Hiện nay, khi đất nước đang chuyển sang giai đoạn cách mạng mới, với
những điều kiện mới, những chủ trương, chính sách mới: thời cơ, cơ hội nhiều,
nhưng nguy cơ và thách thức cũng không nhỏ. Đứng trước nhiệm vụ chính trị mới
rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, phần động cán bộ ta vẫn giữ vững và phát triển
được phẩm chất cách mạng trong sáng. Tuy nhiên, cũng phải thấy một thực tế đáng
lo ngại là có một bộ phận cán bộ bị thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, lợi
dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công;
quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán; có tham vọng cá nhân, cục bộ, kèn cựa
địa vị, cơ hội.
58 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7921 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung, cho cán bộ lãnh đạo quản lý
nói riêng. Đã xuất hiện khuynh hướng sai lầm cho rằng, chỉ cần giáo dục đạo đức
cách mạng cho quần chúng, giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ trong gia
đình, nhà trường và trong xã hội, còn đối với những cán bộ lãnh đạo quản lý thì
không cần. Đã là cán bộ thì đã là "vừa hồng, vừa chuyên" rồi cần gì phải giáo dục
đạo đức nữa. Đó là một lệch lạc, bởi lẽ một mặt công tác tuyển chọn, bố trí đề bạt
cán bộ không phải lúc nào cũng đảm bảo không để "lọt lưới" những kẻ cơ hội; mặt
khác, cán bộ cũng là con người, không phải thần thánh vì vậy họ cũng không hoàn
toàn "miễn dịch" trước những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, của thời kỳ
mở cửa giao lưu làm ăn với cả những nước tư bản.
Hiện tượng chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục đạo đức còn bắt nguồn từ
quan niệm giản đơn cho rằng: cứ phát triển kinh tế thì trình độ đạo đức xã hội nói
chung và của người cán bộ quản lý nói riêng sẽ tự được nâng lên. Từ đó cho rằng
trước mắt cứ làm tốt công tác kinh tế, phát triển kinh tế, sau đó sẽ tính đến vấn đề
giáo dục đạo đức v.v...
Do những quan niệm sai lầm và lệch lạc nêu trên nên công tác giáo dục đạo
đức truyền thống, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý còn đơn
điệu về hình thức, thiếu tính thiết thực và thực tế về nội dung. Chính vì vậy có giáo
dục đạo đức thì cũng mang tính hình thức, tính thuyết phục và hiệu quả hết sức
thấp. Tình trạng suy thoái phẩm chất đạo đức, tình trạng xa rời đạo đức cách mạng,
đạo đức truyền thống dân tộc của một số không ít cán bộ lãnh đạo quản lý là hậu
quả thật đau lòng của việc coi nhẹ công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ này.
Ba là, Việc buông lỏng kiểm tra, giám sát, quản lý của các cấp, các
ngành đối với cán bộ, đối với công tác cán bộ, cũng như việc xử lý những hiện
tượng cán bộ thoái hóa biến chất chưa kịp thời và nghiêm minh.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật... đối với cán bộ nói chung, cán bộ lãnh
đạo quản lý nhà nước nói riêng trong thời gian qua có phần bị buông lỏng: thiếu
chương trình kế hoạch rõ ràng cụ thể, cán bộ thanh tra các cấp chưa được đào tạo,
bồi dưỡng kỹ càng. Do đó công tác kiểm tra ít có hiệu quả: những hành vi vi phạm
đạo đức, vi phạm pháp luật của cán bộ quản lý chậm được phát hiện. Vả lại nếu có
được phát hiện thì xử lý không kịp thời, thiếu nghiêm minh, có khi chỉ xử lý xuê
xoa cho qua chuyện.
Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, số
giàu lên không bình thường đang tăng nhanh ở không ít địa phương, đơn vị, lợi ích
cá nhân lấn át lợi ích tập thể, lợi ích cục bộ lấn át lợi ích toàn cục. Đã có nhiều cán
bộ, đảng viên vừa làm việc cho cơ quan Nhà nước vừa xin vào làm việc cho các cơ
quan đại diện và công ty liên doanh với nước ngoài, hoặc xin thôi việc Nhà nước để
làm trong các cơ sở kinh tế của người nước ngoài và các công ty. Điều đáng chú ý
là những biểu hiện tiêu cực đang có chiều hướng phát triển, làm xói mòn bản chất
cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin
của nhân dân đối với chế độ. Nhiều cán bộ lãnh đạo không nghiêm túc tự phê bình
và phê bình tiếp thu ý kiến phê bình, tính chiến đấu kém. Có tình trạng nể nang, né
tránh, không nói thẳng, nói thật với nhau, bằng mặt không bằng lòng. Hội nghị lần
thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII) nhận định "nhìn chung đội ngũ cán bộ
hiện nay xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Nguyên Tổng Bí thư Đổ Mười nhấn
mạnh: Uy tín của không ít cán bộ ngày càng giảm sút, không còn là công bộc của
dân, thậm chí còn trù dập ức hiếp dân. Nếu để kéo dài và phát triển tình hình này thì
sẽ dẫn đến nguy cơ không lường hết được.
Ngoài những điểm chung ở trên mỗi loại cán bộ còn có những điểm yếu
riêng. Một số cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước có biểu hiện chủ quan, thiếu dân
chủ. Cán bộ chính quyền ở một số cơ sở tỏ ra quan liêu, mất dân chủ với dân, không
nghiêm túc lắng nghe và tiếp thu ý kiến phê bình của dân. Nhiều cán bộ không còn
giữ được phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người đảng viên Cộng sản, chạy theo lợi
ích cá nhân, bất chấp những nguyên tắc, quy định của Đảng và Nhà nước. Một số
cán bộ lãnh đạo quản lý ở xã tham nhũng đất đai, kinh phí do nhân dân đóng, một
số cán bộ giàu lên nhanh chóng nhờ làm ăn bất chính. Nhiều vụ việc đã quá rõ ràng
nhưng không được giải quyết kịp thời, mới chỉ được ghi nhận hoặc là giải quyết nội
bộ. Một bộ phận lãnh đạo lực lượng vũ trang chủ yếu là trong lực lượng làm kinh tế
giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ pháp luật cũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề
nghiệp để buôn lậu, sách nhiễu, gây hậu quả nghiêm trọng. Cán bộ quản lý kinh
doanh không ít người còn chưa quán triệt đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng,
nặng về kinh doanh đơn thuần, một số tham nhũng, thoái hóa, biến chất, xa hoa lãng
phí của công, làm giàu bất hợp pháp. Tệ tham nhũng vẫn tiếp tục xảy ra trên các
lĩnh vực. Những năm trước kia tham nhũng thường xảy ra ở các lĩnh vực kinh tế
như tài chính, ngân hàng, thương mại, vật tư ở các đơn vị có nhiệm vụ sản xuất,
buôn bán như xí nghiệp, nhà máy, công ty, hợp tác xã, cửa hàng... Hiện nay tham
nhũng, nhận hối lộ đã lây lan sang các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thương mại,
hoạt động nhân đạo, từ thiện, an ninh... có kẻ còn lợi dụng hài cốt của liệt sĩ để
tham ô, có những người ăn chặn tiền viện trợ cho những trẻ em tàn tật, không nơi
nương tựa...
Tình trạng tham nhũng ngày càng lớn và càng tinh vi, nếu như trước kia
tham nhũng chỉ một vài cá nhân lẻ tẻ, tiến hành với cách thức đơn giản như giám
đốc thông đồng với kế toán tham ô; công nhân lái máy cày, chạy máy bơm nước vòi
vĩnh con gà, vài chục cân gạo của HTX... thì hiện nay tham nhũng đã cấu kết thành
từng dây, liên kết từ địa phương đến trung ương, từ trong nước ra nước ngoài. Một
số kẻ "chân gỗ", "cò mồi" bên ngoài cấu kết với những cán bộ trong cơ quan Nhà
nước, lợi dụng mọi kẻ hở, sự mập mờ của cơ chế, chính sách, pháp luật, thói vô
trách nhiệm và sự buông lỏng kiểm tra của người quản lý để thực hiện các phi vụ
thu lợi hàng trăm triệu đồng, hàng chục nghìn đôla Mỹ. Kẻ tham nhũng sử dụng quà
biếu, hoa hồng, tiền thưởng, hợp đồng... để đạt mục đích vụ lợi của mình. Ngoài
chiếc phong bì mỏng dần (nhưng giá trị lại tăng) nhiều người dùng đến các chuyến
tham quan, du lịch trong và ngoài nước, đi học, chữa bệnh... để hối lộ.
Tham nhũng cũng không loại trừ các cơ quan bảo vệ pháp luật, tài chính,
ngân hàng... Một số cán bộ tư pháp như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đã
dùng ngay quyền tố tụng được giao để tham nhũng, cảnh sát giao thông ngang
nhiên nhận hối lộ của tài xế như một thứ lộ phí đương nhiên, điều đáng chú ý là trên
lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tình trạng phổ biến là các cán bộ ngân hàng vi phạm
các nguyên tắc tín dụng, cho vay không thế chấp hoặc thế chấp không đúng, bảo vệ
cho các doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng một cách tùy tiện, không kiểm tra tình
trạng sử dụng vốn nên đã dẫn đến tình trạng nhiều đơn vị vay ngân hàng mất khả
năng thanh toán đến hàng chục tỷ đồng, trong đó có một số vụ lừa đảo chiếm đoạt
tài sản Nhà nước. Trong các doanh nghiệp Nhà nước xảy ra nhiều tiêu cực, tham
nhũng gây thiệt hại rất nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, đáng chú ý là một số cơ
quan, đơn vị cố ý làm trái pháp luật trốn thuế, cấu kết với tư nhân rút tiền của Nhà
nước hoặc cấu kết với nhau tham ô, đưa và nhận hối lộ gây thiệt hại rất lớn đến tài
sản quốc gia.
Trong phạm vi cả nước, từ năm 1993 - 9/1996, với hàng vạn cuộc thanh tra
và giải quyết các khiếu nại tố cáo của công dân đã phát hiện 4.903 vụ việc có dấu
hiệu tham nhũng với số tiền và tài sản bị thiệt hại lên tới 1.222 tỷ 708 triệu đồng và
trên 34 triệu đôla. Trong số này, tiền tham ô là 92 tỷ 483 triệu đồng, hối lộ 8,6 tỷ
đồng, lãng phí trong chi tiêu công quỹ 17 tỷ 718 triệu đồng và vụ lợi cá nhân 1.091
tỷ 522 triệu đồng.
Gần đây là những vụ tham nhũng lớn như ở đường dây tải điện 500 KV Bắc
- Nam, nhà máy dệt Nam Định, công ty Tamexco, vụ phá rừng Tánh Linh. Đặc biệt
vụ án Minh Phụng - EPCO làm thất thoát của Nhà nước 5.223 tỷ 300 triệu đồng.
Tuy nhiên, ở đây mới chỉ ra những con số thống kê, cùng những vụ tham
nhũng điển hình đã được lôi ra ánh sáng của pháp luật, trên thực tế còn biết bao
nhiêu những vụ việc tham nhũng do nhiều lý do mà còn chưa được phát hiện và
xử lý. Nạn buôn lậu cũng đang phổ biến ở nước ta hiện nay cũng thường gắn liền
với sự đồng lõa, bao che tiếp tay cho những người có chức có quyền. ở đây chưa
nói đến buôn lậu hàng cấm mà chỉ nói tới tệ nạn buôn lậu trốn thuế đương diễn ra
với nhiều hình thức, lắm vẻ khác nhau gây nên sự thất thu lớn cho ngân sách nhà
nước, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và đời sống của nhân dân. Có
nhiều vụ buôn lậu lớn, tiêu biểu như vụ Tân Trường Sanh làm thất thoát của nhà
nước lên tới trên 900 tỷ đồng.
Như vậy có thể nói rằng, kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi làm nảy
sinh và phát triển những hiện tượng lợi dụng chức quyền ngày càng nặng nề hơn.
Việc lợi dụng chức quyền không chỉ dừng lại ở mức độ vi phạm đạo đức mà còn trở
thành những đối tượng mà nhân dân hết sức bất bình, căm phẫn.
Một ảnh hưởng tiêu cực nữa không thể không nói đến trong nền kinh tế thị
trường đó là sự thoái hóa về phong cách lối sống của người cán bộ: nô lệ cho đồng
tiền, đặt đồng tiền lên trên hết, sống xa hoa đồi bại. Kinh tế thị trường có khuynh
hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị trường ra tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng, có khuynh hướng làm cho
người ta coi đồng tiền là thước đo giá trị duy nhất. Từ đó làm cho không ít cán bộ
đánh mất nhân phẩm của mình và chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Trong
cuộc sống do sẵn có đồng tiền làm ra không mấy vất vả (lợi dụng chức quyền, tham
ô, tham nhũng...) họ tiêu xài lãng phí theo kiểu "vứt tiền qua cửa sổ", sa đọa, trụy
lạc gây một không khí độc hại trong xã hội. Điển hình là vụ xảy ra ở công ty xuất
nhập khẩu Kiên Giang, đội thuế thị trấn Tân Hiệp. ở một số nơi, tổ trưởng tổ liên
doanh đại diện các hộ nông dân vay vốn sản xuất nông nghiệp, lạm dụng chiếm
đoạt tiền vay của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và quỹ tín dụng nhân dân,
đều không chấp hành đúng lãi suất cho vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
(vượt 0,5 - 1,5%); một số thủ tục cho vay, thế chấp, bảo lãnh chưa thực hiện đúng
nguyên tắc cho vay vượt địa bàn cho phép, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ cao. Vi phạm
pháp lệnh kế toán thống kê và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, đã trưng thu nộp vào
ngân sách Nhà nước trên 267 triệu đồng. Về quản lý sử dụng vốn quỹ quốc gia hỗ
trợ việc làm và xóa đói giảm nghèo, ở các đơn vị một số dự án cho vay vi phạm về
thủ tục và điều kiện cho vay vốn, một số trường hợp cho vay không đúng đối tượng.
Thiếu kiểm tra việc sử dụng vốn dẫn đến việc sử dụng vốn sai mục đích, không đem
lại hiệu quả, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ cao, có trường hợp không khả năng thu hồi, có
131/132 dự án cho vay vi phạm về thủ tục và điều kiện vay vốn, 19 dự án với số
tiền 2,462 tỷ đồng sử dụng sai mục đích. ở huyện đoàn Châu Thành (Kiên Giang)
vốn vay quá hạn không khả năng thu hồi 43 triệu đồng; ở ủy ban nhân dân xã
Dương Tơ - Phú Quốc, cán bộ tham ô trên 38 triệu đồng cho vay xóa đói giảm
nghèo...
Đáng chú ý là trong các cơ quan chức năng chống buôn lậu, nhiều nơi cán
bộ không quan tâm đến việc lãnh đạo chống tham nhũng ở địa phương mình, đơn vị
mình. Vụ vi phạm lớn ở công ty xuất nhập khẩu Kiên Giang lợi dụng sơ hở trong
quản lý để cố ý làm trái, tham ô hoặc thông qua việc ký kết hợp đồng, việc thế chấp
ngân hàng để lừa đảo, lạm dụng chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, gây thiệt hại lớn
tài sản của Nhà nước. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những vi
phạm kéo dài này là công tác tổ chức cán bộ không được coi trọng đúng mức. Bản
thân giám đốc công ty là một phần tử cơ hội, thiếu trung thực, có nhiều thủ đoạn
gian dối, nham hiểm, vô kỷ luật, độc đoán, tham nhũng và sa đọa; tổ chức cơ sở
Đảng lại bị vô hiệu hóa, thiếu trách nhiệm, thiếu tinh thần đấu tranh, công tác kiểm
tra, thanh tra, thiếu chặt chẽ. Sự buông lỏng quản lý và tiêu cực trong ngành ngân
hàng, sự lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương làm kinh tế thiếu chặt chẽ,
chủ quan, cơ chế quản lý sơ hở... đó là những nguyên nhân vi phạm nghiêm trọng
kéo dài vừa làm mất cán bộ, vừa mất của, ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng và
Nhà nước.
Do ý thức tự phê bình của cán bộ và tính chiến đấu của nhiều tổ chức có cán
bộ vi phạm quá yếu nên việc xem xét giải quyết tố cáo và xử lý kỷ luật có nhiều
khó khăn. Một số cán bộ bị tố cáo chủ yếu có liên quan đến vấn đề nhà đất, bao che
cấp dưới, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác quản lý để đơn vị xảy ra nhiều
tiêu cực.
Một điều đáng nói nữa là sự yếu kém của tổ chức cơ sở Đảng, những tổ
chức này không phát huy được vai trò hạt nhân cính trị lãnh đạo ở cơ sở. Cấp ủy
không thường xuyên tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức, phẩm chất năng
lực... ngày càng xa rời các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, thiếu gương mẫu, do
đó không phát huy được vai trò tiên phong của tổ chức cơ sở Đảng. Quan hệ giữa
đảng viên nghỉ hưu với đảng viên đương chức, giữa cấp ủy Đảng với đảng viên có
mâu thuẫn... Trong sinh hoạt Đảng thiếu sự đấu tranh phê bình, tự phê bình nghiêm
túc, nên có tổ chức mà thiếu sự đoàn kết, uy tín của Đảng đối với nhân dân giảm
sút. Hàng trăm cán bộ cấp xã đã bị xử lý kỷ luật, có nhiều người ở cương vị chủ
chốt. Dân đấu tranh, cán bộ, đảng viên bỏ chạy. Tổ chức Đảng không nắm được
chính quyền, không được dân đồng tình ủng hộ nên mất vị trí, vai trò lãnh đạo xã
hội. Những tiêu cực trên không những không bị ngăn chặn, đẩy lùi mà còn phát
triển trầm trọng hơn. Nó đã và đang gây ra tác hại to lớn về kinh tế, chính trị, xã
hội: Về kinh tế, tài sản Nhà nước đã bị thất thoát, nhiều doanh nghiệp Nhà nước
làm ăn thua lỗ, chất lượng và hiệu quả thấp, không phát huy được vai trò chủ đạo.
Trong các thành phần kinh tế thiếu sự cạnh tranh lành mạnh, "luật chơi" không bình
đẳng, người làm ăn chân chính bị thua thiệt, bọn ma giáo giỏi chạy chọt, hối lộ thì
được hưởng lợi thế trong kinh doanh. Về xã hội: phân cực giàu nghèo diễn ra
nhanh, bất công xã hội tăng lên, người lao động chân chính thì đời sống khó khăn,
bọn bất lương thì sống phè phỡn. Nhiều giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn. Nhân dân
bất bình, lòng tin vào Đảng, vào Nhà nước bị suy giảm. Về chính trị: làm suy giảm
hiệu lực quản lý của Nhà nước, cản trở thực hiện một số chính sách đổi mới của
Đảng. Các thế lực thù địch lợi dụng thúc đẩy âm mưu chiến lược "Diễn biến hòa
bình", mua chuộc số cán bộ hư hỏng, tuyên truyền đả kích chế độ, kích động quần
chúng chống Đảng, Nhà nước. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười cho rằng, nếu nạn
tham nhũng, tiêu cực ngày càng gia tăng, chủ nghĩa cá nhân phát triển, một bộ phận
cán bộ thường nói tất cả vì lợi ích của nhân dân mà thực chất là vơ vét cho mình, thì
đây là nguy cơ đối với chế độ. Do vậy, ngăn chặn và khắc phục sự xuống cấp về
đạo đức, những biểu hiện tiêu cực và tệ nạn xã hội là nhiệm vụ rất cấp bách.
Tóm lại, bước sang thời kỳ mới, trên những thách thức và yêu cầu mới đội
ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước nói riêng đang
có sự bất cập về phẩm chất đạo đức. Một số cán bộ dao động, giảm sút niềm tin,
nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, hoài nghi đường
lối của Đảng; có người do bất mãn cá nhân đi đến phản bội Đảng và lợi ích của
nhân dân. Một bộ phận cán bộ thoái hóa, biến chất về lối sống, lợi dụng chức quyền
để tham nhũng buôn lậu, làm giàu bất chính; lãng phí của công, quan liêu, ức hiếp
dân, gia trưởng, độc đoán; có tham vọng cá nhân cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội,
kém ý thức tổ chức kỷ luật, thiếu ý thức tự phê bình và phê bình, mất đoàn kết nội
bộ nghiêm trọng.
Đáng chú ý là những biểu hiện suy thoái đạo đức này đang có chiều hướng
phát triển, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm giảm uy tín
của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Để đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ cách mạng, thực hiện thắng lợi mục tiêu
và nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải có những
giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, trước hết sớm khắc phục
tình trạng suy thoái đạo đức như đã trình bày trên.
Chương 2
Những giải pháp cơ bản
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhà nước hiện nay
2.1. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức và phát huy ý thức tu dưỡng
phẩm chất đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước
Để xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước
hiện nay đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách đồng bộ các giải pháp như: Phát
triển kinh tế theo định hướng XHCN, xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ, khoa học,
tăng cường và đổi mới công tác cán bộ, công tác quy hoạch bố trí, đề bạt và đánh
giá cán bộ... Nhưng trong tiết này, chúng tôi trình bày giải pháp tăng cường công
tác giáo dục đạo đức và phát huy ý thức tu dưỡng phẩm chất đạo đức của cán bộ
lãnh đạo quản lý nhà nước.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức một mặt được hình thành một cách
tự phát từ chính cuộc sống hàng ngày của con người để đáp ứng đòi hỏi khách quan
của sinh hoạt cộng đồng. Mặt khác, đạo đức phải là kết quả của sự giáo dục và tự
giáo dục, tự rèn luyện của mỗi cá nhân theo các chuẩn mực giá trị đạo đức của xã
hội.
Giáo dục đạo đức góp phần chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát sang
tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức các giá
trị đạo đức cho mỗi người từ trình độ nhận thức thông thường lên trình độ nhận
thức khoa học. Nhận thức thông thường hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của
những điều kiện sinh hoạt hàng ngày mang lại, nó phản ánh những giá trị đạo đức
gần gũi với cuộc sống đời thường. Trong lúc đó nhận thức khoa học phản ánh các
giá trị đạo đức một cách gián tiếp, khái quát, cả những giá trị đạo đức hiện đại, cả
những phẩm giá của con người được kết tinh trong đạo đức truyền thống lâu đời của
dân tộc.
Giáo dục đạo đức một mặt nhằm nâng cao giá trị đạo đức, tạo ra những giá
trị đạo đức mới, mặt khác nó cũng góp phần tích cực vào việc khắc phục những
quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại những
hiện tượng phi đạo đức đang đầu độc bầu không khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng
ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hóa của con người nói chung và của
những người cán bộ quản lý nói riêng.
Như đã phân tích ở các phần trên khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhất là ở giai đoạn đầu, đã
xuất hiện những biến động lớn trong cuộc sống xã hội trong đó có đời sống đạo
đức. Kinh tế thị trường có sự tác động theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
Nhưng do kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay còn mang nặng tính chất tự phát,
bên cạnh đó chúng ta lại ít quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức, nên chiều
hướng tác động tiêu cực đang gây ra những hậu quả rất đáng lo ngại. Tình trạng
xuống cấp, suy thoái về đạo đức xã hội, đặc biệt của một bộ phận cán bộ lãnh đạo
quản lý đang là mối hiểm họa đe dọa đến sự tồn vong của chính chế độ xã hội tốt
đẹp mà ta đang xây dựng. Chính vì vậy, hiện nay công tác giáo dục đạo đức cần
phải được tăng cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Giáo dục đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý thế nào cho hiệu quả - như
thực tế đã chỉ ra - quả không phải là vấn đề đơn giản. Tuy nhiên, nói như vậy không
có nghĩa là chúng ta chịu bó tay trước công tác này.
Trên hết, phải khắc phục tình trạng "chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục,
rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức đối với cán bộ, đảng viên" mà Đại hội
VIII của Đảng đã chỉ ra. Trong đào tạo, trong sinh hoạt đảng, trong các phương tiện
thông tin đại chúng... phải chú ý khắc phục tình trạng này. Để giáo dục đạo đức có
hiệu quả phải thực sự quan tâm đến công tác này. Công tác giáo dục đạo đức cho
cán bộ là một công việc thường xuyên, bền bỉ và lâu dài, nhưng trong tình trạng
hiện nay phải coi công việc đó như một "mắt xích" quan trọng, nổi bật.
Trong thời gian qua, nói chúng ta không tiến hành công tác giáo dục đạo
đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là không công bằng. Nhưng cũng phải thấy rằng,
công tác đó chưa được quan tâm đúng mức. Tìm kiếm những hình thức giáo dục
như thế nào cho phù hợp, chuyển tải những nội dung gì cho đảm bảo tính thiết thực
vẫn là vấn đề đang đặt ra trước chúng ta hiện nay.
Hình thức giáo dục phải đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng,
từng lúc, từng nơi. ở các cơ sở đào tạo cán bộ, ở địa phương, ở các cấp ủy đảng...
hình thức dĩ nhiên không phải hoàn toàn như nhau. Do đó tăng cường công tác giáo
dục đạo đức đòi hỏi các chủ thể giáo dục phải quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu, thử
nghiệm những hình thức cụ thể của mình, tránh rập khuôn và đơn điệu.
Về nội dung cũng cần phải đổi mới cho phù hợp với thực tế, tránh thuyết
giáo những lý tưởng chung chung. Đạo đức mà cần cho các cán bộ là đạo đức mới.
Đạo đức mới là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn đạo đức truyền thống Việt
Nam và tư tưởng đạo đức cách mạng được hun đúc, kết tinh trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Trong giáo dục đạo đức cho cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhấn mạnh những phẩm chất: lòng yêu nước, chủ nghĩa tập thể, cần, kiệm, liêm
chính, chí công vô tư. Thiếu những phẩm chất đó, người cán bộ không còn xứng
đáng là người cán bộ cách mạng. Hiện nay, cán bộ ta ai ai cũng nhận thức được
điều đó, nhưng trong thực tế có thực hành được hay không lại không phải là nhiều,
nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, những cán bộ nắm trong tay tiền
bạc, của cải của nhân dân, của tập thể, của Nhà nước, những cán bộ có trong tay
quyền lực, quyền hành.
Giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại ở những bài giảng về đạo đức, những
thuyết giáo về đạo đức mà phải gắn liền với thực tế công tác, với thực tiễn phong
phú đa dạng. Phải gắn liền việc rèn luyện phẩm chất chính trị với phẩm chất đạo
đức cá nhân, gắn rèn luyện đạo đức với hoạt động thực tiễn của cán bộ và phong
trào cách mạng của quần chúng. Giáo dục rèn luyện phẩm chất chính trị để cho cán
bộ có lòng trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, có đạo đức cách
mạng là điều tất yếu, mang tính bắt buộc đối với tất cả cán bộ của Đảng ta. Tuy
nhiên, nếu dừng lại chỉ ở đó thì chưa đủ. Người có phẩm chất chính trị, có đạo đức
cách mạng là con người phải hội đủ trong mình cả phẩm chất chính trị và đạo đức
cá nhân, đạo đức đời thường. Đã có không ít trường hợp, cán bộ được đánh giá là
có phẩm chất chính trị tốt ở cơ quan đơn vị, nơi học, công tác nhưng chính họ lại
sống rất cách biệt, thậm chí có những lời nói, việc làm xa lạ với cuộc sống đời
thường trong gia đình và nơi họ cư trú, sinh sống. Điều này bắt nguồn từ chỗ trong
giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên chúng ta chỉ chú trọng đến những phẩm
chất đạo đức cao siêu, chung chung mà không gắn với trách nhiệm đạo đức công
dân. Do đó cần phải làm cho trong mỗi con người cán bộ phải có sự thống nhất giữa
đạo đức cách mạng với đạo đức đời thường, biết hành động ích nước, lợi dân, thống
nhất hành vi đạo đức từ gia đình đến xã hội, thống nhất trong lời nói và việc làm.
Nếu không có tính trung thực, tình yêu đồng loại, quí trọng người thân trong gia
đình, lòng kính trọng nhân dân thì không thể có đạo đức cách mạng chân chính.
Đạo đức cách mạng là sự tự nguyện, tự giác phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân
dân với sự thôi thúc nội tâm của mỗi người. Do đó, phương châm cơ bản là đồng
thời với việc tăng cường công tác giáo dục, cán bộ phải tự tu dưỡng, tự rèn luyện là
chính.
Muốn có đạo đức cách mạng, trước hết và khó nhất là phải thắng kẻ thù bên
trong của mỗi người - là chủ nghĩa cá nhân. Do đó, điều cốt yếu là mỗi người phải
tự giác nỗ lực rèn luyện, khắc phục chủ nghĩa cá nhân của chính mình. Nhiều người
khi phạm phải những sai lầm về đạo đức hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, mà không thấy
rằng, chính con người phải cải tạo hoàn cảnh, làm cho hoàn cảnh "có tính người".
Người có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức thì dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào
cũng giữ vững được phẩm chất cao đẹp, trong sáng.
Việc tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo đức đối với cán bộ ta hiện nay gắn liền
mật thiết với việc tự phê bình và phê bình trong Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khuyên cán bộ phải "thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết
điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang
thuốc tốt nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình" [30, 261-262].
Trong cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta coi
"tiến hành tự phê bình và phê bình từ Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương đến
cơ sở là khâu đột phá và là biện pháp có ý nghĩa then chốt bảo đảm cho các giải
pháp khác thắng lợi" [8, 56].
Tự phê bình và phê bình là một quy luật xây dựng và phát triển Đảng. Tự
phê bình và phê bình có hiệu quả có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục và tự
giáo dục về đạo đức cách mạng cho người cán bộ. Thực hiện tự phê bình và phê
bình trong điều kiện hiện nay Đảng ta nhấn mạnh phải "coi trọng tự phê bình từ
trên xuống, phê bình từ dưới lên". Việc cấp trên gương mẫu tự phê bình trước
cấp dưới, cán bộ chủ chốt, ban chấp hành gương mẫu tự phê bình trước cấp dưới,
đảng viên và có thái độ đúng đắn khi tiếp thu phê bình sẽ tạo nên bầu không khí
tự phê bình và phê bình sôi nổi, cởi mở, có hiệu quả.
Hiện nay, việc tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết trung
ương lần thứ sáu (lần 2) của Đại hội lần thứ VIII đã và đang là một giải pháp hết
sức cơ bản để tăng cường giáo dục và tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mới cho cán
bộ, đảng viên nói chung và cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói
riêng.
2.2. tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhà nước
Cùng với giáo dục và tự giáo dục đạo đức cách mạng thì cần phải đổi mới
và tăng cường hiệu lực quản lý của Đảng và Nhà nước, của các cấp, các ngành, các
đoàn thể và nhân dân đối với từng cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước. Cần phải tạo
ra cơ chế quản lý cán bộ phù hợp với điều kiện mở cửa, phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tránh tình trạng buông lỏng quản lý cán bộ, phải
cố gắng nhanh nhất bằng các biện pháp tổ chức, hành chính, nắm chắc từng cán bộ
quản lý, kiên quyết không để một cán bộ quản lý nào đứng ngoài sự quản lý của tổ
chức, đứng ngoài sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng cũng như của các
cấp các ngành và nhân dân. Muốn vậy, phải tiếp tục đổi mới công tác cán bộ nói
chung. Phải quán triệt trên thực tế tinh thần Nghị Quyết đại hội VIII của Đảng
"Đảng phải lo cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực. Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng phát huy trách nhiệm
của các tổ chức thành viên hệ thống chính trị trong công tác cán bộ" [5, 145].
Việc đánh giá và sử dụng cán bộ. Đây là hai vấn đề lớn nhưng có quan hệ
mật thiết đến vấn đề phẩm chất, đạo đức cán bộ. Do vậy phải có quan niệm và
phương pháp đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ khoa học, khách quan, đảm bảo
sự dân chủ thì mới ngăn chặn được tiêu cực trong công tác cán bộ, mới giữ gìn
và củng cố được phẩm chất đạo đức cán bộ. Việc đánh giá cán bộ phải xuất phát
từ đường lối chính trị, từ yêu cầu nhiệm vụ, phải dựa trên hiệu quả công việc
được giao, và phải đối chiếu so sánh với tiêu chuẩn của từng loại cán bộ. Phải
gắn với xây dựng, tổ chức, cơ chế, chính sách, thông qua hoạt động thực tiễn và
phong trào quần chúng để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ngoài việc xác định tiêu chuẩn chung của cán bộ
cần thiết phải có những tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại, từng cấp cán bộ. Có
cụ thể hóa các tiêu chuẩn thì mới có cơ sở để đánh giá chính xác cán bộ và mới
khắc phục được tình trạng đào tạo, sử dụng không gắn với quy hoạch, không gắn
với chuyên môn. Trong việc bố trí và sử dụng cán bộ cần thực hiện và vận dụng
đúng quan điểm giai cấp, đồng thời phải có chính sách đoàn kết, tập hợp được
nhân tài ở tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế - xã hội trong và ngoài
Đảng của mọi thành phần dân tộc. Đội ngũ cán bộ này phải được lựa chọn, đào
tạo thành những người thực sự trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và
lợi ích của nhân dân. Để sử dụng tốt cán bộ còn phải luân chuyển cán bộ thực
hiện tốt việc miễn nhiệm những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn. Thực hiện hiện
tốt chế độ giao việc, giám sát và kiểm tra toàn diện cán bộ, phải vừa chú ý xây
dựng đội ngũ cán bộ chiến lược cán bộ đầu ngành vừa phải chú trọng xây dựng
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở nơi trực tiếp hàng ngày với dân. việc đánh giá đúng,
dùng đúng cán bộ đòi hỏi phải có cơ quan có thẩm quyền và đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, đủ năng lực, trình độ, có thái độ công tâm, công bằng và biết lắng nghe ý
kiến quần chúng thì mới chính xác. Nếu thiếu những cái đó thì việc đánh giá và
cất nhắc cán bộ sẽ rơi vào tình trạng "Ai không hợp với mình thì người tốt cũng
cho là xấu", việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách
dìm người đó xuống như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Do vậy bản thân cơ
quan có thẩm quyền và người có thẩm quyền phải được nâng cao trình độ, phải
có tâm và có trí, có phương pháp và trước hết phải thực sự trong sạch thì mới sử
dụng cán bộ được chính xác.
Đối với tổ chức cơ sở Đảng, biện pháp hàng đầu là tiếp tục coi trọng việc
nâng cao chất lượng sinh hoạt, thường xuyên giáo dục, nâng cao đạo đức đi đôi
với việc phê phán, ngăn ngừa và chống những biểu hiện tiêu cực về đạo đức,
không ngừng chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng. Nâng cao vai trò của cấp ủy và tổ
chức Đảng trong việc giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ lãnh đạo quản lý nhà
nước. Cán bộ của ta hiện nay đa phần là đảng viên. Đảng cũng đã đề ra những
nguyên tắc cơ bản trong công tác cán bộ, Đảng trực tiếp thống nhất lãnh đạo trong
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, cấp ủy các cấp là người trực tiếp làm
công tác cán bộ, bồi dưỡng đào tạo cán bộ cho các đơn vị, địa phương mà mình
phụ trách. Nhưng hiện nay nhiều cấp ủy chưa làm tốt công tác cán bộ. Nhiều nơi
chất lượng sinh hoạt không cao, sức chiến đấu yếu. Nhiều cấp ủy không chú trọng
việc giáo dục đấu tranh phê phán, phòng ngừa những biểu hiện tiêu cực trong
công tác cán bộ. nhiều nơi cấp ủy buông lỏng việc quản lý cán bộ Đảng viên,
buông lỏng việc kiểm tra, thanh tra, việc bảo vệ nội bộ, không động viên được
nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng cán bộ, không ít nơi, nội bộ cấp ủy
do năng lực, trình độ, uy tín, do cơ cấu mà bị "phụ thuộc" vào chính quyền. Hiện
tượng bí thư, cấp ủy "lựa lời" để vừa lòng cấp trưởng, vừa lòng giám đốc... còn
phổ biến. Tình trạng vai trò cấp ủy bị lu mờ đã làm ảnh hưởng lớn tới việc đánh
giá, bố trí đề bạt sử dụng cán bộ, làm giảm khả năng giáo dục rèn luyện, nâng cao
phẩm chất đạo đức cho cán bộ. Do vậy cần phải lựa chọn, bố trí cấp ủy ngang tầm,
thậm chí phải nổi trội cả về đạo đức lẫn năng lực so với cấp trưởng cùng cấp. Đi
kèm với nó là phải có những chính sách khuyến khích, thu hút người có đủ đức tài
vào cấp ủy, có như vậy vai trò cấp ủy và tổ chức Đảng trong việc giáo dục, rèn
luyện, quản lý cán bộ, Đảng viên mới có hiệu quả.
Thường xuyên cải tiến nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao chất
lượng đảng viên, có quan hệ chặt chẽ với nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng.
Chi bộ và tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao
chất lượng đảng viên. Chi bộ là nơi phân công tác cho đảng viên trực tiếp quản lý
đảng viên, kết nạp đảng viên mới, và xử lý kỷ luật đảng viên, nơi trực tiếp rèn luyện
nâng cao chất lượng đảng viên. Chi bộ mạnh bảo đảm các nguyên tắc sinh hoạt
Đảng, sinh hoạt có chất lượng là môi trường tốt để đảng viên rèn luyện phấn đấu.
Chính vì vậy, Đảng yêu cầu các tổ chức cơ sở Đảng phải thường xuyên cải tiến nội
dung sinh hoạt chi bộ. Sinh hoạt chi bộ phải thảo luận các vấn đề về đường lối
chính sách của Đảng, về nhiệm vụ của địa phương hoặc đơn vị và tổ chức thực hiện
những nhiệm vụ đó, phân công phân nhiệm. Phấn đấu tạo ra trong trào tổ chức
Đảng một không khí sôi nổi đầy sức chiến đấu phát huy trí tuệ tập thể, những sáng
kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên. Thường xuyên giáo dục Đảng viên có ý thức
gắn bó với chi bộ, tự giác tham gia sinh hoạt chi bộ và có trách nhiệm trong việc
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Trong Đảng không chấp nhận đảng viên "đặc
biệt", coi thường sinh hoạt chi bộ, đến họp với tư cách là cấp trên, là người thủ
trưởng. Chính vì vậy, báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng tại đại hội
lần thứ VII nêu rõ " cải tiến sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ. Mọi đảng
viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo, phải thực hiện tốt các nhiệm vụ do chi bộ
phân công, phải chịu sự giám sát của chi bộ về ý thức chấp hành đường lối, chính
sách, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng về đạo đức, lối sống, quan hệ mật thiết với
quần chúng ở nơi làm việc và nơi ở". Thực tế trong xây dựng Đảng cho thấy, đảng
viên có phát huy được vai trò hay không, chất lượng đảng viên tốt hay không, nhân
tố quan trọng có ý nghĩa quyết định là tùy thuộc vào chất lượng của chi bộ và
Đảng bộ cơ sở. Vì vậy nâng cao phẩm chất đạo đức, cách mạng của đội ngũ đảng
viên phải đi đôi với củng cố chi bộ, Đảng bộ cơ sở vững mạnh.
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng và khắc phục những
sơ hở trong cơ chế chính sách và pháp luật. Đây là hai vấn đề khác nhau nhưng có
quan hệ với nhau và có liên quan chặt chẽ đến vấn đề giữ gìn phẩm chất đạo đức
cán bộ. Tệ tham nhũng không chỉ gây thất thoát ngân sách Nhà nước, gây những
hậu quả nghiêm trọng, gây cản trở và đe dọa sự phát triển của đất nước mà trên thực
tế tệ tham nhũng đang làm hư hỏng và tha hóa phẩm chất đạo đức cán bộ. Được
biết, hiện nay Nhà nước ta đã áp dụng nhiều hình thức, kết hợp nhiều biện pháp để
kiên quyết khắc phục tệ nạn này, nhưng hiệu quả chưa cao, nhiều vụ tham nhũng,
hối lộ được quần chúng phát hiện nhưng chưa được thanh tra, xử lý. Tình trạng
tham nhũng hối lộ vẫn gia tăng. Chúng ta biết rằng để chống tham nhũng có hiệu
quả một mặt phải có những quy chế, thể chế hữu hiệu, phải tăng cường việc giáo
dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, mặt khác phải tìm nguyên nhân xuất phát trước
hết là những sơ hở trong thể chế, chính sách, các thủ tục quản lý tài chính, vật tư,
kinh phí, trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp, kể cả trong lĩnh vực nghiên cứu các
đề tài khoa học... đi đôi với hai nội dung trên, Đảng và Nhà nước, các cơ quan đơn
vị cần có sự rà soát lại để nhanh chóng đưa ra khỏi tổ chức những cán bộ có biểu
hiện tham nhũng thoái hóa, biến chất, hoặc ít ra cũng phải đình chỉ công tác những
cán bộ đó để tiến hành kiểm tra, thanh tra. Đi đôi với việc này, cần có sự sắp xếp lại
bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ trong các cơ quan đơn vị đảm bảo cho bộ máy đó
được trong sạch, lành mạnh hơn.
Nghị Quyết đại hội VIII của Đảng đã nêu rõ: "chúng ta phải tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của
hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật" [5, 132]. Việc hoàn thiện hệ thống chính
sách pháp luật chính là để khắc phục sự thiếu đồng bộ cũng như những kẽ hở trước
đây mà một số cán bộ quản lý có thể lợi dụng để làm ăn bất chính, đục khoét của
công... muốn vậy, phải rà soát lại toàn bộ những văn bản về cơ chế, chính sách đã
ban hành về kinh tế, tài chính... những chế độ chính sách đã hợp lý thì phải được
thực hiện một cách dân chủ, công khai, để các cấp, các ngành, các đoàn thể và nhân
dân biết và có thể kiểm tra, giám sát việc thực hiện trên thực tế. Những chính sách
không có cơ sở về pháp luật hoặc đã lạc hậu cần phải sửa đổi, bổ sung điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình thực tế. Đồng thời với việc hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật, thì phải xử lý kịp thời và nghiêm minh những cán bộ quản lý vi
phạm về đạo đức cách mạng, về lối sống, bất cứ là ai, ở cương vị nào. Việc xử lý kỷ
luật kịp thời và nghiêm minh những cán bộ quản lý thoái hóa, biến chất có ý nghĩa
giáo dục đạo đức hết sức to lớn. Làm tốt công tác này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc khơi dậy được phong trào quần chúng rộng rãi tích cực tham gia đấu tranh
chống những biểu hiện vi phạm về đạo đức, vi phạm lối sống không chỉ của cán bộ,
đảng viên mà của bất kỳ thành viên nào trong xã hội. Có như vậy thì đạo đức xã hội
chủ nghĩa mới có cơ sở xã hội vững chắc cho sự tồn tại, phát triển của mình.
2.3. lành mạnh hóa môi trường kinh tế - xã hội
Đạo đức nói chung, đạo đức cách mạng nói riêng có sự phát triển độc lập
tương đối, nhưng suy cho cùng là do tồn tại xã hội, mà trước hết là nền tảng kinh tế
- xã hội quyết định.
Trong phần thực trạng và những nguyên nhân tình trạng đạo đức của đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước ở nước ta, luận văn đã đề cập tới những ảnh hưởng
tích cực, cũng như tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, để nâng cao đạo đức
cách mạng cho cán bộ cách mạng nói chung và cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý nhà nước ta nói riêng không thể không nói đến giải pháp lành mạnh hóa môi
trường kinh tế - xã hội của đất nước.
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan cho sự phát triển đất
nước trong điều kiện hiện nay. Chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường, dĩ
nhiên là có sự đảo lộn lớn trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, do đó không thể không có
những biến đổi về thang giá trị đạo đức trong xã hội, cũng như của đội ngũ cán bộ
cách mạng. tuy nhiên cần phải thấy rằng, những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị
trường đối với đạo đức, như thực tế đã diễn ra, quyết không phải là một tất yếu khó
tránh khỏi, không thể ngăn ngừa được.
Nên nhớ rằng, nền kinh tế thị trường mà nước ta đang xây dựng và phát
triển không phải là một nền kinh tế thị trường nào, mà là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một nền kinh tế thị trường đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và chịu sự quản lý, điều tiết của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Sự bộc lộ nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với đạo đức ở nước ta trong thời
gian qua chủ yếu do bản thân nền kinh tế đó chưa tồn tại với tư cách là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo đầy đủ ý nghĩa của nó.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường là một chủ trương đúng đắn
của Đảng ta. Tuy nhiên, trong thực tế cho đến nay ở nước ta, nền kinh tế thị trường
còn được hình thành mang nặng tính chất tự phát, vả lại còn trong thời kỳ chuyển
đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới, nên thực tế nó chưa phải là một nền kinh tế thị
trường theo đúng nghĩa đầy đủ và hoàn chỉnh. Chính thực trạng này của nền kinh tế
mà những tác động tiêu cực của nó bộc lộ mạnh mẽ. Sự cạnh tranh trên thương
trường là một động lực của sự phát triển kinh tế. Nhưng phải thấy một thực tế ở
nước ta hiện nay là sự cạnh tranh khốc liệt đang diễn ra, chưa phải là sự cạnh tranh
"lành mạnh", chưa hẳn là sự cạnh tranh trên cơ sở sản xuất, chất lượng, hiệu quả mà
còn chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực: buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo... trong đó có sự
"tiếp tay" của những người có chức, có quyền thoái hóa biến chất trong bộ máy
quản lý nhà nước.
Hơn nữa, như chúng ta đã biết, nền kinh tế thị trường hiện đại nào muốn ổn
định và phát triển cũng phải chịu sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Hay nói
cách khác, Nhà nước phải quản lý và điều tiết được nền kinh tế thị trường. Nền kinh
tế thị trường hiện đại cũng vậy. Vả lại, nền kinh tế thị trường ở nước ta đang xây
dựng là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy bản thân Nhà
nước xã hội chủ nghĩa phải quản lý và điều tiết được nó. Quản lý, điều tiết có hiệu
lực, có hiệu quả nền kinh tế thị trường vẫn là nhiệm vụ đặt ra trước mắt còn phải
tiếp tục phấn đấu đối với Nhà nước ta. Chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý...
còn nhiều bất cập, sơ hở đó còn là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng, làm phát sinh sự
suy thoái đạo đức của những cán bộ không trong sáng, thiếu sự tu dưỡng và rèn
luyện về phẩm chất đạo đức.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng, để tạo cơ sở, nền tảng vật
chất cho sự tồn tại và phát triển đạo đức cách mạng cho nhân dân, cho xã hội, cho
đội ngũ cán bộ phải lành mạnh hóa môi trường kinh tế - xã hội. Lành mạnh hóa ở
đây không có nghĩa là từ bỏ kinh tế thị trường mà là sự tiếp tục phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động trong việc xây dựng, phát triển
kinh tế thị trường, cải cách bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả; có cơ chế quản lý kinh tế phù hợp, chặt chẽ; thực hiện tốt chủ trương: ngay từ
đầu gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã ... sẽ tạo ra môi trường
kinh tế - xã hội lành mạnh để đạo đức cách mạng sinh tồn, củng cố và phát triển.
Dĩ nhiên, kinh tế thị trường - như Đảng ta đã nhận định - có những điểm
mâu thuẫn với bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy giải pháp này phải
được thực hiện một cách đồng bộ với những giải pháp khác. Buông lỏng sự giáo
dục, rèn luyện, buông lơi sự quản lý, giám sát đối với cán bộ, nhất là những người
có chức, có quyền thì dù có môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh vẫn không sao
tránh được sự suy thoái về đạo đức cách mạng.
Trên đây không phải là tất cả những giải pháp, nhưng phải nói đó là những
giải pháp chủ yếu nhất nhằm khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức của một bộ
phận cán bộ và nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ ta hiện nay.
kết luận
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
hết sức quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng "hồng thắm, chuyên
sâu". Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại, Người không quên căn dặn: "Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư".
Trong suốt quá trình cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày
công đào tạo, rèn luyện cán bộ, xây dựng được một đội ngũ cán bộ có phẩm chất
đạo đức cách mạng trong sáng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng.
Hiện nay, khi đất nước đang chuyển sang giai đoạn cách mạng mới, với
những điều kiện mới, những chủ trương, chính sách mới: thời cơ, cơ hội nhiều,
nhưng nguy cơ và thách thức cũng không nhỏ. Đứng trước nhiệm vụ chính trị mới
rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, phần động cán bộ ta vẫn giữ vững và phát triển
được phẩm chất cách mạng trong sáng. Tuy nhiên, cũng phải thấy một thực tế đáng
lo ngại là có một bộ phận cán bộ bị thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, lợi
dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công;
quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán; có tham vọng cá nhân, cục bộ, kèn cựa
địa vị, cơ hội... Đáng chú ý là những biểu hiện tiêu cực này đang có xu hướng phát
triển, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của
Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ, đối với Nhà nước.
Tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ đó không phải là điều không
tránh khỏi. Chính vì vậy, Đảng ta đã và đang phải tập trung nghiên cứu, tìm ra mọi
giải pháp và thực hiện nhằm từng bước đẩy lùi, ngăn chặn triệt để tình trạng này.
Vấn đề khắc phục tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ
phận cán bộ và nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một vấn đề lớn và không
kém phần khó khăn, phức tạp. Luận văn này, do sự hạn chế của bản thân, chỉ mong
muốn góp một phần rất nhỏ bé vào vấn đề đang bức xúc hiện nay.
danh mục Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Trọng Bảo (chủ biên), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán
bộ quản lý kinh doanh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb
Giáo dục, 1998.
[2]. Đậu Thế Biểu, Nâng cao đạo đức của cán bộ Đảng biểu trong thời kỳ mới, Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 8/1996.
[3]. Thành Duy, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa đạo đức và
pháp luật, đạo đức và lợi ích công dân, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
3/1995.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
(khóa VII), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1994.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (lần
2) - khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
[9]. Đạo đức học phương Đông cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
[10]. Nguyễn Tĩnh Gia, Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo
đức người cán bộ quản lý, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2/1997.
[11]. Nguyễn Ngọc Hà, Vấn đề đạo đức người cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 11/1998.
[12]. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[13]. Vũ Nhật Khải, Nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của giai đoạn mới, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 4/1996.
[14]. Vũ Khiêu, Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, 1974.
[15]. Nguyễn Hải Khoát, Về vấn đề đánh giá cán bộ lãnh đạo quản lý. Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 7/1994.
[16]. Trần Hậu Kiêm, Các dạng đạo đức xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993.
[17]. Trần Hậu Kiêm - Bùi Công Trang, Đạo đức học, Nxb Đại học và giáo dục
chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991.
[18]. Phạm Huy Kỳ, Tìm nguyên nhân suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ đảng viên, Tạp chí Tư tưởng - văn hóa, 2/1999.
[19]. Nguyễn Ngọc Long, Tinh thần cách mạng của đạo đức Bác Hồ - ánh sáng soi
đường cho sự nghiệp đổi mới, Tạp chí Công nghiệp hóa, số 3/1990.
[20]. Nguyễn Ngọc Long, Quán triệt mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức trong
việc đổi mới tư duy, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 1-2/1997.
[21]. Lênin, Toàn tập, tập 6. Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981.
[22]. Lênin, Toàn tập, tập 41. Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977.
[23]. Lênin, Toàn tập, tập 44. Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981.
[24]. Lênin, Toàn tập, tập 54. Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1979.
[25]. C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin, Về Đảng cộng sản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997.
[26]. C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983.
[27]. C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984.
[28]. Hồ Chí Minh, Về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993.
[29]. Hồ Chí Minh, Về xây dựng con người mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995.
[30]. Hồ Chí Minh, Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Nxb
Sự thật Hà Nội, 1986.
[31]. Hồ Chí Minh, Về xây dựng cán bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974.
[32]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[33]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[34]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[35]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983.
[36]. Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước
ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
[37]. Trần Văn Phòng, Đạo đức một bộ phận cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay -
thực trạng và giải pháp, Tạp chí, Thông tin lý luận, số 6/1997.
[38]. Sự chuyển biến của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc
xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999.
[39]. Trần Văn Sầm, Chỉ dẫn của Lênin về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong
giai đoạn cách mạng mới, Tạp chí SHLL, số 2/1995.
[40]. Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Ngôn ngữ, Hà Nội, 1992.
[41]. Từ những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận thức và chuẩn mực đạo đức
của cán bộ công chức, Tạp chí Cộng sản, số 3/1998.
[42]. Phạm Ngọc Tường, Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và công chức
nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 8/1994.
[43]. Lê Xuân Vũ, Mấy ý kiến vè giáo dục, rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh, Tạp chí
Cộng sản, số 4/1994.
mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước ở
nước ta hiện nay - thực trạng và những vấn đề nảy
sinh
5
1.1. Yêu cầu đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà
nước trong giai đoạn hiện nay
5
1.2. Thực trạng đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước
và những nguyên nhân
32
Chương 2: những giải pháp cơ bản nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước hiện
nay
50
2.1. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cách mạng và phát
huy ý thức tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhà nước
50
2.2. Tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước
55
2.3. Lành mạnh hóa môi trường kinh tế - xã hội 62
Kết luận 65
Danh mục tài liệu tham khảo 67
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.pdf