Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre không nằm ngoài những giá trị
đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Song, nó được hình thành và biểu hiện với
những sắc thái riêng bởi điều kiện lịch sử, điều kiện sinh hoạt vật chất của vùng đất ba
dải cù lao. Truyền thống ấy gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của quê hương,
từ buổi đầu khai hoang mở đất cho đến các thời kỳ đấu tranh cách mạng, nhất là trong
cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân. Khi đất nước thống nhất, chính
những truyền thống quý báu ấy đã giúp người phụ nữ Bến Tre vượt qua mọi khó khăn
thử thách để hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại quê hương.
105 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2460 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động
được xem là hướng giải quyết việc làm có hiệu quả ở Bến Tre. Tuy nhiên, họ sẽ dễ bị
bóc lột, không có điều kiện thăng tiến và cải thiện nghề nghiệp, thậm chí bị đối xử tàn
nhẫn và bị lạm dụng tình dục... Tình trạng nữ lao động Việt Nam bỏ trốn ở một số nước
cho thấy rõ điều đó. Vì vậy, trong công tác xuất khẩu lao động, tỉnh cần có kế hoạch
liên kết chặt chẽ về mặt pháp lý với các đối tác ngoài tỉnh và nước ngoài, nhằm bảo đảm
quyền lợi của người lao động, đặc biệt là nhân phẩm của lao động nữ. Đồng thời, tỉnh
cần có kế hoạch hướng nghiệp, đào tạo cho người lao động tham gia xuất khẩu lao động
có kiến thức nhất định về chuyên môn, ngôn ngữ, văn hoá của nước sẽ đến lao động,
nhất là sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật, hợp đồng lao động. Ngoài ra, tỉnh
cũng cần hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động nghèo và tín dụng cho người tham
gia xuất khẩu lao động.
Có thể nói, việc phát triển các thành phần kinh tế, khôi phục và phát triển làng
nghề truyền thống, xuất khẩu lao động là những giải pháp quan trọng góp phần giải
quyết vấn đề việc làm cho lao động nữ ở Bến Tre, nâng cao trình độ kỹ thuật của người
phụ nữ lên một bước. Đồng thời, đó là hướng trực tiếp làm xuất hiện nhân cách mới,
hình thành những phẩm chất đạo đức mới ở người phụ nữ, bổ sung và phát triển những
giá trị đạo đức truyền thống quý báu của giới nữ.
Song, phát triển kinh tế không phải là điều kiện duy nhất của quá trình kế thừa và
phát huy giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ. Quá trình đó còn chịu sự tác
động của nhiều yếu tố trong đó có môi trường văn hóa, đạo đức của gia đình và xã hội.
Thứ hai, xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình và xã hội
Cùng với việc tạo dựng môi trường kinh tế lành mạnh, hình thành những điều
kiện vật chất cho quá trình kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của
người phụ nữ Bến Tre đòi hỏi phải xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh cả trong
gia đình và xã hội. Đó là nơi chứa đựng những giá trị đạo đức truyền thống và các mối
quan hệ đạo đức của con người, có vai trò to lớn, tác động, quy định sự phát triển đạo
đức của người phụ nữ. Để có được môi trường đạo đức tốt, không thể tách rời mối quan
hệ giữa gia đình và xã hội. Gia đình là tế bào xã hội, là xã hội thu nhỏ, có vị trí quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nền đạo đức xã hội và cá nhân. Gia đình đầm
ấm sẽ góp phần vào sự phát triển hài hoà của xã hội, gia đình càng nề nếp thì kỷ cương
xã hội càng nghiêm minh. Ngược lại, xã hội tiến bộ, lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho gia
đình ổn định và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Nhiều gia đình cộng lại
mới thành xã hội, xã hội tốt gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân
của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chú ý hạt nhân cho
tốt” [42, tr.523]. Và Đảng ta cũng đã khẳng định “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái
nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và
hình thành nhân cách” [9, tr.15].
Chính vì vị trí quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của cá nhân
và xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm coi trọng việc xây dựng “gia đình văn
hoá”, coi đó là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược phát triển đất nước.
Ngày nay, phụ nữ Bến Tre đã đăng ký thực hiện gia đình 4 chuẩn mực “no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, đúng với chủ trương của Đảng “xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc làm cho gia đình thực sự là tế bào của xã hội, là tổ ấm
của mỗi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá trị
văn hoá của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác” [11, tr.112-113].
Đồng thời, khi nói đến gia đình là gắn liền với vị trí, vai trò, tình cảm của người phụ
nữ. Phụ nữ luôn là biểu tượng cao đẹp của mối quan hệ gia đình tốt đẹp. Họ là “trung tâm
của sự điều hoà”, là cầu nối của tình cảm, là sợi dây thắt chặt mối quan hệ gia đình. Hạnh
phúc của người phụ nữ chính là hạnh phúc và sự phát triển bền vững của gia đình. Chính vì
vậy, gia đình hạnh phúc, yên vui là điểm tựa vững chắc, là niềm tin, động lực để phụ nữ
hoàn thành tốt công việc gia đình và xã hội.
Trong gia đình, người phụ nữ luôn giữ vị trí hàng đầu, giữ vai trò chủ yếu từ việc
tổ chức đời sống kinh tế đến đời sống văn hoá tình cảm, giáo dục con cái trong gia đình
do đặc trưng về giới tính, thiên chức vốn có của họ. mặc dù xây dựng tổ ấm gia đình là
trách nhiệm của cả vợ và chồng nhưng một thực tế đã được nhiều thế hệ người Việt Nam
khái quát là “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Ngày nay, người phụ nữ không chỉ có
trách nhiệm sinh con, nuôi con mà quan trọng hơn là giáo dục con, nghĩa là không chỉ nuôi
con khỏe mà còn dạy con ngoan, học giỏi. đồng thời hướng dẫn con vào các hoạt động vui
chơi giải trí, học tập, lao động lành mạnh, giúp con tránh được những thói hư tật xấu. người
phụ nữ không chỉ giáo dục kiến thức về tự nhiên xã hội mà còn giáo dục định hướng về
nhân cách, đạo đức cho con, thường xuyên chia sẻ tâm tư tình cảm của con, thể hiện lòng
nhân hậu, vị tha và luôn là tấm gương sáng cho con học tập, noi theo.
Trong điều kiện hiện nay, tệ nạn xã hội luôn là nỗi lo của nhiều gia đình thì vai
trò của người phụ nữ trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc không chỉ là tình thương,
trách nhiệm mà cần có kiến thức khoa học, hiểu biết pháp luật, mẫu mực trong cuộc
sống gia đình và xã hội. Vì vậy, muốn xây dựng gia đình văn hoá, đạo đức lành mạnh
thì trước hết người phụ nữ phải có văn hoá, luôn kế thừa và phát huy những giá trị đạo
đức cao quý của giới mình và của cả dân tộc. Nghĩa là, để trở thành nhà giáo dục của
con cái, người phụ nữ trước hết phải được giáo dục đúng như quan điểm của C.Mác:
"Bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục" [36, tr.10]. Vì thế, các cấp Hội
phụ nữ phải thường xuyên hướng dẫn cho phụ nữ tổ chức cuộc sống gia đình, nâng cao
kiến thức và trách nhiệm làm vợ, làm mẹ. đồng thời vận động nam giới chia sẻ trách
nhiệm để cùng nhau xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Ngoài
ra phải giáo dục truyền thống văn hoá gia đình Việt Nam, ứng xử trong gia đình, những
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp cho phụ nữ. từ đó giúp họ có kiến thức về xây dựng
gia đình văn hoá, hoà thuận, hạnh phúc.
Mặt khác, tăng cường giáo dục pháp luật trong phụ nữ, vận động thực hiện luật
hôn nhân và gia đình, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người phụ nữ, góp
phần tích cực ngăn chặn sự ngược đãi phụ nữ, trẻ em và lạm dụng tình dục trẻ em gái.
để xây dựng được một gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, người
phụ nữ không chỉ là người mẹ mẫu mực mà còn phải hoàn thành tốt vai trò người con
hiếu thảo và người vợ thủy chung. người phụ nữ luôn phấn đấu vươn lên trở thành
người bạn sẻ chia gánh vác cùng chồng, luôn sát cánh bên chồng để động viên, an ủi,
khuyến khích chồng phấn đấu về mọi mặt, làm những việc có ích cho gia đình và xã
hội. người phụ nữ phải tôn trọng, thủy chung, yêu thương, chăm sóc chồng với sự tế
nhị, dịu dàng vốn có của mình. đồng thời, phụ nữ cần hiểu công việc của chồng và giúp
chồng hiểu công việc của mình để cảm thông chia sẻ. Không những thế, người phụ nữ
còn phải thể hiện lòng tôn trọng và hiếu thảo của người con đối với bậc sinh thành,
dưỡng dục chồng mình, giúp chồng tạo nên những mối quan hệ thân thiết với gia đình
và người thân, bạn bè. Có như vậy, người phụ nữ mới có thể xây dựng nên một gia đình
“no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Và qua đó, họ thể hiện được sự kết hợp hài hoà
giữa những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ với những giá trị đạo đức mới
hôm nay.
Khi môi trường đạo đức trong gia đình được xây dựng thì tất yếu sẽ hình thành
nên môi trường đạo đức lành mạnh trên bình diện xã hội. đó là điều kiện thuận lợi cho
quá trình kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Bến
Tre. Cùng với nó là quá trình không ngừng đấu tranh chống các tệ nạn xã hội ảnh hưởng
trực tiếp đến phẩm chất đạo đức của người phụ nữ, cải tạo những phong tục, tập quán
lạc hậu còn tồn tại trong xã hội - cái đang là lực cản của sự tiến bộ và phát triển.
Với ý nghĩa đó, UBND tỉnh Bến Tre đã ban hành một số văn bản chỉ đạo các
ngành, các cấp, các đoàn thể xây dựng kế hoạch tổ chức, thực hiện ngăn chặn và bài trừ
các tệ nạn xã hội, nhất là tệ mại dâm, ma tuý (Kế hoạch số 33/ KH- PCTNXH ngày
18/6/2001 của Ban chỉ đạo phòng chống tệ nạn xã hội về việc triển khai thực hiện các
đề án của chương trình hành động phòng chống tệ nạn ma tuý- mại dâm; Chỉ thị số
19/2000/ CT- UB ngày 10/12/2001 của UBND tỉnh về việc “Đẩy mạnh công tác phòng
chống tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh Bến Tre”. Ngày 18/3/2002, Chủ tịch UBND tỉnh
đã ban hành Quyết định số 1033/QĐ- UB về việc thành lập Uỷ ban phòng chống AIDS
và phòng chống tệ nạn ma tuý mại dâm tỉnh Bến Tre).
Tất cả những văn bản trên đã thể hiện sự cố gắng nỗ lực của các cấp ủy đảng và
chính quyền địa phương trong công tác phòng, chống tệ nạn xã hội. Nhưng hiện nay,
chúng ta chưa thể tạo ngay được những tiền đề cần thiết về kinh tế, văn hoá, xã hội để
loại trừ hoàn toàn tệ nạn xã hội này một cách nhanh chóng. điều đó cho thấy, công tác
phòng chống tệ nạn xã hội phải thường xuyên kiên trì và sử dụng nhiều biện pháp tổng
hợp.
Một là, quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nữ, nhất là những
phụ nữ có hoàn cảnh gia đình khó khăn để giúp họ không rơi vào các tệ nạn xã hội.
đồng thời đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với những hộ gia đình
do phụ nữ làm chủ.
Hai là, thường xuyên tuyên truyền giáo dục truyền thống đạo đức của phụ nữ, của
dân tộc và nâng cao nhận thức về tệ nạn xã hội cho mọi tầng lớp phụ nữ. Đặc biệt là sự giáo
dục ở cả ba môi trường: gia đình- nhà trường - xã hội. Kết hợp chặt chẽ việc tuyên truyền
giáo dục với cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá bốn chuẩn mực “no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc”, củng cố thiết chế gia đình.
Ba là, chính quyền địa phương tăng cường quản lý chặt chẽ, kiên quyết xử lý
nghiêm minh những hành vi tham gia tệ nạn xã hội. phải có biện pháp giám sát, kiểm tra
các tụ điểm trá hình trên mọi địa bàn. cần phối hợp với tổ dân phố, xóm, ấp,... để đẩy
mạnh phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội...
Công tác này đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các đoàn thể, trực tiếp là
các cấp Hội phụ nữ phối hợp với công an địa phương làm lành mạnh hoá đời sống xã
hội từ trong xóm ấp. Tuy nhiên, để có được môi trường đạo đức lành mạnh trong xã hội,
phát huy mạnh mẽ truyền thống đạo đức của người phụ nữ, cần phải cải tạo những
phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại trong xã hội, xây dựng nếp sống mới với
những phong tục tập quán mới. Ngày nay, mặc dù tồn tại xã hội đã thay đổi nhưng
những tư tưởng tâm lý, thói quen, đạo đức phong kiến vẫn còn tồn tại dai dẳng ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, đó là do tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
những tàn dư tư tưởng phong kiến không thể tự mất đi mà đòi hỏi phải có quá trình đấu
tranh, cải tạo, xoá bỏ nó để xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới cho người phụ nữ.
chính những quan niệm, đạo đức, lễ giáo phong kiến cực đoan đã dìm người phụ nữ
xuống đáy xã hội không thể vươn lên và phát triển. Đó là những tư tưởng gia trưởng độc
đoán, trọng nam khinh nữ... biểu hiện một cách rất hủ bại, không tạo nên một cơ hội
phát triển nào cho phụ nữ. có thể thấy rằng, vấn đề bạo lực gia đình ngày nay có nguyên
nhân sâu xa từ những quan niệm xem thường phụ nữ. vì vậy phải khắc phục và xoá bỏ
một cách có hiệu quả những nhận thức lệch lạc về phụ nữ, tạo nên sự bình đẳng nam nữ
trong gia đình và xã hội. Trong cuộc đấu tranh này trách nhiệm thuộc về toàn xã hội
nhưng chủ yếu từ chính bản thân người phụ nữ. trước hết, người phụ nữ phải tích cực
học tập, rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt, tham gia hoạt động xã hội,
tham gia các phong trào... để tự khẳng định mình. Đồng thời, người phụ nữ phải khắc
phục tâm lý mặc cảm, tự ti, thẳng thắn và mạnh dạn đấu tranh chống lại những tư tưởng
tâm lý lạc hậu, lỗi thời cản trở bước tiến của giới nữ. ngoài ra phụ nữ phải giúp đỡ nhau
cùng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Phụ
nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập, phải nâng cao
lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật" [43, tr.295]; "không nên ngồi chờ Chính
phủ, chờ Đảng ra Chỉ thị giải phóng cho mình mà tự mình phải tự cường, phải đấu
tranh" [42, tr.524]. tuy nhiên, để có được sự bình đẳng cho phụ nữ, cần có sự hỗ trợ từ
phía xã hội, chính quyền và đặc biệt là nam giới. Chính vì thế, phải thường xuyên mở
các lớp tập huấn tuyên truyền giáo dục những kiến thức về giới, bình đẳng nam nữ cho
nhiều đối tượng từ những người làm công tác quản lý, tổ chức hoạt động xã hội, bản
thân các tầng lớp phụ nữ đến nam giới nhằm nâng cao nhận thức xã hội trên góc độ
Giới, góp phần tạo nên sự tiến bộ của phụ nữ. từ đó sẽ khắc phục những tư tưởng, tập
quán lạc hậu trong xã hội. Mặt khác phải nghiêm khắc xử phạt những trường hợp vi
phạm Luật Hôn nhân và gia đình, có hành động bạo lực phân biệt đối xử đối với phụ nữ.
Cùng với quá trình đấu tranh chống lại những tàn dư phong kiến, phải xây dựng
những phong tục tập quán mới, tổ chức lễ hội, câu lạc bộ nhằm nâng cao đời sống tinh
thần cho phụ nữ. Đặc biệt, xây dựng ý thức pháp luật ở người phụ nữ, xoá bỏ những
phong cách, lối sống tùy tiện trước đây, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động xã hội, khắc phục những hạn chế của bản thân, vươn lên cùng
với xu thế phát triển của thời đại.
Chỉ có xây dựng được môi trường kinh tế tốt, môi trường đạo đức xã hội lành
mạnh, người phụ nữ mới có cơ hội vươn lên và phát huy có hiệu quả những giá trị đạo
đức truyền thống của giới mình, đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh nhà và của cả nước.
2.2.2. Giải pháp chính trị
Thứ nhất, phải đổi mới chế độ chính sách đối với phụ nữ để phụ nữ hoàn
thành tốt công việc gia đình và xã hội
Sự phấn đấu vươn lên của phụ nữ không thể tách rời sự hỗ trợ của Nhà nước,
thông qua những chính sách, biện pháp kịp thời, thiết thực. Ngoài chính sách chung đối
với người công dân, người lao động, dựa trên nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng nam
nữ về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá,... Nhà nước và các cơ quan làm pháp luật, chính
sách cần đặc biệt lưu ý đến những khó khăn mang tính đặc thù của phụ nữ. Vì vậy, cần
thiết hoạch định những chính sách, những điều khoản, biện pháp, quan tâm đến phụ nữ,
tạo nên sự công bằng thực sự giữa nam nữ, từ học tập, việc làm, hưởng thụ văn hoá đến
hoạt động chính trị... đảm bảo cho phụ nữ hoàn thành tốt hai chức năng gia đình và xã
hội.
Đối với phụ nữ nông thôn, gánh nặng việc làm và trách nhiệm đối với gia đình
đặt lên vai họ ngày một nặng nề. Họ thiếu những cơ hội thuận lợi để học tập, thiếu điều
kiện chăm sóc sức khỏe và mở rộng quan hệ xã hội, giao lưu với bên ngoài. Vì vậy, Nhà
nước cần có chính sách khôi phục mạng lưới y tế nông thôn, hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo
để tạo điều kiện đảm bảo sức khoẻ cho phụ nữ, giảm bớt gánh nặng về công việc nuôi
dạy con cái, tạo thêm cơ hội để họ vươn lên tự khẳng định mình, giải phóng khỏi cảnh
nghèo nàn, lạc hậu. Đây là sự hỗ trợ rất cần thiết và mang tính xã hội cao nhằm kết hợp
hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình của người phụ nữ.
Đối với cán bộ nữ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý Nhà nước, các tổ chức xã hội
các cấp và các tổ chức kinh tế, trước hết phải có chính sách sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng
hợp lý đúng khả năng trình độ, giúp họ có điều kiện, cơ hội phát huy tài năng dễ dàng.
Trên cơ sở Chỉ thị của Trung ương và các chính sách của Chính phủ, Ban thường vụ
Tỉnh uỷ đã ban hành Công văn số 680 - CV/ TU ngày 13/12/2002 về việc thống nhất chỉ
tiêu nâng cao vai trò, vị trí và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy lãnh đạo
của cấp uỷ và Hội đồng nhân dân các cấp. UBND tỉnh cũng có chương trình hành động
vì sự tiến bộ phụ nữ Bến Tre đến năm 2005; 29 sở ngành, tất cả các huyện, thị và 47 xã
phường, thị trấn đã thành lập Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ... Tỉnh uỷ Bến Tre đã chú trọng
công tác đào tạo cán bộ nữ, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh phối hợp cùng Trường Chính trị
tỉnh mở các khoá đào tạo chương trình trung cấp chính trị và trung cấp Phụ vận nhằm
tạo nguồn cho cán bộ nữ trong hội và các ngành ở cơ sở... Qua đó, thể hiện bước phát
triển trong nhận thức và đánh giá của các cấp, các ngành đối với phụ nữ. Tất cả các chủ
trương, chính sách đều nhằm thực mục tiêu: ổn định và cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của phụ nữ. Tạo điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát
huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Tuy nhiên, các cấp uỷ Đảng và chính quyền chưa quan tâm đúng mức trong chỉ
đạo, kiểm tra đôn đốc việc cất nhắc, bố trí cán bộ nữ tham gia vào các chức vụ lãnh đạo,
quản lý. Trong đội ngũ lãnh đạo của các cấp vẫn còn tồn tại tư tưởng thiên kiến, hẹp
hòi, thiếu tin tưởng vào khả năng của phụ nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Trong
công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ chưa thật sự quan tâm đến tỉ lệ nữ
và chưa đảm bảo tính kế thừa. Các chính sách về chế độ đãi ngộ cán bộ còn chung
chung, chưa đứng trên quan điểm về Giới để khuyến khích phát triển đội ngũ cán bộ và
tài năng nữ. Do đó, tỉnh phải đổi mới hệ thống chính sách quan tâm đầy đủ đặc điểm
giới trong việc sử dụng, đào tạo , bồi dưỡng cán bộ của tỉnh nhà.
Hiện nay, một trong những chính sách được nhiều người quan tâm đến là tuổi về
hưu. Phải xây dựng chính sách linh hoạt về tuổi hưu cho phụ nữ. trong việc khuyến
khích phụ nữ học tập, nâng cao năng lực mình phải tính đến vấn đề giới, vấn đề quyền
lợi và nghĩa vụ của họ đối với xã hội. Đồng thời với công việc xã hội, phụ nữ phải thực
hiện chức năng làm vợ, làm mẹ, bận rộn với công việc gia đình. Vì vậy, để làm được
công việc như nam giới, phụ nữ sẽ phải cố gắng rất nhiều. Tuy nhiên, ở khu vực hành
chính sự nghiệp lại nảy sinh vấn đề phụ nữ chưa kịp cống hiến hết khả năng của mình
cho công việc thì đã tới điểm dừng. Đó là vấn đề tuổi hưu của lao động nữ. Từ trước
đến nay Nhà nước áp dụng tuổi hưu nữ 55, nam 60, thực tế hiện nay cần có sự nghiên
cứu, điều chỉnh ở một số ngành nghề. Trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý , người phụ nữ
phải ngoài tuổi 40 mới tạm thời được giải phóng khỏi các công việc gia đình, con cái
lớn, bản thân có thêm kinh nghiệm được tích luỹ, công việc và kinh tế gia đình tương
đối ổn định. Lúc này, người phụ nữ mới có đủ điều kiện về thời gian và vật chất để
tham gia vào công tác lãnh đạo cũng như các hoạt động xã hội khác. Để đạt được vị trí
nhất định trong giai đoạn này, phụ nữ phải phấn đấu tích cực hơn nam giới để bù đắp
giai đoạn trước kia phải thực hiện chức năng sinh đẻ và nuôi con. Vì vậy mà khi có
được vị trí nhất định, phụ nữ phải nghỉ hưu trước nam giới 5 năm. Đó là một trong
những nguyên nhân làm cho tỉ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý luôn thấp hơn nam giới.
Đối với khu vực hành chính sự nghiệp, nhất là trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nên điều
chỉnh tuổi hưu của phụ nữ như nam giới là 60 tuổi. Đồng thời để phụ nữ tự nguyện nghỉ
hưu từ 55 tuổi mà không trừ vào các chế độ bảo hiểm.
Về chính sách tuổi đề bạt, cần áp dụng chính sách “mềm” linh hoạt đối với cán
bộ nữ, khuyến khích thêm phụ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý để họ yên tâm học
tập và cống hiến, tránh được tư tưởng chán nản và hụt hẫng trong những năm sắp đến
tuổi 55 của những người vẫn làm việc tốt và tha thiết với công việc. Đồng thời khuyến
khích phụ nữ phấn đấu thêm, tránh tư tưởng an phận ở vị trí hiện tại. Vì vậy, áp dụng
chính sách tuổi hưu và tuổi đề bạt linh hoạt sẽ phát huy có hiệu quả năng lực cống hiến
của người phụ nữ giúp họ thực hiện tốt chức năng gia đình và xã hội.
Ngoài ra, cần phải có chính sách giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình cho phụ
nữ, Nhà nước phát triển các ngành dịch vụ cho gia đình hoặc hỗ trợ cho tư nhân mở
dịch vụ. Ngày nay, vấn đề được phụ nữ quan tâm hàng đầu là vấn đề giáo dục con cái.
Đặc biệt, đối với những bà mẹ làm công tác lãnh đạo, quản lý thì vấn đề này lại càng
quan trọng hơn. Mặc dù, Nhà nước đã tăng cường đầu tư để cải tạo hệ thống nhà trẻ,
mẫu giáo ở nhiều nơi, song việc đầu tư vẫn chưa thoả đáng, tình trạng trẻ em thiếu sân
chơi, đồ chơi, đồ dụng học tập ngày càng tăng, nhất là ở địa bàn huyện. Hiện nay, gửi
trẻ là nhu cầu bức thiết của mỗi gia đình, đòi hỏi phải mở rộng, xây mới trường lớp để
đáp ứng nhu cầu đó. Trẻ em được vui chơi, học tập trong môi trường thuận lợi sẽ làm
cho hiệu quả công việc của bố mẹ tăng lên, đặc biệt là đối với người mẹ, tạo điều kiện
cho phụ nữ tập trung học tập và làm việc. Song, thiết thực nhất vẫn là cải tiến giờ giấc
phục vụ của hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo. Giờ trả trẻ trùng với giờ tan tầm như trước đây
là không hợp lý, phụ nữ sẽ phải vi phạm kỉ luật lao động để về sớm đón con. Do đó, cần
phải mở rộng thêm hình thức trông trẻ như trông ngoài giờ, trọn tuần, trọn tháng... đáp
ứng nhu cầu của phụ nữ khi cần thiết (hội họp, học tập...). ở bậc tiểu học, cũng cần mở
rộng hình thức bán trú và học lưu buổi, giúp phụ nữ khỏi lúng túng khi đón con về giữa
buổi.
Để phụ nữ có thể tham gia được nhiều hơn nữa vào các hoạt động sản xuất và xã
hội, Nhà nước cần mở rộng các hình thức dịch vụ xã hội để giảm nhẹ tối đa việc nhà
cho phụ nữ, bởi truyền thống văn hoá và điều kiện thực tế hiện nay ở nước ta, phụ nữ
phải dành nhiều thời gian và tâm trí cho công việc gia đình hơn nam giới, ít có thời gian
để học tập, đọc sách báo. Giải phóng phụ nữ khỏi gánh nặng đó sẽ tạo cho họ thêm thời
gian học tập và nghỉ ngơi. điều này góp phần tạo điều kiện cho phụ nữ vươn lên, phát
huy hết tiềm năng của mình đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quê hương, đất nước.
phụ nữ Bến Tre chiếm 52% dân số của tỉnh, phát triển phụ nữ cũng là phát triển
hơn một nửa tỉnh nhà. Điều này C.Mác đã chỉ rõ: "Trình độ giải phóng của phụ nữ là cái
thước đo tự nhiên dùng để đo sự giải phóng chung" [38, tr.286] và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng khẳng định: "Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng
phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây
dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa" [42, tr.523]. Vì thế, nếu Bến Tre không có những
chính sách quan tâm thỏa đáng đối với phụ nữ đó không chỉ thiệt thòi riêng cho bản
thân từng phụ nữ mà là thiệt thòi chung cho cả tỉnh. Sự thấp kém về trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp của phụ nữ ảnh hưởng lớn đến việc phát huy truyền thống đạo
đức của chính người phụ nữ, của địa phương, làm chậm đi bước phát triển của tỉnh nhà.
Thứ hai, phát huy quyền làm chủ của phụ nữ trong gia đình và xã hội
Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992 đều khẳng định quyền bình
đẳng nam - nữ. Điều 63 Hiến pháp 1992 ghi rõ "công dân nữ và nam có quyền ngang
nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình". Quy định này đã chống
lại những tàn dư tư tưởng hạ thấp địa vị người phụ nữ, đồng thời đã xóa bỏ sự ràng buộc
người phụ nữ trong quan hệ gia đình và xã hội phong kiến. Như vậy, muốn phát huy
quyền làm chủ của người phụ nữ trong xã hội, trước hết phải thực hiện quyền bình đẳng
nam - nữ ở phạm vi gia đình.
Trên thực tế, công cuộc đổi mới đang tạo ra những biến đổi về vai trò người phụ
nữ cả trong gia đình và xã hội, tạo ra nhiều cơ hội, điều kiện nâng cao vai trò, phát huy
quyền làm chủ của phụ nữ trong gia đình. những năm gần đây, phụ nữ tham gia ngày
càng nhiều các hoạt động lao động sản xuất để tạo thu nhập kinh tế cho gia đình. đây
chính là tiền đề kinh tế- xã hội cho giải phóng phụ nữ, bắt đầu từ gia đình. Có những hộ
do phụ nữ làm chủ thu nhập cao hơn những hộ do nam giới làm chủ. Chính sự chủ động
tham gia các hoạt động kinh tế của phụ nữ đã làm giảm sự lệ thuộc của họ vào nam giới
và gia đình, là cơ sở để nâng cao địa vị của họ.
Vì vậy, cần phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của phụ nữ trong gia đình, thể hiện
ở một số vấn đề quan trọng sau:
Một là, quyền quyết định trong sản xuất- kinh doanh
Công việc sản xuất- kinh doanh là công việc quan trọng mà người phụ nữ trong
các gia đình hiện nay đóng vai trò chủ đạo. Song, người quyết định chính những công
việc này vẫn là người chồng. Đó là quyết định về thay đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng,
công cụ sản xuất, hướng sản xuất - kinh doanh, cơ cấu đầu tư, phân công lao động, mua
vật tư, cộng cụ sản xuất - kinh doanh và bán sản phẩm... Người vợ quyết định công việc
sản xuất - kinh doanh chiếm 29,5% còn người chồng quyết định chiếm 67,7%. Rõ ràng,
quyết định công việc sản xuất - kinh doanh trong các gia đình hiện nay, người vợ nói riêng,
phụ nữ nói chung chiếm một tỉ lệ chưa đến một nửa so với người chồng. Như vậy, phụ nữ
đóng vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất - kinh doanh, xây dựng kinh tế gia đình
nhưng quyền quyết định quan trọng liên quan đến lĩnh vực này chưa thuộc về phụ nữ. Do
đó, phải tạo điều kiện hơn nữa trao quyền quyết định cho phụ nữ trong lĩnh vực này.
Hai là, quyền quyết định các khoản chi tiêu lớn trong gia đình
Trong gia đình có rất nhiều khoản chi tiêu khác nhau. Những chi tiêu nhỏ hàng
ngày cho sinh hoạt ăn uống thường do phụ nữ chủ động thực hiện, còn những khoản chi
tiêu lớn có ảnh hưởng đáng kể đối với đời sống kinh tế của gia đình như: mua sắm tài
sản đắt tiền, xây dựng nhà cửa... phần lớn thuộc về quyền quyết định của đàn ông. Tuy
nhiên, tỉ lệ cao nhất thuộc về cả hai vợ chồng cùng trao đổi, bàn bạc, thống nhất và ra
quyết định. Đây không chỉ là bước nhảy vọt của phong trào phụ nữ tiến tới bình đẳng
giới mà còn nói lên quan hệ dân chủ đang từng bước được tạo lập trong các gia đình.
Ba là, quyền quyết định số con trong gia đình
Nhìn chung, đời sống xã hội càng phát triển thì số con của mỗi gia đình do cả hai
vợ chồng quyết định, có thể nói chiếm đến 90%. Quyền quyết định này bị ảnh hưởng rất
lớn bởi trình độ học vấn của các cặp vợ chồng. Càng có trình độ học vấn cao, càng có
sự hiểu biết sâu rộng thì cuộc vận động dân số – kế hoạch hoá gia đình càng tác động
một cách tích cực làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của họ. Đây là bước tiến
bộ lớn của sự bình đẳng nam nữ, thể hiện tính dân chủ ngày càng cao trong gia đình.
Tóm lại, chỉ khi quyền làm chủ của người phụ nữ trong gia đình được phát huy,
họ mới có thể nâng cao vị thế của mình trong xã hội. Đồng thời có nhiều cơ hội thuận
lợi để phát huy hết năng lực, trí tuệ, hình thành nên những phẩm chất đạo đức mới, bổ
sung và phát triển những giá trị đạo đức truyền thống đã được hình thành trong lịch sử.
Thứ ba, phát huy vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ các cấp trongviệc thực hiện
chiến lược quốc gia “Vì sự tiến bộ của phụ nữ”
Sự phát triển của phụ nữ là thước đo sự phát triển toàn diện của xã hội, nó đòi
hỏi sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội..., trực tiếp và đặc
biệt quan trọng là vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ các cấp. Đây là tổ chức quần chúng
rộng rãi, là nơi tập hợp đông đảo các tầng lớp phụ nữ. Đồng thời là nơi xây dựng và tổ
chức thực hiện các chương trình, các phong trào vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Để phát huy tốt vai trò của Hội phụ nữ các cấp trong việc thực hiện chiến lược
quốc gia “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” nhằm “nâng cao chất lượng đời sống vật chất và
tinh thần của phụ nữ, tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và
phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội”, cần đảm bảo hai yếu tố cơ bản sau:
Về khách quan: Các cấp uỷ Đảng và chính quyền trong tỉnh phải quan tâm đầu tư
đào tạo đội ngũ cán bộ Hội viên toàn diện về mọi mặt, có đủ trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ phục vụ tốt công tác của ngành. Đồng thời phải đảm bảo điều kiện vật chất,
trang thiết bị cần thiết cho hoạt động giáo dục tuyên truyền của Hội đối với phụ nữ.
Về chủ quan: Cán bộ Hội viên các cấp trong tỉnh phải nỗ lực phấn đấu vươn lên
trong công tác và học tập để có đủ trình độ năng lực, kinh nghiệm, hoạt động có hiệu
quả công việc của ngành, phát huy tính năng động, sáng tạo của Hội trong việc xây
dựng, tổ chức thực hiện các chương trình vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Một là, chương trình giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực trình độ
mọi mặt của phụ nữ.
Hai là, chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế.
Ba là, chương trình xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Bốn là, chương trình xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh.
Năm là, chương trình tham gia xây dựng và giám sát thực hiện luật pháp, chính
sách bình đẳng nam nữ.
Sáu là, hoạt động đối ngoại nhân dân.
Thực hiện tốt các chương trình trên sẽ tạo nên tiền đề vật chất và tinh thần phát
huy vai trò to lớn, những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Tuy nhiên, quá trình kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của
người phụ nữ không chỉ chịu sự quy định của điều kiện kinh tế, sự tác động của ý thức
chính trị mà cần phải có vai trò của văn hóa - giáo dục, nhất là quá trình tự giáo dục của
chính bản thân người phụ nữ.
2.2.3. Nhóm giải pháp văn hoá - giáo dục
Thứ nhất, coi trọng giáo dục và tự giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đối
với phụ nữ
Bến Tre là tỉnh vốn có truyền thống lịch sử văn hoá đáng tự hào. Đó là điều kiện
thuận lợi để các tầng lớp phụ nữ Bến Tre hôm nay vượt qua mọi khó khăn, phát huy
mạnh mẽ những giá trị đạo đức truyền thống của giới mình. Tuy nhiên, để quá trình kế
thừa và phát huy truyền thống ấy đạt hiệu quả cao, cùng với việc đẩy mạnh phát triển
kinh tế tỉnh nhà, nâng cao đời sống vật chất của người phụ nữ, một yêu cầu cấp thiết
hiện nay là đẩy mạnh công tác giáo dục và tự giáo dục truyền thống quê hương, truyền
thống của người phụ nữ Bến Tre cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là người phụ nữ. từ đó
giúp họ hiểu biết, tôn trọng và có ý thức giữ gìn, bồi đắp làm phong phú thêm các giá trị
đạo đức truyền thống.
Quá trình giáo dục và tự giáo dục đạo đức truyền thống phải được thực hiện và
có sự kết hợp hài hoà giữa môi trường gia đình - nhà trường - xã hội. Tác động của môi
trường có tầm quan trọng đặc biệt đến việc hình thành phẩm chất đạo đức của những thế
hệ phụ nữ trẻ. trong môi trường gia đình, cần nhấn mạnh việc giáo dục lối sống tình
nghĩa, tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, lòng kính trọng ông bà, cha mẹ, biết kính
trên nhường dưới, thái độ chăm chỉ học tập và yêu lao động, trân trọng và biết ơn sự
cống hiến của các thế hệ cha, anh... Đặc biệt giáo dục gia đình nên chú trọng phương
pháp nêu gương. Ông bà, cha mẹ phải là những tấm gương sáng ngời soi rọi trực tiếp
cho sự phát triển tâm hồn của trẻ em gái. Đó là truyền thống được các gia đình Việt
Nam nâng niu, gìn giữ từ đời này qua đời khác.
Kết hợp với giáo dục trong gia đình, giáo dục trong môi trường xã hội sẽ góp
phần tạo cho đất nước những thế hệ phụ nữ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm
chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, có trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh giáo dục đạo
đức, văn hóa nhất là truyền thống lịch sử - văn hoá của quê hương, truyền thống hào
hùng của phụ nữ Bến Tre trong các trường phổ thông và cao đẳng. Từ đó nâng cao lòng
tự hào và ý thức trách nhiệm của nữ sinh với bản thân, gia đình và quê hương trong việc
giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống.
Giáo dục đạo đức truyền thống trong môi trường xã hội thông qua các lễ hội
truyền thống, các ngày lễ lớn hằng năm và các phong trào quần chúng rộng rãi. Ngoài
những ngày lễ và kỷ niệm trong năm như ngày thành lập Đảng, Cách mạng tháng Tám
và Quốc Khánh 2/9, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, ngày thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam 20/10... Bến Tre còn tổ chức ngày Truyền thống văn hoá Bến Tre (1/7), ngày Bến
Tre Đồng khởi (17/1), tổ chức các cuộc họp mặt, liên hoan, giao lưu như: Họp mặt
truyền thống "đội quân tóc dài", phụ nữ khu 8, người con hiếu thảo... Đây là những dịp
để giáo dục một cách thiết thực truyền thống của quê hương, để những người phụ nữ ôn
lại truyền thống đầy tự hào của mình và tiếp tục phát huy trong điều kiện mới. Nhân
những dịp kỷ niệm như thế, các cấp Hội phụ nữ tổ chức các phong trào “Về nguồn”, thể
hiện tinh thần đền ơn đáp nghĩa, truyền thống "Uống nước nhớ nguồn”của quê hương.
Đặc biệt phải tổ chức tuyên truyền “Ngày gia đình” 28/6, tuyên truyền về chuẩn mực người
phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH để phụ nữ phấn đấu vươn lên trở thành người
phụ nữ mới xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
Giáo dục truyền thống trong môi trường gia đình-nhà trường-xã hội có tác dụng
to lớn trong phát triển đạo đức của người phụ nữ. Song, quá trình đó chỉ đạt được hiệu
quả tốt nếu người phụ nữ biến nó thành quá trình tự giáo dục cho mình. Tự giáo dục
đạo đức truyền thống ở người phụ nữ được thể hiện thông qua sự nhận thức, tình cảm,
tâm lý, lối sống của họ. Từ nhận thức đúng đắn về giá trị đạo đức truyền thống, mỗi
người phụ nữ biến nó thành tình cảm và thể hiện qua hành vi, lối sống, tham gia sôi nổi
vào các phong trào thi đua yêu nước hoà cùng khí thế của phong trào “Đồng khởi mới”.
Phụ nữ phải tự khẳng định vị trí, vai trò của mình bằng chính năng lực và trình độ của
bản thân, kế thừa có chọn lọc những truyền thống quý báu và nâng cao ý nghĩa của
chúng trong cuộc sống hiện tại.
Có thể nói, việc coi trọng giáo dục và tự giáo dục đạo đức truyền thống đối với
phụ nữ là giải pháp hữu hiệu để người phụ nữ Bến Tre phát huy hơn nữa những giá trị
đạo đức truyền thống của mình và của quê hương, bởi lẽ chính người phụ nữ là chủ thể
trực tiếp của quá trình đó.
Thứ hai, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho người phụ
nữ. Đó là điều kiện đảm bảo để phụ nữ Bến Tre kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống của mình trong giai đoạn hiện nay.
Để nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho phụ nữ, trước hết phải tăng
cường giáo dục - đào tạo cho phụ nữ nhằm nâng cao trình độ học vấn của họ. Hiện nay,
trình độ học vấn của phụ nữ Bến Tre nhìn chung rất thấp gây nên khó khăn nhất định trong
việc nhận thức. Do đó, phải chú trọng đến việc phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em gái,
đặc biệt là ở nông thôn. Bến Tre đã hoàn thành sớm chương trình xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học, đang thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tuy
nhiên, số phụ nữ và trẻ em gái tái mù chữ vẫn còn. Vì vậy, các cấp Hội phải phối hợp
thường xuyên và chặt chẽ với ngành giáo dục, Bộ đội Biên phòng, các đoàn thể,... tổ chức
các lớp học tình thương, lớp xoá mù chữ, lớp phổ cập giáo dục tiểu học, động viên phụ nữ
và trẻ em gái tham gia. Đồng thời thường xuyên phát động phong trào học bổng Nguyễn
Thị Định để giúp đỡ những học sinh nghèo vượt khó, học giỏi nhất là các em có nguy cơ bỏ
học, tạo điều kiện khuyến khích cho trẻ em gái học hết phổ thông trung học và đào tạo nghề
chuyên môn. Ngoài ra, trong kế hoạch giáo dục - đào tạo phải nâng tỉ lệ học sinh nữ ở trung
học cơ sở và phổ thông trung học, nâng dần tỉ lệ nữ sinh viên và tỉ lệ lao động nữ qua đào
tạo. Đặc biệt, phải coi trọng phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cá nhân phụ nữ để đào tạo
nhân tài cho quê hương, đất nước.
Vấn đề giáo dục có tác dụng to lớn đối với sự phát triển đạo đức của người phụ
nữ, bởi lẽ, sự hiểu biết luôn là ngọn nguồn của tính tự giác. Khi trình độ học vấn được
nâng cao giúp phụ nữ có được sự nhận thức đúng đắn, hiểu biết về những quy tắc,
chuẩn mực đạo đức. Từ đó họ biết đánh giá, lựa chọn những giá trị đạo đức và điều
chỉnh thái độ, hành vi theo những giá trị ấy. Song, sự hiểu biết về đạo đức đòi hỏi phải
gắn liền với tình cảm và niềm tin đạo đức. Có như thế mới giúp người phụ nữ chiến
thắng những cám dỗ, vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống, tự nguyện
giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của mình.
Cùng với việc tăng cường giáo dục - đào tạo nâng cao trình độ học vấn cho phụ
nữ, phải chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đến với phụ nữ, nhất là phụ nữ
nông thôn. Tuyên truyền Nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp, kiến thức về giới, công
ước cedaw, chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ... Thường xuyên tổ chức
truyền thông rộng rãi trao đổi, toạ đàm về chuẩn mực người phụ nữ trong thời kỳ mới,
về phòng, chống bạo hành trong gia đình; về vai trò phụ nữ trong phòng, chống tệ nạn
xã hội từ gia đình, phòng chống xâm hại tình dục trẻ em.
Phải thường xuyên phổ biến giáo dục pháp luật cho phụ nữ, tổ chức cho phụ nữ
học tập những điểm chính về Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai, luật Dân sự,
Pháp lệnh dân số,... nhằm nâng cao ý thức pháp luật ở người phụ nữ, giúp họ không đi
vào con đường tệ nạn, phạm pháp.
Để công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người
phụ nữ đạt hiệu quả, phải tổ chức thông qua những cuộc thi với nội dung phong phú và
sinh động, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia như: Hội thi tuyên truyền viên; cán bộ Hội
giỏi; phụ nữ với kiến thức pháp luật; thi tìm hiểu về Giới và bình đẳng giới... Như thế,
phụ nữ mới có thể tiếp cận được các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng để
nâng cao trình độ về mọi mặt, đảm bảo cho quá trình kế thừa và phát huy những giá trị
đạo đức truyền thống của giới mình.
Kết luận
Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre không nằm ngoài những giá trị
đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Song, nó được hình thành và biểu hiện với
những sắc thái riêng bởi điều kiện lịch sử, điều kiện sinh hoạt vật chất của vùng đất ba
dải cù lao. Truyền thống ấy gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của quê hương,
từ buổi đầu khai hoang mở đất cho đến các thời kỳ đấu tranh cách mạng, nhất là trong
cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân. Khi đất nước thống nhất, chính
những truyền thống quý báu ấy đã giúp người phụ nữ Bến Tre vượt qua mọi khó khăn
thử thách để hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại quê hương. Ngày nay,
trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, đòi hỏi phải kế thừa và phát huy hơn nữa
những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Bến Tre. Đó là một trong những
yếu tố quan trọng của sự nghiệp xây dựng người phụ nữ mới với đầy đủ những phẩm
chất: yêu nước, có tri thức, năng động, sáng tạo, có sức khoẻ, có lối sống văn hoá, có
lòng nhân hậu, vì lợi ích cộng đồng và xã hội. Đồng thời, nó còn là nhân tố góp phần to
lớn để Bến Tre phát huy nội lực của tỉnh nhà thực hiện thắng lợi phong trào “Đồng khởi
mới”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp, phụ nữ Bến Tre đã phát
huy mạnh mẽ truyền thống “Đồng khởi” của quê hương, truyền thống "anh hùng, bất
khuất, trung hậu, đảm đang" của "đội quân tóc dài", phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển của quê hương,
đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình đó, người phụ nữ chịu sự tác động mạnh mẽ của điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan, của những yếu tố bên ngoài và của chính địa
phương, làm ảnh hưởng đến các giá trị đạo đức truyền thống và quá trình kế thừa, phát
huy chúng trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời làm nảy sinh những mâu thuẫn của chính
quá trình đó.
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà với vấn đề việc làm,
thu nhập của người phụ nữ.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa sự tồn tại trên thực tế những tệ nạn trong gia đình và xã
hội với yêu cầu phát triển đạo đức của người phụ nữ Bến Tre.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa sự nghiệp phát triển và giải phóng phụ nữ với gánh nặng
gia đình và xã hội ngày càng tăng đối với phụ nữ.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa sự hạn chế trình độ nhận thức của người phụ nữ với quá
trình giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của giới mình.
Để giải quyết những mâu thuẫn trên một cách có hiệu quả, phải thực hiện đồng
bộ các nhóm giải pháp: kinh tế-xã hội, chính trị và nhóm giải pháp văn hoá giáo dục. Từ
đó tạo nên tiền đề vật chất và tinh thần phát huy mạnh mẽ những giá trị đạo đức truyền
thống của người phụ nữ Bến Tre. Những giá trị ấy luôn là cội nguồn, là sức mạnh để
người phụ nữ vượt qua những khó khăn, thử thách, ngăn ngừa, khắc phục những phản
giá trị đạo đức, góp phần hoàn thiện nhân cách người phụ nữ Bến Tre hôm nay.
Với vai trò to lớn và truyền thống đáng tự hào của phụ nữ Bến Tre, tác giả luận
văn xin kiến nghị:
- Bến Tre cần có những công trình nghiên cứu sâu hơn về vai trò và nét đặc thù
của người phụ nữ Bến Tre. Đó sẽ là nguồn tài liệu quý báu để những thế hệ phụ nữ mai
sau hiểu rõ hơn về truyền thống của giới mình.
- Cần đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống quê hương, truyền thống phụ nữ
Bến Tre cho các tầng lớp phụ nữ.
- Các cấp lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa việc kế thừa và phát huy giá trị đạo đức
truyền thống của người phụ nữ Bến Tre.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bách khoa thư Triết học (1967), tập 4, Nxb Bách khoa thư Xô viết, Mátxcơva.
2. Báo Đồng khởi (2005), Số đặc biệt kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng.
3. Huỳnh Văn Be (2005), "Phát huy tinh thần Đồng khởi, Bến Tre đổi mới công tác
xây dựng Đảng để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển", Tạp chí Cộng sản,
(7), tr.7.
4. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục
tiêu phát triển", Tạp chí Triết học, (2), tr.16-19.
5. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của
toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (2003), Mấy vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô (1975), tập 20, Nxb Bách khoa thư Xô viết,
Mátxcơva.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết 09 Bộ Chính trị về một số định
hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Bến Tre (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Bến Tre (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VII.
16. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Phạm Minh Hạc (1994), Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới, Chương trình
khoa học - công nghệ KX.07, Hà Nội.
18. Lê Thị Minh Hiệp (2000), Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của
phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
20. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2002), Văn kiện Đại hội đại biểu phụ nữ toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
21. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2001), Văn kiện Đại hội phụ nữ
tỉnh Bến Tre lần thứ VI, nhiệm kỳ (2001-2006).
22. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo đánh giá giữa
nhiệm kỳ kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IX
(02/2002 - 06/2004).
23. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo thành tích cán bộ,
hội viên và phong trào phụ nữ tỉnh Bến Tre (2000-2004).
24. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo tổng kết công tác
hội và phong trào phụ nữ năm 2004.
25. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo sơ kết công tác hội và
phong trào phụ nữ quý I, Chương trình công tác quý II năm 2005.
26. Vũ Khiêu (1993), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Thế Kiệt (2001), ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo
quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Thế Kiệt (2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và xu hướng biến động,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
29. Trần Trọng Kim (2003), Việt Nam sử lược, Nxb Đà Nẵng.
30. Nguyễn Thị Lan (2001), Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc
xây dựng đạo đức mới cho người phụ nữ Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
31. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
32. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
33. Liên đoàn Lao động tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm phong trào
"Giỏi việc nước, đảm việc nhà" trong công nhân viên chức - lao động tỉnh
Bến Tre (2001 - 2005).
34. Nguyễn Ngọc Long (1990), "Tinh thần cách mạng và đạo đức Bác Hồ - ánh sáng soi
đường cho sự nghiệp đổi mới", Nghiên cứu lý luận, (3), tr.5-10.
35. Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
36. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. C.Mác - Ph.Ăngghen (19953, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế
thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Trần Sỹ Phán (2000), "Một số vấn đề về đạo đức trong "Chống Đuy Rinh" của
Ph.Ăngghen", Nghiên cứu lý luận, (11), tr.10.
46. Trần Sỹ Phán (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về những yêu cầu đạo đức đối với
người cán bộ lãnh đạo quản lý", Giáo dục lý luận, (6), tr.10.
47. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb Khoa học, Hà Nội.
48. Thạch Phương (biên soạn) (1993), Nhớ chị Ba Định, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
49. Thạch Phương (biên soạn) (2000), Phụ nữ Bến Tre, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Thạch Phương - Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
51. Lê Thi - Đỗ Thị Bình (1997), Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (1985-
1995), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
52. Lê Thi (2000), "Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI", Tạp chí Cộng sản, (20), tr.38-
41.
53. Lê Thi (2004), "Về chuẩn mực người phụ nữ mới thời hiện đại", Khoa học về phụ
nữ, (3), tr.41-46.
54. Lê Thị Vinh Thi (chủ biên) (1998), Chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn
(Quy trình xây dựng và thực hiện), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Dương Thoa (1982), Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
56. Tỉnh ủy Bến Tre (2004), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37-CT/TW của
Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII "về một số vấn đề công tác cán bộ nữ
trong tình hình mới".
57. Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
58. Từ điển Tiếng Việt (1988), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Nguyễn Quang Uẩn (1994), Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá
trị, Đề tài KX.07.04.
60. ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Ban Chỉ đạo điều tra lao động, việc làm (2002),
Thực trạng lao động, việc làm Bến Tre.
61. ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 2004 và
phương hướng, nhiệm vụ 2005.
62. ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2002), Chiến lược quốc gia vì
sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
63. ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2002), Kế hoạch hành động vì
sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005.
64. Trần Quốc Vượng (2000), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb Văn hóa - dân tộc,
Hà Nội.
Trang
Mục lục
Mở đầu 1
Chương 1: Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre và tính tất
yếu của việc kế thừa chúng trong giai đoạn hiện nay 7
1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre 7
1.2. Tính tất yếu của việc kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ
Bến Tre hiện nay 34
Chương 2: kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện
nay - thực trạng và giải pháp 52
2.1. Thực trạng của việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh
Bến Tre hiện nay 52
2.2. Một số giải pháp cơ bản đảm bảo việc kế thừa và phát huy giá trị đạo
đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre 83
Kết luận 105
Danh mục tài liệu tham khảo 107
các chữ viết tắt trong luận văn
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
UBND : ủy ban nhân dân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay.pdf