Luận văn Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay

Để nâng cao chất lượng công tác giáo dục bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng ở Trường Chính trị Hà Nam đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cần phải có những giải pháp tích cực: đổi mới nội dung phương pháp giảng dạy đặc biệt là giảng dạy triết học; nâng cao trình độ lý luận và phẩm chất đạo đức cách mạng ở đội ngũ cán bộ giảng viên ở nhà trường; từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất; phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường với địa phương trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ.

pdf82 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2697 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa sát với đối tượng đào tạo. Trong khi đó việc đổi mới biên soạn giáo trình còn thực hiện chậm không đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Song, việc đổi mới chương trình, giáo trình đào tạo trong các trường chính trị cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo cán bộ trong thời kỳ cách mạng mới là chức năng của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Học viện Hành chính Quốc gia. Còn bản thân các trường chính trị tỉnh không đủ thẩm quyền làm được điều này mà chỉ có thể kiến nghị, đề xuất ý kiến mà thôi. Vì vậy, đổi mới nội dung giảng dạy các môn học ở trong Trường Chính trị Hà Nam hiện nay là đổi mới nội dung các bài giảng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho người học. Nội dung bài giảng đó là công việc cụ thể của các giảng viên khi lên lớp. Thực chất hiện nay, bài giảng của các giảng viên có ưu điểm là bám sát sách giáo khoa, giáo trình nhưng hạn chế chung là không mở rộng được các nội dung đó vì sách giáo khoa, giáo trình mang tính ổn định tương đối. Nó chỉ thay đổi sau một thời gian nhất định. Các bài giảng yêu cầu phải bao hàm cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn. Vì thế bài giảng phải phản ánh được một số vấn đề như: phản ánh được một phần những phát minh của khoa học mới, phản ánh được những sự biến động của đời sống xã hội, của tình hình trong nước và quốc tế; đặc biệt phải phản ánh được những chủ trương, đường lối của Đảng về các mặt đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa... Do đó, yêu cầu nâng cao tính khoa học và tính thực tiễn của bài giảng là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Riêng đối với môn triết học, hiện nay có rất nhiều vấn đề nảy sinh liên quan đến thế giới quan của con người như: những phát minh mới về nguồn gốc con người, về sự hình thành vũ trụ; những tư tưởng tôn giáo được truyền bá dưới nhiều hình thức khác nhau; những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, ý thức con người, những khả năng đặc biệt của con người về những hiện tượng lạ trong cuộc sống... Những vấn đề này đều đòi hỏi triết học phải nắm bắt được và phải có sự lý giải ở những mức độ nhất định để có thể nâng cao tính khoa học của thế giới quan và phản bác lại những tư tưởng đối lập. Mặt khác, trong thế giới hiện nay nảy sinh rất nhiều vấn đề liên quan đế duy vật lịch sử như các vấn đề về mâu thuẫn thời đại, mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn sắc tộc, mâu thuẫn tôn giáo, vấn đề toàn cầu hóa chống khủng bố... đòi hỏi giảng viên phải nắm được thực chất vấn đề và có sự lý giải một cách thuyết phục và khoa học. ở trong nước với sự phát triển một nền kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn, đặc biệt là những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, sự phân hóa giàu nghèo và các mặt trái của xã hội... đều đòi hỏi người giáo viên phải phân tích các hiện tượng này một cách khoa học để định hướng cho người học trong suy nghĩ và hành động, khắc phục tư tưởng bàng quan, dao động, tư tưởng nôn nóng làm mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển của đất nước. Riêng đối với Hà Nam là một tỉnh mà kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, đồng đất chiêm trũng có những đặc thù so với các tỉnh khác như đã trình bày. Ngoài những vấn đề chung của cả nước còn có những hiện tượng khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến thế giới quan của con người như: một số người lợi dụng phật giáo, giả là sư sãi đi lừa đảo tiền của nhân dân; hiện tượng đi tìm mộ của các nhà ngoại cảm trên địa bàn tỉnh; hiện tượng một số cán bộ cơ sở theo Thiên chúa giáo lợi dụng, lôi kéo giáo dân cản trở, chống lại chính quyền, các chính sách của nhà nước; âm vang của câu chuyện Làng Nhô còn gây sự chú ý tò mò, tranh luận của người dân hàng chục năm nay ở huyện Kim Bảng nói riêng và tỉnh Hà Nam nói chung, hiện tượng người dân ở một số xã của huyện Thanh Liêm, Phủ Lý kéo nhau đến tận trụ sở Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh phản đối về chính sách đền bù đất, hoa lợi, công sản của người dân hay hiện tượng thu, chi tràn lan ở một số xã... Đặc biệt, hiện nay một số vấn đề mà người dân đang quan tâm và đặt ra câu hỏi liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là vì sao tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với Hà Nam còn quá chậm chạp, còn là khoảng cách xa so với các tỉnh cùng thời điểm chia tách hay so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng,... Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi người giảng viên trong các bài giảng của mình phải lý giải, phân tích một cách sâu sắc, cụ thể và nêu ra những phương hướng, biện pháp có tính phương pháp luận để giải quyết. Làm được những điều trên đây thì người giảng viên mới khẳng định được vai trò, vị trí của nhà trường cũng như việc củng cố niềm tin của người học vào chủ nghĩa duy vật mác xít, do đó mới làm thế giới quan duy vật biện chứng được khẳng định phát triển trong tư tưởng người học.  Nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên gắn liền với việc đổi mới phương pháp giảng dạy Việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đang là vấn đề trăn trở, quan tâm không chỉ riêng ở Trường Chính trị Hà Nam mà còn ở nhiều trường và các trung tâm đào tạo khác. Đổi mới để tìm ra một phương pháp giảng dạy thích hợp, nó không chỉ đảm bảo những nguyên tắc chung của lý luận dạy học mà còn phụ thuộc vào những đặc điểm đào tạo riêng ở từng nơi đào tạo. Đây chính là vấn đề khó nhất mà người giảng viên cần quan tâm, day dứt. Phương pháp dạy học được hiểu là hoạt động phối hợp của giảng viên và học viên theo những nguyên tắc nhất định, được diễn ra theo một trình tự, trong không gian và thời gian. Đó chính là "cách thức hoạt động có trình tự, phối hợp tương tác với nhau của giảng viên và học viên nhằm đạt được mục đích dạy học". Trong sự phối hợp đó, hành động trước chuẩn bị cho hành động sau và kết quả là chúng thực hiện được các mục đích đề ra. Muốn sử dụng một phương pháp dạy học tốt, chúng ta không những phải biết phương pháp đó là gì, mà điều quan trọng là phải biết được các yếu tố quy định đến nó. Phương pháp dạy học là một thành tố của quá trình dạy học. Nó không chỉ những phụ thuộc vào quá trình bên ngoài như: kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học công nghệ... mà còn phụ thuộc vào bên trong của quá trình này, đặc biệt là: mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, đối tượng dạy học… Mục tiêu là cơ sở để lựa chọn nội dung, phương tiện, phương pháp dạy học. Mục tiêu dạy học cũng chính là cơ sở định hướng và phối hợp các hoạt động dạy học của giảng viên và học tập của học viên. Mục tiêu giúp người giảng viên xác định được đúng và đủ nội dung dạy học. Nó giúp giảng viên trả lời được câu hỏi: Dạy cái gì? Dạy đến mức độ nào là phù hợp? Tránh tình trạng dạy thừa và thiếu nội dung cần thiết. Mục tiêu dạy học cũng là cơ sở để giúp học viên biết được mình nên học cái gì và học như thế nào? Dựa vào đó học viên có thể chủ động thời gian và kế hoạch học tập của mình. Tránh tình trạng học lan man, học theo hứng thú, học không có trọng tâm. Như vậy, để có một phương pháp giảng tốt thì trước hết phải xác định được mục tiêu dạy học. Từ mục tiêu dạy học đó, người giảng viên phải xây dựng được một nội dung dạy học phù hợp. Tức là nội dung dạy học chịu sự quy định của mục tiêu dạy học. Nội dung dạy học được xây dựng từ giáo trình, tài liệu tham khảo và từ nền văn hóa của nhân loại. Người giảng viên phải biết phân tích, khai thác và vận dụng giáo trình một cách có hiệu quả. Mặt khác, cần cô đọng nội dung, rút gọn chúng thành những nội dung dễ nhớ, dễ vận dụng và nếu cần thiết thì phải biết mở rộng và phát triển nội dung để người học nắm sâu hơn về chúng. Do đó, không có sự gia công sư phạm của ngươi giảng viên về nội dung dạy học thì hoạt động học của học viên đối với các tài liệu sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Việc xây dựng nội dung dạy học sẽ làm cho họ xây dựng được một phương pháp giảng dạy phù hợp, tốt hơn. Nội dung nào thì phương pháp ấy. Từ đó giúp họ chủ động hơn trong hoạt động dạy học để vươn tới mục tiêu đã đề ra. Phương pháp giảng dạy không chỉ chịu sự quy định của mục tiêu và nội dung dạy học mà còn phụ thuộc vào đối tượng người học. Giảng viên không chú ý đến đối tượng người học thì không đảm bảo được sự thống nhất giữa nội dung và phương pháp, cũng như hiệu quả đạt tới mục tiêu. Người giảng viên cần lựa chọn phương pháp giảng khác nhau còn tùy thuộc vào trình độ, tâm lý, vốn thực tiễn... của người học. Cùng một chương trình trung cấp lý luận chính trị, khi giảng cho công nhân, kỹ sư, cán bộ quản lý, lãnh đạo các cấp, người lớn, học sinh... thì giảng viên phải có phương pháp khác nhau. ở trường chính trị, việc lựa chọn phương pháp thích hợp còn phải chú ý đối tượng là những học viên người lớn tuổi. Theo chúng tôi, họ có một số đặc điểm cơ bản cần chú ý như sau: Điều đáng nói nhất là việc học của người lớn khác với việc học của học sinh (trẻ em), thường mong muốn học một kỹ năng mới hoặc nhận được kiến thức mới, hoặc thông tin mới... họ sẽ học tốt hơn khi họ có thể mong đợi những lợi ích trước mắt. Thêm vào đó, người lớn không kiên trì với nhiều lý thuyết, kiến thức họ muốn giảng viên đưa đến cách tiếp cận đơn giản và đi thẳng vào điều muốn học. Điều này dễ thấy nhất ở học viên là những người cán bộ quản lý cơ sở. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu người lớn thực tập ngay điều họ đã học được và tiếp tục sử dụng nó thì kết quả sẽ được duy trì theo chiều hướng tích cực và trí nhớ sẽ cao hơn. Những ví dụ, vấn đề sử dụng phải mang tính hiện thực phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn và công tác. Bởi lẽ, những người đến học tập, bồi dưỡng ở trường chính trị hầu hết là những người đã có vốn kinh nghiệm trong công tác và trong cuộc sống. Điều đặc biệt quan tâm nữa là học tập của họ sẽ tốt hơn nếu một ý tưởng được trình bày theo nhiều kiểu khác nhau, sử dụng nhiều phương tiện dạy học khác nhau, thông tin đến với họ bằng nhiều kênh khác nhau. Sự phong phú về phương pháp và phương tiện dạy học sẽ kích thích tính tích cực của học viên. Trên đây là một số đặc điểm cơ bản cần quan tâm khi giảng dạy cho đối tượng học viên là người lớn ở trường chính trị trong việc xây dựng phương pháp giảng dạy. Như vậy, để đổi mới và tìm ra được phương pháp giảng dạy thích hợp đáp ứng mục tiêu đào tạo, trước hết giảng viên phải căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản, cụ thể như đã nêu ở trên. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy có hai phương pháp giảng dạy chính: Phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại. Sự kết hợp và phát huy những nhân tố hợp lý của hai phương pháp này sẽ đem lại phương pháp giảng mới, tích cực hơn. Trong phương pháp truyền thống, mọi hoạt động dạy học đều lệ thuộc vào người thầy, người học chỉ tiếp thu những tri thức và sự kiện từ phía thầy giáo đã được chắt lọc từ vốn hiểu biết của mình. Phương tiện chủ yếu để truyền đạt là lời nói sinh động của người thầy (mặc dù có thể có kết hợp một số phương tiện khác). Do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, phương pháp dạy học truyền thống đã bộc lộ những nhược điểm nhất định. Nhược điểm cơ bản nhất của phương pháp này là đặt người học ở vị trí thụ động, tiếp thu tất cả những gì mà thầy truyền đạt cho. Điều này không phù hợp với sự phát triển của khoa học hiện đại. Người học không thể chỉ trông chờ vào những gì mà thầy truyền đạt cho mà phải chủ động học tập. Chỉ có trang bị một năng lực chủ động học tập, họ mới tiến hành học tập suốt đời và đạt kết quả cao. Cách giảng dạy truyền thống không phát huy được tính tích cực của người học, do đó nó không phù hợp được với những người lớn tuổi, ham hiểu biết, những người đã tích lũy được một số vốn tri thức qua công tác và cuộc sống, có khả năng học tập chủ động để tiến hành các hoạt động nghề nghiệp tốt... Song nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận hết mọi ưu điểm của phương pháp giảng dạy truyền thống. Những ưu điểm kết tinh trong phương pháp đó, đòi hỏi bất cứ ai cũng phải kế thừa và vận dụng, đó là: cấu trúc bài giảng sáng sủa, diễn giải phù hợp với lôgíc nhận thức của học viên; sử dụng ngôn ngữ thích hợp diễn cảm và sự kết hợp các phương tiện thị giác, thính giác. Đối với phương pháp giảng dạy hiện đại, đòi hỏi dạy học phải gây ra sự chú ý của học viên, phải tăng cường các hoạt động tìm tòi ở người học. Từ việc đặt ra các câu hỏi gợi mở, hướng dẫn người học, tìm tòi một phần rồi toàn phần. Hoạt động học tập độc lập của học viên dưới sự hướng dẫn của giảng viên được đề cao. Dạy tốt là giúp người học tốt là tổ chức tốt các hoạt động nhận thức của học viên. Trong phương pháp hiện đại, hoạt động chủ động, tích cực của người học được đề cao. Hoạt động học tập là hoạt động tích cực, tự lực và sáng tạo của người học, do người học tiến hành. Mọi cố gắng trong người học, xét đến cùng nhằm vào việc phát huy vai trò chủ thể của người học, giúp người học biết cách tổ chức hoạt động nhận thức của chính mình cho hiệu quả. Những xu hướng dạy học hiện đại, dạy học hướng vào người học, lấy người học làm trọng tâm, dạy học giải quyết các vấn đề lý thuyết tình huống ... Đó là một số nét đặc trưng cơ bản nhất của phương pháp dạy học hiện đại. Tóm lại, với hai phương pháp giảng dạy trên, chúng tôi thấy vấn đề cần đặt ra là: vì những hạn chế của phương pháp giảng dạy truyền thống mà quá đề cao và áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại thì sẽ không phù hợp với đối tượng người học ở trường chính trị. Bởi lẽ, đối tượng học ở đây là những người có trình độ nhận thức không đồng đều; đặc biệt là đội ngũ cán bộ ở cơ sở đi học có trình độ học vấn thấp, tư duy biện chứng chưa phát triển. Do đó, họ không thể hoàn toàn chủ động, độc lập, sáng tạo trong hoạt động học mà cần phải có sự lý giải, phân tích của người giảng viên. Vì vậy, để lựa chọn phương hướng giảng dạy tốt, phù hợp là phải vận dụng và kế thừa những nhân tố hợp lý, ưu điểm của cả hai phương pháp đó. Làm cho hoạt động dạy và học của người giảng viên và học viên được kết hợp, tương tác một cách nhịp nhàng hai chiều để họ đều tham gia tích cực vào quá trình dạy và học. Từ đó, phương pháp giảng dạy mới sẽ phát huy vai trò quan trọng của người thầy và kích thích tư duy sáng tạo của người học. Muốn vậy, giảng viên cần chú ý một số vấn đề sau trong việc lựa chọn phương pháp giảng dạy của mình: - Đưa ra lượng tri thức, thông tin vừa đủ, cô đọng, dễ nhớ. - Tăng cường vận dụng kiến thức vào thực tiễn sinh động, làm cho học viên cuốn hút, dễ hiểu. - Tăng cường tính chủ động của học viên trong học tập: Cho học viên tham gia tích cực thảo luận, đặt ra các câu hỏi để họ suy nghĩ và trả lời. - Yêu cầu học viên tập giải quyết các vấn đề có liên quan đến thực tiễn. Muốn thực hiện tốt các yêu cầu này, nhà trường phải tổ chức, kết hợp tốt công tác nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc đi tham quan thực tế làm cho lý luận gắn liền với cuộc sống sinh động của xã hội. Qua đó, nâng cao và làm phong phú hơn kiến thức của người giảng viên cũng như kiến thức của người học. Mặt khác, việc nhà trường tăng cường tổ chức đi nghiên cứu thực tế và viết tiểu luận cuối khóa cho học viên là thông qua đó có thể xây dựng các đề án công tác thiết thực - giúp cho người học tập dượt, phân tích, đánh giá, tổng hợp tình huống nhằm giải quyết tích cực đúng và trúng các vấn đề đặt ra từ thực tiễn ở địa phương, đơn vị sau khi kết thúc khóa học. Tóm lại, việc đổi mới phương pháp giảng dạy và tìm ra phương pháp giảng dạy tích cực, phù hợp với đặc điểm đối tượng người học ở trường chính trị Hà Nam là một trong những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận, góp phần hình thành phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên - những người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam hiện nay. 2.2.2.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên ở Trường Chính trị Hà Nam có năng lực, phẩm chất chính trị vững vàng đảm bảo tốt công tác giảng dạy Việc xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường chính trị nói chung và Trường Chính trị Hà nam nói riêng, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới của đất nước thì một trong vấn đề quan trọng là từng bước chuẩn hóa đội ngũ này theo hướng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức cách mạng. Đây là một trong những giải pháp rất cơ bản nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, công tác đào tạo và nâng cao chất lượng, góp phần quan trọng giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ ở Hà Nam nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng trong tình hình hiện nay. Từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ giảng dạy ở Trường Chính trị Hà Nam đang là một đòi hỏi khách quan, điều đó xuất phát từ thực trạng đội ngũ cán bộ giảng dạy cũng như yêu cầu công tác giáo dục, đào tạo hiện nay. Trường Chính trị tỉnh Hà Nam là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. ở đó cán bộ có điều kiện tiếp cận nội dung kiến thức cơ bản để phục vụ hoạt động công tác của mình, trong đó cơ bản là lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương chính sách và Đảng Cộng sản Việt Nam, đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Đây là khối kiến thức chủ yếu chiếm trên 35% tổng quỹ thời gian đào tạo, bồi dưỡng, có vai trò quyết định đến việc hình thành, phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. Như vậy, đội ngũ cán bộ giảng dạy nói chung và đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin nói riêng có một vai trò quan trọng đặc biệt. Họ là những người trực tiếp truyền thụ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền đoàn thể, ... từ đó tạo lập lòng tin vững chắc vào cách mạng Việt Nam vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi thế giới quan duy tâm, tôn giáo, thế giới quan tiền khoa học, những căn bệnh ở cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Trên cơ sở niềm tin ấy, tạo ra một động lực thúc đẩy họ lãnh đạo quần chúng thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của đất nước và của tỉnh nhà. Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị được giao, từ đặc thù của đối tượng đào tạo, từ thực tiễn của tỉnh nhà, đội ngũ giảng dạy ở Trường Chính trị Hà Nam có một số đặc điểm công tác chủ yếu sau: Thứ nhất: Đội ngũ cán bộ giảng dạy ở trường Chính trị Hà Nam là những người hoạt động sư phạm. Với tư cách là nhà giáo dục, người cán bộ giảng dạy lý luận phải có phương pháp sư phạm tốt. Năng lực và trình độ chuyên môn của họ được thể hiện đậm nét ở phương pháp sư phạm. Nó không những đòi hỏi ở họ một trình độ tư duy lý luận sâu sắc, sự am hiểu rộng... mà còn đòi hỏi ở họ một nghệ thuật sư phạm, một khả năng diễn thuyết với ngôn ngữ trong sáng, ngắn gọn, trau chuốt... Có như vậy người cán bộ giảng viên ở trường chính trị mới truyền đạt đến người học một cách hấp dẫn và hoạt động dạy học mới có chất lượng, hiệu quả. Hay nói cách khác, để giảng dạy tốt, đòi hỏi người cán bộ giảng dạt phải có trình độ học vấn, năng lực tư duy lý luận nhất định, với tri thức thực tiễn phong phú kết hợp với quá trình học tập, rèn luyện lâu dài, dày công để có một phương pháp sư phạm đạt tới trình độ nghệ thuật. Sở dĩ với đòi hỏi như vậy bởi vì cán bộ giảng viên ở trường chính trị không chỉ giảng dạy lý luận chính trị đơn thuần mà còn phải hướng dẫn, thực hành cho học viên phương pháp hoạt động thực tiễn. Chính điều này khác với giảng viên ở các trường chuyên nghiệp là họ phải vươn lên vừa là người truyền đạt tri thức là người dẫn đường chứ không chỉ là người chèo đò, để trao cho học viên cái chìa khóa, phương pháp mở cửa chứ không phải là lý luận suông. Mặt khác, việc giảng dạy đối với các môn học ở chương trình còn đòi hỏi người dạy phải có năng lực trừu tượng hóa và khái quát hóa cao đặc biệt là đối với các môn lý luận Mác - Lênin. Có như vậy mới bồi dưỡng nâng cao thế giới quan và phương pháp luận khoa học cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cơ sở đến tỉnh. Trong những năm qua, mặc dù đội ngũ giảng dạy đã có những cố gắng, phấn đấu rất lớn, song họ vẫn còn những tồn tại hạn chế nhất định. Đặc biệt đối với đội ngũ giáo viên trẻ thì trình độ phương pháp sư phạm đang là một trong những vấn đề cần khắc phục cấp thiết. ở họ biểu hiện giữa tư duy và ngôn ngữ, giữa nội dung và phương pháp, giữa lý luận và thực tiễn... còn là một khoảng cách, độ "lệch pha" nhất định. Điều đó đã cản trở khả năng tiếp thu lý luận cũng như việc xây dựng, phát triển thế giới quan cho cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam nói riêng. Vì vậy, theo chúng tôi, đội ngũ giảng viên phải được tham gia các lớp tập huấn sư phạm định kỳ, giảng viên phải có các sách hướng dẫn giảng dạy từng môn học để họ có thể khắc phục sự khiếm khuyết hiện nay. Về lâu dài nhà trường phải có kế hoạch để nâng cao trình độ của giáo viên qua các khóa đào tạo cao học hoặc tiến sĩ trong đó cấp thiết nhất là đào tạo cao học. Thứ hai: Giảng viên ở trường chính trị Hà Nam không chỉ là nhà Sư phạm mà còn là người tham gia nghiên cứu khoa học. Xuất phát từ bản thân yêu cầu công tác trong nhà trường, người cán bộ giảng dạy phải kết hợp công tác giảng dạy với công tác nghiên cứu khoa học. Người cán bộ giảng dạy không chỉ nắm chắc các tri thức khoa học, nhất là của kiến thức chuyên môn đã được thể hiện ở trình độ nhận thức lý luận cũng như cách thức tiếp cận thực tiễn, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Chính thông qua nghiên cứu khoa học, người cán bộ giảng dạy mới hiểu sâu sắc thấu đáo hơn lý luận, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó bổ sung, phát triển lý luận lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Có tham gia nghiên cứu khoa học, người cán bộ giảng dạy mới sát thực tiễn, kịp thời phát hiện ra những vấn đề mới do cuộc sống sinh động đặt ra. Trên cơ sở ấy mà tìm cách lý giải về mặt lý luận và đề xuất những phương án giải quyết kịp thời. Như thế tức là hoạt động nghiên cứu khoa học thực hiện nguyên tắc lý luận thống nhất với thực tiễn, làm cho năng lực tư duy của người cán bộ giảng dạy cũng phát triển năng động sáng tạo và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo giảng dạy của mình. Như vậy, có thể khẳng định rằng nghiên cứu khoa học sẽ góp phần nâng cao tri thức khoa học cho người cán bộ giảng dạy - một bộ phận cơ bản, nền tảng của thế giới quan khoa học. Đối với Trường Chính trị Hà Nam trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học đã được quan tâm đặc biệt, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu không thể thiếu của nhiệm vụ công tác tư tưởng chính trị trong nhà trường. Mặc dù với một đội ngũ giảng viên còn mỏng, còn trẻ chỉ có 30% trình độ thạc sĩ, còn lại là đại học và cao đẳng nhưng nhà trường đã quyết tâm phát hành định kỳ "nội san thông tin - trao đổi" mỗi năm một số, với số lượng 300 cuốn/năm gửi tới các trường chính trị, các ban của Đảng trong tỉnh. Đặc biệt, nhà trường đã hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh với chủ đề: "Những giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ xã, thôn của tỉnh Hà Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" và hàng loạt các cuộc hội thảo với chủ đề như: "Quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo", "nâng cao chất lượng quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và phương pháp giảng dạy", "các biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo ở trường chính trị Hà Nam"... [44, tr.10; 12]. Tất cả những công việc đó đã đóng góp đáng kể vào thành tích chung của tỉnh nhà và của trường chính trị nói riêng, trong đó đã đem lại ý nghĩa to lớn cho việc nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn của cán bộ giảng viên góp phần tích cực vào công tác giảng dạy. Tuy nhiên, việc nghiên cứu khoa học của đội ngũ giáo viên còn rất hạn chế, số người tham gia viết nội san chỉ chiếm 40% trong tổng số cán bộ giảng dạy. Vì vậy, cần có những đề tài khoa học cơ sở, phù hợp với trình độ giáo viên hiện nay để có thể tham gia vào việc tổng kết thực tiễn hoặc làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản. Mặt khác, cần có những yêu cầu bắt buộc để các cán bộ, giảng viên có thể tham gia nghiên cứu khoa học hiện nay. Thứ ba: Đội ngũ giảng viên trường chính trị vừa là người hoạt động lý luận vừa là người hoạt động thực tiễn. Họ không chỉ truyền bá mà còn nghiên cứu, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, tham gia cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, đập tan những luận điểm sai trái, phản khoa học, góp phần củng cố địa vị chính trị, tư tưởng làm cho hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Vì vậy đòi hỏi người cán bộ giảng dạy phải có trình độ lý luận cao, thấu hiểu bản chất cách mạng, khoa học của thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng cũng như những tri thức của nhân loại, những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại… Là người làm công tác lý luận đồng thời là người hoạt động thực tiễn, cán bộ giảng viên ở trường chính trị không chỉ hội đủ các yếu tố, điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy lý luận khoa học và cách mạng mà phải thực sự là người hoạt động thực tiễn như tích cực nghiên cứu thâm nhập thực tế hiểu biết các lĩnh vực thực tiễn của xã hội đã và đang diễn ra; tham gia các hoạt động chính trị xã hội có thể đảm nhiệm một số chức vụ công tác Đảng, chính quyền đoàn thể chính trị xã hội…. Có như vậy hoạt động giảng dạy của người giáo viên ở trường chính trị không dừng lại ở "lý luận chay", "lý luận suông" mới thực sự đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vì vậy, địa phương và nhà trường cần tạo mọi điều kiện để giáo viên gắn bó với thực tiễn thông qua các biện pháp cụ thể như: Cử giáo viên mới đi thực tế địa phương từ 6 tháng đến 1 năm; thường xuyên cử giáo viên tham gia vào một số phong trào quần chúng quan trọng; sử dụng giáo viên vào việc xây dựng các chủ trương, chính sách của địa phương; thường xuyên thông tin cho đội ngũ giáo viên về những thành tựu và khó khăn của tỉnh. Đồng thời, người cán bộ giảng dạy phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện nâng cao trình độ lý luận và nắm bắt, xử lý các vấn đề của thực tiễn xã hội đặt ra. Tóm lại, từ những phân tích trên đây chúng ta thấy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở Trường Chính trị Hà Nam nói riêng và ở các trường chính trị nói chung đòi hỏi ở họ cần phải có học vấn sâu rộng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, năng lực lý luận và thực tiễn cao. Song bên cạnh các yếu tố đó, điều cực kỳ quan trọng nữa là xây dựng người cán bộ giảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, đồng thời có năng lực sư phạm đáp ứng yêu cầu đào tạo hiện nay. Bản lĩnh chính trị của người cán bộ giảng viên được biểu hiện ở sự giác ngộ sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thế giới quan và phương pháp luận khoa học; kiên định và bảo vệ con đường cách mạng Việt nam mà Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, vào sức mạnh đoàn kết của nhân dân; đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, không dao động, khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Phẩm chất đạo đức trong sáng của người cán bộ giảng viên là một nhân tố quan trọng để hình thành nên nhân cách của một nhà giáo dục chân chính. Nhân cách của người thầy tốt sẽ tác động tích cực đến nhân cách của người học. Bởi vậy, mỗi cán bộ giáo viên phải là một tấm gương trong sáng về phẩm chất đạo đức và tác phong làm việc, đó là: trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; yêu thương, quý trọng con người, sống giản dị, lành mạnh, khiêm tốn, say sưa nghiên cứu, học tập... kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực như: chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, cơ hội, tham quyền cố vị, tham ô lãng phí, độc lập, chuyên quyền, tự phụ... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Công việc thành công hay thất bại do cán bộ có đạo đức tốt hay kém" [34, tr. 273] và người dạy: "Nhiệm vụ của các cô giáo, thầy giáo rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Muốn làm tròn nhiệm vụ đó thì phải gương mẫu về mọi mặt, không ngừng bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lập trường chính trị, phải ra sức đoàn kết nhau cùng tiến bộ" [34, tr. 616]. Đạo đức và tác phong ấy phải được bộc lộ ra bằng công việc, hành động cụ thể, chứ không chỉ bằng những câu nói, bằng những lời hoa mỹ... Lênin đã từng viết: "Xét đoán một con người không nên căn cứ vào lời người đó nói hoặc nghĩ về bản thân người đó như thế nào, mà phải căn cứ vào hành động của người đó" [26, tr. 265]. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, những tiêu cực của kinh tế thị trường đã, đang ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức xã hội. Vì vậy, xây dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ trí thức nói chung và cán bộ giảng viên nói riêng là việc làm cấp thiết. Thực tế cho thấy, nếu có trình độ học vấn uyên bác, chuyên môn nghiệp vụ giỏi mà không có đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, không có ý chí và tình cảm cách mạng, thì người cán bộ rất dễ xa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, ích kỷ, thậm chí đi ngược lại lợi ích cộng đồng, phá hoại sự nghiệp cách mạng. Về xây dựng năng lực sư phạm của người cán bộ giảng viên là tổng hợp những phẩm chất cá nhân giúp cho hoạt động giảng dạy của họ nhanh chóng thành thạo và đạt hiệu quả cao, đáp ứng tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo giáo dục. Nó bao gồm năng lực giao tiếp, thuyết phục cảm hóa và định hướng đối tượng người học; năng lực thực hiện quy trình giảng dạy; năng lực phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực của người học. Tóm lại, trên đây là một số đặc điểm và yêu cầu xây dựng cơ bản đối với cán bộ giảng dạy ở trường Chính trị nói chung và trường Chính trị Hà Nam nói riêng. Song, để điều này thực sự là một giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, giáo dục nói chung và thế giới quan khoa học nói riêng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; ngoài việc định hướng tư tưởng và sự nỗ lực phấn đấu vươn lên trong học tập và rèn luyện về mọi mặt của mỗi cán bộ giảng dạy, cần có sự quan tâm thiết thực của tổ chức cũng như sự đổi mới, hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và chính sách cán bộ. Bên cạnh việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách cán bộ chung áp dụng trong toàn quốc, lãnh đạo Trường Chính trị tỉnh Hà Nam và các cấp lãnh đạo có liên quan của tỉnh cần quan tâm, đổi mới, hoàn thiện hơn nữa chính sách cán bộ, tập trung vào một số mặt cụ thể như: chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ giảng dạy ở trường chính trị, đảm bảo việc tuyển chọn và sử dụng cán bộ giảng dạy một cách phù hợp, đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ; có chính sách đãi ngộ đối với cán bộ giảng dạy, đặc biệt đối với cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin. Hiện nay, những vấn đề trên đang còn những hạn chế, bất cập. Vì vậy, việc đổi mới, hoàn thiện đó sẽ tạo ra điều kiện, động lực thúc đẩy xây dựng, phát triển hơn nữa đội ngũ cán bộ giảng dạy trong Trường Chính trị Hà Nam hiện nay, đáp ứng tốt mục tiêu đào tạo và giáo dục thế giới quan khoa học. 2.2.2.3. Từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất, nhằm phục vụ tốt công tác đào tạo, giáo dục trong nhà trường Trong trường học thì cơ sở vật chất có vai trò quan trọng đối với công tác đào tạo. Cơ sở vật chất không phải là yếu tố quyết định nhưng việc hoàn thiện nó có ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như chất lượng mục tiêu giáo dục đào tạo, trong đó có mục tiêu về giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan khoa học. Cơ sở vật chất trong một trường học bao gồm nhiều yếu tố, liên quan đến từng khâu, từng bộ phận, tạo ra một guồng máy hoạt động thường xuyên liên tục, diễn ra trên bình diện chung của nhà trường. Để hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu của người giáo viên và người học có chất lượng cao thì không chỉ là khả năng, sự nỗ lực của nhân tố chủ quan những con người đó, mà còn là sự đảm bảo tốt của các điều kiện khách quan về cơ sở vật chất như: giảng đường, bàn ghế, loa đài, ánh sáng, tài liệu, sách báo... những yếu tố đó có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng dạy và học. Ngoài ra trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, nhà trường phải tạo đều kiện hoàn thiện cả cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu nơi ăn, chốn ở, khu vui chơi giải trí để rèn luyện thể chất, nâng cao trí lực của người giáo viên và học viên. Đến nay, cơ sở vật chất của Trường Chính trị Hà Nam về cơ bản đã từng bước đáp ứng yêu cầu phục vụ dạy và học. Nhưng một trong những tồn tại lớn hiện nay của nhà trường là việc xây dựng, hoàn thiện thư viện chưa thực sự đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của giảng viên và học viên. Mà ở đó là nguồn tư liệu quan trọng góp phần hình thành, phát triển thế giới quan khoa học cho học viên. Theo thống kê hiện nay, nhà trường chỉ có một thư viện dành riêng cho cán bộ giảng dạy với 1.250 đầu sách, còn phòng đọc của học viên chỉ có những đầu báo, tạp chí ít ỏi, không đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu học tập của họ. Vì vậy, để đảm bảo tính toàn diện, thiết thực thì một trong những giải pháp quan trọng để xây dựng thế giới quan khoa học cho học viên là nhà trường cần tăng cường hơn nữa các đầu sách báo đa dạng, phong phú đáp ứng cho cả người học và người dạy. Đặc biệt, tăng cường nguồn tài liệu về lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vì đây là khối kiến thức chủ yếu trong chương trình, chiếm thời gian lớn trong tổng số quỹ thời gian. Khối kiến thức này có tính nền tảng không chỉ nhằm hình thành và phát triển hơn nữa thế giới quan, phương pháp luận khoa học mà còn là cơ sở giúp cho người học tiếp thu tốt hơn các văn kiện, đường lối, chính sách, pháp luật và các kiến thức có liên quan khác. Trên cơ sở đó giúp cho người cán bộ lãnh đạo quản lý nâng cao hơn nữa niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước ta đã lựa chọn cũng như việc nhận thức đúng đắn, bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng vào thực tiễn công tác của mình, góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức và lối sống của cán bộ đảng viên, đó là: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, có ý thức tổ chức kỷ luật, đấu tranh phê bình và tự phê bình, có quan hệ gần gũi với nhân dân. 2.2.2.4. Phối hợp nhà trường tới địa phương trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ Trong những năm qua sự phối hợp nhà trường với địa phương về công tác đào tạo và sử dụng cán bộ đã đạt những kết quả to lớn, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn đổi mới. Vì vậy việc đào tạo và sử dụng cán bộ cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả thực tế. Điều đó cũng có nghĩa là đã tạo điều kiện thuận lợi để người cán bộ nâng cao khả năng tiếp thu lý luận khoa học, trình độ chuyên môn, trong đó có thế giới quan duy vật biện chứng. Quy hoạch đào tạo cán bộ và quy hoạch sử dụng cán bộ phải có liên quan chặt chẽ với nhau. Đây là hai khâu cơ bản trong chính sách cán bộ, có ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu chuẩn, chất lượng cán bộ và hoạt động công tác thực tiễn của người cán bộ. Lâu nay, trong vấn đề này, ở Hà Nam đã vấp nhiều khuyết điểm, chưa tháo gỡ kịp thời, tích cực, hậu quả đã dẫn đến hai hiện tượng chủ yếu sau: Một là, việc quy hoạch đào tạo cán bộ đi học không đúng chuyên môn, ngành nghề được đào tạo cho nên đã dẫn tới hiệu quả công tác thấp, thậm chí khó lường những tiêu cực xảy ra, mài mòn dần kiến thức đã đào tạo. Hai là, việc đào tạo không đúng đối tượng, đúng người cần đào tạo hoặc không đủ tiêu chuẩn được đi học... nên đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp nhận tri thức khoa học, tư duy lý luận, về kiến thức chuyên môn,đặc biệt là đối với các môn học Mác - Lênin đòi hỏi người học phải có trình độ học vấn nhất định, phải có khả năng tư duy trừu tượng và khái quát hóa cao. Chính điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo cũng như hiệu quả tiếp thu thế giới quan duy vật biện chứng. Mặt khác, hiện nay ở một số địa phương, đơn vị còn có quan niệm rằng nếu đã được đào tạo lý luận Mác - Lênin ở trường chính trị tỉnh thì có thể sử dụng được trong bất cứ ngành và bộ phận nào và một điều đặc biệt là những cán bộ này luôn được bố trí ở những cương vị lãnh đạo, quản lý ngay sau khi đi học về. Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII) đã chỉ rõ: Công tác đào tạo bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo cán bộ chậm đổi mới, buông lỏng giáo dục rèn luyện lập trường giai cấp và đạo đức cách mạng. Hệ thống đào tạo chưa hợp lý, việc chiêu sinh, thi tuyển công nhận tốt nghiệp, quản lý văn bằng, chứng chỉ, học hàm học vị thiếu chặt chẽ [13, tr. 27]. Biểu hiện trên còn tồn tại ít nhiều ở các khía cạnh trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ ở Trường Chính trị Hà Nam hiện nay. Những thiếu sót đó cần được khắc phục và cụ thể hóa trong các quy chế của nhà trường và chính sách cán bộ ở các địa phương. Trong đó, nhà trường và các địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa nâng cao chất lượng khâu đầu vào. Dựa trên quy hoạch cán bộ của tỉnh cần thực hiện tốt quy chế tuyển sinh, việc cử người đi học phải đảm bảo đúng đối tượng, đủ tiêu chuẩn. Người học khi vào trường phải thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, chế độ học tập, sinh hoạt cũng như quy chế kiểm tra thi cử đặc biệt các địa phương cần phối hợp, tạo điều kiện để học viên, cán bộ nhà trường đi thực tế, nghe báo cáo nói chuyện về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Có như vậy mới nâng cao được nguyên tắc thống nhất lý luận đối với thực tiến. Mặt khác, cần có sự phối hợp, thống nhất giữa nhà trường và địa phương về việc quy định trong thời gian bao lâu sau khi tốt nghiệp ra trường, người học phải quay lại trường tập huấn, bồi dưỡng kiến thức để cập nhật tri thức mới, nâng cao thế giới quan khoa học. Bên cạnh những yêu cầu phát triển các vấn đề trọng tâm, nhà trường và các đơn vị địa phương cần thực hiện tốt chính sách đãi ngộ đối với việc xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là đòn bẩy, là động lực trực tiếp đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, thế giới quan duy vật biện chứng cho họ. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần quan tâm hơn nữa về lợi ích vật chất và tinh thần của họ. Sự quan tâm ấy phải được thể hiện trong chế độ tiền lương, phụ cấp đi học, hình thức khen thưởng, sắp xếp công việc hợp lý và có thời gian phù hợp để tạo điều kiện cho họ yên tâm say mê học tập, nghiên cứu. Như vậy, trước đòi hỏi của thực tiễn đổi mới đất nước cũng như yêu cầu cải cách công tác đào tạo và giáo dục trường chính trị và các địa phương liên quan cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ. Làm được như vậy chúng ta mới hy vọng có thể từng bước xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa có trình độ lý luận, thế giới quan khoa học vừa có trình độ nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức cách mạng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tóm lại, cùng với việc quán triệt nhiệm vụ bồi dưỡng thế giới quan trong tất cả các môn học, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, xem nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học là nhiệm vụ trọng tâm cơ bản, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và địa phương trong công tác đào tạo là những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên ở Trường Chính trị Hà Nam, nhất là học viên là những người đang làm công tác lãnh đạo, quản lý. Phương hướng và giải pháp ấy phải được tiến hành đồng bộ và nhất quán, nếu không thì khó có thể đạt kết quả cao trên thực tế. Kết luận Trong thời kỳ thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và trên thế giới, Đảng ta đã có đường lối chính trị đúng đắn đưa đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho được sự thành công ấy là cán bộ, đảng viên phải có một thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng luôn chú trọng bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho toàn xã hội và đội ngũ cán bộ của Đảng. Việc kiên định lập trường, mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ cán bộ được vũ trang thế giới quan khoa học đến mức độ nào. Việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp họ hiểu được sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng; giúp họ nâng cao trình độ lý luận và năng lực tổng kết thực tiễn; nâng cao phẩm chất chính trị đạo đức cách mạng..., từ đó họ có thể tin tưởng và vận dụng sáng tạo đường lối chính trị của Đảng vào thực tiễn địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Hà Nam là một tỉnh nằm ở khu vực đồng bằng sông Hồng, có vị trí quan trọng ở cửa ngõ phía nam Thủ đô. Đội ngũ cán bộ ở Hà Nam nói chung và cán bộ quản lý lãnh đạo nói riêng đã có vai trò to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, họ vẫn là những người cách mạng tiên phong. Nhưng những điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa truyền thống tập quán... đã ảnh hưởng đến tư tưởng đội ngũ này, một trong những vấn đề đó là thế giới quan của họ. Trường Chính trị tỉnh Hà Nam là trung tâm đào tạo đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở của tỉnh Hà Nam (trừ đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện và cấp tỉnh), với nhiều hình thức đào tạo đa dạng phong phú. Trong những năm qua, công tác đào tạo bồi dưỡng lý luận ở trường chính trị đã đạt được những thành tích đáng kể, đóng góp không nhỏ vào thắng lợi chung của tỉnh. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng còn những hạn chế nhất định. Để nâng cao chất lượng công tác giáo dục bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng ở Trường Chính trị Hà Nam đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cần phải có những giải pháp tích cực: đổi mới nội dung phương pháp giảng dạy đặc biệt là giảng dạy triết học; nâng cao trình độ lý luận và phẩm chất đạo đức cách mạng ở đội ngũ cán bộ giảng viên ở nhà trường; từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất; phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường với địa phương trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ. Cần thấy rằng, việc tiến hành đồng bộ giải pháp cơ bản ấy chính là nhằm tạo ra những điều kiện khách quan cần thiết trong công tác đào tạo, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Nhưng bên cạnh đó, điều có ý nghĩa quan trọng là phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan - đó là tính năng động, sáng tạo, say mê, tự giác học tập, rèn luyện trau dồi phẩm chất đạo đức, năng lực tư duy lý luận... của mỗi người học viên. Có như vậy thì chủ trương nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ này không dừng lại trên lý thuyết sách vở và mới thực hiện có hiệu quả. danh mục Tài liệu tham khảo 1. Akitốp (1985), Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Khoa học, Mátxcơva. 2. Ph. Ăngghen (2004), Chống Đuy-rinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. PTS. Hoàng Anh - PTS. Nguyễn Kim Thanh (1997), Giao tiếp sư phạm, (chương trình giáo trình Đại học), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Nam, Sổ tay báo cáo viên, Hà Nam 5. PTS. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên) (2000), Những bài giảng về môn tư tưởng Hồ Chí Minh, tái bản có bổ sung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. PTS. Nguyễn Ngọc Bảo - PTS. Ngô Hiệu (1997), Tổ chức hoạt động dạy học ở các trường Trung học (chương trình, giáo trình Đại học), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 7. Phan Văn Các (1994), Từ điển Hán Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Nguyễn Thị Kim Chung, "Chủ nghĩa Mác - Lênin và thời đại của chúng ta" (1993), Tạp chí Cộng sản, (12). 9. GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn - TS Đỗ Minh Hợp (2002), Triết học pháp quyền của Hêghen (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng bộ huyện Kim Bảng (1996), Lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Kim Bảng (1930 - 1995), (sơ thảo), Công ty In Hà Nam. 11. Đảng bộ tỉnh Hà Nam (2000), Lịch sử đảng bộ tỉnh Hà Nam (1927 - 1975), tập I, Công ty In Hà Nam. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. G. Gertx (1982), Triết học mácxít và tri thức khoa học tự nhiên, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 17. Nguyễn Hùng Hậu (Minh Không) (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 18. GS. Đặng Vũ Hoạt - PGS. Nguyễn Sinh Huy - TS. Hà Thị Đức (1997), Giáo dục học đại cương, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình "Đạo đức học", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình triết học Mác - Lênin (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Huyện ủy Duy Tiên (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện Duy Tiên (1930 - 1954), (sơ thảo), Công ty In Hà Nam. 23. Bùi ỉnh (1988), Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ, đảng viên dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Luận án Phó tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 24. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 25. V.I. Lênin (1980) Toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 26. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 27. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 28. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 29. C. Mác - Ph. Ăngghen (1980), "Luận cương về Phơ-bách, Tuyển tập, Nxb Sự thật 30. C. Mác - Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. C. Mác - Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. ThS. Nguyễn Thị Tuyết Mai, Đề cương bài giảng phần lý luận dạy học (2000), Phân viện Hà Nội. 33. Hồ Chí Minh (1980), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) (2001), một số vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Những nghiên cứu về xã hội học về cơ cấu xã hội và chính sách xã hội (1997), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 38. PGS.TS Tô Huy Rứa - PGS.TS Trần Khắc Việt (Đồng chủ biên) (2003), Làm người cộng sản trong giai đoạn hiệnnay (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Minh Tâm (Chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh Hóa. 40. Lê Huy Tần (1998), "Triết học Mác - Lênin và chức năng phương pháp luận của nó trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn", Triết học, (2). 41. Tỉnh ủy Hà Nam (2000), Các văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Hà Nam. 42. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường chính trị tỉnh, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 43. Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Trường Chính trị tỉnh Hà Nam (2004), Quyết định 88/QĐ-TW ngày 5/9/1994 của Ban Bí thư Trung ương với việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho hệ thống chính trị cơ sở ở Hà Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học. 45. Từ điển triết học (1985), Nxb Sự thật, Hà Nội. 46. Trần Ngọc Uẩn (2000), "Xây dựng chương trình và biên soạn giáo trình cho hoạt động đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố", Thông tin công tác trường chính trị, (1), Số đặc biệt. 47. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995), Một vấn đề triết học Mác - Lênin với công cuộc đổi mới, Hà Nội. 48. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Mục Lục Trang mở đầu 1 Chương 1: thế giới quan của đội ngũ cán bộ tỉnh hà nam hiện nay 6 1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với công tác lãnh đạo, quản lý 6 1.2. Đặc điểm của thế giới quan của đội ngũ cán bộ tỉnh Hà Nam 25 1.3 Một số biểu hiện đặc thù thế giới quan của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam 39 Chương 2: Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan cho học viên ở trường chính trị Hà nam hiện nay - thực trạng và giải pháp 47 2.1. Việc bồi dưỡng thế giới quan ở Trường Chính trị Hà Nam và những vấn đề đặt ra 47 2.2. Những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên ở Trường Chính trị Hà Nam 55 Kết luận 85 danh mục tài liệu tham khảo 87

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay.pdf
Luận văn liên quan