Vấn đề việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay nhìn từ khía cạnh những người
trong cuộc đã được rất nhiều ý kiến ủng hộ và đồng tình. Đa số các bạn sinh viên cho
rằng việc làm thêm có nhiều tác động tích cực. Hầu hết sinh viên đều rất muốn có cơ
hội để được đi làm bởi họ cho rằng đi làm thêm họ có thể cảm nhận được giá trị bản
thân, phát huy và vận dụng được vốn kiến thức sẵn có. Đồng thời bổ sung được kinh
nghiệm sống sau này. Sinh viên khi đi làm thêm được nhận những đồng tiền, những
thành quả từ chính công sức mình bỏ ra. Từ đó dần dần họ sẽ có được những cách nhìn
nhận đúng đắn hơn về giá trị thực sự của cuộc sống.
50 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 54962 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chúng tôi là: việc gì cũng có tính hai mặt của nó. Đi làm thêm là
cần thiết nếu biết khắc phục những khó khăn và hạn chế gặp phải. Và có thể khi học ở
trường đời (thực tế) sinh viên sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian hơn?…
- Sự đánh giá các yếu tố theo mức độ quan trọng tác động đến quyết định đi
làm thêm:
Từ việc chia 2 loại đối tượng đã và chưa đi làm thêm, những sinh viên đã đi làm
thêm tiếp tục trả lời các câu hỏi ở phần A trong phiếu điều tra.
Với đối tượng này, câu đầu tiên chúng tôi đặt ra là muốn người được hỏi đánh
giá một số yếu tố có mức độ quan trọng như thế nào trong quyết định đi làm thêm của
họ. Kết quả thu thập được thể hiện qua bảng sau:
(1) Tham khảo câu 1 Bảng tổng hợp số liệu phiếu điều tra lần 2
Bảng 3.2: Sự đánh giá theo mức độ quan trọng
trong quyết định đi làm thêm
(1: hoàn toàn không quan trọng; 2: không quan trọng… 5: rất quan trọng)
Đơn vị: %
Tiêu chí
Mức độ quan trọng
1 2 3 4 5
1. Có thêm thu nhập 1 11 2 37 49
2. Có thêm mối quan hệ mới 0 54 23 13 10
3. Có thêm kinh nghiệm 0 1 6 35 58
4. Muốn khẳng định bản thân 8 36 41 9 6
5. Được thực hành lý thuyết đã học 23 58 14 2 3
6. Hi vọng tìm được cơ hội mới 11 14 21 41 13
7. Cần tạo cho mình một quy tắc 6 56 32 5 1
8. Muốn sử dụng thời gian có ích 0 10 11 44 35
9. Học cách trình bày một vấn đề trước mọi người 21 39 25 10 5
10. Khác (xin ghi rõ)…………. 1
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Bảng số liệu trên thể hiện mức độ quan trọng của các yếu tố trong việc quyết
định đi làm thêm, hay cũng có thể nói nó thể hiện mục đích mà sinh viên đi làm thêm là
gì? Yếu tố nào có vai trò lớn nhất trong quyết định đó. Đây là một vấn đề rất quan
trọng, có tính chất quyết định những vấn đề khác của sinh viên khi đi làm: ví dụ như từ
mục đích sẽ ảnh hưởng đến việc chọn công việc gì? thời gian làm việc ra sao?… Vấn đề
này chính là sự thể hiện tư duy nhận thức của từng cá nhân. ở đây không còn bó hẹp về
vấn đề việc làm thêm mà rộng hơn, đó là thể hiện sự nắm bắt, nhận thức xu thế của thời
đại ngày nay. Nắm được yếu tố này sẽ giúp cho chúng ta có sự đánh giá khách quan
hơn, chính xác hơn về xu thế của sinh viên ngày nay.
Số liệu qua điều tra thể hiện một thực tế rằng tiêu chí có mức độ quan trọng trong
quyết định đi làm thêm của sinh viên chủ yếu là thu nhập, 49% cho rằng rất quan trọng,
37% cho rằng quan trọng. Điều này là dễ hiểu vì theo kết quả thống kê năm 2003 trên
cả nước có tới 2/3 số sinh viên đang theo học Đại học là con em của các vùng nông thôn
(1). Trong khi đó mức chi phí sinh hoạt ngày càng đắt đỏ như hiện nay thì khoản tiền mà
các gia đình cung cấp cho con em họ khoảng 4 - 5 trăm nghìn đồng/tháng là không đủ.
Vì vậy nhu cầu đi làm thêm để có thêm thu nhập trang trải học tập, sinh hoạt của bộ
phận sinh viên này là tất yếu. Ngoài ra một bộ phận không nhỏ sinh viên, mặc dù gia
đình có điều kiện trang trải đầy đủ cho việc ăn học nhưng họ vẫn muốn có được các
khoản thu nhập thêm để tự túc cho những nhu cầu cá nhân khác. Vì vậy họ cũng quyết
định đi làm thêm.
Ngoài vấn đề thu nhập thì yếu tố có thêm kinh nghiệm, 58% cho rằng rất quan
trọng để đi đến quyết định có đi làm thêm. Đây là tiêu chí quan trọng, sát sườn nhất đối
với sinh viên hiện nay. Số liệu mà chúng tôi thu thập được cũng đã phần nào chứng
minh thực tế này.
Với đại bộ phận sinh viên, lượng kiến thức lý thuyết là rất lớn, để có thể biến
những kiến thức đó thực sự thành của bản thân thì đòi hỏi người học phải có một quá
trình rèn luyện, nghiên cứu sâu cũng như linh hoạt trong việc áp dụng vào thực tế. Làm
được điều đó không phải một sớm một chiều, nhưng sẽ là tốt hơn khi chúng ta có thể áp
dụng kiến thức được học khi tham gia các hoạt động phong trào, hay đi làm thêm ngay
khi còn ngồi trên ghế giảng đường chứ không chỉ bó hẹp ở sự tự học của bản thân.
Bên cạnh yếu tố kinh nghiệm, cũng có nhiều bạn chọn muốn sử dụng thời gian có
ích do nhận thức đi làm cũng là một cách tiết kiệm thời gian, sử dụng quỹ thời gian hợp
lý hơn.
Trên đây là ba yếu tố có mức độ quan trọng lớn ảnh hưởng đến quyết định đi làm
thêm của sinh viên. Những tiêu chí còn lại có mức độ ảnh hưởng ít hơn, thậm chí là
không quan trọng trong quyết định đó. Tiêu chí muốn khẳng định bản thân có đến 60%
cho rằng không quan trọng; được thực hành lý thuyết đã học, cần tạo cho mình một quy
tắc lần lượt là 95% và 92% cho rằng không quan trọng. Một số tiêu chí khác cũng có sự
ảnh hưởng phần nào nhưng không nhiều trong quyết định đi làm thêm.
Tóm lại, qua sự phân tích số liệu ở trên có thể rút ra hai yếu tố có tầm quan trọng
nhất trong quyết định đi làm thêm của sinh viên chính là yếu tố thu nhập và kinh
nghiệm. Điều này có thể nói là rất phù hợp với tình hình thực tế của sinh viên hiện nay.
(1) “Thực trạng sinh viên đại học”, trang 6, Báo Tuổi trẻ, số
14, 13/3/2004, N.M
- Lượng sinh viên bắt đầu đi làm thêm ở các năm:
ở câu hỏi thứ hai, chúng tôi hỏi "Bạn làm thêm từ khi nào?" nhằm muốn biết
được khoảng thời gian mà người được hỏi bắt đầu đi làm thêm.
Đơn vị: người
Nguồn: Thu thập số liệu lần 1
Nhìn kết quả ở hình 3.3 nhận thấy một xu hướng thực tế là các bạn sinh viên bắt
đầu đi làm thêm nhiều nhất trong năm thứ hai và giảm dần đến năm thứ tư (thời điểm
học kỳ I của năm thứ tư) (1). Đây là kết quả tương đối hợp lý trong tư duy nhận thức của
sinh viên. Có thể lý giải như sau: sinh viên năm 1 - 2 học những môn đại cương nên
việc học nhẹ nhàng hơn so với học các môn chuyên ngành; ngoài thời gian tự học, thời
gian rỗi cũng tương đối nhiều. Đây là lượng thời gian lý tưởng để có một công việc làm
thêm. Nhất là ở năm thứ hai, mọi việc ổn định hơn với sinh viên. Đồng thời chính trong
thời điểm này có nhiều phát sinh mới như chi tiêu cho sinh hoạt tăng (do tăng mối quan
hệ...) và cho học tập cũng tăng hơn….
- Tương quan giữa các kênh tìm việc làm thêm:
Khi đã chuẩn bị những điều kiện cần thiết để bắt đầu đi làm thêm, chúng ta cũng
không thể không quan tâm đến các cách tiếp cận công việc sắp tới của mình. Tiếp cận
để làm sao tìm được cho mình công việc có sự phù hợp cả về thể lực, trí lực cũng như
(1) Thời điểm học kỳ II của năm thứ tư, số lượng này đã tăng hơn
do có nhiều thời gian rỗi hơn. Tham khảo số liệu tại phụ lục
Bảng tổng hợp số liệu Phiếu điều tra lần 2.
18
40
28
4
0
10
20
30
40
50
1 2 3 4
H ×nh 3.3: L î ng SV b¾t ®Çu ®i lµm thªm
ë c¸ c n¨ m
N¨m
hoàn cảnh của mỗi người. ở đây chúng tôi đưa ra một số cách tiếp cận như qua báo chí,
internet, TTDVVL, bạn bè…
Qua điều tra chúng tôi đã thu thập được số liệu như sau:
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Dễ dàng nhận thấy rằng TTDVVL, nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động môi
giới việc làm lại không phải là địa chỉ đáng tin cậy nhất của sinh viên khi tìm việc, có
tới 30.58% người đã tìm việc làm thêm qua bạn bè, người thân. Đây là một ưu thế sẵn
có của các bạn. Một thực tế khá phổ biến là trong môi trường lớp học, khi có một bạn
sinh viên đi làm thêm sẽ lôi kéo được bạn bè thân cùng giúp sức làm việc. Điều đó
chứng tỏ sự đoàn kết và tính cộng đồng khá cao của sinh viên ngày nay.
Trái ngược với phần đông người tìm việc qua bạn bè, người thân, ta thấy lượng
người tìm việc qua công cụ Internet còn thấp, chỉ có 9 người, chiếm 4.37%. Đây là một
thực tế đáng phải lưu tâm. Tất nhiên khi tìm việc qua mạng thì độ chính xác của thông
tin là yếu tố rất quan trọng (yếu tố này hiện nay chưa hẳn đã làm thoả mãn người sử
dụng Internet (khách quan). Nhưng theo chúng tôi như đã nói ở trên, điều gì cũng có
tính hai mặt. Và chúng tôi nghiêng về phía lỗi ở người sử dụng là sinh viên nhiều hơn
(yếu tố chủ quan) do chưa biết khai thác và sử dụng có hiệu quả công cụ này). Chúng ta
không nên vì lý do nào đó mà xem nhẹ công cụ này, ngoài mục đích sử dụng để tìm
việc làm thì Internet thực sự là công cụ khá hoàn hảo để chúng ta học tập, tìm kiếm
những thông tin hứu ích, lý thú, cập nhật những kiến thức mới nhất... Từ đó có thể bổ
trợ cho việc học tập cũng như những mục đích khác của bản thân người sử dụng.
Trở lại TTDVVL, chúng tôi muốn lưu ý rằng có rất nhiều trường hợp các bạn
mất tiền oan nhưng vẫn không có được việc làm. Do vậy khi cân nhắc tìm việc qua báo
H×nh 3.4: T ¬ng quan gi÷a c¸ c kªnh
B¹n bÌ , ng êi
th©n
30.58%
Internet
4.37% Tivi
1.45%
B¸ o chÝ
18.93%
Kh¸ c
2.44%
Tê r¬i
10.19%
TTDVVL
24.76%
Tæ chøc §oµn,
Héi
7.28%
chí hay TTDVVL chúng ta cũng cần chú ý một điều: hãy cảnh giác với những thông tin
về công việc chung chung, không cụ thể rõ ràng.
Dù có tìm việc qua phương tiện gì, chúng ta hãy tự tin vào bản thân. Đó là điều
kiện tiên quyết để mỗi người có thể tìm được công việc phù hợp cho mình. Chúng ta
hãy kiên nhẫn và học hỏi, xác định đi làm thêm cũng là để học và tích luỹ cho tương lai.
- Những công việc làm thêm của sinh viên:
Qua phân tích một số vấn đề ở trên chúng ta phần nào đã có cái nhìn thấu đáo
hơn về việc làm thêm của sinh viên hiện nay. Nhưng sẽ là đầy đủ hơn khi chúng ta đi
sâu vào các vấn đề cụ thể như: công việc mà những người đã đi làm lựa chọn chủ yếu là
gì? thời gian làm việc của họ như thế nào, có ảnh hưởng gì đến việc học tập ở
trường?.... Để biết được sinh viên đã và đang đi làm thêm những công việc gì, chúng tôi
đã đưa ra một số công việc như: gia sư, tiếp thị, bán hàng, tư vấn viên, văn phòng....
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Kết quả tổng kết cho thấy số sinh viên đi làm gia sư đông nhất, chiếm 29.15%.
Có nhiều sự lựa chọn cho công việc này chính bởi do tính chất của nó có nhiều điểm
phù hợp với sinh viên, vừa không tốn nhiều thời gian lại có thu nhập tương đối ổn định,
công việc cũng không yêu cầu quá cao.... Hơn nữa hiện nay nhu cầu cho con cái học
thêm tăng cao, các vị phụ huynh thuê sinh viên làm gia sư thì chi phí phải bỏ ra ít hơn
so với chi phí cho các thầy cô giáo có kinh nghiệm kèm cặp con cái họ. Một điểm nữa,
việc dạy gia sư tại nhà cũng giúp phụ huynh dễ kiểm tra và quản lý con cái họ sát sao
hơn.... Bên cạnh những điểm lợi như thế, nhưng đánh giá một cách khách quan thì công
việc gia sư cũng có những hạn chế như: hiếm khi có thể áp dụng những kiến thức được
H×nh 3.5: Nh÷ng c«ng viÖc lµm thªm cña sinh viªn
T vÊn vi ª n
16.60% V ¨ n phßng
2.24%
B¸ n hµng
13.00%
Tæ chøc kinh
doanh
13.00%
Kh¸ c
1.35%
Gia s
29.15%
TiÕp thÞ
17.49%
Båi bµn
7.17%
học vào công việc, thiếu sự sáng tạo trong công việc, không có nhiều các mối quan hệ
như các công việc khác. Có thể nói gia sư chỉ nên là công việc trước mắt, phục vụ chủ
yếu cho những sinh viên có mục đích kiếm thêm thu nhập chứ không thể là công việc
cho những sinh viên muốn thể hiện tài năng.
Một trong những công việc làm thêm cũng đang được ưu chuộng hiện nay là làm
tiếp thị, con số người chọn công việc này là 39, chiếm 17.49% trong tổng số sự lựa chọn
các công việc. Công việc này khá phổ biến và phù hợp với sinh viên vì qua đó sinh viên
có khả năng làm việc nhóm tốt hơn, có nhiều mối quan hệ cũng như rèn luyện được kỹ
năng giao tiếp cho bản thân. So với làm gia sư thì công việc tiếp thị cũng có khá nhiều
yếu tố thuận lợi hơn cho những người đi làm. Tuy nhiên công việc tiếp thị lại đòi hỏi
nhiều thời gian và công sức hơn. Một phần nào đó cũng sẽ có ảnh hưởng đến học tập
trên lớp.
Cũng giống như tiếp thị, công việc tư vấn viên hiện nay cũng thu hút được sự
quan tâm của đông đảo học sinh, sinh viên. Công việc này không gò bó về thời gian
nhưng đòi hỏi sinh viên phải có quan hệ rộng, có kỹ năng giao tiếp tốt, phải chịu khó
tìm tòi, tự hoàn thiện mình. Đây có thể là công việc lâu dài, nó không những giúp sinh
viên trong quá trình học tập mà cả sau khi ra trường, với mối quan hệ tốt sinh viên cũng
dề tìm việc hơn. Công việc này còn giúp chúng ta phát huy được những điểm mạnh,
phát hiện ra những khả năng còn tiềm ẩn trong mỗi người…
Những mặt tích cực của một số công việc làm thêm ở trên được đề cập đến là rất
quan trọng cho sinh viên nói chung. Tuy nhiên những công việc đó có hạn chế là chưa
áp dụng được nhiều những kiến thức đã học trên lớp. Trong khi đó những công việc mà
có thể áp dụng được kiến thức đã học thì số người đã làm lại không cao. Điều này do cả
yếu tố chủ quan và khách quan gây nên. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm vì theo
chúng tôi, xét đến cùng, nhiệm vụ của người sinh viên khi còn ngồi trên ghế giảng
đường thì học tập là quan trọng nhất. Chúng ta đi làm thêm để biết được những thực tế
bên ngoài, có cái nhìn toàn diện hơn về các vấn đề.... Và sẽ là tốt nhất nếu kiến thức
được truyền giảng trên lớp chúng ta có thể sử dụng cho công việc hiện tại cũng như sau
này. Sự kết hợp đó mới thực sự có nhiều tác động tích cực, vừa giúp chúng ta được thực
hành kỹ năng, áp dụng kiến thức chuyên môn vào công việc; vừa giúp cho thầy cô, nhà
trường có sự điều chỉnh những môn học sao cho hợp lý, sát với thực tế. Làm được điều
đó thì xã hội sẽ tiết kiệm được rất nhiều cả về thời gian, công sức, tiền của....
- Thời gian làm thêm của sinh viên:
Ngoài tìm hiểu về công việc các bạn sinh viên đã và đang làm, chúng tôi còn đề
cập đến vấn đề thời gian khi sinh viên đi làm thêm(1). Đây là yếu tố rất quan trọng vì nó
thể hiện việc sử dụng quỹ thời gian của sinh viên khi đi làm thêm như thế nào? có làm
ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp hay không? có ảnh hưởng đến những công việc cá
nhân hay gia đình không?...
Qua điều tra thu thập số liệu chính thức, chúng tôi thấy có 24 người đã làm các
công việc bán thời gian. Đây là một dạng công việc có thu nhập khá ổn định, không ảnh
hưởng đến thời gian học tập trên lớp. Công việc này thường như tiếp thị, bán hàng ở các
chợ hay siêu thị (demo), hay trực điện thoại....
Về công việc làm thêm theo đợt (10-15 ngày), có 33 sự lựa chọn. Làm theo đợt
có ưu điểm là lương khá cao. Tuy nhiên cũng khá vất vả và mất nhiều thời gian, ảnh
hưởng đến công việc học tập trên lớp cũng như tự học ở nhà của sinh viên.
Công việc kế tiếp là làm theo ngày nghỉ, có 16 người đã và đang làm công việc
này. Làm việc trong những ngày nghỉ thì không bị ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp
mà vẫn có thu nhập nhưng không nhiều. Đa phần những người lựa chọn công việc này
không nhằm mục đích kiếm thêm thu nhập mà muốn tận dụng thời gian rỗi, muốn thay
đổi không khí sau một tuần học tập căng thẳng....
Thời gian làm việc có số người lựa chọn nhiều nhất là làm thêm 1 – 2 buổi/ tuần,
có 47/171 người, chiếm 27.48%, cao nhất trong tất cả các sự lựa chọn. Những người
làm việc với thời gian này thường là công việc gia sư. Cũng như phân tích ở trên, đây
vẫn là công việc được đa số sinh viên lựa chọn do tính thích hợp về thời gian và thu
nhập. Làm việc với thời gian 1 – 2 buổi/ tuần chắc chắn không có ảnh hưởng nhiều đến
việc học tập và sinh hoạt của phần đông sinh viên nói chung.
Với công việc có tính chất không cố định, có 32 người đã lựa chọn, chiếm
18.71%. Không ổn định ở đây theo nghĩa là khi nào có việc thì làm. Công việc này
mang nhiều tính chất bị động về thời gian, chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng đến học tập và
(1) Tham khảo câu 7 Bảng tổng hợp số liệu phiếu điều tra lần 2
sinh hoạt của cá nhân. Tuy nhiên những công việc này vẫn được nhiều người ưa thích vì
thu nhập cao hơn hẳn so với những công việc khác…
Điểm qua một vài nét về vấn đề thời gian trên đây ta thấy công việc làm thêm
chắc chắn sẽ mất một quỹ thời gian nhất định của sinh viên. Có những công việc không
ảnh hưởng nhiều đến học tập và sinh hoạt nói chung mà còn giúp cho sinh viên có thêm
những khoản thu nhập có ích phục vụ cho học tập. Nhưng cũng không thể phủ nhận
nhiều công việc có sức hút cao khiến một bộ phận không nhỏ sinh viên bị cuốn theo xu
hướng mải mê làm thêm. Từ đó dẫn tới xao nhãng việc học tập vốn rất quan trọng.
Có thể kết luận rằng, việc làm thêm sẽ chỉ có ích khi mỗi chúng ta biết tự ý thức,
tự cân đối, đánh giá những mặt tích cực và tiêu cực của nó để có sự áp dụng, điều chỉnh
cho bản thân sao cho hợp lý nhất. Làm được điều này hoàn toàn không đơn giản, nhưng
nếu thực hiện được chúng thì rõ ràng những mặt tích cực sẽ được phát huy tối đa không
chỉ trong hiện tại mà cả tương lai sau này của bản thân mỗi người.
Trên đây là những thông tin cơ bản về tình hình đi làm thêm của sinh viên.
Những thông tin này đã ít nhiều cho ta sự nhìn nhận ra những tác động mà việc làm
thêm đem lại. Tuy nhiên những tác động đó chưa thực sự làm sáng tỏ mục đích mà
chúng tôi muốn hướng tới.
- Thu nhập từ làm thêm của sinh viên:
Với mong muốn đưa ra và chứng minh những tác động tích cực hiện hữu nhất
của việc làm thêm, chúng tôi đã đặt câu hỏi liên quan đến vấn đề thu nhập từ công việc
này. Qua 2 lần điều tra, kết quả thu thập được khá tương đồng, được thể hiện qua các
bảng số liệu sau:
Bảng 3.3: Sự lựa chọn thứ tự ưu tiên của việc chi tiêu
Đơn vị: người
Tiêu chí
Thứ tự ưu tiên
1 2 3 4
1. Học tập 35 26 24 5
2. Sinh hoạt 35 37 17 1
3. Giải trí - mua sắm 18 25 40 7
4. Khác 2 2 9 77
Nguồn: Thu thập số liệu lần 1
Bảng 3.4: Sự lựa chọn thứ tự ưu tiên của việc chi tiêu
Đơn vị: SL (người)
Tiêu chí
Thứ tự ưu tiên
1 2 3 4 5 6
S
L
% SL %
S
L
% SL %
S
L
% SL %
1. Học tập 77 47 34 21 31 19 22 13 0 0 0 0
2. Sinh hoạt 64 39 57 35 29 18 8 5 6 3 0 0
3. Giải trí - mua sắm 12 7 48 29 58 35 17 11 16 10 13 8
4. Tìm kiếm CV mới 8 5 21 13 37 23 36 21 34 21 28 17
5. Tiết kiệm 3 2 4 2 7 4 76 46 48 29 26 17
6. Khác (xin ghi rõ)… 0 0 0 0 2 1 5 4 60 37 97 58
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy có 35 người chọn ưu tiên nhất chi tiêu cho học tập,
chiếm 38.89% trong tổng số 90 người đã đi làm thêm (số liệu lần 1). Và con số đó cũng
là con số của việc chi tiêu cho sinh hoạt. ở lần điều tra thứ 2, về học tập có 77 người
chọn, chiếm 47% trong tổng số 164 người đã đi làm thêm. Chi tiêu cho sinh hoạt có 64
người, chiếm 39%.
Việc chi tiêu cho giải trí có ít hơn so với chi tiêu cho học tập và sinh hoạt, có 18
người chọn giải trí - mua sắm là yếu tố ưu tiên nhất, chiếm 20% trong tổng số 90 người
đã đi làm thêm. Cuối cùng chỉ có 2 người chọn ưu tiên chi tiêu cho mục đích khác,
chiếm 2.22%. ở lần điều tra thứ 2, con số cho giải trí – mua sắm là 7%, cho tìm kiếm
công việc mới, tiết kiệm, khác lần lượt là 5%, 2% và 0%.
Đến mức ưu tiên hai, ở lần điều tra thứ nhất, về học tập có 26 người chọn, chiếm
28.89%. Con số này thể hiện việc giảm đi của sự ưu tiên. Đối với sinh hoạt và giải trí,
con số có tăng lên, lần lượt chiếm 41.11% và 27.78% trong tổng số 90 người đã đi làm
thêm. ở lần điều tra thứ 2, xu hướng cơ bản cũng như ở lần đầu tiên.
Ta thấy rằng mức chi tiêu của những sinh viên đã đi làm thêm phần lớn vẫn ưu
tiên nhiều cho học tập, kế đến là cho sinh hoạt và giải trí. Cuối cùng mới sử dụng vào
mục đích khác như tìm kiếm công việc mới, tiết kiệm…
Những biểu hiện trên đây khá dễ hiểu và mang tính thực tế cao. Việc đi làm thêm
của sinh viên phần lớn vẫn là muốn có thêm thu nhập, phục vụ trước mắt cho việc học
tập và sinh hoạt. Chính vì thế nên có đến 77.78% trong tổng số 90 người đã đi làm ưu
tiên chi tiêu cho học tập và sinh hoạt (theo số liệu lần 1) và ở lần 2, con số này là
85.97% trong tổng số 164 người đã đi làm thêm.
Rõ ràng với sự ưu tiên chi tiêu cho học tập và sinh hoạt như trên ta thấy việc đi
làm thêm đã có tác dụng tích cực đối với cá nhân sinh viên nói riêng, đối với gia đình,
nhà trường và xã hội nói chung. Vì việc có thu nhập từ mồ hôi công sức của bản thân sẽ
giúp cho sinh viên biết quý trọng đồng tiền, biết chi tiêu hợp lý và từ đó cũng làm giảm
bớt gánh nặng cho gia đình. Nhất là đối với sinh viên ngoại tỉnh, cuộc sống đôi khi còn
nhiều khó khăn, eo hẹp....
- Những lợi ích ngoài thu nhập từ đi làm thêm:
Ngoài việc tìm hiểu về vấn đề chi tiêu trên, chúng tôi cũng rất quan tâm đến
những tác động tích cực khác mà việc làm thêm đem lại. Chúng tôi đã tiến hành thu
thập số liệu dựa trên việc đưa ra những nhận định để cho sinh viên sau khi đã đi làm
thêm có thể đánh giá. Những nhận định này được đúc kết từ kinh nghiệm bản thân cũng
như qua các thông tin thu thập được từ trong và ngoài quá trình điều tra. Những nhận
định xoay quanh việc làm thêm có tác động đến bản thân mỗi sinh viên như thế nào? Đó
vừa là những tác động hữu hình, vô hình mà cũng vừa là những tác động trước mắt và cả
tương lai sau này.
Chúng tôi phân ra năm mức độ như sau: 1: tăng hơn nhiều; 2: có tăng hơn; 3:
không thay đổi; 4: giảm hơn; 5: giảm hơn nhiều (lần 1). 1 – hoàn toàn không đồng ý; 2
– không đồng ý; 3 - không ý kiến; 4 - đồng ý và 5 – hoàn toàn đồng ý (lần 2).
Tất cả những yếu tố trên được tổng hợp thông qua hai bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3.5: Sự lựa chọn các tiêu chí theo mức độ
Đơn vị: người
Tiêu chí
Mức độ thay đổi
1 2 3 4 5
Kiến thức kinh tế xã hội 31 50 8 1 0
Kinh nghiệm tích luỹ 24 58 8 0 0
Sự năng động, sáng tạo 28 49 13 0 0
Kỹ năng giao tiếp 37 43 10 0 0
Tác phong công nghiệp 21 49 19 0 1
Nguồn: Thu thập số liệu lần 1
Bảng 3.6: Sự đánh giá các nhận định theo mức độ đồng ý
Đơn vị: người
Tiêu chí
Mức độ đồng ý
1 2 3 4 5
1. Việc đi làm rất mất thời gian của tôi 12 57 63 19 13
2. Tôi có nhiều mối quan hệ mới tốt hơn 15 51 25 62 11
3. Làm thêm khiến sức khoẻ tôi bị ảnh hưởng nhiều 43 83 7 26 5
4. Làm thêm khiến việc học tập của tôi kém hơn 21 44 74 17 8
5. Làm thêm giúp tôi tăng kỹ năng giao tiếp, tác
phong chững chạc hơn
0 5 20 74 65
6. Làm thêm cho tôi nhiều kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm làm việc
4 6 17 70 67
7. Làm thêm giúp tôi rèn khả năng làm việc độc lập
cũng như khả năng làm việc nhóm tốt hơn
8 11 10 86 49
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Qua hai bảng ở hai thời điểm điều tra trên ta thấy ngay một điều rõ ràng rằng
phần lớn những người sau khi đi làm thêm đều có sự trưởng thành hơn, có được những
kiến thức, những kỹ năng tốt cho bản thân.
Sự lựa chọn trên mới nhìn có sự hơi chủ quan, mang nhiều tính cá nhân vì ai
cũng muốn mình tốt hơn lên, tốt hơn so với người khác. Nhưng xét một cách tổng thể,
phần lớn những người đã đi làm thêm đều có thiên hướng lựa chọn giống nhau. Hơn
nữa việc sử dụng số liệu chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu, mang tính bảo mật thông
tin cao thì sự trả lời trung thực của chính bản thân người được điều tra là hoàn toàn
đáng tin cậy.
ở bảng 3.5 (điều tra lần 1), về kiến thức kinh tế xã hội, có 31 người trả lời tăng
hơn nhiều, chiếm 34.44%; có 50 người trả lời có tăng hơn, chiếm 55.56% trong tổng số
90 người đã từng đi làm thêm.
Về kinh nghiệm, có 24 người trả lời tăng hơn nhiều, chiếm 26.67%; và số người
trả lời có tăng hơn lên đến 58 người, chiếm 64.44%.
Ta cũng nhận thấy về những tiêu chí còn lại như sự năng động sáng tạo, kỹ năng
giao tiếp và tác phong công nghiệp đều có số người chọn cao và thường nghiêng về biểu
hiện tăng hơn nhiều và có tăng hơn. Đặc biệt số người chọn có tăng hơn là cao nhất so
với các biểu hiện còn lại.
ở bảng 3.6 (điều tra lần 2), các tiêu chí có đi sâu hơn so với các tiêu chí ở lần
điều tra thứ nhất.
Tiêu chí việc làm thêm rất mất thời gian của tôi, làm thêm khiến sức khoẻ tôi bị
ảnh hưởng nhiều đều có sự không đồng ý chiếm tỷ lệ cao hơn so với tỷ lệ đồng ý. Theo
chúng tôi, chỉ có một bộ phận nhỏ sinh viên bị ảnh hưởng bởi hai tiêu chí nêu trên. Còn
đại đa số khi đã đi làm thêm đều xác định được trước những tiêu cực cũng như tự biết
cân đối về mặt thời gian và sức khoẻ.
Về các tiêu chí như tôi có nhiều mối quan hệ mới tốt hơn, làm thêm khiến việc
học tập của tôi kém hơn thì cơ bản cũng không có sự chênh lệch nhiều giữa hai quan
điểm đồng ý hay không.
Tiếp đến là các nhận định 5, 6 và 7, những nhận định này đã thu được những số
liệu thể hiện sự đồng ý rất cao.
Với nhận định làm thêm giúp tôi tăng kỹ năng giao tiếp, tác phong chững chạc
hơn có 74 người đồng ý, chiếm 45%; có 65 người rất đồng ý, chiếm 39% trong tổng số
164 người đã đi làm thêm.
Với nhận định làm thêm cho tôi nhiều kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc
có 70 người đồng ý, chiếm 42%; có 67 người rất đồng ý, chiếm 40% trong số những
người đã đi làm.
Cuối cùng, ở nhận định 7, các con số này lần lượt là 52% đồng ý và 30% rất
đồng ý.
Tất cả những sự lựa chọn trên là hoàn toàn có căn cứ vì có thể nói ở sinh viên,
những con người trẻ tuổi, ham học hỏi, có nhiều mong muốn được giao lưu, được rèn
luyện bản thân... thì việc học tập ở trên lớp là chưa đủ. Số liệu qua hai bảng trên đây
một lần nữa giúp chúng ta có khẳng định chắc chắn: việc làm thêm đem lại rất nhiều
những tác động tích cực, nhất là khi chúng ta biết cân đối thời gian học và hành hợp lý.
Ngoài việc luôn cố gắng học tập tốt ở trên lớp nhưng khi chúng ta có điều kiện
để học hỏi thêm, để rèn luyện tích luỹ thêm cho mình những kỹ năng, những kinh
nghiệm thông qua việc tham gia các phong trào Đoàn, Hội hay việc đi làm thêm thì tại
sao chúng ta lại tự bó hẹp mình?
Việc đi làm thêm không phải là dành cho những người có tư tưởng chán học mà
chính là dành cho những sinh viên coi sự học tập là mở rộng. Học trên lớp cũng là học,
có được những kiến thức, những kỹ năng bên ngoài cũng là học. Học trên lớp để có kiến
thức, có những tư duy căn bản; để có thể vượt qua những kỳ thi trong trường và sau này
ra làm việc. Với lượng kiến thức được học tại trường đó, nếu không kết hợp với những
kiến thức thực tế, không có sự thực hành, va chạm cuộc sống... thì chúng ta chưa thể có
đủ vốn liếng cho bản thân khi đi phỏng vấn xin việc, đặc biệt là ở những công ty liên
doanh hoặc công ty nước ngoài. Đó là còn chưa kể đến sự thiếu thực hành sẽ làm cho
kiến thức của chúng ta bị rơi rụng, nhìn rộng ra thì đó là sự lãng phí lớn cho xã hội, cho
đất nước.
Mong muốn của chúng tôi ở các câu hỏi này là sẽ có những thay đổi tích cực đối
với những sinh viên đã đi làm thêm. Và thực tế điều đó đã được chứng minh một cách
rõ ràng.
- Những khó khăn của sinh viên khi đi làm thêm:
Những số liệu điều tra trên đây cơ bản đã chứng minh được những tính tích cực
mà việc làm thêm đem lại cho sinh viên. Tuy nhiên, để có thể thu lượm được những lợi
ích đó thực tế hoàn toàn không đơn giản, sinh viên cũng đã phải trải qua không ít những
khó khăn khi đi làm thêm. Số liệu điều tra về vấn đề này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.7: Những khó khăn của sinh viên khi đi làm thêm
Tiêu chí Sự lựa chọn %
1. Gặp phải sự lừa đảo 32 16.49
2. Gia đình không ủng hộ 49 25.26
3. Khó tìm công việc phù hợp 63 32.47
4. Bị coi thường 15 7.73
5. Thiếu phương tiện, công cụ thông tin liên lạc 31 15.98
6. Khác (xin ghi rõ)……………………………. 4 2.07
Tổng 194 100
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Từ bảng số liệu 3.7 ta thấy khó khăn lớn nhất của sinh viên khi đi làm thêm là
khó tìm công việc phù hợp, có 63 sự lựa chọn, chiếm 32.47% trong tổng số 164 người
đã đi làm thêm. Những khó khăn còn lại khác là gặp phải sự lừa đảo, thiếu phương tiện,
công cụ thông tin liên lạc; gia đình không ủng hộ…
Số liệu về những khó khăn khi đi làm thêm ở trên có thể chưa đầy đủ, chưa sâu
nhưng ít nhiều cũng đã cho chúng ta thấy để có được những kinh nghiệm, những thành
quả trong quá trình học tập và lao động, sinh viên nói chung cũng đã phải chấp nhận hy
sinh, phải chịu đựng những khó khăn nhất định. Chính vì lý do đó, sự ủng hộ, giúp đỡ
từ phía gia đình, nhà trường và các tổ chức đoàn thể đối với việc học tập và lao động
của sinh viên có thể nói sẽ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng.
- Sự đánh giá các yếu tố theo mức độ ảnh hưởng đến quyết định không làm
thêm:
Toàn bộ những phân tích trên đây là những thông tin cơ bản nhất về đối tượng
sinh viên đã đi làm thêm qua hai lần điều tra của chúng tôi.
Trong nghiên cứu này, một vấn đề cũng không thể không nhắc tới đó là những
suy nghĩ, quan điểm của đối tượng sinh viên không đi làm thêm. Đặt ra những câu hỏi
cho đối tượng này, chúng tôi cũng không ngoài mục đích muốn hiểu hơn tại sao có
những sinh viên không đi làm thêm? Đó là những tác động khách quan hay do chủ quan
bản thân họ?…
Cũng giống với đối tượng đã đi làm thêm, chúng tôi đặt câu hỏi thể hiện mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố trong quyết định không đi làm thêm của đối tượng còn lại
này. Số liệu điều tra lần 2 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.8: Sự đánh giá theo mức độ ảnh hưởng
trong quyết định không làm thêm
(1: hoàn toàn không ảnh hưởng; 2: không ảnh hưởng… 5: rất ảnh hưởng)
Đơn vị: SL (người)
Tiêu chí
Mức độ ảnh hưởng
1 2 3 4 5
S
L
%
S
L
%
S
L
%
S
L
%
S
L
%
1. Quan điểm đi làm thêm không tốt 17 23 25 35 19 26 7 10 4 6
2. Muốn tập trung học 0 0 8 11 3 4 39 54 22 31
3. Không có đủ thời gian 0 0 7 10 13 18 25 35 27 37
4. Không đủ sức khoẻ 2 4 6 8 9 12 31 43 24 33
5. Không có cơ hội 26 36 33 46 8 11 3 4 2 3
6. Không có phương tiện 4 6 7 10 9 12 29 40 23 32
7. Bố mẹ không cho 8 11 6 9 0 0 27 37 31 43
8. Muốn tham gia hoạt động khác 11 15 13 18 7 11 17 23 24 33
9. Khác (xin ghi rõ)…………… 1 1
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Trong 236 phiếu điều tra lần 2 của chúng tôi có 72 bạn xác nhận là chưa từng đi
làm thêm.
Với tiêu chí không có đủ thời gian, có 25/72 người, chiếm 35% cho là có ảnh
hưởng và có 27/72 người, chiếm 37% cho rằng yếu tố này rất ảnh hưởng đến quyết
định không đi làm thêm của họ. Những sinh viên này phần lớn không đi làm thêm vì
bận việc gia đình. Các hoạt động đó đã làm cho quỹ thời gian của họ không còn để đi
làm thêm, mặc dù chính họ cũng công nhận đi làm thêm là rất bổ ích.
Với tiêu chí muốn tập trung học, có 54% cho là có ảnh hưởng và có 31% cho
rằng rất ảnh hưởng đến quyết định không đi làm thêm. Những sinh viên này có quan
điểm muốn học thật tốt khi còn đi học. Với họ việc làm thêm không quan trọng. Họ suy
nghĩ học giỏi sẽ dễ xin việc hơn sau khi ra trường.
Những tiêu chí còn lại khá khách quan nhưng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
quyết định không đi làm của sinh viên. Không có phương tiện, 40% cho rằng có ảnh
hưởng; bố mẹ không cho, có đến 43% cho rằng rất ảnh hưởng.
Một số tiêu chí khác như quan điểm đi làm thêm không tốt, không có cơ hội gần
như không ảnh hưởng đến quyết định không đi làm thêm của sinh viên.
Qua một vài số liệu dẫn chứng trên đây chúng tôi không phủ nhận vẫn còn một
bộ phận sinh viên cũng có những quan điểm rất riêng trong việc quyết định không đi
làm thêm. Nhưng thực tế đã cho thấy bộ phận sinh viên còn lại không đi làm thêm
không phải do ý muốn chủ quan hay do có quan điểm không đúng về vấn đề này mà gần
như hoàn toàn họ bị chi phối bởi những nguyên nhân khách quan khác mà có thể dễ
dàng khắc phục được. Tuy không đi làm thêm nhưng họ cũng có sự hiểu biết, đánh giá
được những mặt tích cực mà việc làm thêm mang lại. Điều này càng được chứng minh
qua câu hỏi dự báo của chúng tôi.
Bảng 3.9: Dự báo nhu cầu đi làm trong 3 – 5 tháng tới của
những người chưa đi làm thêm
Tiêu chí Số lượng (người) %
1. Có 43 59.72
2. Chưa quyết định 10 13.88
3. Không 19 26.4
Tổng 72 100
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
ở bảng 3.9, chúng tôi đặt câu hỏi dự báo cho những sinh viên chưa đi làm thêm.
Mục đích mà chúng tôi muốn hướng tới là xem họ có dự định làm thêm hay không. Nếu
có thì đồng nghĩa là họ đánh giá việc làm thêm cũng có nhiều tác động tích cực, đáng để
họ lưu tâm. Trên cơ sở khắc phục những điều kiện khách quan chi phối, có thể họ sẽ đi
làm thêm trong thời gian tới. Và số liệu mà chúng tôi thu thập được đã phần nào minh
chứng cho nhận định trên.
Để thay lời kết cho vấn đề nghiên cứu, chúng tôi xin trích một dẫn chứng thực tế
tại diễn đàn Đại hội sinh viên toàn quốc lần 7: Có nên làm thêm trong khi đi học, về quê
hay “bám trụ” thành phố để tìm việc sau khi tốt nghiệp… là những bức xúc được nhiều
sinh viên đề cập tại diễn đàn.
Làm thêm: nên hay không?
Đa số đại biểu tham dự diễn đàn đều cho rằng, để nâng cao kỹ năng thực hành
trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn như hiện nay thì giải
pháp tốt nhất là sinh viên nên kiếm việc làm thêm ngay từ khi còn theo học.
Tuy nhiên để có được việc làm thêm vừa mang lại thu nhập khá, vừa tích luỹ
được kinh nghiệm và vốn sống xã hội, với sinh viên không phải là vấn đề đơn giản. Bởi
ngoài nghề gia sư, phiên dịch tương đối nhàn, đa số sinh viên vẫn phải đi làm thêm
bằng nhiều nghề gian nan khác như phu hồ, rửa bát, bồi bàn… và nếu chỉ quanh quẩn
trong “núi” công việc đó, làm sao sinh viên có được những kỹ năng thực hành phục vụ
cho nghề nghiệp sau này? Bởi lẽ đó, Nguyễn Thế Hưng, Chủ tịch Hội sinh viên TP Hải
Phòng “phản biện”: “Sinh viên không nên làm thêm trong quá trình học” (1).
Không đồng tình với quan điểm trên, Phan Kim Phụng, đại diện đại biểu sinh
viên TP Hồ Chí Minh cho rằng: “sinh viên nên đi làm thêm trong thời gian học, không
chỉ để có thêm thu nhập mà còn để trang bị cho mình những kiến thức về đời sống xã
hội để kịp thích nghi với mọi thử thách”. Phụng đề xuất Hội sinh viên các trường nên tổ
chức nhiều ngày hội việc làm và tranh thủ mối quan hệ giữa giáo viên trong trường với
các cơ quan để giúp sinh viên tìm việc sau khi ra trường.
Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh viên TP Hồ Chí Minh Nguyễn Thị Nhung cho
biết: “Khác với vài ba năm trước, các doanh nghiệp khi tuyển dụng thường yêu cầu
phải có thêm “2 năm kinh nghiệm”, nay tiêu chí tuyển dụng của họ là sinh viên tốt
nghiệp khá, giỏi kèm theo “tiêu chí” làm thêm trong quá trình học. Nếu được lựa chọn
giữa sinh viên giỏi và một sinh viên khá có khả năng thích ứng xã hội cao, chắc chắn,
doanh nghiệp sẽ lựa chọn trường hợp thứ hai”
3.3 Đánh giá chung
Từ những sự phân tích, đánh giá ở trên ta có thể rút ra được những mặt tích cực
cũng như tiêu cực mà việc làm thêm đem lại cho sinh viên, các tân cử nhân như sau:
Mặt tích cực:
Việc làm thêm giúp tăng thêm thu nhập
Kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc được nâng cao
Sinh viên có thể tăng kỹ năng giao tiếp, tác phong chững chạc hơn
Giúp sinh viên hạn chế được những thời gian vô ích
Có thể có thêm quan hệ mới tốt hơn
ít nhiều vận dụng được kiến thức đã học vào thực tiễn
Mặt tiêu cực:
Đôi khi sẽ bị mất thời gian dành cho học tập
Sức khoẻ có thể bị ảnh hưởng
(1) “Việc làm vẫn là mối quan tâm số
một”, 17/03/2005, Ngọc Minh
Gặp phải sự lừa đảo
Từ những mặt tích cực, tiêu cực mà việc làm thêm đem lại cho sinh viên cũng
như từ sự dự báo xu hướng trong thời gian tới, chúng tôi thấy rằng để khuyến khích và
quản lý vấn đề việc làm thêm đối với sinh viên thì nhà trường, xã hội, doanh nghiệp và
các tổ chức đoàn thể không thể không vào cuộc. Chúng tôi xin trình bày một số giải
pháp cho vấn đề nghiên cứu tại phần tiếp theo.
phần 4
Một số giải pháp nhằm khuyến khích và quản lý
việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay
4.1 Một số giải pháp nhằm khuyến khích và quản lý việc làm thêm đối với sinh
viên hiện nay
4.1.1 Nâng cao nhận thức tầm quan trọng của việc làm thêm trong các trường Đại
học và cộng đồng xã hội
Cơ sở của giải pháp:
Hiện nay có thể nói sinh viên đi làm thêm phần lớn mang tính chất tự phát, chưa
có sự trợ giúp, quản lý của nhà trường và cộng đồng xã hội. Các trường đại học mới chỉ
dừng ở việc khuyến khích sinh viên tham gia các hoạt động bề nổi như sinh viên tình
nguyện, giao lưu sinh viên doanh nghiệp… hay các hoạt động bề sâu là nghiên cứu
khoa học chứ chưa coi trọng vấn đề khuyến khích và quản lý việc làm thêm. Trong khi
đó vấn đề này giờ đây đang đóng vai trò khá quan trọng trong đời sống học tập và sinh
hoạt của đại bộ phận sinh viên các trường đại học.
Sinh viên đi làm thêm ngoài vì vấn đề thu nhập còn do họ cảm thấy bản thân
thiếu những kinh nghiệm, những kỹ năng có ích cho mình sau khi ra trường. Chính vì lý
do đó, khi nhà trường cũng như cộng đồng xã hội coi việc làm thêm là một khâu quan
trọng trong quá trình đào tạo bậc đại học thì chắc chắn sinh viên nói chung sẽ rất đồng
tình vì họ có thể vừa được học tập vừa được thực hành ngày càng nhiều hơn kiến thức
lý thuyết đã học.
Nội dung giải pháp:
- Nhà trường có thể liên kết với các tổ chức xã hội thành lập các mô hình như
trung tâm giới thiệu việc làm, trung tâm tư vấn ngay trong phạm vi trường đại học.
Ví dụ như tại một số trường Đại học hiện nay có thành lập Quỹ phát triển tài
năng sinh viên. Đây thực sự là mô hình hay và bổ ích cho sinh viên khi đang học tại
trường.
Hay như ở úc, hầu hết các trường đại học và cao đẳng đều có các trung tâm giới
thiệu việc làm cung cấp nhiều thông tin của các nhà tuyển dụng và có các chuyên viên
tư vấn việc làm để hỗ trợ sinh viên. Rất nhiều sinh viên đã tìm được việc làm thông qua
sự giới thiệu từ các trung tâm trong nhà trường.
- Nhà trường ngoài việc đánh giá năng lực sinh viên qua học tập, nghiên cứu
khoa học, hoạt động xã hội cũng nên có quy chế khuyến khích, hỗ trợ cho những sinh
viên đi làm thêm, có thể bằng hình thức cộng điểm, thưởng điểm nếu có những công
trình, đề án mang tính thực tiễn cao…
- Thành lập CLB Doanh nghiệp sinh viên, do sinh viên quản lý điều hành, hỗ trợ
sinh viên trong việc nghiên cứu, xây dựng những đề án kinh doanh, mời các doanh
nghiệp bên ngoài tham gia đóng góp ý tưởng và hỗ trợ về vốn cho hoạt động.
- Để quản lý sinh viên đi làm thêm, nhà trường có thể quy định những sinh viên
có điểm tổng kết học kỳ từ 6.0 trở lên mới được đi làm thêm, quy định số giờ làm thêm
tối đa trên 1 tuần, 1 tháng, 1 học kỳ….
Ví dụ như ở úc, du học sinh có thể làm việc bán thời gian (20 giờ/tuần) trong thời
gian học và toàn thời gian trong các kỳ nghỉ. Bên cạnh đó, với việc coi việc làm thêm là
một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo, các khoá học cao đẳng hay các trường đại
học ở úc đều có liên hệ với những nơi thực tập cho sinh viên (đôi khi còn gọi là “Sắp
đặt công nghiệp” – industrial placement). Điều này sẽ mang lại cho sinh viên cơ hội có
thời gian kinh qua công việc kinh doanh thực sự. Sinh viên đăng ký học ngành y tá hoặc
chăm sóc trẻ có thể được sắp xếp vào làm tại những trung tâm chuyên về chăm sóc trẻ
em khoảng hai tuần mỗi lần. Những sinh viên đăng ký học ngành kinh tế hay thương
mại có thể được sắp xếp vào làm tại một công ty kế toán địa phương. Thời gian làm
việc hoặc thực tập trong khi học có thể được trả lương hoặc không theo chức vụ tại nơi
làm việc và thường được tính vào bằng cấp của sinh viên.
- Nhà trường cũng nên cân nhắc trong việc bổ sung một số môn học có tính thực
hành cao, tổ chức thi trắc nghiệm, thi vấn đáp để rèn luyện cho sinh viên những kỹ năng
phản ứng linh hoạt, có kiến thức tổng hợp.
Lợi ích của giải pháp:
Nhờ coi việc làm thêm là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo, nhà
trường sẽ vừa trợ giúp, vừa có thể quản lý được sinh viên chặt chẽ hơn. Nhà trường sẽ
biết được nhiều hơn những nhu cầu về học tập và sinh hoạt của sinh viên để có sự sửa
đổi, bổ sung hợp lý về phương pháp giảng dạy và cũng như về công tác quản lý sinh
viên. Bên cạnh đó, nếu làm được điều này thì nhà trường và cộng đồng xã hội sẽ góp
phần không nhỏ trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên.
4.1.2 Tăng cường mối quan hệ giữa sinh viên - khoa - doanh nghiệp
Cơ sở của giải pháp:
Tính chất tự tìm việc làm thêm đối với sinh viên Việt Nam hiện nay có thể nói là
khá chủ động hơn so với những thời kỳ trước đây, tuy nhiên nếu mạnh dạn so sánh với
các nước trên thế giới thì sinh viên Việt Nam vẫn có những hạn chế trong vấn đề này.
Sinh viên do nhiều yếu tố khách quan như thiếu quan hệ, thiếu thông tin… nên rất khó
tìm được những công việc phù hợp với ngành học, với thời gian học, thậm chí đôi khi
còn gặp phải sự lừa đảo không đáng có. Để khắc phục tình trạng trên, nếu các khoa và
các thầy cô giáo, vốn có nhiều mối quan hệ và thông tin chính xác với những đơn vị bên
ngoài, chủ động cung cấp những thông tin, là cầu nối cho sinh viên trong vấn đề tìm
việc làm thêm thì đây sẽ là sự kết hợp rất hoàn hảo.
Nội dung giải pháp:
- Các khoa, các thầy cô giáo nên kết hợp với các doanh nghiệp trong việc đào
tạo, trau dồi kỹ năng cho sinh viên. Doanh nghiệp sẽ cung cấp những thông tin kinh tế,
tuyển dụng…, các khoa sẽ cung cấp nhân lực, tạo điều kiện cho những sinh viên có nhu
cầu, có khả năng được đi thực tế, làm việc không lương tại các doanh nghiệp.
- Các khoa, các thầy cô giáo có thể mời một người ngoài xã hội (một kỹ sư, bác
sĩ, kỹ thuật viên, nhà doanh nghiệp… chẳng hạn) lên lớp một bài về chuyên môn của họ
cho sinh viên. Đây là một việc rất thực tế và rất tốt cho sinh viên vì được tiếp cận những
kinh nghiệm mà người được mời trao cho (1).
Lợi ích của giải pháp:
Các khoa, các thầy cô là cầu nối cho sinh viên trong vấn đề tìm việc làm thêm sẽ
giúp sinh viên tìm và tìm được những công việc thích hợp với chuyên môn, thời gian
học tập trên lớp…. Mối quan hệ tốt được xây dựng từ hai phía sẽ càng giúp cho khoa,
các thầy cô giáo có được niềm tin, sự nỗ lực phấn đấu của sinh viên để xây dựng khoa,
xây dựng trường ngày càng có chất lượng tốt hơn.
4.1.3 Tăng cường sự tham gia của các tổ chức đoàn thể
(1) Đây là kinh nghiệm được áp dụng phổ biến ở các nước có nền
giáo dục tiên tiến trên thế giới
Cơ sở của giải pháp:
Nhắc đến các tổ chức đoàn thể trong các trường đại học, chúng ta đều có thể hình
dung ngay được đó chính là những cầu nối cho sinh viên trong việc thông tin đến nhà
trường; là sân chơi lành mạnh, bổ ích cho các bạn sinh viên về các hoạt động văn, thể,
mỹ. Những hoạt động bổ ích, thiết thực cho sinh viên thì không một tổ chức đoàn thể
nào không tham gia. Và đối với vấn đề việc làm thêm vốn dĩ rất gần gũi với cuộc sống,
học tập của sinh viên cũng vậy, các tổ chức đoàn thể cũng không thể đứng ngoài cuộc.
Với những tính chất rất tích cực như: gần gũi với sinh viên, là môi trường cho
sinh viên rèn luyện, có quan hệ tốt với các doanh nghiệp… thực tế các tổ chức Đoàn,
Hội ở các trường đại học hiện nay nói chung đã làm được rất nhiều cho sinh viên. Có
không ít trường đại học mà sinh viên ở đó thông qua các tổ chức Đoàn, Hội đã tìm được
việc làm thêm cho mình ngay khi còn đang học cũng như việc làm sau khi tốt nghiệp ra
trường.
Nội dung giải pháp:
- Đoàn, Hội nên tổ chức những Hội thảo về các chủ đề mang tính thời sự, tổ chức
các lớp học miễn phí cho sinh viên về các kỹ năng xin việc, làm việc sau tốt nghiệp…
- Tổ chức Hội chợ việc làm cho sinh viên trong và ngoài trường mỗi năm một
lần.
- Đoàn, Hội cũng nên tổ chức các chương trình giao lưu sinh viên – doanh
nghiệp, giao lưu cựu sinh viên đã thành đạt với sinh viên trường… Dưới đây xin nêu
một dẫn chứng điển hình.
Tại Diễn đàn “Hành trang sinh viên lập thân lập nghiệp” diễn ra vào đầu tháng
11/2004, có một thực tế mà hầu hết các đại biểu tham dự đều đồng ý với nhận định này:
“Thất nghiệp sẽ giảm nếu Đoàn, Hội nhiệt tình vào cuộc” (1).
Liên quan đến vấn đề việc làm và mối lo thất nghiệp của nhiều bạn sinh viên,
Đoàn Thu Trang, sinh viên K42 tại một trường Đại học ở Hà Nội cho rằng, trong số 11
nghìn cử nhân được đào tạo hàng năm mà chỉ có xấp xỉ 50% tìm được việc làm (kể cả
những công việc không phù hợp với chuyên môn) thì quả đáng buồn. Tuy nhiên, vấn đề
là làm thế nào để vượt qua trở ngại đó. Trang dẫn ví dụ vai trò của tổ chức Đoàn, Hội ở
(1) Nam, "Hành trang sinh viên lập
thân lập nghiệp", 21/3/2005, 09:16 AM
trường mình trong việc hỗ trợ, tìm kiếm việc làm cho sinh viên và cho biết: hàng năm,
có tới gần 100% sinh viên của trường tìm được việc làm nhờ được “tập huấn” qua các
chương trình “ý tưởng kinh doanh sáng tạo”, “Sinh viên tài năng”… do Đoàn trường
đứng ra tổ chức.
Tham gia các chương trình này, sinh viên sẽ được giao lưu, trao đổi với các
chuyên gia về kinh tế, những doanh nhân thành đạt, học hỏi kinh nghiệm cho công việc,
nắm rõ yêu cầu, tiêu chí của nhà tuyển dụng để có sự điều chỉnh bản thân về kiến thức,
kinh nghiệm thực tiễn trước lúc bắt đầu hành trình tìm việc.
Lợi ích của giải pháp:
Sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài trường sẽ không chỉ giúp
cho sinh viên có thêm nhiều kinh nghiệm, kỹ năng tốt mà còn tạo cho sinh viên những
sân chơi bổ ích sau những giờ học căng thẳng. Hoạt động bề nổi tốt sẽ bổ trợ thêm cho
sinh viên nhiều kiến thức có thể áp dụng được trong các hoạt động bề sâu.
4.1.4 Phát huy tính năng động và sáng tạo của sinh viên
Cơ sở của giải pháp:
Trong xu thế hội nhập và phát triển, từ kinh nghiệm của sinh viên quốc tế cũng
như từ chính những bài học của sinh viên Việt Nam cho thấy, tính năng động, sáng tạo
trong sinh viên đóng vai trò vô cùng quan trọng, có rất nhiều lợi ích cho chính bản thân
họ sau khi ra trường. Bên cạnh đó, rộng hơn hết là xã hội sẽ có những trí thức trẻ kế
thừa tốt, làm cho đất nước có một nguồn lực mạnh mẽ về con người, phát huy được
những năng lực nội sinh, đưa đất nước sánh ngang với tầm khu vực và quốc tế.
Nhà trường và các tổ chức đoàn thể dù có nỗ lực đến đâu, cố gắng đến đâu để
khuyến khích những việc làm thêm trong sinh viên thì cũng chỉ là từ một phía. Sinh
viên cần chủ động hơn, sáng tạo hơn nữa, chủ động áp dụng những kiến thức đã học vào
thực tế thông qua các hoạt động xã hội hay qua việc làm thêm mà mình có điều kiện
tham gia ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Sinh viên Việt Nam ngày nay do được tiếp xúc nhiều hơn với các luồng văn hoá,
kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến trên thế giới và khu vực nên đã có sự năng động, sáng
tạo trong cả học tập và lao động. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đã
đủ điều kiện để có thể hội nhập và phát triển tốt như các nước tiên tiến khác. Yếu tố
năng động sáng tạo trong cuộc sống sẽ không bao giờ có giới hạn, không bao giờ là đủ.
Chính vì thế, phát huy yếu tố năng động sáng tạo luôn là đòi hỏi cấp bách không chỉ
trong việc làm thêm mà trong tất cả những công việc khác, với tất cả mọi người trong
một quốc gia. Đặc biệt là với lực lượng thanh niên, sinh viên, những người chủ tương
lai của đất nước.
Nội dung giải pháp:
- Sinh viên cần chủ động trong việc tổ chức các hoạt động CLB, các hoạt động
sinh hoạt NCKH, các hoạt động vui chơi giải trí khác…
Ví dụ như tại các trường đại học hiện nay có rất nhiều các mô hình CLB do sinh
viên điều hành hoạt động như CLB Kinh tế mới, CLB Sinh viên NCKH, CLB Thơ…. ở
các câu lạc bộ này, sinh viên hoàn toàn chủ động trong việc tổ chức, xây dựng chương
trình sinh hoạt, tổ chức các cuộc thi kiến thức lý thuyết lẫn thực tế cho sinh viên. Kinh
phí cho các hoạt động này một phần do Nhà trường hỗ trợ, còn lại các bạn sinh viên đều
phải chủ động đi mời tài trợ từ các doanh nghiệp, các tổ chức bên ngoài. Thông qua
những hoạt động như thế, các bạn sinh viên sẽ tạo cho mình được những kỹ năng,
những kinh nghiệm rất thực tế mà không một giáo trình nào có thể đề cập đến.
- Sinh viên ngoài học tập tại trường có thể tham gia viết báo, gửi tin bài cho các
bản tin hay các báo trong và ngoài trường.
- Sinh viên có thể chủ động tổ chức buôn bán kinh doanh những mặt hàng bên
trong và ngoài trường, dưới sự cho phép của nhà trường và chính quyền sở tại.
Lợi ích của giải pháp:
Sinh viên phát huy được sự năng động sáng tạo thông qua những hoạt động học
tập cũng như hoạt động ngoại khoá sẽ không chỉ giúp cho bản thân thêm những kiến
thức mới, kinh nghiệm mới mà còn làm cho nhà trường, xã hội và rộng hơn là làm cho
đất nước có được một nguồn nhân lực mạnh mẽ, đủ điều kiện đáp ứng những thách thức
to lớn, tận dụng được những cơ hội mở rộng của xu thế hội nhập ngày nay.
4.2 Một số kiến nghị
4.2.1 Đối với nhà nước và xã hội
- Nhà nước và các địa phương nên khuyến khích và tạo điều kiện cho các đoàn
thể, tổ chức quần chúng, doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề, hướng nghiệp cho đội
ngũ thanh niên, sinh viên.
- Nhà nước cần có sự đổi mới chương trình, hệ thống đào tạo, tiếp thu và áp dụng
những phương pháp đào tạo phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, con người Việt Nam.
Chú trọng các phương pháp phát huy tính sáng tạo, tự chủ trong học sinh, sinh viên và
các đối tượng khác.
- Nhà nước cần có sự quản lý sát sao hơn về vấn đề thành lập, tổ chức các
TTDVVL, tránh để cho người lao động, sinh viên bị lừa đảo khi đến xin việc qua các
trung tâm.
4.2.2 Đối với doanh nghiệp và các tổ chức khác
- Các doanh nghiệp và các tổ chức nên chủ động tìm đến nhà trường, cung cấp
các thông tin tuyển dụng, làm việc bán thời gian hay cộng tác viên…
- Với những sinh viên năm thứ ba và năm cuối, doanh nghiệp nên liên hệ với nhà
trường về số lượng sinh viên kiến tập, thực tập, phân bố, nội dung nghiên cứu…. Việc
làm này mang tính kế hoạch, định hướng cho sinh viên sẽ thiết thực hơn là để sinh viên
tự đi liên hệ.
Kết luận
Với mong muốn đưa ra một bức tranh cụ thể, chi tiết về "Vấn đề việc làm thêm
đối với sinh viên hiện nay", bước đầu chúng tôi đã phát phiếu điều tra với đối tượng
chính là các bạn sinh viên tại một trường Đại học trên địa bàn Hà Nội. Sau thời gian làm
việc nghiêm túc, khoa học chúng tôi đã hoàn thành công việc nghiên cứu.
Vấn đề việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay nhìn từ khía cạnh những người
trong cuộc đã được rất nhiều ý kiến ủng hộ và đồng tình. Đa số các bạn sinh viên cho
rằng việc làm thêm có nhiều tác động tích cực. Hầu hết sinh viên đều rất muốn có cơ
hội để được đi làm bởi họ cho rằng đi làm thêm họ có thể cảm nhận được giá trị bản
thân, phát huy và vận dụng được vốn kiến thức sẵn có. Đồng thời bổ sung được kinh
nghiệm sống sau này. Sinh viên khi đi làm thêm được nhận những đồng tiền, những
thành quả từ chính công sức mình bỏ ra. Từ đó dần dần họ sẽ có được những cách nhìn
nhận đúng đắn hơn về giá trị thực sự của cuộc sống.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có không nhỏ lượng sinh viên
chưa thể đi làm vì những lý do mà có thể dễ dàng khắc phục được.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xczxvf_0638.pdf