Liên minh Châu Âu ( EU ) là một trong những siêu cường kinh tế và
từ năm 1999 nó trở nên mạnh hơn khi đồng tiền chung Châu Âu thống
nhất được áp dụng. Nhiều quốc gia thành viên EU từ lâu đã là các nhà đầu
tư lớn trên thế giới và trong những năm gần đây họ có vị trí ngày càng
quan trọng ở Việt Nam, đặc biệt sau khi hiệp định hợp tác Việt Nam – EU
được ký năm 1995.
104 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2542 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài của Liên minh Châu Âu vào Việt Nam trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Đầu tư vào KHCN của
các quốc gia tăng lên và sự cạnh tranh nhiều mặt của KHCN ngày càng
gay gắt để giành ưu thế trong cuộc chạy đua. Trong tiến tình đó, sự phát
triển của KHCN sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá
trình đổi mới kỹ thuật, quá trình điều chỉnh đầu tư của các quốc gia EU,
khi đó các quốc gia này sẽ có nhu cầu mạnh mẽ và chuyển giao công nghệ
lạc hậu sang nước kém phát triển hơn. Từ đó, tạo những cơ hội thuận lợi
cho Việt Nam vừa tranh thủ “đón đầu đi tắt” vừa tranh thủ hợp tác tiếp
nhận có chọn lọc KHCN tiên tiến của các nước EU thông qua hoạt động
FDI, nhằm phục vụ thành công quá trình CNH- HĐH đất nước.
b. Một số thách thức gây khó khăn cho Việt Nam trong việc thu hút FDI
từ EU
Có thể nói lợi thế lớn nhất hấp dẫn FDI của các nước ASEAN trong
đó có Việt Nam vẫn còn tương đồng nhau, tức là dựa vào lợi thế so sánh
về nguồn tài nguyên thiên nhiên và giá lao động rẻ. Vì thế, ở một mức độ
nhất định, có thể nhận định rằng các nước cạnh tranh thu hút FDI nhiều
hơn và hợp tác đầu tư lẫn nhau. Và mức độ cạnh tranh đó càng trở nên
gay gắt hơn sau cuộc khủng hoảng của khu vực, vì các nước trong khối
đều có nhu cầu lớn về vốn để khôi phục nền kinh tế đất nước nên đã tăng
cường cải thiện môi trường đầu tư của mình, đặc biệt là để khai thác mạnh
mẽ hơn nữa nguồn vốn đầy tiềm năng của các nước EU. Kết quả là Việt
Nam phải chịu một sự cạnh tranh rất gay gắt về thu hút FDI với chính các
nước trong khu vực.
Việc tham gia vào AFTA một mặt sẽ góp phần làm tăng khả năng thu
hút FDI, nhưng mặt khác nó có thể làm cản trở hoạt động FDI của các
công ty đa quốc gia của EU. Một động cơ thúc đẩy các công ty này vào
các nước đang phát triển như Việt Nam là sự độc quyền chiếm lĩnh thị
trường để có thể được lợi nhuận độc quyền cao. Nhờ vào hàng rào thuế
quan của nước chủ nhà, nên các công ty này không vấp phải cạnh tranh.
Khi tham gia vào AFTA, Việt Nam sẽ thực hiện cắt giảm thuế quan
(xuống chỉ còn từ 0- 5%) đối với các hàng hoá được sản xuất ra trong các
nước ASEAN. Như vậy là nền kinh tế không còn hàng rào bảo vệ mậu
dịch che chắn, điều đó làm giảm, thậm chí loại bỏ quyền lực độc quyền
của các công ty đa quốc gia EU đang đầu tư và sẽ đầu tư ở Việt Nam, và
Trang 80
chắc chắn sẽ làm giảm phần nào động cơ đi đầu tư của các công ty đa
quốc gia của EU.
2.2. Mục tiêu và phương hướng thu hút FDI của EU ở Việt Nam giai
đoạn 2001- 2010
a. Mục tiêu về vốn thực hiện FDI
ã Cơ sở tính toán (con số thực tế mà FDI nói chung đã thực hiện được
trong những năm qua sẽ làm cơ sở để dự báo nhu cầu FDI trong 10 năm
tới).
Theo tính toán của Vụ Đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư thực hiện
(VTH) những năm 1991- 1992 còn rất nhỏ do những dự án mới được cấp
giấy phép đầu tư ; nhưng từ năm 1993, vốn thực hiện đã tăng nhanh
chóng đạt gần 1,1 tỷ USD vào năm 1993 và 2,67 tỷ USD vào năm 1995.
Tổng vốn thực hiện thời kỳ 1991- 1995 là 6,323 tỷ USD.
Đến giai đoạn 1996- 2000, mục tiêu kế hoạch đặt ra trong thời kỳ này
nguồn vốn FDI thực hiện phải đạt khoảng 12- 13 tỷ USD. Trong 3 năm
1996- 1998 vốn FDI thực hiện đạt khoảng 7,85 tỷ USD, mà đỉnh cao năm
1997 đạt 3,25 tỷ USD. Như vậy vốn thực hiện thời kỳ 1996- 2000 chỉ đạt
10,25 tỷ USD (so với mục tiêu 13 tỷ USD thì hụt 2,75 tỷ USD).
Có thể thấy FDI trong những năm 1995- 1996- 1997 là đỉnh cao của
10 năm thu hút FDI, do đó mục tiêu thu hút 13 tỷ USD vốn FDI thực hiện
là được trong bối cảnh lạc quan đó. Song mục tiêu này không đạt được do
nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng
kinh tế khu vực cũng như tính hấp dẫn của thị trường mới mở ra cũng chỉ
tồn tại được 6- 7 năm vì sau đó nhiều lĩnh vực đầu tư đã bị bão hoà. Ngoài
ra còn do tốc độ của nền kinh tế bị chững lại và suy giảm, do môi trường
đầu tư yếu kém, khắc phục chậm và không có tính hệ thống do các dự án
FDI ở Việt Nam phần lớn làm ăn không hiệu quả nên kém hấp dẫn với
đầu tư mới.
Tuy vậy việc đạt được vốn thực hiện 5 năm 1996- 2000 trên 10 tỷ
USD, bình quân trên 2 tỷ USD/năm là một cố gắng lớn. Nguồn vốn này
bình quân chiếm 8- 10% GDP cả nước là tỷ lệ rất cao so với các nước
đang phát triển khác. So với tổng đầu tư toàn xã hội, tỷ lệ vốn FDI thực
hiện chia bình quân khoảng 26% trong thời kỳ 1996- 2000.
Trang 81
ãDự báo với kết quả của 10 năm đổi mới sự ổn định về chính trị, kinh
tế đất nước không những đã làm yên lòng các nhà đầu tư mà còn tạo cho
Việt Nam những thế và lực mới bước sang thế kỷ 21. Đặc biệt việc tiếp
tục đường lối đổi mới, kiên trì thực hiện và nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, không ngừng hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách theo
hướng thông thoáng, hấp dẫn phù hợp với thông lệ quốc tế... sẽ làm cho
Việt Nam tiếp tục là địa bàn được giới đầu tư quốc tế nói chung, EU nói
riêng quan tâm.
Tuy vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn có nguy cơ tụt hậu so với
nhiều nước trong khu vực, nền kinh tế còn nhiều yếu kém, các cân đối
chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã chững lại, cộng thêm
những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng khu vực... Do đó, chúng ta
rất cần vốn, đặc biệt là FDI, để khắc phục những yếu kém của nền kinh tế
đất nước, đồng thời tận dụng những thuận lợi cũng như những cơ hội của
mình để có thể thực hiện thành công quá trình CNH- HĐH, đưa đất nước
trở thành một nước công nghiệp chính thức vào năm 2010.
Trong 10 năm tới, dựa vào bối cảnh nền kinh tế đất nước và nhu cầu
về vốn FDI, theo dự báo của vụ đầu tư nước ngoài, Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng và nhu cầu về vốn FDI như sau:
Bảng 14. Dự báo tốc độ tăng trưởng và nhu cầu vốn FDI của Việt Nam
Năm
Chỉ tiêu
2001 - 2005 2006 - 2010
Tốc độ tăng GDP (%) 6,5 6,5
Tỷ lệ đầu tư so với GDP (%) 30 - 31 30 - 31
Tỷ lệ FDI/tổng đầu tư toàn xã hội (%) 20 - 23 20 - 23
Vốn FDI thực hiện (tỷ USD) 10,4 - 12,0 15,3 - 17,5
Vốn FDI bình quân năm (tỷ USD) 2,0 - 2,4 3,0 - 3,5
Nguồn : Vụ Đầu tư nước ngoài (MPI)
Như vậy, trong thời gian tới vốn thực hiện FDI đạt từ 25,7- 29,6 tỷ
USD, tức bình quân mỗi năm đạt 2,5- 2,9 tỷ USD. Với tốc độ vốn thực
hiện chỉ bằng khoảng 43% vốn đăng ký như giai đoạn vừa qua thì trong
10 năm tới, ước tính chúng ta phải thu hút được khoảng 60 tỷ USD, và
việc tăng cường thu hút FDI từ EU là một điều rất cần thiết, nếu đặt trong
bối cảnh nền kinh tế Châu Á đang trong thời kỳ phục hồi sau khủng
Trang 82
hoảng (từ đó vừa làm giảm FDI vào Việt Nam, vừa tăng tính cạnh tranh
về thu hút FDI trong khu vực) và vốn FDI của EU vẫn còn ở con số còn
rất hạn chế.
Với FDI của EU chỉ đạt 12,2% vốn FDI của cả nước trong giai đoạn
vừa qua, thì trong 10 năm tới, Việt Nam cần thu hút được từ 8- 20 tỷ USD
vốn FDI của các nhà đầu tư EU (chiếm khoảng 13- 33% vốn FDI của Việt
Nam). Có như vậy, vốn FDI của các nhà đầu tư EU mới dần xứng với
tiềm năng về vốn cũng như kỹ thuật của chính họ.
b. Phương hướng thu hút FDI từ EU trong giai đoạn 2001- 2010 của Việt
Nam
Để thu hút FDI hiệu quả, phát triển cân đối, đồng đều trong cơ cấu
các ngành kinh tế của cả nước, thì bên cạnh việc tranh thủ thu hút vốn từ
các nước ASEAN và các nước trong khu vực vào các ngành nghề sử dụng
nhiều lao động (đây là sự chuyển dịch tất yếu trong xu thế phát triển
mạnh mẽ khoa học công nghệ trên thế giới) thì cần tranh thủ khai thác
những mặt mạnh của EU và các lĩnh vực sau:
+ Kỹ thuật tiên tiến trong cơ khí, chế biến nông sản, dệt , may mặc,
lắp ráp ô tô, điện tử.
+ Kinh nghiệm quản lý kinh tế và sản xuất công nghiệp.
+ Tranh thủ đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia của EU.
Tranh thủ đầu tư kỹ thuật của EU cho các ngành hàng xuất khẩu của Việt
Nam như nông, lâm, hải sản, dệt, may mặc, thủ công mỹ nghệ...
Cần khai thác thế mạnh về vốn và kỹ thuật của các công ty vừa và nhỏ
của EU. Thực vậy, các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ, mô hình phát
triển năng động nhất của nền kinh tế Châu Âu chưa tìm được chỗ đứng
cho mình tại thị trường Việt Nam. Các công ty này chưa thích nghi được
với thị trường, cung cách hoạt động kinh doanh cũng như sự phối hợp
điều hành giữa các doanh nghiệp Việt Nam nên gặp nhiều khó khăn. Họ
còn chịu sức ép cạnh tranh và còn nhiều điều phải học hỏi ở các công ty
Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ... trong việc thâm nhập thị trường tiêu thụ và
sản xuất hàng hoá trong nước, trong đầu tư tài chính trọn gói cũng như
đầu tư vào các ngành sản xuất công nghiệp mang tính dài hạn. Chắc chắn
các công ty vừa và nhỏ của EU sẽ dần khẳng định được vị trí đầu tư của
mình trong tương lai trên thị trường Việt Nam, nếu bên Việt Nam tích cực
Trang 83
cải thiện môi trường đầu tư, tạo được sự thân thiện cũng như giúp các
công ty của EU có thể hoà nhập được với môi trường đầu tư của Việt
Nam.
- Khuyến khích các dự án đầu tư hướng ra xuất khẩu, đặc biệt chú ý
khai thác chính thị trường của EU. Một thị trường EU thống nhất của 15
quốc gia với sức mua lớn sẽ là thách thức và cơ hội cho các dự án đầu tư
của EU tại Việt Nam. Điều này có nghĩa là sẽ khắc phục được nhược
điểm của đầu tư EU tại Việt Nam là sản xuất ra các sản phẩm chủ yếu
phục vụ nhu cầu trong nước đồng thời giúp Việt Nam thực hiện tốt chính
sách: “Sản xuất hướng về xuất khẩu” một mục tiêu đang được đặt ra hiện
nay. Sẽ là cơ hội cho FDI của EU nếu như Việt Nam biết tranh thủ đầu tư
kỹ thuật của EU cho các ngành hàng xuất khẩu của mình, đặc biệt là các
ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Nhưng cũng là thách thức nếu
như sản phẩm của Việt Nam không đáp ứng được những quy định về chất
lượng, mẫu mã phù hợp với tiêu chuẩn Châu Âu vì người tiêu dùng ở đây
rất khó tính. Do vậy, dùng chính các dự án đầu tư làm trung gian để đi tới
khai thác thị trường EU là rất thiết thực trong việc tìm kiếm thị trường
xuất khẩu cho hàng Việt Nam. Hơn ai hết, các chủ đầu tư sẽ hiểu rõ thị
trường và sở thích của các nước EU.
II. Triển vọng hợp tác đầu tư trực tiếp nước ngoài- EU
1. Triển vọng về kinh tế Châu Âu
Ngày 14/04/2000, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Đức Bundesbank-
Ông Ernst Welteke cho rằng lãi suất cao do Ngân hàng Trung ương Châu
Âu (ECB) vừa công bố không kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế của 11
nước thuộc khu vực sử dụng đồng EURO, sự thanh toán qua đồng tiền
chung Châu Âu vẫn mạnh. Mặc dù ECB đã ba lần thắt chặt các điều kiện
tín dụng ở khu vực sử dụng đồng EURO kể từ tháng 11- 1999 nhằm tránh
nguy cơ bùng nổ lạm phát do giá dầu trên thế giới tăng và đồng EURO
mất giá. Lãi suất của khu vực sử dụng đồng EURO hiện nay cao hơn hồi
tháng 11- 1999, nhưng lãi suất tái cấp vốn chủ chốt hiện nay ở mức 3,5%
so với 2,5% trước đây.
Các nhà phân tích kinh tế lạc quan nói rằng xu hướng đi lên của nền
kinh tế Châu Âu vẫn tiếp tục. Chủ tịch ECB- Wan Duisenberg nói: “Nhìn
Trang 84
lại hơn một năm sau khi đồng EURO ra đời, chúng ta có những lý do để
hài lòng”. Ngân hàng này chủ yếu đạt được mục tiêu của mình là ổn định
giá cả, với tỷ lệ lạm phát của khu vực sử dụng đồng EURO chỉ hơn 1%
trong năm 1999. Theo ông Duisenberg, ECB sẽ tiếp tục giải thích tầm
quan trọng của mục tiêu hàng đầu của khu vực sử dụng đông tiền chung là
duy trì ổn định giá cả và sẽ thực hiện chính sách tiền tệ hợp lý.
Dự báo kinh tế của Uỷ ban Châu Âu (EC), với mức tăng trưởng kinh
tế trong khu vực đồng EURO cũng như trong 15 nước EU có thể đạt 3,1%
trong năm 2001. Mức tăng trưởng của Đức, Pháp, hai nước có nền kinh tế
lớn nhất trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu lạc quan hơn nhiều so
với năm ngoái.
GDP của Pháp năm 2000 tăng 3,7% và năm 2001 tăng 3,2% so với
2,9% dự đoán năm ngoái. Theo Viện thống kê quốc gia Pháp (INSEE).
Việc tạo ra nhiều chỗ việc làm trong 6 tháng đầu năm 2000 sẽ giúp giảm
tỷ lệ thất nghiệp xuống 10% vào giữa năm 2000.
GDP của Đức trong năm 2000 tăng 2,9% so với 2,6% và sẽ tăng
2,7%vào năm 2001.
Các nhà kinh tế chỉ trích việc tăng lãi suất lại nói rằng việc thắt chặt
các khoản tiền lương, ECB sẽ cản trở phục hồi kinh tế trong khu vực. IMF
đã cảnh báo rằng ECB nên thận trọng không kìm hãm kinh tế của khu vực
đồng EURO bằng cách nâng lãi suất quá nhanh. Trong khi ECB cần duy
trì mục tiêu chống lạm phát, thì điều quan trọng hiện nay là tranh cản trở
sự tiếp tục phục hồi kinh tế thông qua việc thắt chặt chính sách tài chính.
Thất nghiệp và tình trạng nhập siêu trong buôn bán là hai vấn đề đau
đầu đối với các nhà hoạch định chính sách kinh tế của EU. Sức ép của
lạm phát còn dai dẳng, những nguy cơ lạm phát xuất hiện chủ yếu do giá
dầu mỏ tăng mạnh và giá nhập khẩu hàng hoá từ khu vực khác vào EU
tăng vì đồng EURO mất giá mạnh so với đồng USD và đồng Yên. Ngoài
ra còn có những yếu tố khác ảnh hưởng đến đồng EURO nằm trong chính
khu vực này như việc cải cách cơ cấu kinh tế, những bất ổn về chính trị,
sự bất ổn trong vấn đề mở rộng Liên minh Châu Âu...
2. Đặc điểm của các nhà đầu tư EU
Ở Việt Nam, vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu do các công ty xuyên
quốc gia thực hiện, là nguồn vốn quan trọng để tiến hành công nghiệp hoá
Trang 85
đất nước. Tuy vậy cho đến nay, trong số các nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam thì sự xuất hiện của TNCs chưa nhiều. Có thể thấy các công ty
xuyên quốc gia có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy lưu chuyển dòng
vốn FDI trên thế giới. Các công ty xuyên quốc gia, đặc biệt các công ty
xuyên quốc gia lớn của các nước phát triển như các nước trong khối EU,
có thế mạnh trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Bởi vì các
công ty xuyên quốc gia thuộc các nước phát triển này có trình độ khoa
học công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất.
Các tác nhân Châu Âu ở các cấp độ khác nhau (Uỷ ban Châu Âu, các
chính phủ, các doanh nghiệp) đang thực hiện những chiến lược khác nhau
đối với khu vực Châu Á: chiến lược có tính chất phòng thủ của EU, chiến
lược có tính chất tiến công hơn phân tán. Việt Nam là một nước trong khu
vực Châu Á, nên Việt Nam cũng trong các chiến lược trên của EU.
Khác với các công ty Châu Âu, các công ty Nhật Bản và các công ty
Mỹ đã có tầm nhìn chiến lược dài hạn ở Châu Á. Các công ty của Mỹ và
Nhật thực hiện chính sách thiết lập rộng rãi cơ sở ở Châu Á để tận dụng
sự nhất thể hoá ở vùng lân cận với Nhật Bản, thì các công ty Mỹ lại thực
hiện những chiến lược chuyển giao công nghệ từ Mỹ vào các nước Châu
Á. Những chiến lược này có một qui mô toàn cầu. Sự gia tăng của các
dòng trao đổi nội bộ của các doanh nghiệp lớn và các tập đoàn công
nghiệp Mỹ từ hai bên bờ Thái Bình Dương cho thấy chủ nghĩa hiện thực
trong các công ty Mỹ phù hợp với cơ câú mậu dịch quốc tế mới. Chiến
lược đối với Châu Á của các công ty Châu Âu không phù hợp với cơ cấu
kinh tế thế giới mới đó.
Các doanh nghiệp Châu Âu thích xuất hơn là đầu tư và thường chọn
con đường bán công nghệ chứ không thiết lập cơ sở sản xuất ở Châu Á.
Các doanh nghiệp này ít khi đầu tư để giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu
ngược trở lại từ Châu Á vào nước họ. Các doanh nghiệp EU rất ít đầu tư
trong các ngành công nghiệp tập trung nhiều lao động như ngành dệt, may
mặc, sản xuất giày...
Đầu tư vào lĩnh vực điện tử chiếm một bộ phận tương đối lớn trong
sự cam kết của Châu Âu vào Châu Á. Trong lĩnh vực này, các doanh
nghiệp EU đã chuyển bớt hoạt động sang Châu Á để giảm bớt chi phí và
chống lại sự cạnh tranh của các chi nhánh Nhật Bản (hiện nay là Hàn
Trang 86
Quốc) đã đầu tư ở đây. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia đang tăng
cường hơn nữa sự hiện diện của mình ở Châu Á và sự hiện diện này còn
kéo theo các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước họ để củng cố vị trí cạnh
tranh ở đây.
Các công ty xuyên quốc gia EU đang có cơ hội đầu tư vào các lĩnh
vực như công nghiệp hoá dầu, dược phẩm, viễn thông, vận tải đường sắt,
hàng không và các dịch vụ. Bởi vì, trọng tâm phát triển hiện nay ở Châu
Á là phát triển công nghiệp dịch vụ, những lĩnh vực này ở Châu Âu có sự
chuyên môn hoá và đạt được trình độ nhất định và trong chừng mực nó có
thể bổ sung cho sự chuyên môn hoá truyền thống của công nghiệp Châu
Á. Trong ngành dịch vụ, Châu Á có nhiều nước nhận được đầu tư vào các
ngành vận tải, viễn thông, giải trí, chăm sóc y tế, nhiều doanh nghiệp EU
đã gặt hái được những thành công trong lĩnh vực phân phối (Marko, Carre
Four), giải trí, khách sạn (Accor), bảo hiểm (ING). Nhiều cơ sở bắt đầu
thực hiện đặt cơ sở tại Châu Á. Việc các công ty EU chuyển hướng chiến
lược vào thị trường Châu á là nhằm mở rộng thị trường, nâng cao lợi thế
cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới.
3. Triển vọng hợp tác đầu tư nước ngoài Việt Nam- EU
Để đánh giá triển vọng đầu tư của EU vào Việt Nam, phải xem xét
đến tính hiệu quả, lợi ích về kinh tế và chính trị dưới tác động của các
nhân tố như tiềm năng tăng trưởng, bầu không khí đầu tư, khả năng tiếp
cận thị trường, việc cung cấp nguyên vật liệu, những rủi ro về kinh tế và
chính trị... của Việt Nam.
Thứ nhất, khác với đầu tư ra nước ngoài của Nhật, chủ yếu nhằm vào
chi phí lao động, phần lớn đầu tư của EU nhằm khai thác thị trường nước
ngoài. Đối với các nhà đầu tư EU, thị trường được coi là nhân tố quan
trọng nhất khi quyết định thâm nhập vào nền kinh tế của nước khác. Dưới
con mắt của các nhà đầu tư EU, Việt Nam không được xem là thị trường
rộng lớn xét theo sức mua của nó. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm của
EU, Việt Nam rộng mở đối với hàng của EU nhưng kém khả năng thanh
toán. Các nước công nghiệp phát triển (ngoài EU) là thị trường khó giành
giật nhưng có khả năng thanh toán và trước mắt vẫn giữ vị trí quan trọng.
Trong số đó EU nhằm vào Mỹ và Nhật Bản, với mục tiêu là nếu không
Trang 87
“lấn được sâu” thì ít ra cũng giữ được cân bằng cán cân thanh toán cũng
như cán cân thương mại.
Các nước EU có thế mạnh trong các ngành chế tạo máy, phương tiện
vận tải, kỹ thuật điện, ngành công nghiệp chế biến khai thác. Song thị
trường tiêu thụ các mặt hàng này ở Việt Nam còn ít. Các chuyên gia kinh
tế Phương Tây cho biết hiện nay chưa có dấu hiệu về việcViệt Nam trở
thành thị trường xuất khẩu máy móc, thiết bị quan trọng của EU trong
những năm tới.
Như vậy, thách thức mà EU phải đương đầu trong chiến lược chiếm
lĩnh thị trường là rất lớn. Triển vọng hợp tác EU-Việt Nam phụ thuộc vào
khả năng vượt qua những thách thức đó của EU hay không. Nhưng để
tăng cường hợp tác Việt Nam-EU, EU cần tạo điều kiện thận lợi cho Việt
Nam, tăng cường sự có mặt của Việt Nam về kinh tế và vị thế ở Liên
minh Châu Âu.
Thứ hai, sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu (EURO) vào ngày
01/01/1999 đã mở đầu cho quá trình liên kết kinh tế khu vực chặt chẽ và
toàn diện. Quá trình liên kết kinh tế đã làm tăng xu thế khu vực hoá và
gây ra những biến đổi lớn trong nền kinh tế thế giới. Việc hình thành một
thị trường thống nhất Châu Âu rộng lớn, không biên giới đã gây ảnh
hưởng trực tiếp đến thương mại thế giới, sẽ xuất hiện xu hướng co cụm
làm thay đổi các luồng đầu tư, sự hợp tác đầu tư trong khối nhiều hơn và
xu hướng bảo hộ mậu dịch có thể tăng lên. EU mở rộng mậu dịch trong
khối và như vậy một số hàng hoá vốn nhập từ các nước ngoài khối (nhất
là các nước đang phát triển) sẽ được thay thế bởi hàng hoá nhập ngay từ
các nước trong khối.
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước có trình độ phát triển thấp
hơn so với nước khác trong EU và đòi hỏi có sự trợ giúp về vốn nhưng
cũng có lợi thế hơn hẳn so với Việt Nam như cơ cấu hạ tầng phát triển,
tình hình chính trị khá ổn định và gần gũi hơn với các nước thành viên
khác của EU về mặt lãnh thổ cũng như văn hoá. Chính vì vậy mà Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha là nơi đầu tư lý tưởng đối với các công ty EU và có
sức cạnh tranh rất lớn đối với Việt Nam. Trong khi đó cơ sở hạ tầng của
Việt Nam đã có những cải tiến căn bản với chính sách mở cửa để thu hút
đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó Việt nam vẫn duy trì một số quy định làm
Trang 88
hạn chế sự quan tâm của nước ngoài như giới hạn vốn đối với công ty
nước ngoài hoặc đòi hỏi về sự gia tăng của các công ty địa phương trong
sở hữu và hoạt động của công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt, từ sau khi chến tranh lạnh kết thúc, quan hệ kinh tế Đông
Tây chuyển từ đối đầu sang hợp tác và tương trợ. Các nước Đông Tây và
SNG phá bỏ các quan hệ truyền thống trong khuôn khổ hội đồng tương
trợ kinh tế, thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với tất cả các nước trong EU.
Các nước này đang dần từng bước đi vào quá trình nhất thể hoá kinh tế
Châu Âu, mở rộng thị trường chung đi thu hút đầu tư từ EU giúp cho sự
tăng trưởng kinh tế. Điều này cho thấy hiện nay EU đang quan tâm đến
các nước trong nội bộ EU và các nước SNG của Đông Âu nhiều hơn là
các nước Châu Á nói chung cũng như Việt Nam nói riêng.
Một vấn đề quan trọng là trong những năm gần đây, cuộc cạnh tranh
kinh tế , kỹ thuật giữa Mỹ, Nhật Bản và các nước EU trở nên gay gắt và
ác liệt. Xu hướng liên kết các khu vực ngoại vi vào các trung tâm sức
mạnh trở nên ráo riết do đó các chính sách bảo hộ khối ra đời nhanh
chóng.Trước tình thế đó các công ty xuyên quốc gia ở các trung tâm vội
vã đầu tư vào nhằm đưa các chi nhánh của mình nằm sâu trong các thị
trường kỹ thuật cao để tránh thuế quan nặng nề trước khi các tập đoàn
Bắc Mỹ và Tây Âu khép lại. Các công ty đa quốc gia Phương Tây đua
nhau đầu tư và lập nhà máy ở những nơi này. Đó cũng chính là một trong
những nguyên nhân làm cho đầu tư của EU vào Việt Nam có phần giảm
sút, trong khi đó đầu tư của EU vào các nước công nghiệp phát triển có
chiều hướng tăng lên. Ngày nay, chi phí lao động thấp không còn là yếu
tố quyết định đến đầu tư nước ngoài nữa. Sự ổn định tương đối của các
nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển, khả năng phát triển các
ngành công nghiệp kỹ thuật cao và sự hoàn thiện các ngành công nghiệp
phụ trợ như thông tin hiện đại, mạng lưới giao thông phát triển và lao
động lành nghề ở các nước nàyđã trở thành những nhân tố hấp dẫn hơn
đối với đầu tư nước ngoài.
Do vậy, để thu hút được vốn đầu tư, kỹ thuật từ EU, Việt Nam cần có
cơ sở hạ tầng vững mạnh, sự ổn định kinh tế vĩ mô, cạnh tranh và môi
trường ổn định cho hoạt động kinh doanhvà đầu tư, phải tranh thủ chớp
Trang 89
lấy thời cơ từ cuộc cạnh tranh giữa Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu để thu hút
được nhiều đầu tư của EU.
Với việc ký kết hiệp định khung năm 1995 và hiệp định hợp tác Việt
Nam-EU giai đoạn 1996-2000 đã mở ra triển vọng cho mối quan hệ này
ngày càng vững chắc và toàn diện hơn giữa EU và Việt Nam. Đặc biệt với
sự cởi mở và thông thoáng của Luật đầu tư nước ngoài Việt nam vừa mới
được sửa đổi và bổ sung vào tháng 01/1996, các chính sách ưu đãi và
khuyến khích đã và đang từng bước được điều chỉnh để làm tăng tính hấp
dẫn.
Bên cạnh đó, Việt Nam là một nước đông dân có trình độ giáo dục
cao và có điều kiện về phúc lợi xã hội, chăm sóc y tế là tốt nhất trong số
các nước có cùng trình độ phát triển. Trong những năm gần đây Việt Nam
đã đạt được một số thành tựu kinh tế đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế
đạt 8-9%, trong khi đó tốc độ phát triển công nghiệp đạt 14%. Nếu duy trì
mức độ tăng trưởng này thì có thể đẩy nhanh mức thu nhập của nhân dân
từ đó làm tăng sức mua, khi đó Việt Nam được xem là nước có sức tiêu
thụ hàng hoá lớn. Việt nam có nhiều tiềm năng về lao động, đất đai và tài
nguyên thiên nhiên trở thành một địa chỉ hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, công
nghệ trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi và lôi kéo các nước tham gia
ngày càng mạnh mẽ vào quỹ đạo của sự phát triển. Đặc biệt khu vực Châu
Á đang nổi lên làn sóng phát triển khoa học công nghệ kỹ thuật và Việt
Nam đang được cuốn theo làn sóng đó.
Nhìn chung tiềm năng về sản xuất công nghiệp của Việt Nam là rất
lớn, hiện nay sản xuất nông nghiệp tạo ra gần 1/3 GDP, khu vực này thu
hut 2/3 lao động xã hội. Sản lượng lương thực hiện nay đạt hơn 30 triệu
tấn và có thể tăng hơn nữa nếu có sự đầu tư về giống, phân bón, thuốc trừ
sâu... và cải thiện các điều kiện bảo quản, chế biến và vận chuyển sau thu
hoạch. Cùng với sản xuất nông nghiệp là những khả năng khai thác rừng
và biển còn rất lớn.
Một số thuận lợi cho việc thúc đẩy hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và
EU đó là EU đang chú ý hợp tác với Châu Á, trong đó hình thành diễn
đàn Á-Âu (họp lần 1 ở Băng Kốc, lần 2 ở Luân Đôn, lần 3 ở Hàn Quốc ).
Trang 90
Các nước EU sớm có quan hệ với Việt Nam và có kinh nghiệm đầu tư ở
Việt Nam.
Ước tính trong những năm tới Việt Nam sẽ thu hút khoảng 13 tỷ USD
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó dự kiến nguồn vốn FDI của EU
vào khoảng 5-7 tỷ USD. Tuy vậy, để đạt được những mục tiêu trên thì
Việt Nam phải có những biện pháp kịp thời để nâng cao khả năng thu hút
đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam.
III. Một số giải pháp chủ yếu thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Liên minh Châu Âu vào Việt Nam.
Sự hợp tác đầu tư của Liên minh Châu Âu và Việt Nam trong những
năm qua có những bước phát triển mới. Đó là kết quả Việt Nam đã xây
dựng được mối quan hệ hợp tác truyền thống tốt đẹp với từng nước thành
viên EU. Giờ đây mối quan hệ này sẽ là nền tảng vững chắc để Việt Nam
ngày càng gắn bó hơn với các nước thành viên EU. Và để tăng cường hơn
nữa mối quan hệ này Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể:
1. Những giải pháp chính trị
1.1. Ổn định chính trị- xã hội
Việc thu hút đầu tư nước ngoài chịu sự chi phối của yếu tố chính trị
xã hội, nó giữ vai trò quyết định. Thật vậy, khi tình hình chính trị không
ổn định (đi liền với nó là luật pháp thay đổi) cũng có nghiã là mục tiêu thu
hút FDI cũng thay đổi và phương thức đạt mục tiêu đó cũng thay đổi.
Điều này có nghĩa là những cái ngày hôm qua đã xây dựng được thì nó đã
trở thành cái lạc hậu thậm chí phải phá bỏ. Hiệu quả của sự phá bỏ ấy là
sự thiệt hại về lợi ích, trong đó nhà đầu tư phải gánh chịu một phần và
như vậy rõ ràng không đáp ứng được mục tiêu lợi nhuận của nhà đầu tư
(chưa kể đến trường hợp mất hoàn toàn vốn đầu tư do chính quyền mới
thực hiện quốc hữu hoá).
Kinh nghiệm của hầu hết các nước cho thấy rằng, khi tình hình chính
trị mất ổn định, thậm chí có dấu hiệu mất ổn định thì các nhà đầu tư sẽ
không đầu tư hoặc ngừng việc đầu tư của mình. Chẳng hạn sự mất ổn
định chính trị-xã hội ở Nga vừa qua đã làm nản lòng các nhà đầu tư mặc
dù Nga là một thị trường rộng lớn, có nhiều tiềm năng.
Trang 91
Tiêu chí của sự ổn định chính trị mà các nhà đầu tư quan tâm là sự
bền vững của chính phủ, mức độ tranh giành quyền lực giữa các phe phái
chính trị. Nếu các điều kiện khác của môi trường đầu tư không đổi, thì
chính trị càng ổn định và độ tin cậy ngày càng cao, càng hấp dẫn nhà đầu
tư nước ngoài. Trong điều kiện cạnh tranh diễn ra gay gắt trên thị trường
đầu tư, sự ổn định chính trị có thể được xem là một lợi thế so sánh cần
phát huy.
Để giữ vững và tăng cường sự ổn định chính trị ở Việt Nam thì yếu tố
quyết định là tăng cường sự ổn định của Đảng, tăng cường vai trò nhà
nước pháp quyền của dân do dân vì dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh, kịp thời ngăn chặn âm mưu của các thế lực
phản động, đảm bảo quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia, từng
bước đi lên chủ nghĩa xã hội .
Trong những năm qua, Việt Nam đã giữ vững ổn định chính trị xã hội
và được dư luận thế giới đánh giá cao . Đây cũng là một lợi thế so sánh
của Việt Nam, lợi thế này cần phải được phát huy.
1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Phải tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài để nó ngày
càng hoàn thiện, phát huy được tính khả thi của nó. Chúng ta phải đảm
bảo được một khung khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn
định, một hệ thống ưu đãi và mang tính cạnh tranh cao so với các nước
trong khu vực, đồng thời phù hợp với các văn bản luật khác của Việt Nam
như Luật doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, nhằm tạo
mặt bằng ưu đãi bình đẳng giữa các dự án đầu tư trong nước và ĐTNN.
Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước
ngoài, thực hiện không hồi tố để giữ vững lòng tin của cộng đồng nhà
ĐTNN. Chủ động xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiên
cam kết của nước ta trong lộ trình hội nhập quốc tế.
Đối với các văn bản luật sau một thời gian ban hành và thực hiện nên
được xem xét, đánh giá lại vì mỗi văn bản sau khi ban hành sẽ bị thay đổi
khi những điều kiện đó không còn nữa. Ngoài việc thu thập các thông tin
thực tế từ các doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học có
liên quan và các cán bộ quản lý kinh tế. Trên cơ sở các ý kiến đó, các cơ
Trang 92
quan chức năng sẽ tổng hợp lại và xây dựng phương án hoàn chỉnh, sửa
đổi một cách tổng hợp.
Các qui định hướng dẫn và thi hành Luật dầu tư nước ngoài đối với
quá trình sau khi cấp giấy phép đầu tư và quá trình doanh nghiệp đi vào
hoạt động cần phải được bổ sung.
Cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư phù hợp với yêu cầu hội nhập. Khi Việt
Nam trở thành thành viên đầy đủ của AFTA vào năm 2006, hàng rào thuế
quan sẽ giảm xuống dưới 5%, thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bước vào
môi trường cạnh tranh quốc tế. Theo khảo sát hiện nay, Việt Nam chỉ có
một số mặt hàng có lợi thế cạnh tranh là nông sản, công nghiệp sử dụng
nhiều lao động ( may mặc, da giày...) còn lại rất khó cạnh tranh với hàng
hoá cạnh tranh của các nước khác. Như vậy để tối đa hoá lợi nhuận, các
chủ đầu tư sẽ chọn các thành viên khác của AFTA để đầu tư, sau đó sẽ
thâm nhập Việt Nam bằng thương mại.
Ở nước ta theo Luật thương mại, thương nhân nước ngoài được phép
thành lập chi nhánh hoạt động thương mại, nhưng chưa được tiến hành
hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Các chuyên gia cho rằng, nếu mở rộng
thêm hình thức này cho chi nhánh của các công ty nước ngoài thì đây sẽ
là một kênh đầu tư có sức hấp dẫn.
Hình thức công ty quản lý vốn, theo các chuyên gia kinh tế, là hình
thức đầu tư được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới đối với
nhiều dự án đầu tư tại một nước. Việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài có
nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam được thành lập công ty quản lý vốn để
quản lý các dự án đầu tư của mình là rất cần thiết. Hoạt động của công ty
này giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài điều phối và hỗ trợ hoạt động cho
các dự án đầu tư khác nhau một cách hiệu quả, vừa tiết kiệm chi phí, vừa
nâng cao tính hiệu quả trong các dự án đầu tư của họ.
Về công ty hợp danh, một trong bốn hình thức doanh nghiệp được
luật danh nghiệp thừa nhận, các chuyên gia cho rằng cần bổ sung hình
thức này vào Luật đầu tư nước ngoài mới. Hình thức này được áp dụng
rộng rãi trên thế giới, chủ yếu đối với một số lĩnh vực đòi hỏi uy tín, trình
độ và trách nhiệm cá nhân cao của người cung cấp các dịch vụ như kiểm
tra, kế toán, tư vấn luật, khám chữa bệnh... được biết hiện nay một số dự
án ĐTNN trong các lĩnh vực nói trên đã được cấp giấy phép, nhưng do
Trang 93
luật ĐTNN chưa quy định cụ thể về hình thức này nên các dự án này vẫn
chỉ được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH, hoạt động chưa mấy hiệu
quả.
Cần phải có tổ chức tư vấn chất lượng cao, những toà án giải quyết
tranh chấp có uy tín , hiểu biết sâu sắc về pháp luật Việt Nam cũng như
của thế giới.
Đồng thời hai đạo luật đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài
cần được thống nhất, tạo ra một môi trường đầu tư thống nhất theo một
luật cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Điều này có ý nghĩa rất
quan trọng, vì việc chia cắt môi trường đầu tư theo các luật khác nhau,
phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư khác nhau đã tạo ra một môi trường
đầu tư không bình đẳng, tạo ra những lợi thế cho một nhóm đầu tư này và
bất lợi cho các nhóm đầu tư khác một cách phi lý.
1.3. Cải tiến thủ tục hành chính
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có hàng trăm văn bản pháp lý được áp
dụng cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Chắc chắn là số lượng văn bản
này sẽ còn tiếp tục tăng lên vì còn nhiều vấn đề phát sinh trong thực tế.
Tuy nhiên, cho đến nay một số văn bản rất khó thực hiện , trong đó nhiều
vấn đề mới phát sinh lại chưa có hướng giải quyết thống nhất. Vấn đề đặt
ra là phải cải tiến thủ tục hành chính trong lĩnh vực ĐTTTNN, nếu không
nó thể trở thành vật cản trực tiếp đối với dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam.
Thủ tục hành chính là cản trở lớn nhất đồng thời là khâu đang làm tổn
hại đến môi trường đầu tư ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Để hoàn
thành một dự án đầu tư, phải có hàng chục loại giấy tờ và lệ phí cho các
khâu: xin thi thực nhập cảnh , tìm hiểu đối tác, lập dự án, xin giấy phép,
duyệt đồ án thiết kế xin cấp đất, nhập khẩu thiết bị hàng hoá...Việc phân
cấp chưa rõ ràng, chưa xác định gianh giới giữa trung ương và địa phương
dẫn đến hai tình huống buông lỏng quản lý và chồng chéo trong quản lý.
Do đó cần phải phân cấp và quy trách nhiệm cụ thể đối với các ngành hữu
quan, giảm bớt các đầu mối phê chuẩn giấy phép.
Cần công khai qui trình , thủ tục lập hồ sơ dự án, thẩm định dự án,
triển khai dự án và quản lý dự án, quy định cụ thể thời gian giải quyết
công việc và trách nhiệm của cơ quan, của cá nhân thực hiện từng phần
việc. Cần trao quyền nhiều hơn nữa cho các nhà chức trách thực hiện cấp
Trang 94
giấy phép đầu tư để họ chủ động xử lý các vấn đề phát sinh và bảo đảm
chủ trương “một cửa”. Mặt khác, bên cạnh việc đơn giản hoá thủ tục
thông qua chế độ một cửa, cần quy định cho mỗi loại giấy phép rõ ràng và
theo mức tuyệt đối. Như vậy, sẽ giúp các nhà đầu tư tính toán chính xác
chi phí và thu nhập. Tuy nhiên, cần tiến tới chế độ đăng ký đầu tư, giảm
tối đa cơ chế xin- cho để tránh làm mất thời gian và tiền bạc của nhà đầu
tư đồng thời hạn chế phát sinh tiêu cực.
Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN chịu trách nhiệm về kinh doanh và
tuân theo pháp luật của nhà nước, không có cơ quan chủ quản cấp trên.
Do vậy, cần phân biệt rạch ròi chức năng quản lý nhà nước và chức năng
kinh doanh để tránh tình trạng cơ quan nhà nưóc hoặc buông lỏng quản lý
hoặc can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, gây phiền toái cho các nhà đầu tư.
Giảm tối đa thủ tục giấy tờ hải quan, đặc biệt ở khâu khai báo, kiểm
hoá hàng hoá. Cần giải quyết nhanh hàng ở cửa khẩu sau khi hải quan đã
kiểm hoá các giấy tờ thanh toán sẽ được tiếp tục làm sau để không làm
ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương phân cấp uỷ quyền cấp giấy phép
đầu tư cho các địa phương, tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ địa
phương, thiết lập chế độ báo cáo thống kê từ các doanh nghiệp , các sở kế
hoạch đầu tư để đảm bảo tổng hợp, phân tích đề ra các chính sách thích
hợp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời, các uỷ ban
nhân dân tỉnh cần làm tốt chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn lãnh
thổ đối với moị hoạt động FDI theo nội dung quy định tại điều 58 của
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp của Liên minh
Châu Âu thông qua việc giúp đỡ của các tổ chức thuộc các chính phủ của
các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu tại Việt Nam.
Thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ kịp thời các
khó khăn cho các nhà đầu tư.
Đương nhiên, vấn đề cải cách thủ tục hành chính có liên quan đến cải
cách bộ máy hành chính là vấn đề phức tạp nhất trong các vấn đề, tuy
nhiên phải có những cải tiến phù hợp và chú ý đến thông lệ quốc tế.
Trang 95
Trong khâu lập hồ sơ nên lược bớt các loại giấy tờ không cần thiết, nên
đơn giản hoá thủ tục cho các loại dự án vừa và nhỏ.
1.4. Nâng cao uy tín, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế
Việt Nam tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài trong hoàn cảnh thế giới
và khu vực đang có sự cạnh tranh gay gắt về thị trường đầu tư. Do vậy,
chúng ta cần đẩy mạnh công tác vận động đầu tư để gây sự chú ý và quan
tâm của các nhà đầu tư EU. Trong những năm qua, với sự giúp đỡ của các
tổ chức quốc tế UNIDO, UNDP chúng ta đã chú trọng công tác xúc tiến
đầu tư với nhiều nước EU như Pháp, Bỉ. Việc mở ra các diễn đàn đầu tư
đã đem lại một số kết quả bước đầu khả quan, tiếp thu được những kinh
nghiệm về công tác vận động đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta cần
đẩy mạnh hơn nữa công tác xúc tiến đầu tư với các nước EU theo các
hướng sau:
-Tăng cường tổ chức các diễn đàn đầu tư ở trong nước cũng như các
nước EU, cần chú ý nội dung của các diễn đàn theo tính chất và địa điểm
cụ thể; đồng thời cần tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và Việt
kiều ở nước ngoài để giới thiệu quảng cáo về môi trường đầu tư ở Việt
Nam.
-Tiến hành thường xuyên việc cung cấp và tiếp nhận thông tin từ các
sứ quán nước ta tại các nước EU, có kế hoạch cụ thể để sứ quán có thể
tham gia công tác vận động đầu tư, nghiên cứu xây dựng mạng lưới xúc
tiến đầu tư ở một số khu vực chủ yếu.
- Thiết lập mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư
của các nước EU để trao đổi thông tin và kinh nghiệm đồng thời đẩy
mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp lý, dịch vụ đầu tư quốc tế để
thu thập, trao đổi thông tin và tiếp nhận sự giúp đỡ của họ trong việc xây
dựng pháp luật, vận động đầu tư.
2. Những giải pháp kinh tế
2.1. Ổn định kinh tế vĩ mô
Đây là điều kiện tiền đề cơ bản cho mọi sự tăng trưởng, việc thu hút
và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kinh nghiệm
quốc tế cũng như của Việt Nam những năm qua đã chỉ rõ, để ổn định kinh
Trang 96
tế vĩ mô trong môi trường phát triển biến động hiện nay, trước tiên Chính
phủ phải có năng lực điều chỉnh chính sách sao cho các chính sách luôn
luôn có độ phù hợp cao nhất với các điều kiện phát triển thường xuyên
thay đổi.
Một trong những nội dung chính của tạo lập ổn định kinh tế vĩ mô là
ổn định tiền tệ. Việc sử dụng hệ thống công cụ tiền tệ nhằm ổn định kinh
tế vĩ mô ở nước ta cho đến nay vẫn còn rất nhiều điểm phải sửa đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh. Để duy trì sự ổn định tiền tệ cần phải xác định quan
điểm rõ ràng về hiểm hoạ lạm phát và biện pháp kiềm chế nó.
2.2. Hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Chính sách kinh tế của Việt Nam cho đến nay tuy đã được đổi mới,
nhưng về cơ bản vẫn là chính sách cơ cấu kinh tế hướng nội, khuyến
khích thay thế nhập khẩu, và do vậy môi trường đầu tư cạnh tranh thấp,
kém hiệu quả. Nước ta phải chuyển mạnh sang chính sách cơ cấu kinh tế
hướng ngoại, khuyến khích hướng về xuất khẩu, đặt các nhà đầu tư vào
thế cạnh tranh gay gắt, càng cạnh tranh gay gắt, càng hấp dẫn họ. Bên
cạnh đó, về vấn đề công nghệ cần lưu ý rằng mức độ hiện đại đến đâu tuỳ
thuộc vào những điều kiện và chính sách của nước ta.
Về chính sách kinh tế đối ngoại, Nhà nước Việt Nam thời gian đã qua
có quyết định chuyển hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sang
Châu Âu và Bắc Mỹ. Đây là một quyết định đúng đắn trong bối cảnh
khủng hoảng khu vực vừa qua quan hệ thương mại, đầu tư của Việt Nam
với các nước trong khu vực giảm đáng kể, ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế của nước ta. Hơn nữa những nước Châu Âu và Bắc Mỹ thực sự là
những nguồn vốn dồi dào với công nghệ tiên tiến nhất. Cần có những
chính sách rõ ràng, cụ thể hơn nữa nhằm thúc đẩy việc thu hút vốn từ khu
vực này.
Về chính sách thuế, cần phải có một số điều chỉnh sau:
- Giảm dần mức thuế nhập khẩu đối với hầu hết các hàng công
nghiệp chế biến, để buộc các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước phải
tính tới việc hoàn vốn nhanh, đổi mới công nghệ…
- Chính sách thương mại phải khai thông được thị trường chính cho
hàng Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu,
Trung Quốc…
Trang 97
Cách tính thuế thu nhập, các vấn đề về chế độ phân biệt hai giá (giá
điện, nước, dịch vụ viễn thông…) cần phải được điều chỉnh hợp lý đối với
các chuyên gia cao cấp, các nhà kỹ thuật, các nhà quản lý nước ngoài…
để thu hút họ vào làm việc tại Việt Nam.
2.3. Xây dựng kế hoạch tổng hợp và chi tiết
Cần tạo ra thế chủ động trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
bằng cách xây dựng qui hoạch tổng thể và chi tiết đối với từng thời kỳ.
Qui hoạch này phải đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành, vùng cả
trung và dài hạn.
Cần nhanh chóng ban hành qui hoạch vùng, tránh tình trạng hiện nay
qui hoạch chi tiết về đất công nghiệp rất chậm làm cho các nhà đầu tư
nước ngoài bị động trong việc lưạ chọn địa điểm đầu tư. Đối với qui
hoạch phát triển các ngành kinh tế- kỹ thuật, cần lưu ý tới việc phát triển
các ngành trung hạn và dài hạn để có qui định cụ thể.
2.4. Vấn đề đất đai
Từng bước thực hiện thống nhất tiền thuê đất đối với các doanh
nghiệp. Sắp xếp lại danh mục khi xác định tiền thuê đất cho phù hợp với
khả năng thu hút vốn đầu tư Nhà nước, trên cơ sở đó rà soát và xem xét
giảm mức tiền thuê đất cho phù hợp với định hướng thu hút vốn đầu tư ở
các địa phương, đảm bảo mức tiền cho thuê đất không cao hơn so với các
nước trong khu vực.
Ban hành chính sách và chế độ đền bù tài sản trên đất, áp dụng thống
nhất một chính sách đền bù khi Nhà nước thu hồi đất (không phân biệt
dùng cho an ninh quốc phòng hay cho đầu tư nước ngoài). Việc qui định
cụ thể giá đất đền bù sẽ tránh được tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài
muốn được giải toả đất ngay phải cam kết sử dụng lao động của các hộ
dân này- tốn thêm chi phí vì số lao động này chắc chắn không đủ tiêu
chuẩn để vào làm việc ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cần chi
phí đào tạo và nhiều thứ khác nữa.
2.5.Nâng cao khả năng tiếp nhận và làm chủ FDI
2.5.1.Cơ sở hạ tầng
Đối với vấn đề cơ sở hạ tầng mặc dù, Việt Nam đã chú trọng vào việc
phát triển hạ tầng cơ sở, đặc biệt ở những vùng khó khăn. Cơ sở hạ tầng ở
nước ta hiện nay rất kém, cần được phát triển. Chúng ta có thể sử dụng
Trang 98
vốn vay cho ưu đãi của Chính phủ các quốc gia khác và vốn đầu tư phát
triển của ta để hiện đại hoá sở hạ tầng. Đồng thời ta cần kêu gọi các nhà
đầu tư trong và ngoài nước thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
Vấn đề sử dụng hiệu quả vốn đầu tư và xây dựng các khu chế xuất
tập trung, khu công nghệ cao với quy mô thích hợp nhằm tiếp nhận các
nguồn vốn và kỹ thuật cao của nước ngoài, vì một mặt bằng không lớn,
việc huy động tài lực tập trung vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng hoàn
chỉnh, hiện đại là khả năng có thể thực hiện được. Qua đó, Việt Nam có
thể khai thác những mặt mạnh của EU như tranh thủ kỹ thuật tiên tiến
trong ngành cơ khí, chế biến nông sản, dệt, may mặc, lắp ráp ô tô, điện tử,
kinh nghiệm quản lý kinh tế và sản xuất nông nghiệp.
2.5.2 .Nguồn nhân lực :
Như đã thấy, thế mạnh của các nước EU là kỹ thuật và công nghệ
hiện đại. Về lâu dài, chúng ta phải tận dụng được thế mạnh đó của các
nước này thông qua hoạt động FDI. Tuy nhiên, để thu hút và tận dụng có
hiệu quả các kỹ thuật tiên tiến của EU, Việt Nam cũng cần phải có nguồn
lao động có trình độ để thích ứng. Vấn đề này cần phải được giải quyết
trong công tác phát triển giáo dục - đào tạo của nước ta.
Trong điều kiện tiến bộ khoa học và công nghệ diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, xu hướng lao động trí tuệ phát triển và giao lưu quốc tế ngày
càng mở rộng, thì đòi hỏi người lao động phải thường xuyên học tập,
thường xuyên được đào tạo lại để bổ sung.
Gắn liền giáo dục đào tạo với lao động sản xuất và nghiên cứu khoa
học. Việc thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các trường đại học với các
ngành và các cơ sở nghiên cứu khoa học có liên quan sẽ tạo điều kiện tốt
để thực hiện yêu cầu học tập gắn liền với đời sống.
Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ lao động
trí thức có sự tiếp cận nhanh, thích ứng kịp thời với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật hiện đại ở nước ta sẽ là nhân tố quan trọng để thu hút FDI
của các nhà đầu tư EU. Từ đó, cũng thúc đẩy họ chuyển giao những kỹ
thuật hiện đại, những phương pháp quản lý tiên tiến thông qua hoạt động
FDI vào Việt Nam. Đồng thời, việc chú trọng đào tạo và bồi dưỡng kiến
thức cho lao động Việt Nam còn giúp chính những người lao động Việt
Nam làm việc tự tin hơn, nhanh chóng tiếp thu nắm bắt được cái mới,
Trang 99
khắc phục những mặt còn tồn tại của mình để từ đó cập nhật với chất
lượng người lao động có trình độ kỹ thuật cao ở các nước phát triển như
các nước EU.
2.5.3. Vốn đối ứng
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ chỉ phát huy hiệu quả khi chúng ta có
một tỷ lệ hợp lý vốn đối ứng trong nước. Tỷ lệ này khác nhau tuỳ theo
ngành, mức độ kỹ thuật mà vốn nước ngoài rót vào trong từng giai đoạn
cụ thể.
Để giải quyết vấn đề cơ sở hạ tầng yếu kém, Việt Nam cần phải có
các mối quan hệ kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức quốc tế để có thể có được các khoản hỗ trợ phát triển
chính thức đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
Trên đây chỉ là một số giải pháp, nhưng sẽ rất có ý nghĩa và có lợi ích
thiết thực nếu những giải pháp và kiến nghị này được nhanh chóng thực
hiện và thực hiện một cách có hiệu quả nhất. Nếu được như vậy, chắc
chắn sẽ góp phần tích cực vào việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn FDI từ
EU trong quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam.
Trang 100
KẾT LUẬN
Liên minh Châu Âu ( EU ) là một trong những siêu cường kinh tế và
từ năm 1999 nó trở nên mạnh hơn khi đồng tiền chung Châu Âu thống
nhất được áp dụng. Nhiều quốc gia thành viên EU từ lâu đã là các nhà đầu
tư lớn trên thế giới và trong những năm gần đây họ có vị trí ngày càng
quan trọng ở Việt Nam, đặc biệt sau khi hiệp định hợp tác Việt Nam – EU
được ký năm 1995.
Mặc dù còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong bối cảnh thế
giới và khu vực như hiện nay, nhưng chúng ta không thể phủ nhận được
tiềm năng kinh tế, chính trị của EU về lâu dài trong một trật tự chính trị
và kinh tế thế giới mới đang được hình thành là vô cùng to lớn. Chính vì
vậy, trong thập niên tới cũng như những năm tiếp sau Việt Nam cần tranh
thủ mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với các nước EU, trên cơ sở củng cố
và tăng cường vị trí đối với các đối tác truyền thống; lấy đó làm điểm tựa,
làm cầu nối để hình thành các quan hệ hợp tác đầu tư mới với các đối tác
khác trong EU.
Do đó duy trì quan hệ tiếp tục phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác
với tất cả các quốc gia khác nhau trên thế giới, vì lợi ích chung trên cơ sở
Trang 101
bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi dân tộc do Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hội nhập và phát triển
kinh tế Việt Nam.
Cùng với những thành tựu đã đạt được trong quá trình đổi mới của
Việt Nam, nước ta là một thị trường có tiềm năng to lớn. Nước ta cần tiếp
tục thực hiện quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển sang kinh tế thị
trường, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Mong rằng quan hệ hợp
tác đầu tư giữa Việt Nam – EU sẽ ngày càng tốt đẹp và hiệu quả, và Việt
Nam không những khai thác được những thế mạnh của các nước EU
thông qua hoạt động FDI đối với quá trình CNH – HĐH đất nước, mà còn
khẳng định được vị trí đàm phán của mình trên trường quốc tế.
PHỤ LỤC I
Cơ cấu tổ chức của Liên minh Châu Âu
Đề nghị
Quyết định
Hội đồng Châu Âu
(15 người đứng đầu
của các nước thành
viên).
Hội đồng bộ trưởng
Thượng viện lập pháp
( 15 thành viên )
Uỷ ban về khu vực
(Tư vấn )
Uỷ ban Châu Âu
Hành pháp
( 20 uỷ viên )
Uỷ ban kinh tế – xã
hội ( tư vấn )
Trang 102
(1)
(2)
(1) – Hỏi, kiểm soát, bỏ phiếu tín nhiệm
(2) – Cùng quyết định về ngân sách vật chất
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.Tài liệu tham khảo sách
1.Chủ biên PGS - PTS Nguyễn Ngọc Mai - Trường ĐHKTQD - Giáo
trình kinh tế đầu tư - NXB Giáo dục.
2.PTS. Võ Thanh Thu- Quản trị dự án đầu tư nước ngoài- XB 1992.
3.PTS. Vũ Trường Sơn- Trường ĐH Khoa học XH và Nhân văn- Đầu tư
nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam- NXB Thống kê.
4.Liên minh Châu  - Học viện quan hệ quốc tế – Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Hà Nội 1995.
II.Tài liệu tham khảo báo, chí.
1.Đinh Ngọc Bính – Anh – Việt : Quan hệ hợp tác đầu tư - Nghiên cứu
Châu Âu số 3/1996 và 4/1996.
Toà án kiểm toán Châu
Âu ( kiểm tra chi tiêu )
Toà án Châu Âu
(Kiểm soát hiệp
định)
Quốc hội Châu Âu
Hạ viện lập pháp
Trang 103
2.Bùi Việt Hưng – Quan hệ đầu tư - Thương mại giữa Việt Nam – CHLB
Đức – Nghiên cứu Châu Âu số 1/1998.
3.Đỗ Thị Lan Phương ( Trung tâm nghiên cứu Châu Âu ) – Hợp tác Việt
Nam - Đan Mạch hướng tới thế kỷ 21 – Nghiên cứu Châu Âu số
5/1999.
4.Đỗ Lan Phương – Việt Nam – Thuỵ Điển quan hệ hợp tác quốc tế
không ngừng phát triển – Nghiên cứu Châu Âu 3/2000
5.Đỗ Lan Phương – Vương quốc Hà Lan với quan hệ kinh tế Việt Nam –
Nghiên cứu Châu Âu 4/2000.
6.Đinh Mạnh Tuấn – Các hoạt động trên lĩnh vực FDI và ODA của Pháp
tại Việt Nam – Nghiên cứu Châu Âu 1/2001.
7.Thạc sĩ Hoàng Xuân Hoà - Khả năng hợp tác kinh tế Việt Nam – Thuỵ
Điển.
8.Trần Kim Dung – Hiệp định hợp tác Việt Nam – EU : Nhìn lại sau một
năm thực hiện – Nghiên cứu Châu Âu số 5/1996.
9.Đỗ Đức Mạnh – Quan hệ thương mại và đầu tư EU – Châu A – Nghiên
cứu Châu Âu số 4/1995 và 5/1995.
10.Bùi Huy Khoát - Quan hệ Việt Nam – EU vững mạnh hơn trong thế
kỷ XXI – Nghiên cứu Châu Âu số 3/2000.
11.Thạc sĩ Nguyễn Duy Quang – Thực trạng và triển vọng hợp tác đầu tư
Việt Nam – EU – Nghiên cứu Châu Âu 1/2001.
12.Thạc sĩ Hoàng Xuân Hoà - Đặc điểm quan hệ thương mại ASEAN –
EU và những tác động đối với chính sách thương mại quốc tế Việt
Nam –Nghiên cứu Châu Âu 1/2001.
13.Báo cáo tổng quan tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000
– Vụ đầu tư nước ngoài ( 31/12/2000 ).
Trang 104
14.Số liệu tổng hợp về tình hình đầu tư trực tiếp của các nước EU vào
Việt Nam – Vụ đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư ( 31/12/2000
).
15.PTS Kim Ngọc : EU và chiến lược đầu tư vào các nước trong khu vực
và Việt Nam – Nghiên cứu Châu Âu số 1/1995.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài của Liên minh Châu Âu vào Việt Nam trong những năm gần đây.pdf