Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai cần phải triển
khai nhiều giải pháp tích cực. Những giải pháp đó nờu ra trong luận văn về vấn đề phát
triển kinh tế; đẩy mạnh công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự hào dân
tộc,tinh thần đoàn kết cộng đồng, tinh thần hữu nghị cho đồng bào Giáy; đổi mới chính
sách đối với cán bộ làm công tác văn hoá tạo động lực cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc Giáy như đó nờu là những giải phỏp cú ý nghĩa phương pháp luận, nhằm
mục đích đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng trong việc phát triển kinh tế - xó hội, giữ
gỡn và phỏt huy những giá trị văn hóa độc đáo của tộc người Giáy ở Lào Cai hiện nay.
91 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4758 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề giữ gỡn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Tỉnh Lào Cai hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n du lịch văn hoá cụ thể là: Bảo tồn bằng
phương pháp trao truyền 12 lễ hội đặc sắc của 7 dân tộc tiêu biểu ở Lào Cai trong đó có
hội cốm của người Giáy ở Sa Pa. Bảo tồn và xây dựng 9 điểm thôn bản thành làng văn
hoá du lịch trong đó có Làng Tả Van Giáy – Tả Van – Sa Pa( xem phụ lục 1)
Thứ tư, khai thác, phát huy giá trị các di sản văn hoá mang tính bản địa,thực hiện
chương trình “ biến di sản thành tài sản” tạo ra nguồn lực phát triển du lịch tiến tới phát
triển kinh tế – xã hội. Cụ thể bằng 7 đề tài trong đó có đề tài khảo sát, sưu tầm, nghiên
cứu nâng cao các di sản múa dân gian các dân tộc Lào Cai, xây dựng các tiết mục múa
đặc trưng cho từng vùng dân tộc. Riêng dân tộc Giáy có 4 tiết mục múa đặc sắc ( Xem
phụ lục2 )
Cùng với việc thực hiện đề án “ Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc”,
Tỉnh Lào Cai còn đầu tư cho việc bảo tồn sống các di sản văn hoá như đầu tư kinh phí
cho việc truyền dạy hát dân ca Giáy, bảo tồn sống chữ nôm Tày, Giáy...
Thông qua những việc làm cụ thể việc bảo tồn các di sản văn hoá ở tỉnh Lào Cai,
trên thực tế đã phần nào làm cho đồng bào các dân tộc ý thức được giá trị của các di sản
văn hoá và tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, qua đó
có thể ngăn chặn tình trạng xem thường những giá trị của các di sản văn hoá và huỷ hoại
nó, đồng thời giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá vào cuộc sống hiện tại ở
địa phương, giới thiệu những giá trị đó với các vùng miền, địa phương khác.
Tuy nhiên, việc bảo tồn di sản văn hoá dân tộc Giáy đang đứng trước những khó
khăn lớn như:
+ Những hiện tượng phản giá trị trong lĩnh vực văn hoá, xu hướng thương mại hoá
trên thị trường văn hoá, nghệ thuật.
+ Xu hướng xem nhẹ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
2.2.3.2 Những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai hiện nay
Bằng những việc làm cụ thể, thiết thực trong việc thực hiện các chương trình, dự
án nhằm bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc Lào Cai, trong đó có dân tộc
Giáy, tỉnh Lào Cai đã thu được những kết quả đáng khích lệ, làm cho đồng bào các dân
tộc hiểu được giá trị của các di sản văn hoá và tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc. Qua đó nhiều di sản văn hoá được bảo tồn, khai thác và
phát huy giá trị đã đóng góp vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Song bên
cạnh đó do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan trong quá trình thực hiện nảy sinh một
số mâu thuẫn ảnh hưởng tới việc việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Giáy ở
Lào Cai hiện nay.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy với khả
năng của đội ngũ cán bộ chức năng ngành văn hóa.
Qua kết quả điều tra, nghiên cứu cho thấy dân tộc Giáy có kho tàng văn hoá dân
gian truyền thống rất phong phú, đa dạng và có nhiều nội dung, giá trị, ý nghĩa văn hoá
sâu sắc. Bản sắc văn hóa truyền thống của người Giáy tỉnh Lào Cai được thể hiện đậm
nét trong ngôn ngữ, kiến trúc nhà ở, trang phục, đặc biệt là lễ hội và văn hóa văn nghệ
dân gian. Nhưng giữ gỡn, phỏt huy cỏi gỡ, xúa bỏ cỏi gỡ trong kho tàng văn hóa dân gian
đó không phải là dễ thực hiện. Việc chọn lọc được những giá trị đích thực, loại bỏ những
yếu tố lạc hậu trong văn hóa cổ truyền rất cần đến sự cố gắng nỗ lực của các tổ chức
Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân và đặc biệt là những cố gắng của ngành văn hóa
thông tin, hội văn học nghệ thuật dân gian, bảo tàng của tỉnh. Để tránh sự lai căng, pha
tạp hoặc không chính xác trong quá trỡnh khụi phục cỏc loại hỡnh văn hóa cổ truyền thỡ
đòi hỏi khả năng chuyên sâu về văn hoá các dân tộc thiểu số của đội ngũ cán bộ làm
công tác văn hoá. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Nhưng trên
thực tế của tỉnh Lào Cai đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá từ tỉnh đến xã đa phần là
người Kinh tuy có chuyên môn nghiệp vụ nhưng do không biết tiếng và không am hiểu
phong tục tập quán của các dân tộc cho nên trong quá trình nghiên cứu, giao tiếp còn
nhiều khó khăn. Bản thân số cán bộ là người dân tộc Giáy công tác trong lĩnh vực văn
hoá không nhiều, mặc dù có sự hiểu biết về phong tục tập quán của dân tộc mình nhưng
chưa qua đào tạo kiến thức về dân tộc học, do đó khả năng phát huy lợi thế, sự hiểu biết
của mình vào việc nghiên cứu, phát huy các giá trị văn hoá dân tộc Giáy là không cao.
Do đó trong quá trình thực hịên bảo tồn, khôi phục những giá trị văn hoá truyền thống
của đồng bào Giáy phải dựa toàn bộ vào người dân địa phương; cho nên tiến độ chậm và
độ chính xác không cao, nhiều giá trị văn hóa truyền thống bị mai một và có nguy cơ bị
mất do các nghệ nhân khuyết dần. Các hình thức hoạt động văn hóa, văn nghệ thiếu khoa
học trong cách thức tổ chức, dàn dựng tiết mục. Các nhà đạo diễn, dàn dựng chủ yếu là
người Kinh, không có hiểu biết nhiều về phong tục tập quán, văn hóa truyền thống, thậm
chí nhiều người còn không biết một tí tiếng dân tộc nào. Họ dàn dựng mọi tiết mục theo
những mẫu hình mà họ được học ở các trường lớp, mà thực chất là những mẫu hình du
nhập từ văn hóa phương Tây. Kết quả là người ta dễ dàng nhận thấy những màu sắc văn
hóa có cái gì na ná như nhau giữa nền văn hóa của các tộc người khác nhau...
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu không ngừng nâng cao ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc Giáy với khả năng, điều kiện hạn chế của đồng bào Giáy trong việc
đáp ứng yêu cầu đó
Với mục tiêu xác định sử dụng văn hoá , bản sắc văn hoá các tộc người, là nguồn
lực, thế mạnh để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong những năm gần đây bằng
những chương trình, đề án cụ thể nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các
dân tộc, tỉnh Lào cai đã thu được những kết quả đáng khích lệ, đã tác động sâu sắc tới ý
thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của các tộc người trong tỉnh, từng bước ngăn chặn
tình trạng xem thường những giá trị của các di sản văn hoá và huỷ hoại nó. Cũng như các
tộc người khác, nhìn chung đại bộ phận tộc người Giáy ý thức được sự mai một bản sắc
văn hoá dân tộc sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn vong của dân tộc mình, cho nên họ
mong muốn bản sắc văn hoá của dân tộc mình được giữ gìn và phát huy trong điều kiện
hiện nay. Tuy nhiên để mong muốn đó trở thành hiện thực là cả một quá trình với những
mâu thuẫn nảy sinh trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Giáy ở Lào
Cai hiện nay.
Một trong những nét đặc trưng trong văn hoá tộc người Giáy là nếp nhà truyền
thống. Nhưng để giữ gìn nếp nhà truyền thống đó hiện nay lại vượt quá xa so với điều
kiện kinh tế của đồng bào, mặc dù kinh tế của đồng bào Giáy hiện nay đã được nâng lên
rất nhiều so với những năm trước đây, Nhưng với nếp nhà truyền thống nguyên vật liệu
chính là gỗ, với một lượng không nhỏ thì khả năng đáp ứng của đồng bào là rất khó khăn
do nạn khai phá rừng trái phép và nhiều nguyên nhân khác khiến cho mặt hàng này hiện
nay trở nên khan hiếm, hơn nữa thời gian đầu tư cho việc xây cất một ngôi nhà gỗ đồ sộ,
lượng gỗ lớn với những mộng, phang luồn, sau đó dùng lạt buộc, néo cho chặt là rất công
phu, gây tốn kém cả thời gian và tiền của mà điều kiện kinh tế của đồng bào khó có khả
năng đáp ứng. Vì vậy với điều kiện kinh tế của mình, hiện nay đồng bào có xu hướng cải
biên ngôi nhà truyền thống cho phù hợp, Vật liệu chính được thay bằng gạch, ngói, xi
măng vừa tiện lợi, vừa đỡ tốn công tốn của . Những ngôi nhà của người Giáy hiện nay
chỉ còn lưu giữ được nét truyền thống trong phân bố cấu trúc không gian nhà mà thôi. Rải
rác trong mỗi bản làng chỉ còn sót lại vài ngôi nhà truyền thống được dựng từ những thập
niên 70, 80 của thế kỷ trước, nhưng trong chính những ngôi nhà đó với sự hiện diện của
các đồ dùng sinh hoạt hiện đại như đài, ti vi, quạt điện, giường tủ...đã làm cho ngôi nhà
không còn giữ nguyên được nét truyền thống vốn có của nó. Điều đó là đương nhiên bởi
khi đời sống kinh tế của đồng bào được nâng lên, nhu cầu hưởng thụ sinh hoạt cao hơn,
hiện đại hơn thì những vật dụng hiện đại, tiện lợi và hữu ích đó mới đáp ứng được nhu
cầu của họ.
Việc giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán, trong tang ma, cưới hỏi của
đồng bào Giáy, ở đây mâu thuẫn nảy sinh giữa việc thực hiện Quy chế nếp sống văn
minh trong cưới, tang, lễ hội được đồng bào đồng tình hưởng ứng với việc giữ gìn những
nét văn hoá truyền thống, những nghi thức cổ truyền. Trong tang ma của đồng bào Giáy
nếu lấy đơn vị đêm để tính thì ít nhất phải làm đám tang trong hai đêm thì mới có thể
thực hiện được nghi thức mo tang lễ theo truyền thống với 80 bài và 13 tiết mo. Hiện nay
thực hiện theo Quy chế nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội và hưởng ứng
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” thì đám tang
chỉ còn một đêm, để thực hiện các nghi thức truyền thống đồng bào phải sắp xếp giản
lược nội dung mo tang lễ cho phù hợp. Xét về phương diện kinh tế thì đồng bào đỡ tốn
công, tốn của hơn rất nhiều, nhưng xét trên góc độ văn hoá thì mo tang lễ của tộc người
Giáy với những nét độc đáo mang tính nhân văn: giáo dục con người sống phải có đạo
hiếu với ông bà cha mẹ, tổ tiên...sẽ mai một dần.
Trong lễ cưới của đồng bào Giáy, đây không chỉ là dịp vui cho riêng đôi trai gái,
mà là ngày hội cho cả hai họ và cả bản, làng. Lễ cưới của người Giáy là nơi thể hiện tài
hát đối đáp, hát dân ca của hai họ như hát mở cổng, hát xin dâu... ngoài ra lễ cưới còn trở
thành ngày vui của bản làng qua việc tổ chức những đêm hát với khách mời của làng bản
khác đến dự đám cưới. Người ta hát có thể là một đêm, hai ba đêm...mới tan. Cuộc hát
ban đêm là cuộc hát có bài vở, có thứ tự các loại chủ đề nội dung, nó thực sự là cuộc hát
đọ tài thi sức không chỉ là của trai gái vùng này với vùng khác, mà còn mang ý nghĩa
"Quốc thể của làng" nữa, cho nên có chuyện "phục thù" hoặc "thua keo này ta bày keo
khác" thì cũng là chuyện thường tình.
Tuy nhiên trong đám cưới của người Giáy hiện nay đa phần thực hiện theo nếp
sống mới, hơn nữa bản thân đồng bào cũng không còn hăng hái với những câu hát dân ca.
Vì trước đây do chỉ cấy một vụ lúa nước nên đồng bào có nhiều thời gian để vui chơi,
hơn nữa mùa cưới của dân tộc Giáy lại vào lúc nông nhàn do đó đám cưới diễn ra linh
đình 3-4 ngày là phổ biến và những đêm hát không phải là 1 mà là 3-4 đêm. Còn hiện nay
đồng bào cấy 2 vụ lúa chính ngoài ra còn trồng cấy thêm hoa màu, cho nên thời gian để
vui chơi bị hạn chế. Những đêm hát vẫn được tổ chức nhưng không được đồng bào
hưởng ứng nhiệt tình cho nên cuộc hát chỉ còn lại một đêm với những câu hát không đầu
không cuối.
Những mâu thuẫn nảy sinh trên có tác động nhất định vào quá trình giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc Giáy ở Lào Cai hiện nay, nó đòi hỏi các ban ngành chức năng và bản
thân đồng bào Giáy phải có những phương thức thích hợp để đảm bảo sự thống nhất giữa
tính truyền thống và tính hiện đại trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
Giáy ở Lào Cai hiện nay.
2.3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Giáy ở tỉnh Lào Cai hiện nay
2.3.1. Phương hướng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở tỉnh Lào
Cai hiện nay
2.3.1.1 Bảo đảm thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc Giáy ở Lào Cai hiện nay
Văn hóa dân tộc Giáy là bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc Việt Nam. Giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy là góp phần vào sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Quá trình thực hiện công tác này đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa yếu tố
truyền thống và hiện đại. Chính yếu tố truyền thống là cái được chắt lọc, khẳng định qua
thời gian làm nên bản sắc văn hóa dân tộc, vì vậy cần phải giữ gìn và phát huy. Do đó, sự
phát triển đúng hướng phải dựa trên cơ sở đó và lấy đó làm nền tảng. Theo giáo sư Đào
Duy Anh: Ta muốn trở nên một nước cường thịnh vừa về vật chất vừa về tinh thần thì
phải giữ di sản văn hoá làm gốc, nền tảng; lấy văn hoá mới làm dụng, nghĩa là phải khéo
léo điều hoà tinh tuý của văn hoá phương Đông với những điều sở trường về khoa học kỹ
thuật của văn hoá phương Tây.[1, tr.23]
Nhưng phát triển không có nghĩa là “Tây hóa” trong phạm vi quốc gia, cũng không
có nghĩa là “Kinh hóa” trong phạm vi vùng, khu vực. Mọi giá trị văn hóa đều có tính độc
lập tương đối, nhưng sự phát triển của nó phải được đánh giá bằng trình độ, cấp độ và ưý
nghĩa của nó đối với đời sống mỗi con người và cộng đồng. Dĩ nhiên, không có chân lưý
chung cho mọi thời đại, nên cái truyền thống muốn tồn tại được cũng cần phải kế thừa, và
phát triển cho phù hợp với điều kiện mới, đó là một tất yếu. Hiện đại hóa cái truyền thống
là nhân tố cơ bản, đảm bảo cho sự tồn tại và nối tiếp bền vững các giá trị văn hóa truyền
thống theo dòng lịch sử. Yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại phải được kết hợp một
cách hài hòa, hợp lưý, nhuần nhuyễn để tạo ra một chỉnh thể văn hóa thống nhất mới, tiến
bộ hơn, phù hợp hơn nhưng vẫn không mất đi bản sắc của nó.
Để tránh rơi vào vòng luẩn quẩn của mâu thuẫn: giữa truyền thống không phù hợp
với thời đại, hiện đại hóa mất đi truyền thống.. Cần có một bước đi rõ ràng, chắc chắn,
không cực đoan. Trước hết, dựa vào mục tiêu của văn hóa để xác định rõ: Những yếu tố
nào còn phù hợp, còn tiến bộ nên giữ gìn và phát huy. Những gì là truyền thống đã lạc
hậu, tiêu cực hay đã hết vai trò lịch sử cần phải vượt qua. Những giá trị văn hóa mới nào
là tích cực, phù hợp với truyền thống dân tộc có thể tiếp thu, giá trị nào không phù hợp
cần ngăn chặn sự xâm nhập tự phát của chúng. Từ đó kết hợp các yếu tố tích cực của
truyền thống và hiện đại bằng hình thức và cách thức hợp lưý, hay hiện đại hóa cái truyền
thống với những nội dung và hình thức mới phù hợp.
Lịch sử tộc người đã chứng minh, có thể tiếp thu các yếu tố văn hóa mới, mà vẫn
giữ được bản sắc, hơn thế còn làm giàu hơn cho văn hóa tộc người. Cho nên, có thể chủ
động cùng với thời gian chuyển những yếu tố văn hóa mới thành những yếu tố văn hóa
tộc người mà vẫn không bị mất gốc. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa cái nội sinh và
ngoại sinh, cái bản sắc, cái bên trong là chính, là cốt lõi.
Nghị quyết trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã chỉ rõ: “Coi trọng và bảo tồn, phát
huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn
học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số [19,tr. 65].
Như vậy, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Giáy ở Lào Cai
cần chú ý chống hai khuynh hướng (khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng hư vô),
nhất thiết phải thực hiện đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước,
thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Đó là bảo đảm thống nhất giữa truyền
thống và hiện đại trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc .
2.3.1.2 Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy gắn liền với phát triển toàn
diện kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng ở Lào Cai hiện nay
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số gắn liền với kế hoạch
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng là một yêu cầu khách quan trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Văn hoá và kinh tế, chính trị, xã hội có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, là tiền đề phát triển của nhau
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định văn hoá là một mặt căn bản của xã
hội. Người chỉ rõ trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn ván đề phải chú ý đến, cùng
phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Văn hoá là một trong những
mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng con người.
Quán triệt quan điểm của Đảng xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của
toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng.
Các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, nhất là trí thức trong
ngành văn hoá phải sử dụng nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền giáo dục làm
chuyển biến nhận thức cho những cư dân Giáy và cộng đồng người Giáy về giá trị và
tầm quan trọng của những tinh hoa văn hóa mà ông cha họ đó tạo nờn, nõng cao ý thức tự
bảo vệ những di sản văn hóa của chính dân tộc mỡnh, cựng bàn bạc tỡm ra những biện
phỏp hữu hiệu để giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa đó. Chú trọng tuyên truyền giáo dục,
chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với phong trào thi đua yêu nước và giáo dục về chủ nghĩa xã
hội , về nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, làm cho cộng đồng người Giáy thấm nhuần truyền thống lịch sử và cách
mạng của dân tộc góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn mới
Các hoạt động tuyên truyền giáo dục phải gắn với quản lý xã hội bằng pháp luật,
phát huy sức mạnh dư luận xã hội. Phát động phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá”, huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên
xuống dưới, từ trong Đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể xã hội tích cực tham gia
phong trào.
Phát triển kinh tế - xã hội phải vì mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân , trong đó phải gắn với mục tiêu phát triển và giữ gìn bản sắc văn hoá của
các dân tộc trong đó có dân tộc Giáy, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá cho nhân dân.
Phát triển kinh tế - xã hội phải căn cứ vào trình độ phát triển văn hoá của từng địa
phương, từng dân tộc để đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao và bền vững.
Phát triển văn hoá tương xứng và đồng bộ với phát triển kinh tế – xã hội và giải
quyết tốt vấn đề văn hoá trong kinh tế, kinh tế trong văn hoá. Chúng ta không chủ trương
thương mại văn hoá nhưng lại phải làm cho văn hoá phục vụ ngày càng tốt hơn cho sự
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề kinh tế trong văn hoá
đặt ra yêu cầu mới cho sự phát triển văn hoá trong đời sống xã hội, nhất là đối với các
lĩnh vực sản xuất các giá trị tinh thần gắn với các hoạt động tiêu dùng văn hoá của nhân
dân như điện ảnh, sân khấu...
2.3.1.3 Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy gắn liền với việc xây dựng
nền văn hoá mới,con người mới ở Lào Cai hiện nay
Xuất phát điểm của đổi mới là gì, nếu không phải từ con người, bởi vì không có sự
đổi mới xã hội nào nếu không có sự đổi mới từ con người. Xây dựng nền văn hoá, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc ngày nay suy cho cùng chính là thực hiện chiến lược con
người. Xây dựng và phát huy nguồn lực con người là khâu trung tâm của sự nghiệp xây
dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hoá của dân tộc. Con người tạo ra văn hoá, là biểu
hiện tập trung của văn hoá và văn hoá đáp ứng nhu cầu, lợi ích của con người, góp phần
vào sự tồn tại và phát triển, hoàn thiện của con người. chỉ có con người mới là nguồn lực
vững chắc, lâu bền nhất, vì nó luôn luôn phát triển với tư cách là nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất trong sự phát triển. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “ Mọi
hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị,
tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình,
cộng đồng và xã hội.[17, tr.114]
Các quá trình chuyển giao khoa học, công nghệ, kinh tế, kỹ thuật chỉ có thể thành
công nếu nắm và xây dựng được con người phát triển toàn diện trên các mặt chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức...nắm được, sử dụng được con người như vậy mới có thể cây dựng
được nền văn hoá mới – nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Giáy ở tỉnh Lào Cai cần phải gắn
liền với việc xây dựng nền văn hoá mới - nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc và việc xây dựng con người mới ở Lào Cai hiện nay theo 5 đức tính đã được
Nghị quyết Trung ương 5 ( khoá VIII) xác định:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với
nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội
- Có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm trung thực nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ cải thiện môi
trường sinh thái
- lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng xuất
cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm
mỹ và thể lực
Đẩy mạnh việc nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy
mạnh phong trào “Sống, chiến đấu, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại, đẩy lùi tiêu cực,
lạc hậu, khẳng định giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam thời kỳ
mới.
2.3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Giáy ở tỉnh Lào Cai hiện nay
2.3.2.1 Phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo là điều kiện quan trọng để đảm
bảo hiệu quả công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Giáy
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề phát triển kinh tế là một trong
những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Đảng bộ, chính quyền và toàn bộ nhân dân tỉnh
Lào Cai nhằm tạo điều kiện, tiền đề cho văn hóa phát triển.
Có thể thấy rõ, việc gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Giáy ở
Lào Cai là một quá trình khó khăn và lâu dài, nó không thể là sản phẩm chủ quan duyư
chí mà trước hết phải phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, vào tình hình và điều kiện
cụ thể của địa phương. Đến nay, Lào Cai vẫn là một trong những tỉnh nghèo của cả
nước, trình độ phát triển kinh tế thấp kém; kết cấu hạ tầng phức tạp; cơ cấu kinh tế chưa
hợp lưý, còn nhiều bất cập; tổ chức quản lưý bộ máy yếu; hiệu lực và hiệu quả thấp. Xen
vào đó bệnh quan liêu tham nhũng, chủ nghĩa cơ hội có chiều hướng gia tăng…điều đó
ảnh hưởng không nhỏ đến việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
trong đó có dân tộc Giáy. Vì vậy, phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo được khẳng
định là cơ sở quan trọng hàng đầu để phát triển văn hóa. Thực hiện mục tiêu Đại hội
Đại biểu đảng bộ Tỉnh Lào Cai lần thứ XIII cho thời kỳ 2006 – 2010, Tỉnh uỷ Lào Cai đã
ra nghị quyết 7 chương trình công tác trọng tâm, 29 đề án phát triển kinh tế - văn hoá - xã
hội.Trong đó có 4 chương trình phát triển kinh tế, một chương trình giảm nghèo bền
vững giai đoạn 2006 – 2010. Để thực hiện những mục tiêu đó tỉnh cần giải quyết nhiều
vấn đề khác nhau, trong đó rất chú trọng vấn đề nâng cao đời sống đồng bào các dân
tộc thiểu số. Xây dựng cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm ở các xã vùng ba,
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Đầu tư phát triển sản xuất: nguồn vốn,
giống cây trồng vật nuôi, hỗ trợ kỹ thuật, chính sách bao tiêu sản phẩm cho bà con để
giúp bà con sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Tiếp tục triển khai có hiệu quả chương
trình phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế nông thôn …để đến năm 2010, cơ bản không
còn hộ nghèo (theo tiêu chí hiện nay).
Để phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo cho vùng đồng bào dân tộc
Giáy. Nhà nước cần có chính sách đầu tư và quản lý đầu tư tốt hơn nữa để xây dựng kết
cấu hạ tầng, giao thông; hỗ trợ vốn kỹ thuật và giống cây trồng, vật nuôi cho đồng bào
phát triển kinh tế - xã hội để từng bước xoá đói giảm nghèo. Nhà nước và chính quyền
địa phương cần tăng cường cán bộ khoa học kỹ thuật nhất là cán bộ biết tiếng dân tộc
Giáy, đến từng bản làng hướng dẫn đồng bào một cách cụ thể, thậm chí cần phải “ cầm
tay chỉ việc” tránh tình trạng chỉ đạo chung chung. Điều quan trọng là tỉnh Lào Cai phải
đẩy mạnh việc liên kết bốn nhà để làm tốt công tác bảo quản sản phẩm và có thị trường
đầu tư cho sản phẩm, từng bước đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật trên các lĩnh vực cho
đồng bào dân tộc Giáy. Bên cạnh đó, trong các hoạt động văn hoá , thông tin nên lồng
ghép nội dung tuyên truyền các mục tiêu và các hoạt động kinh tế - xã hội. Các cơ quan
văn hoá cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá với tuyên truyền phát triển
kinh tế - xã hội để đồng bào dân tộc Giáy hiểu và hăng hái tham gia các hoạt động xây
dựng văn hoá và phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương đảm bảo tính hiệu quả và bền
vững của công việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Giáy.
2.3.2.2 Đẩy mạnh công tác giáo dục văn hoá, lịch sử văn hoá truyền thống, nâng cao
trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc Giáy ở Lào Cai hiện nay
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, với đường lối cải cách mở cửa, hội nhập
với thế giới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang
phải đối mặt với nhiều thử thách lớn hơn cả về kinh tế, chính trị và văn hoá...nhất là
những mưu đồ phản động của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng. Bởi
vậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, đoàn kết cộng đồng càng phải phát huy hơn
bao giờ hết, bởi vì “ mất nước nhiều khi còn giành lại được. Nhưng để mất bản sắc văn
hoá dân tộc sẽ là mất hết và mãi mãi”[27, tr.77]
Để cộng đồng tộc người Giáy phát triển được trong quá trình toàn cầu hoá, một
trong những vấn đề cần quan tâm hàng đầu là tăng cường giáo dục lịch sử văn hoá truyền
thống, giáo dục các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, giáo dục chủ nghĩa yêu nước
tinh thần tự hào dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước; là lòng trung
thành với Tổ quốc; là có khát vọng, có hành động tích cực để phục vụ và đem lại nhiều
lợi ích cho Tổ quốc, cho nhân dân. Ngày nay chủ nghĩa yêu nước là chủ nghĩa yêu nước
mới với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là định hướng và thước đo giá trị
Do đó giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc là giáo dục ý thức
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Yêu nước đồng thời gắn với niềm tự hào
dân tộc , có ý thức tôn trọng giữ gìn và phát huy tốt những giá trị vật chất cũng như tinh
thần mà dân tộc ta đã tạo dựng được từ bao đời nay. Bên cạnh đó phải thường xuyên
nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó và góp phần làm thất bại mọi âm mưu đen tối của
các thế lực thù địch chống phá chế độ ta.
Cùng với giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc là giáo dục lòng
nhân ái, tình cảm cộng đồng dân tộc để phát huy truyền thống dân tộc và giúp con người
sống cân bằng trong điều kiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá, kinh tế thị trường, mở cửa
hội nhập. Đồng thời,phải đặc biệt quan tâm giáo dục tính cần cù sáng tạo trong lao động
và học tập cho đồng bào Giáy để đồng bào có thu nhập chính đáng và có nghề nghiệp
chuyên môn vững vàng. Giáo dục tinh thần dân chủ và công bằng xã hội đây là hạt nhân
của định hướng xã hội chủ nghĩa trong lối sống mới, đạo đức mới.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc có hiệu quả hay không tuỳ
thuộc nhiều vào quá trình giáo dục và tự giáo dục trong các môi trường gia đình, nhà
trường và xã hội, trong đó gia đình và nhà trường đóng vai trò cực kỳ quan trọng
Giáo dục gia đình cần nhấn mạnh giáo dục lối sống tình nghĩa,tinh thần tương trợ
đùm bọc lẫn nhau, thái độ chăm chỉ trong lao động, học tập và sinh hoạt; giáo dục lòng
kính trọng và biết ơn tiên tổ, biết ơn các anh hùng dân tộc ...
Cùng với giáo dục gia đình, giáo dục trong nhà trường cần phải nhằm nâng cao
trình độ hiểu biết về lịch sử dân tộc , về khoa học hiện đại; giáo dục lý tưởng, động cơ
học tập và rèn luyện đúng đắn; giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh...
tất cả nhằm đào tạo những con người có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng
trong sáng, có năng lực và trình độ chuyên môn đáp ứng nhu cầu sự nghiệp cách mạng.
Chính vì những ý nghĩa như vậy chúng ta cần phải làm tốt những công việc sau:
- Giáo dục tinh thần tự tôn dân tộc , tự hào dân tộc , tinh thần yêu nước gắn với
yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho đồng bào Giáy.
- Giáo dục lòng kính trọng ông bà cha mẹ, và lòng biết ơn tổ tiên, biết ơn các anh
hùng dân tộc . Đây là việc làm tốt đẹp nhằm củng cố truyền thống văn hoá gia đình.
Thông qua môi trường giáo dục gia đình, mọi người nhất là lớp trẻ sẽ có những hiểu biết
đầy đủ hơn về truyền thống gia đình, dòng tộc từ đó làm cơ sở để tiếp cận những truyền
thống dân tộc , lịch sử văn hoá dân tộc . Từng bước hình thành nhân cách, ý thức trách
nhiệm của bản thân đối với gia đình và cộng đồng.
- Giáo dục tinh thần hữu nghị cho đồng bào Giáy đáp ứng nhu cầu phát triển văn
hoá du lịch của một tỉnh có nhiều địa danh lịch sử, hang động tự nhiên và các vùng sinh
thái nông nghiệp đặc sản... với nhiều khu du lịch nghỉ mát như Sa PA, Bắc Hà, du lịch
cửa khẩu... Đây còn là nơi mang đậm nét đặc trưng văn hoá độc đáo của nhiều dân tộc
anh em thu nhiều khách du lịch quốc tế đến nghiên cứu, tham quan. Do đó Giáo dục tinh
thần hữu nghị cho đồng bào Giáy nhằm củng cố và nâng cao tinh thần hoà bình, hợp tác
qua đó nâng cao vị thế của đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế.
Cần chú ý giáo dục lịch sử văn hoá truyền thống dân tộc Việt Nam nói chung, dân
tộc Giáy nói riêng. Đây là công việc truyền bá, chuyển giao những giá trị của lịch sử của
dân tộc cho thế hệ mai sau, làm cho những giá trị đó khắc sâu vào tiềm thức nhân dân,
biến thành những tình cảm đẹp đẽ, niềm tin, động lực có ý nghĩa đối với sự phát triển
hiện tại.
Cùng với công tác đẩy mạnh giáo dục là nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào
dân tộc Giáy ở Lào Cai
Nâng cao dân trí cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hiện nay (trong đó có dân
tộc Giáy), là một trong những vấn đề được tỉnh Lào Cai quan tâm hàng đầu. Bên cạnh
trình độ kinh tế còn thấp kém, trình độ dân trí còn rất nhiều hạn chế càng làm cho người
dân ít nhận thức được ưưý nghĩa của các giá trị văn hóa, do đó bản thân họ cũng chưa có
ưý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Nâng cao trình độ dân trí nghĩa là mở mang trí óc của mỗi cộng đồng, dân tộc, là
hoạt động khai trí cho nhân dân. Nâng cao trình độ dân trí không chỉ dừng lại ở trình độ học
vấn mà còn là sự phổ biến kiến thức phổ thông về khoa học kỹ thuật; về toàn bộ thể chế chính
trị- xã hội; về hiến pháp và pháp luật; về các chuẩn mực đạo đức và luân lưý; về các quan điểm
thẩm mỹ tiến bộ trong thưởng thức nghệ thuật và trong sinh hoạt giao tiếp; về dân số và kế
hoạch hóa gia đình; về ý thức giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc và nhân
loại.
Muốn nâng cao dân trí cần xây dựng một xã hội học tập tạo chuyển mới trong thực
hiện mục tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, coi
trọng cả ba mặt; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.
Cần phải được tạo điều kiện hơn nữa về mọi mặt để con em các gia đình trong diện
chính sách, con em là người dân tộc thiểu số, gia đình nghèo được học tập. Đặc biệt là
con em ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và núi cao. Cần phải thực hiện tốt hơn
chương trình xã hội hóa giáo dục, mở rộng nhiều loại hình trường bán công, dân lập, tư
thục. Củng cố các trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú, tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên về trình độ lưưý luận chuyên môn nghiệp
vụ. Mô hình trường dân tộc nội trú và mô hình bán trú liên xã rất phù hợp với việc phát
triển giáo dục ở vùng sâu vùng xa, do đó cần tiếp tục nâng cấp cơ sở vật chất, bổ sung đội
ngũ giáo viên để phát triển mạnh hơn nữa loại hình này.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, cần triển khai thực hiện tốt
mục tiêu phổ cập chương trình tin học cơ sở, không chỉ cho các trường trung tâm thị xã,
thị trấn mà cần ưu tiên tới các trường con em các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu,
vùng xa trong khu vực để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi trong giai đoạn mới. Tạo điều kiện
cho các em tiếp cận dần với khoa học – công nghệ để từng bước giúp các em nâng cao
trình độ, hiểu biết, theo kịp với xu thế chung của thời đại. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương 5 khóa IX đã nhấn mạnh việc tăng cường xây dựng và củng cố, nâng
cao chất lượng đào tạo ở các trường dân tộc nội trú và bán trú, chú trọng đào tạo đội ngũ
cán bộ người dân tộc, kể cả đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ và lãnh đạo, nhất là
cấp cơ sở.
Đẩy mạnh công tác giáo dục và nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc
Giáy ở Lào Cai làm cho đồng bào nhận thức được ý nghĩa của các giá trị văn hoá dân tộc
từ đó có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc
2.3.2.3 Chủ động bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc Giáy ở Lào Cai.
Để làm tốt công việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc Giáy ở Lào
Cai. Điều đầu tiên phải điều tra nghiên cứu, sưu tầm những di sản văn hoá của dân tộc
Giáy từ đó đưa ra các kết luận có cơ sở khoa học và có sức thuyết phục về bản sắc văn
hoá của dân tộc Giáy. Từ việc điều tra, kiểm kê đánh giá, các nhà quản lý các cấp(
nhất là ở địa phương) nên phối hợp với các ngành chuyên môn tổ chức tuyên truyền,
giáo dục rộng rãi cho các vùng, các dân tộc hiểu biết văn hoá từng vùng, từng dân tộc
qua sách, báo, các phương tiện thông tin đại chúng và giáo dục ở nhà trường. Điều
đáng quan tâm là, tại các vùng có dân tộc Giáy sinh sống, các cấp uỷ đảng và chính
quyền cần xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện việc tuyên truyền giáo dục
nâng cao nhận thức của mỗi người dân trong cộng đồng tộc người Giáy về việc sưu
tầm, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc mình, từ đó tìm ra biện pháp khả
thi để duy trì và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Giáy ở Lào Cai.
Cùng với hoạt động tuyên truyền các vùng có dân tộc Giáy sinh sống cần đẩy
mạnh công tác xã hội hoá việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc
Giáy, đồng thời đầu tư kinh phí cho hoạt động sưu tầm, gìn giữ và phát huy bản sắc
văn hoá của dân tộc Giáy một cách thoả đáng. Để tăng kinh phí, ngoài nguồn kinh phí
đầu tư của nhà nước, tỉnh cần tranh thủ nhiều nguồn tài trợ theo hướng đa dạng hoá
nguồn đầu tư: nhân dân tự nguyện đóng góp, tài trợ của các tổ chức quốc tế, các tổ
chức phi chính phủ...
Đồng thời phương thức bảo tồn ở trạng thái tĩnh của những đơn vị chuyên
ngành khi sưu tầm, văn bản hoá, ghi âm, ghi hình... cần tiến hành ở phương thức bảo
tồn ở trạng thái động, nghĩa là đưa các giá trị văn hoá truyền thống về với môi trường
văn hoá cộng đồng, nơi đã nảy sinh ra các giá trị văn hoá, làm cho nhân dân các bản
làng Giáy nhận thức được ý nghĩa nền tảng và động lực của việc bảo tồn các giá trị
văn hoá truyền thống thì chính họ sẽ là chủ thể quan trọng có thể giải quyết được
những mâu thuẫn đặt ra với văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, chính quyền địa
phương có vai trò quan trọng trong việc định hướng và tạo điều kiện để nhân dân có
nhiều cơ hội giữ gìn, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá truyền thống.
2.3.2.4 Đổi mới chính sách đối với cán bộ làm công tác văn hoá tạo động lực cho việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Giáy ở Lào Cai hiện nay
Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá và cán bộ quản lý văn hoá là nhân tố có vai trò
quyết định đến hiệu quả công việc gìn giữ, lưu truyền và phát triển văn hoá truyền thống
các dân tộc thiểu số trong đó có văn hoá truyền thống dân tộc Giáy.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Cán bộ là gốc của mọi công việc... công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [25, tr. 169- 173]
Trong công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Giáy ở Lào
Cai, việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lưý văn hóa và làm
công tác chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu công tác hiện nay là một đòi hỏi cấp bách.
Do đó, phải quan tâm thích đáng đến đội ngũ những người làm công tác văn hóa và các
tri thức người Giáy, văn nghệ sĩ hoạt động trên lĩnh vực bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống và phải coi họ là vốn quưý của công tác này.
Để có đội ngũ cán bộ làm văn hóa có chất lượng và chuyên môn cần phải tuyển
chọn những người có trình độ chuyên môn, được đào tạo chính quy, có thời gian thử việc
trước khi chính thức tuyển. Có chính sách ưu đãi để thu hút nhân tài ở các nơi khác đến
công tác tại các tỉnh. Việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ phải toàn diện nhưng có trọng tâm,
trọng điểm theo yêu cầu của công việc, theo điều kiện của từng dân tộc, từng địa phương,
từng vùng; bố trí sử dụng cán bộ phải đúng người, đúng việc, có tính đến đặc thù địa bàn,
dân tộc. Cần đổi mới cách thức, quy trình thực hiện quy hoạch cán bộ là người dân tộc
thiểu số, phải có chương trình đào tạo một cách quy củ và bồi dưỡng thường xuyên để có
những hiểu biết đúng đắn, có năng lực thật sự trong công tác vận động ở làng, bản.
Với đội ngũ cán bộ văn hoá, các nghệ nhân dân gian người dân tộc thiểu số có chế
độ thoả đáng về lương, phụ cấp, nhà ở chế độ nghỉ ngơi, khen thưởng..., ưu tiên và tăng
chi ngân sách cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Có kế hoạch tạo nguồn cán bộ cho vùng dân tộc ít người và cán bộ cho vùng dân
tộc thiểu số; Chú ưý sử dụng học sinh tốt nghiệp các trường dân tộc nội trú trong tỉnh, dự
bị đại học dân tộc; thực hiện tốt các tiêu chuẩn tuyển sinh cao đẳng, đại học hệ cử tuyển;
mở các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số cho cơ sở với các điều kiện ưu tiên
cao…Cần có kế hoạch ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nghiên cứu văn hóa các dân tộc
Giáy cả về số lượng và chất lượng. Nên có chế độ đãi ngộ thích hợp, coi đó là sự động viên để
họ an tâm công tác, đóng góp sức lực vào công việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Giáy ở tỉnh Lào Cai .
Cán bộ văn hóa thông tin là những người làm các công việc trực tiếp liên quan tới
văn hóa, thường xuyên đi xuống cơ sở. Vì vậy cần có chế độ bồi dưỡng, đãi ngộ thích
đáng để khuyến khích họ toàn tâm, toàn ưý cho công việc. Đặc biệt, hiện nay số lượng
cán bộ văn hóa là người Giáy còn thiếu và yếu ở tất cả các cấp, các bộ phận (như tỉnh
Lào Cai hiện nay, thiếu cán bộ dân tộc Giáy có đủ trình độ và năng lực chuyên môn ở
một số đơn vị, phòng ban trực thuộc phòng Văn hoá - Thông tin các huyện, thành phố).
Bên cạnh đó số lượng biên chế ít gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động văn hóa. Tỉnh
cần sớm xem xét và giải quyết vấn đề này để tạo điều kiện cho ngành văn hóa thông tin
hoạt động có hiệu quả hơn. góp phần quan trọng vào việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Giáy ở Lào Cai hiện nay
Kết luận
Văn hoá, với nội hàm phong phú, có ý nghĩa hết sức căn bản và vô cùng rộng lớn,
từ lâu đã trở thành mối quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Có thể nói, văn hoá luôn
đồng nghĩa với cuộc sống và sự phát triển. Con người ra đời từ văn hoá trưởng thành từ
văn hoá.
Mỗi dân tộc với điều kiện và lịch sử của mình đều có một nền văn hóa với những
nét riêng, lâu đời và bền chặt, đó là bản sắc văn hóa. Bản sắc văn hóa là một tiêu chí để
khẳng định sự tồn tại của một dân tộc; giữ gìn bản sắc là cách thức cơ bản để các dân tộc
không tự đánh mất mình. Chính vì vậy, nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu đời sống văn hóa
của các dân tộc là nghiên cứu toàn bộ những sáng tạo và phát minh của các dân tộc trong
lịch sử xã hội. Qua đó để tìm ra những đặc sắc, tinh túy trong hệ thống giá trị truyền
thống văn hóa của dân tộc, để tôn vinh, phát huy lên tầm cao mới để không ngừng phục
vụ tốt hơn cho cuộc sống các thế hệ hôm nay và mai sau.
Xu thế toàn cầu hoá và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay vừa tạo thời cơ, vừa tạo thách thức đối với nước ta. Mặt tiêu cực của toàn
cầu hoá cùng với âm mưu diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra trở thành thách
thức gay gắt trên con đường phát triển của dân tộc ta. Bản sắc văn hoá dân tộc đang đứng
trước nguy cơ của sự tác động tiêu cực của xu thế toàn cầu hoá và của cơ chế thị trường. Nó
làm xóa nhòa bản sắc từng dân tộc riêng biệt, làm băng hoại các giá trị truyền thống, làm cho
dân tộc này có thể trở thành cái bóng hay bản sao của một dân tộc khác. Chính vì vậy, để giữ
gìn bản sắc của riêng mình, mỗi dân tộc cần có những giải pháp thích hợp cho việc giữ gìn
và phát huy một cách có hiệu quả nhất các giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Đối với dân tộc Giáy ở Lào Cai, một dân tộc đã có một nền văn hóa phong phú,
độc đáo và hết sức đặc sắc, thì việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc
này ngày càng trở nên đặc biệt cần thiết trong điều kiện hiện nay. Nếu làm tốt được điều
này thì không những chúng ta có thể giữ gìn những nét văn hóa riêng đáng tự hào của
một dân tộc, mà còn phát huy được sức mạnh tiềm tàng vốn có của nó từ bao đời nay,
góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy
nhiên, chúng ta không thể giữ gìn và phát huy tất cả những giá trị văn hóa tạo nên bản sắc
văn hóa dân tộc Giáy , bởi có những nét văn hóa đã tỏ ra không còn phù hợp hoặc không còn
giá trị thậm chí còn gây cản trở cho sự phát triển của dân tộc. Vì vậy, chúng ta chỉ nên và cần
thiết giữ gìn và phát huy những nét văn hóa nào thực sự có giá trị, đã và đang chịu ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng của những nguyên nhân khác nhau dẫn tới nguy
cơ mai một bản sắc như văn hóa lúa nước; các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể như: nhà
ở, trang phục, ẩm thực, ngôn ngữ , văn nghệ dân gian...; các giá trị văn hóa với tư cách là
thiết chế xã hội: gia đình- bản làng...
Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai cần phải triển
khai nhiều giải pháp tích cực. Những giải pháp đó nờu ra trong luận văn về vấn đề phát
triển kinh tế; đẩy mạnh công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự hào dân
tộc,tinh thần đoàn kết cộng đồng, tinh thần hữu nghị cho đồng bào Giáy; đổi mới chính
sách đối với cán bộ làm công tác văn hoá tạo động lực cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc Giáy như đó nờu là những giải phỏp cú ý nghĩa phương pháp luận, nhằm
mục đích đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng trong việc phát triển kinh tế - xó hội, giữ
gỡn và phỏt huy những giá trị văn hóa độc đáo của tộc người Giáy ở Lào Cai hiện nay.
Thực hiện tốt quá trình này, các cấp uỷ đảng- Chính quyền tỉnh Lào Cai cần phải
có những chính sách kinh tế, chính trị, xã hội đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể
từng địa phương nhằm hướng dẫn, động viên nhân dân, khơi dậy trong nhân dân lòng tự
hào dân tộc để họ tự giác bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc. Từ đó, có thể đổi mới cách nhận thức, cũng như nâng caoư ý thức của bà con về vấn
đề gìn giữ và phát huy những nét văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Tiến tới xây dựng
phát triển một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh’’.
Nói tóm lại : Xã hội đã nhận thức một cách sâu sắc rằng, sự bảo tồn bản sắc văn
hoá của mỗi dân tộc, Bảo tồn tính phong phú và đa dạng của nền văn hoá chung và của
toàn nhân loại ... sẽ là hành trang không thể thiếu để con người bước vào thiên niên kỷ
mới. Với quá trình toàn cầu hoá hiện nay của thế giới, việc giao lưu hợp tác về văn hoá
giữa các nước sẽ ngày càng được mở rộng hơn, toàn diện hơn. Việt Nam cũng không
nằm ngoài xu thế đó. Để quá trình hội nhập phát triển bền vững, hội nhập mà không đánh
mất mình thì vấn đề giữ gỡn và phỏt huy bản sắc văn hoá dân tộc là một trong những yêu
cầu vừa tự nhiên, vừa cấp thiết nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng trong đời sống tinh
thần của nhân dân ta, đồng thời đây cũng là yêu cầu của cộng đồng thế giới muốn tìm
hiểu nền văn hoá, con người Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh (2001), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
2. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - thực trạng và những
vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội năm 2007 và quý 1 năm 2008 của tỉnh Lào
kết quả thực hiện chương trình Xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân
cư tỉnh Lào Cai giai đoạn 2003 -2006 của Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Lào
Cai
5. Báo cáo công tác Văn hoá Thông tin năm 2007 của Sở Văn hoá Thông tin tỉnh
Lào Cai
6. Báo cáo công tác Văn hoá Thông tin 6 tháng đầu năm 2008 của Sở Văn hoá
Thông tin tỉnh Lào Cai
7. Báo cáo nghiệm thu Đề tài Điều tra di sản văn hoá phi vật thể năm 2007
củaSở Văn hoá Thông tin tỉnh Lào Cai
8. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - thực trạng và những
vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Ban chấp hành Hội Văn Hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam (1992), Nền văn
hóa đa dân tộc Việt Nam, Hà Nội.
10. Bộ văn hóa thông tin (1992), Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Hà Nội.
11. C.Mác- Ph.Ăngghen(1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
12. C.Mác- Ph.Ăngghen(2001), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
13. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
14. Huy Cận (1994), Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
15. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện hội nghị BCH Trung ương lần thứ
5, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào
Cai lần thứ XIII
21. Nguyễn Khoa Điềm (2000) "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, số 7/2000.
22. Nguyễn Khoa Điềm (2004) Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Đinh Thị Hoa (2006), Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Mường Tỉnh Phú Thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
24. Đỗ Văn Hòa (2003), Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc
thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Luận văn thạc. Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.Hà Nội.
25. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
27. Vũ Khiêu( chủ biên) (2000), Văn hoá Việt Nam xã hội và con người, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Đỗ Huy - Trường Lưu (1990), Bản sắc dân tộc của văn hóa, Viện Văn hóa.
29. Ngô Văn Lệ (1998), Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
30. Thanh Lê (2004), Cội nguồn bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
31. Ngô Văn Lệ (1998), Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
32. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt Nam,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
33. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học.
34. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
35. Nguyễn Duy Quý(biên tập) “Tính đa dạng văn hoá của Việt Nam : Những
tiếp cận về sự bảo tồn” Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia.
36. Lò Ngân Sủn (1997), Đầu nguồn cuối nước, Thơ song ngữ Việt – Giáy, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà
37. Lò Ngân Sủn, Sần Tráng (1994), Tục ngữ Giáy, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
38. Lù Dín Siềng (1995), Truyện cổ Giáy, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
39. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa Thông tin.
40. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
41. Từ điển Tiếng Việt (2000), Nxb Đà Nẵng.
42. Từ điển Triết học (1986), Nxb Sự thật.
43. Sần Tráng (2003), Một số phong tục tập quán dân tộc Giáy Lào Cai, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
44. Sần Tráng (2001), Dân ca trong đám cưới và trong tiệc rượu người Giáy, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
45. Sần Tráng (1996), Văn học dân gian Tỉnh Lào Cai – Dân tộc Giáy Lào Cai,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
46. Vy Trọng (2005), Bản sắc văn hóa hành trang của mỗi dân tộc, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
47. V.I Lênin, Bàn về văn hoá, văn học, Nxb Văn học Hà nội .
48. Võ Văn Kiệt, Trần Hoàn, Cư Hòa Vần... (1996), Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn
hóa dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
49. Lê Thị Mỹ Vân (1999), Văn hóa truyền thống của các dân tộc Jrai và
Bahnar ở tỉnh Gia Lai hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
50. Nguyễn Văn Vãn (2005), Một số vấn đề về lịch sử – Văn hóa Lào Cai, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội,
51. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2002
52. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học( 2008) Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc thiểu số vùng Tây Bắc nước ta . Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
”( Lào Cai một thế kỷ phát triển và hội nhập. NXB Thông tấn xã Việt Nam 2007. tr 18.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vấn đề giữ gỡn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Tỉnh Lào Cai hiện nay.pdf