân hoá và phi tập trung hoá. Tổng Công ty cũng cần nắm bắt đợc vận hội thời cơ để có
thể có sự chuyển mình theo trào lu chung.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHÍNH PHỦ .
1. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ LÀM TIỀN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
Quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau. Chúng vừa là
tiền đề vừa là điều kiện phát triển của nhau. Quan hệ chính trị mở đờng cho quan hệ kinh
tế phát triển, ngợc lại quan hệ kinh tế làm cho quan hệ chính trị trở nên gắn bó chặt chẽ
hơn.
Tác động của quan hệ chính trị lên quan hệ kinh tế thể hiện trên các mặt:
- Quan hệ chính trị tốt tạo đà cho việc hợp tác, tơng trợ lẫn nhau về đầu t,
viện trợ, chuyển giao công nghệ.
- Quan hệ chính trị là tiền đề cho Nhà nớc kí kết các hiệp định về thơng mại,
về thông tin, về đầu t, về cấp phát hạn ngạch (quota).
- Quan hệ chính trị là cơ sở pháp lý đảm bảo cho các doanh nghiệp hai bên
tiến hành làm ăn với nhau. Tạo điều kiện thuận lợi trong việc thanh toán, giải quyết
thông tin tranh chấp.
- Quan hệ chính trị làm tăng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nớc.
Nh vậy, về mặt mở rộng thị trờng, quan hệ chính trị tốt sẽ tạo đợc thị trờng ổn định, thị
trờng mới cho phát triển sản xuất và xuất khẩu. Điển hình là việc Mỹ xoá bỏ cấm vận đối
với Việt Nam tháng 2/1997 thì ngay sau đó, các quan hệ kinh tế đối ngoại Việt nam sôi
động hẳn lên. Nhiều hãng, Công ty... tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, trong đó có
Công ty Mỹ sang Việt Nam, kí một hợp đồng đáng ghi nhớ với Confechnex trị giá 350
triệu USD ( kinh tế đối ngoại - Võ Thanh Thu - tr 306).
Quan hệ thơng mại nh chúng ta đều biết, chỉ là một bộ phận của kinh tế đối ngoại. Song
nó là một trong các bộ phận thu ngoại tệ về cho đất nớc. Đối với các nớc mới ở giai đoạn
đầu của quá trình công nghiệp hoá, vốn là yêu cầu đầu tiên và tất yếu. Do vậy, thông qua
hoạt động ngoại thơng, nhiều nớc đã tham gia đợc vào sự phân công lao đông quốc tế trên
phạm vi toàn cầu và trong khu vực. Và chính sự tham gia đó đã bảo đảm cho sự phát triển
cân đối của nền kinh tế quốc dân và thu đợc ngoại tệ về cho đất nớc.
Sự phát triển ngoại thơng của ngành Dệt-May cũng không thoát khỏi ảnh hởng của
quan hệ chính trị .
Từ sự phân tích trên, các chính sách cần có là:
+ Nhà nớc tích cực tham gia vào các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam
nhanh chóng trở thành thành viên WTO.
+ Quan hệ tốt với các thị trờng lớn nh EU, Bắc Mỹ, tạo đợc khuôn khổ pháp lý
tốt với các thị trờng này để sản xuất hàng may mặc đợc hởng các u đãi đặc biệt nh
hạn ngạch, tối huệ quốc... và có điều kiện xuất khẩu với số lợng lớn vào các thị trờng
này.
+ Thực hiện nghiêm túc các công ớc quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ về
công nghiệp để các sản phẩm có chất lợng cao của Việt Nam giữ đợc uy tín trên thị
trờng.
+ Có qui chế phù hợp (bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của
các nhân viên thơng vụ của các đại sứ quán Việt Nam ở các nớc, trong viẹc cung cấp
các thông tin về lĩnh vực may mặc và giúp Tổng Công ty mở rộng thị trờng ở các khu
vực này. Điều này sẽ tiết kiệm cho Tổng Công ty những chi phí về thu thập thông tin,
những chi phí không cần thiết khác do cha hiểu kĩ thị trờng, qui định, giảm rủi ro cho
Tổng Công ty ...Suy cho cùng, đây là một hình thức trợ giúp xuất khẩu, khuyến khích
bảo đảm cho hoạt động xuất khẩu, mặt khác các cơ quan thơng vụ này cũng đóng vai
trò là điểm tựa cho hàng xuất khẩu Việt Nam xâm nhập và chiếm lĩnh thị trờng.
2. CHÍNH SÁCH ĐẦU T PHÁT TRIỂN.
Nhà nớc cần đẩy mạnh hơn nữa các hình thức đầu t trực tiếp của nớc ngoài vào ngành
Dệt-May. Đối với ngành Dệt là ngành đòi hỏi vốn đầu t lớn, đặc biệt là các công trình
nhuộm, hoàn tất. Vì vậy cần chú trọng khuyến khích gọi vốn đầu t nớc ngoài cho những
công trình này. Có những u đãi đặc biệt cho những công trình nớc ngoài đầu t 100%.
Ngợc lại đối với ngành May và ngành sản xuất các loại phụ liệu, vốn đầu t không lớn,
cần chú trọng hình thức liên doanh, hạn chế xí nghiệp 100% vốn nớc ngoài.
Từ khi có luật đầu t nớc ngoài vào Việt Nam, tính đến tháng 12/1999 đã có 58 dự án
Dệt-May đợc cấp giấy phép hoạt động, với số vốn gần một tỷ USD. Để có đợc 1,5 tỷ USD
vốn đầu t nớc ngoài vào ngành Dệt-May vào năm 2003, trong vòng 10 năm tới Nhà nớc
cần bổ sung điều chỉnh luật đầu t nớc ngoài cho phù hợp với tình hình mới, cải cách điều
chỉnh nhằm đơn giản hoá các thủ tục xin giấy phép đầu t, có các điều kiện u đãi đối với
các công trình đầu t vào ngành dệt.
3. CHÍNH SÁCH U ĐÃI VỀ XUẤT KHẨU.
Nhà nớc cần có các chính sách tạo điều kiện cho Tổng Công ty đủ sức cạnh tranh trong
bối cảnh của sự toàn cầu hoá:
- Cho tiếp tục áp dụng thuế suất hàng dệt may bằng 0% để thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu hàng may mặc.
- Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu trên cơ sở khai thác, phát huy hiệu quả, nội
lực của đất nớc, Bộ tài chính cần xem xét lại mức thuế nhập khẩu của các mặt hàng
trong nớc đã bắt đầu sản xuất đợc, trong đó có sợi, vải để đảm bảo sản xuất ttrong
nớc tránh tình trạng giá thành sản xuất của sản phẩm lại lớn hơn giá nhập khẩu, làm
giảm sức cạnh tranh của hàng hoá ta trên thị trờng nớc ngoài. Nhà nớc cần miễn
thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất các chủng loại sản phẩm (mặt hàng dệt, phụ
liệu may...) thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ xuất khẩu, tạo điều kiện cho
Tổng Công ty có thể bán ngang hoặc thấp hơn giá nhập sản phẩm cùng chủng loại và
tạo cho hàng may mặc xuất khẩu đợc theo phơng thức FOB.
- Bên cạnh đó, Nhà nớc có thể áp dụng một số biện pháp khác nh cấp tín dụng
xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu.... nhằm giúp Tổng Công ty giảm chi phí, tăng khả năng
cạnh tranh, tăng thu nhập, lợi nhuận đẩy mạnh đợc hoạt động xuất khẩu. Thực tế
mấy năm qua, Nhà nớc vẫn cha thực sự chú trọng tới hoạt động hàng may mặc. Một
thực trạng trong ngành may xuất khẩu đó là: dù biết rằng gia công may không hiệu
quả bằng hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, Tổng Công ty phải vay vốn
mua nguyên liệu đầu vào, rồi sau một chu kì sản xuất (3-4 tháng) mới bán sản phẩm
thu tiền lãi trả ngân hàng. Do không có u đãi về lãi suất nên sau khi trừ đi chi phí
sản xuất và lãi ngân hàng, hiệu quả thu đợc không cao hơn hình thức gia công là bao
nhiêu, lại chịu nhiều rủi ro. Trong khi đó, hình thức gia công tuy hiệu quả thấp nhng
chắc chắn. Nh vậy Nhà nớc và xã hội bị thiệt vì đơn cử một ví dụ là: theo hình thức
gia công thì giá gia công một áo sơ mi khoảng 0,7-0,8 USD, gấp gần 5 lần. Do vậy,
đòi hỏi Nhà nớc phải nhanh chóng áp dụng một cách hợp lý các biện pháp trên để
khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng may mặc đem lại hiệu quả cao.
4. CHÍNH SÁCH VỀ VỐN.
Nhà nớc cần bảo đảm cấp vốn đầu t ban đầu và vốn lu động cho các doanh nghiệp của
ngành dệt may một cách hợp lý. Có cơ chế vay và bảo lãnh vốn vay một cách hợp lý.
Cho ngành dệt đợc sử dụng hoặc vay vốn ODA, vốn tín dụng của Chính phủ với lãi
suất u đãi (khoảng 5%), thời gian vay dài (trên 10 năm đối với ngành dệt và 7 năm đối với
ngành may).
Miễn các loại thuế doanh thu, lợi tức cho các công trình đầu t ngành dệt may trong thời
gian cha trả nợ xong.
Ngoài ra, Nhà nớc cần có các biện pháp hỗ trợ cùng với Tổng Công ty đa Công ty Tài
chính dệt may sớm đi vào hoạt động để huy động vốn từ các nguồn vay trong nớc, ngoài
nớc, trái phiếu, cổ phiếu... nhằm cho vay đầu t phát triển.
5. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.
Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay đợc sử dụng nh một công cụ lợi hại trong cuộc
chiến tranh thơng mại gay gắt giữa các nớc công nghiệp phát triển và là một trong những
công cụ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, bảo hộ mậu dịch của các nớc đang
phát triển.
Đối với Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới không ngừng phát triển và thị
trờng tiền tệ thế giới đầy biến động thì việc lựa chọn một chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý
đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế đối nội và tăng trởng trong kinh tế đối ngoại là hết
sức cần thiết.
Đối với ngành Dệt-May, việc điều hành tỷ giá ngoại tệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nhà nớc cần áp dụng tỷ giá hối đoái hợp lý để đảm bảo xuất khẩu có lãi và khuyến khích
xuất khẩu. Tất nhiên tỷ giá đó không đợc thoát ly quá nhiều so với tơng quan cung cầu về
ngoại tệ. Đồng thời Nhà nớc phải luôn chú trọng đầy đủ các yếu tố kích thích xuất khẩu
khi ấn định tỷ giá. Đây là những quyết định chủ quan nhng rất cần thiết vì không đẩy
mạnh đợc xuất khẩu để tạo nguồn ngoại tệ tự có, chúng ta sẽ không đủ ngoại tệ để cân đối
cán cân thanh toán quốc tế.
6. TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÁC KHÂU NGHIỆP VỤ XUẤT KHẨU.
Tổ chức và quản lý hợp lý các khâu thuộc nghiệp vụ xuất khẩu nh cấp giấy phép, phân
bổ quota, thủ tục hải quan... cũng có tác dụng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nói chung và
xuất khẩu hàng may mặc nói rỉêng. Thực tế việc phân bổ hạn ngạch trong xuất khẩu hàng
may mặc không hợp lý, thủ tục hải quan còn nhiều phức tạp... làm hạn chế khả năng xuất
khẩu mặt hàng này.
Để giải quyết vấn đề này, Nhà nớc cần sớm ban hành luật hải quan cho phù hợp với
quá trình phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trờng. Các ngành hữu quan nghiên cứu
để ban hành biểu phân loại mã số hàng xuất khẩu (biểu mã số HS) phù hợp với tiến trình
đổi mới nền kinh tế đất nớc trong xu thế hợp tác và hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Nên
có sự thống nhất từ cơ quan quản lý trong việc ghi mã số HS trớc tên hàng trong các hồ sơ
chứng từ có liên quan để tạo ra một sự đồng nhất trong việc xác định loại hàng hoá làm cơ
sở cho việc khai báo, tính và nộp thuế, việc quản lý gia công cho nớc ngoài...
Về quản lý xuất khẩu tiểu ngạch: Đánh thuế, phí xuất khẩu tiểu ngạch sao cho giá xuất
khẩu tiểu ngạch tơng đơng với giá xuất khẩu chính ngạch vừa quản lý chặt chẽ đợc xuất
khẩu tiểu ngạch, vừa tăng thu cho ngân sách Nhà nớc.
Thực hiện các vấn đề trên sẽ giúp cho Tổng Công ty chủ động trong giao dịch, kinh
doanh xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh công bằng và đẩy mạnh đợc hoạt động kinh doanh
xuất khẩu, đa kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lên vị trí hàng đầu, tăng thu ngoại tệ
cho đất nớc. Giữ vững và phát huy truyền thống của Tổng Công ty trong những năm qua.
IV. KẾT LUẬN
Chiến lợc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hớng mạnh vào xuất khẩu là một chiến lợc
đúng đắn của Đảng và Nhà nớc ta, tạo đà cho nền kinh tế phát triển và đuổi kịp thời đại.
Trong đó xuất khẩu hàng mũi nhọn là một bớc đi tiên phong, khai thác triệt để lợi thế của
đất nớc. Đồng thời việc hớng ra thị trờng nớc ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên cơ
sở khai thác lợi thế so sánh, vừa xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của nớc ta, vừa có
thể nhận đợc sự “hởng ứng và ủng hộ” của các nớc phát triển trong khuôn khổ không ảnh
hởng tới sự phát triển của các ngành kinh tế ở các nớc này.
Căn cứ vào tiềm năng về điều kiện tự nhiên, xã hội, dân số, truyền thống dân tộc Việt
Nam, trong văn kiện đại hội VIII của Đảng ta đã xác định hớng chú trọng phát triển một số
ngành, trong đó có công nghiệp sản xuất hàng dệt may. Với những đặc điểm kinh tế-kỹ
thuật riêng có của ngành, công nghiệp dệt may đợc đánh giá là ngành có nhiều u điểm để
sản xuất và xuất khẩu, rất phù hợp với điều kiện sẵn có của nớc ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chung tình hình thế giới hiện nay, bên cạnh những thuận lợi
nhất định việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc cũng gặp phải nhiều khó khăn thách
thức cả ở trong và ngoài nớc. Chẳng hạn nh trình độ sản xuất thấp kém nên hàng hoá khó
đáp ứng đợc yêu cầu của thị trờng quốc tế, khả năng và trình độ tiếp thị quốc tế kém cỏi,
thiếu kỹ năng và kinh nghiệm trong thực hiện hoạt động thơng mại quốc tế, sự cạnh tranh
giữa các nớc đang phát triển về cùng một mặt hàng trên cùng một thị trờng...
Do đó, để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt
Nam không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của Tổng Công ty trong việc tìm hớng đi, biện
pháp phù hợp mà còn cần phải có sự tác động tích cực của các cơ quan quản lý Nhà nớc.
Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ngày càng phát triển, tăng nhanh kim ngạch
và ngoại tệ cho đất nớc, củng cố uy tín và vị thế của Tổng Công ty không chỉ ở thị trờng
trong nớc mà trên toàn thế giới.
Với trình độ và thời gian nhất định, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.
Tôi rất mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến để đề tài đợc hoàn thiện hơn nữa./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI VIỆT NAM..pdf