Hiện tại, với điều kiện nội dung chương trình vẫn cố định theo sách giáo khoa và dung
lượng kiến thức còn khá nhiều thì không nên áp dụng PBL cho toàn bộ các nội dung. Ta vẫn
có thể đổi mới cách thức dạy học nhằm đạt hiệu quả cao hơn bằng cách ta nên chọn một vài
bài, hoặc chương có nội dung phù hợp với thực tế giảng dạy, khả năng làm việc nhóm, khả
năng tìm kiếm thông tin mà sao cho vẫn đảm bảo thời lượng dạy học theo phân phối để dạy bằng PBL.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh nên dành thời gian và cho các em cùng xây
dựng các tiêu chí đánh giá. Để các em có thể chủ động trong quá trình học tập, hiểu tiêu chí
các em có thể làm việc và cải thiện nếu chưa tốt.
Các cơ quan đầu ngành, các trường học, cần có sự liên hệ và kí kết hỗ trợ, tạo điều
kiện cho học sinh tiếp xúc môi trường thực tế khi học.
Việc đánh giá giáo viên có thể thực hiện tương tự như đánh giá học sinh - đánh giá quá
trình, có thể bao gồm các mặt sau: kế hoạch giảng dạy, thái độ học sinh tham gia tiết học,
tính hợp lí khi tổ chức lớp, kết quả học sinh có được sau khóa học.
Hoàn thành luận văn nhưng do điều kiện giới hạn về thời gian chắc chắn còn những
vấn đề trong phạm vi luận văn tôi chưa thể tìm hiểu sâu và cũng sẽ còn những vấn đề mà tôi
chưa biết, với những kiến thức có được về phương pháp dạy học mới, tôi sẽ tiếp tục nghiêncứu và áp dụng phương pháp vào một số các nội dung khác nhằm hướng đến việc dạy học
tích cực và hiệu quả hơn.
176 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng “mô hình học tập trên cơ sở vấn đề (Problem based learning)” vào tổ chức dạy học các chương “Chất khí” và “Cơ sở của nhiệt động lực học” Vật lí 10 ban Cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến thức của học sinh được củng cố.
Thu thập, tổng kết, đánh giá sự tham gia của các thành viên trong lớp.
Làm khảo sát ngắn về mức độ hài lòng của các em với phương pháp học tập mới này.
2.11. Kết luận chương 2
Từ những nghiên cứu về cơ sở lí luận của mô hình học tập dựa trên vấn đề, tôi đã
nghiên cứu thiết kế vấn đề học tập cho hai chương “Chất khí” và “Cơ sở của nhiệt động lực
học” và đưa vào áp dụng thử nghiệm thực tế ở trường phổ thông như một phép thử trong số
các công trình nghiên cứu khác nhằm xem xét, đánh giá tính khả thi của việc áp dụng
phương pháp này vào đặc điểm, tình hình dạy học phổ thông vật lí ở trường phổ thông Việt
Nam nói riêng.
Vấn đề chính của khóa học được thiết kế sao cho có thể bao trùm toàn bộ nội dung
giảng dạy cần thiết của hai chương “Chất khí” và “Cơ sở của nhiệt động lực học”. Vấn đề
mà tôi xây dựng xuất phát từ điều kiện thực tế riêng đối với nhà trường tôi đang giảng dạy,
liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nhiệm vụ của các học sinh trong lớp, với mong muốn
các em thấy được từ việc học có thể giúp giải quyết các vấn đề thực tế xung quanh. Nó tạo
cho các em học sinh sự hứng thú và điều khiển quá trình tìm hiểu, xây dựng kiến thức một
cách tự nhiên từ những thắc mắc, nhiều điều chưa biết của các em trong quá trình giải quyết
vấn đề và tất nhiên dưới sự định hướng, điều chỉnh của giáo viên.
Kế hoạch học tập và những hướng dẫn ban đầu về phương pháp học tập mới được
thông báo rõ ràng đến học sinh giúp các em biết được vai trò của mình trong quá trình giải
quyết vấn đề, đồng thời tìm kiếm kiến thức mới. Tác giả đã cố gắng chuẩn bị chi tiết giáo án
cho từng buổi với mục tiêu, tổ chức cụ thể, giúp định hướng các em khi tham gia giải quyết
vấn đề, nhờ đó các em từng bước tránh khỏi bỡ ngỡ với phương pháp học tập mới. Các tiêu
chí đánh giá được thống nhất với học sinh ngay ngày đầu tiên phân nhóm, giúp học sinh biết
rõ những yêu cầu cần đạt được và học sinh có thể tự đánh giá để hoàn thiện hơn. Việc đánh
giá theo hình thức mới này đối với các em còn mới lạ, lúng túng khi thực hiện.
Từ sự kiện lấy ý kiến học sinh các lớp về dự kiến trang bị hệ thống máy lạnh cho tất cả
các phòng học trong nhà trường, các em đã biết tư duy về những vấn đề liên quan đến việc
sử dụng máy lạnh, dẫn tới thống nhất tìm hiểu về máy lạnh. Trong quá trình tìm hiểu để
khẳng định giải pháp của các nhóm, học sinh dần dần tìm hiểu những vấn đề chi tiết hơn về
tính chất và trạng thái của một khối khí, các quá trình biến đổi trạng thái, nguyên lý của
nhiệt động lực học ứng dụng vào các loại động cơ nhiệt, máy lạnh; phạm vi kiến thức được
mở rộng ra khỏi phạm vi môn học, các em quan tâm đến những vấn đề về ảnh hưởng việc
sử dụng máy lạnh đối với môi trường, các loại gas lạnh, cách sử dụng máy lạnh hiệu
quảCác kiến thức được các em góp nhặt, thảo luận và hệ thống lại qua các bài báo cáo
nhóm, tích lũy kiến thức cho bản thân và học cách giải quyết giải quyết vấn đề, cách làm
việc nhóm, và khai thác thông tin.
Thời lượng và điều kiện hạn chế tuy nhiên tác giả vẫn nhận thấy được sự nhiệt tình và
hứng thú của các em.
Những khó khăn khi tiến hành thực nghiệm
Về chủ quan
Mặc dù tác giả đã cố gắng tìm hiểu kĩ càng về cơ sở lý luận của phương pháp, học hỏi
trao đổi kinh nghiệm với giáo viên hướng dẫn, các đồng nghiệp lâu năm nhưng lần đầu tiên
tác giả được tiếp xúc và tiến hành thực nghiệm với phương pháp này, cộng với kinh nghiệm
bản thân trong giảng dạy nói chung và giảng dạy bằng PBL nói riêng chưa được nhiều nên
không tránh khỏi thiếu sót.
Về khách quan
• PBL là phương pháp khá mới ở Việt Nam, các nguồn tài liệu tham khảo về tổ chức
giảng dạy bằng PBL chưa có.
• Nội dung môn học ở cấp phổ thông còn mang tính cố định.
• Nhược điểm của học sinh: khả năng trình bày, chưa quen làm việc nhóm, sử dụng
công nghệ thông tin để tìm kiếm thông tin, ngoại ngữ, việc tự học, tự nghiên cứu còn hạn
chế.
• Cách thức kiểm tra - đánh giá trong trường học hiện nay nặng về kiến thức, kĩ năng
được đánh giá thiên về kĩ năng giải bài tập, trong khi đối với PBL kĩ năng giải quyết vấn đề
thực tế.
• Mối liên hệ nhà trường - xã hội chưa hỗ trợ nhau trong công tác giáo dục.
• Điều kiện về thời gian: học sinh tại trường thực nghiệm có thời gian học hai buổi, với
số lượng môn học ở Việt Nam hiện nay khá nhiều (11 môn/học kì), thời gian tự học của các
em bị hạn chế, gây khó khăn khi các nhóm tìm thời gian làm việc nhóm.
• Điều kiện về thực tế lớp học: Lớp học đông học sinh khiến việc quản lí nhóm, tổ
chức nhóm nhiều bất lợi.
Từ những đúc kết trên qua quá trình thực nghiệm đề tài, tác giả nhận thấy
Mô hình học tập dựa trên vấn đề có khả năng đáp ứng được yêu cầu của đổi mới
PPDH:
• Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
• Khắc phục một số nhược điểm của học sinh.
• Khai thác được tiềm năng của Internet.
• Nâng cao tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập cũng như trong cách
giải quyết vấn đề thực tiễn.
• Phát huy tối đa khả năng tự học, sáng tạo của học sinh.
• Phát triển các kĩ năng cần thiết trong sự phát triển tiếp theo của học sinh.
Những giá trị tích cực mà PBL đem lại thì việc áp dụng mô hình này vào dạy học là
cần thiết. Tuy nhiên, để có thể đưa vào áp dụng thì cần thay đổi nhiều yếu tố thực tế khách
quan mà giảng dạy ở Việt Nam còn tồn tại.
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
2.12. 3.1. Mục đích và nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá giả thuyết khoa học của đề tài nghiên cứu, đánh
giá sơ bộ chất lượng và hiệu quả của phương pháp dạy học dựa trên vấn đề PBL, xem xét
khả năng thích ứng của học sinh đối với phương pháp dạy học này, những khó khăn gặp
phải khi sử dụng phương pháp, và cuối cùng xét tính khả thi của đề tài trong điều kiện của
giáo dục phổ thông Việt Nam hiện nay.
2.13. 3.2. Đối tượng và nội dung của thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành đối với học sinh lớp 10A4 của trường THPT
Trần Hữu Trang, Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh (nơi tôi công tác giảng dạy).
Đối tượng thực nghiệm sư phạm được chia làm hai nhóm:
Nhóm thực nghiệm: Một lớp (10A4) được học theo phương pháp dạy học dựa trên vấn
đề.
Nhóm đối chứng: Một lớp (10A6) được học theo phương pháp truyền thống.
Tôi chọn thực nghiệm hai lớp này vì trước khi thực nghiệm, sức học và kết quả học tập
môn vật lí của hai lớp này khá là ngang đều nhau.
2.14. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
3.3.1. Chọn mẫu thực nghiệm
Học sinh được khảo sát trong quá trình thực nghiệm sư phạm bao gồm 55 em học sinh
của lớp 10A4 (trong đó có 13 HSTT, 33 HSTB, 8 HSY và 1 HS Kém) thuộc trường THPT
Trần Hữu Trang, Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh. Lớp đối chứng có 51 em học sinh của lớp 10A6
(14 HSTT, 25 HSTB, 7 HSY, 1HS Kém) cũng thuộc trường THPT Trần Hữu Trang, Quận
5, Tp. Hồ Chí Minh.
3.3.2. Các bước tiến hành thực nghiệm
Chuẩn bị:
• Xây dựng nội dung và kế hoạch giảng dạy cụ thể trình ban giám hiệu nhà trường
thông qua.
• Xin ý kiến của các bạn bè đồng nghiệp góp ý về nội dung kiến thức, hình thức tổ
chức dạy học và tính khả thi của việc thực hiện dạy học dựa trên vấn đề ở trường phổ thông.
• Chuẩn bị kế hoạch, xin ý kiến công ty Midea để cho học sinh tham quan, tìm hiểu và
quay phim.
• Chọn lớp, chia nhóm, phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm, giao các
nhóm trưởng theo dõi quá trình học tập của nhóm và báo cáo kịp thời cho giáo viên.
• Giới thiệu, cho học sinh tìm hiểu sơ lược về hình thức tổ chức học tập, cách thức kiển
tra, đánh giá. Giới thiệu các tài liệu tham khảo liên quan, đồng thời hướng dẫn học sinh cách
thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác.
Tiến hành dạy học trên lớp
Sau khi đã chuẩn bị các nội dung cần thiết, giáo viên tiến hành thực hiện giảng dạy
theo kế hoạch đã được xây dựng
Trong các tiết học, giáo viên cần thực hiện các bước sau:
- Đưa ra vấn đề học tập xảy ra trong thực tế.
- Cho các nhóm và cá nhân tự tìm hiểu, thực hiện các nhiệm vụ được giao trước khi cả
lớp tiến hành buổi thảo luận chung giữa các nhóm trên lớp.
- Tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm với các nhiệm vụ được cụ thể hóa thông
qua các giải pháp của mỗi nhóm đưa ra.
- Giáo viên theo dõi hoạt động của các nhóm để kịp thời hỗ trợ và chấn chỉnh nội dung
và hướng giải quyết vấn đề cho phù hợp.
- Các nhóm trao đổi các giải pháp của nhóm mình, cùng tranh luận để cùng đưa ra giải
pháp, kiến thức hợp lí nhất.
- Giáo viên nhận xét về kết quả thảo luận của các nhóm.
Đánh giá kết quả học tập
Đánh giá cả quá trình học tập của học sinh, cụ thể:
• Học sinh tự đánh giá sự tham gia nhóm: Bảng tự đánh giá thực hiện sau mỗi buổi làm
việc nhóm
• Nhóm trưởng đánh giá quá trình học tập và tham gia làm việc nhóm của các bạn
thành viên.
• Đánh giá chéo giữa các nhóm.
• Giáo viên nhận xét, đánh giá dựa vào những phần trình bày báo cáo, trả lời câu hỏi
thắc mắc, khả năng giải quyết vấn đề, bài báo cáo của các nhóm.
• Kiểm tra đánh giá phần kiến thức trong và cuối khóa học.
Tổ chức dạy học lớp đối chứng
Giáo viên dạy bình thường theo các phương pháp dạy học truyền thống.
Lưu ý
Dựa trên đặc điểm riêng của nhà trường nơi thực nghiệm, các bài kiểm tra bộ môn đều
là đề kiểm tra tập trung, chung thống nhất giữa các giáo viên trong nhóm và nhằm đánh giá
chất lượng tiếp thu kiến thức, khả năng phân tích, tổng hợp kiến thức của học sinh nên khi
tiến hành thực nghiệm bài vận dụng và kiểm tra về kiến thức giữa hai lớp thực nghiệm và
đối chứng hoàn toàn giống nhau.
Cả hai lớp thực nghiệm và đối chứng làm cùng đề kiểm tra phần bài tập, vận dụng kiến
thức trong lớp. Riêng lớp thực nghiệm tất cả các cột điểm bao gồm điểm kiểm tra, báo cáo
sẽ được qui về một điểm với thang điểm 10. Phần điểm này được lấy vào cột kiểm tra 15
phút.
3.3.3. Những điều cần lưu ý trong giờ thảo luận của học sinh trên lớp
Tất cả các giờ học trên lớp được quan sát và ghi nhận theo nội dung sau
Hệ thống câu hỏi định hướng của giáo viên đối với hoạt động học tập của học sinh có
phù hợp không?
Phân bố thời gian có hợp lí không?
Sự hỗ trợ của giáo viên có đúng lúc và phù hợp không?
Những khâu nào trong quá trình giảng dạy cần được điều chỉnh?
Nhận xét, đánh giá, điều chỉnh lại những thiếu sót của học sinh có đầy đủ và hợp lí
chưa? Thông qua những khó khăn của học sinh khi sử dụng công nghệ để điều chỉnh yêu
cầu và mức độ tích hợp công nghệ vào quá trình học tập.
Dựa vào kết quả thu được sau khi đánh giá để điều chỉnh lại toàn bộ quá trình dạy
học.
2.15. Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm
3.4.1. Nhận xét quá trình học tập theo mô hình PBL của lớp thực nghiệm
Học tập xuất phát từ vấn đề thực tế đã thu hút được sự quan tâm, tạo hứng thú cho học
sinh khi bước vào quá trình học tập. Đó là điều mà khi giáo viên vận dụng các phương pháp
dạy học truyền thống luôn mong muốn có được. Học sinh có cơ hội làm việc nhóm, trao đổi,
nêu ý kiến, tranh luận, thể hiện chính kiến trong các vấn đề để cùng nhau thực hiện các
nhiệm vụ học tập. Phương pháp học tập này buộc học sinh làm việc, đặt mình vào vai trò
người tìm kiếm kiến thức. Đồng thời thông qua hoạt động, các em được rèn luyện những kĩ
năng cần thiết. Biểu hiện của các em sau từng buổi học có tiến triển rất tốt. Các em đã bớt
thụ động, rụt rè, tự tin giơ tay phát biểu ý kiến bản thân.
Đồng hành với các em qua từng buổi học, tôi nhận thấy thái độ học tập nhiệt tình của
các em. Đa số học sinh tự giác tham gia các hoạt động học tập. Không chỉ với những học
sinh chăm ngoan, mà điều đáng mừng là các em học sinh ít tham gia xây dựng bài, thường
hay lơ là trước bài giảng trước đây cũng tỏ ra chú ý, hứng thú và tích cực hoạt động. Không
khí lớp có phần sôi nổi hơn. Học sinh hiểu và nắm kiến thức vững vàng hơn.
Tuy nhiên, ban đầu khi tiến hành thực nghiệm, tôi đã vấp phải rất nhiều khó khăn, mặc
dù đã lường trước các khó khăn ấy. Một trong những khó khăn có thể kể đến là học sinh
chúng ta chưa quen làm việc nhóm, chưa biết cách tự học, tự phân tích vấn đề, kĩ năng
thuyết trình yếu, sử dụng internet để tìm kiếm thông tin chưa thành thục. Những khó khăn
được các em khắc phục dần sau mỗi nhiệm vụ học tập trên cơ sở rút kinh nghiệm của các
nhóm, đánh giá của giáo viên. Những kĩ năng này khi học bằng phương pháp truyền thống
các em không có cơ hội bộc lộ, phát huy. Cải thiện và phát triển kĩ năng - đây là điểm nổi
bật nhất mà theo tôi phương pháp dạy học này mang lại.
Về đánh giá chất lượng kiến thức, kết quả kiểm tra của lớp thực nghiệm tốt hơn lớp
đối chứng. Có thể rút ra nhận định là học sinh học với phương pháp PBL có khả năng phân
tích, hiểu và nhớ kiến thức lâu hơn.
Tổng kết lại, dựa vào kết quả đã thực nghiệm, mặc dù chỉ là thực nghiệm với một đối
tượng học sinh của một lớp nhưng có những nhận định chắc chắn sau: Để có thể tiến hành
một khóa học PBL thành công, giáo viên cần đầu tư nhiều thời gian, công sức rất nhiều cho
khâu chuẩn bị, lên kế hoạch, thiết kế giáo án, các tài liệu cần thiết Với kế hoạch chuẩn bị
chu đáo người giáo viên có thể tự tin vào vai trò của người hướng dẫn, hỗ trợ, tổ chức lớp
hoạt động theo một tiến trình đã vạch, dành phần lớn thời gian học tập trên lớp cho học sinh
làm việc, nhưng chất lượng và hiệu quả dạy học vẫn đảm bảo. Học sinh học tập thoải mái
hơn, không căng thẳng, không có sự áp đặt kiến thức, truyền thụ theo kiểu thông báo, “rót”
kiến thức như cách dạy truyền thống tiêu cực.
3.4.2. Xử lý kết quả học tập
Xử lý kết quả học tập nhằm so sánh hiệu quả của phương pháp dạy học mới với
phương pháp dạy học cũ.
3.4.2.1. Xử lý kết quả học tập của học sinh lớp thực nghiệm
Để đánh giá kết quả học tập lớp thực nghiệm tôi đã tiến hành đánh giá thông qua quá
trình học tập suốt khóa học PBL và bài kiểm tra cuối chương. Xử lý số liệu kết quả học tập
của học sinh lớp thực nghiệm nhằm so sánh sự tương quan giữa hai hình thức đánh giá.
Kết quả đánh giá điểm quá trình và điểm kiểm tra cho bởi bảng 3.1
Bảng 3.1: Bảng phân bố tần suất của lớp thực nghiệm
Điểm
Số % học sinh đạt điểm xi
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Quá
trình
0 0 0 0 0 9,09 23,64 30,91 29,09 7,27 0
Kiểm
tra
0 0 0 7.27 7.27 3.64 18.18 25.45 18.18 9.09 10.91
Hình 3.1: Biểu đồ phân bố tần suất kết quả học tập của lớp thực nghiệm
Nhận xét:
Từ hình 3.1 ta thấy đường biễu diễn phân bố tần suất của điểm kiểm tra và điểm quá
trình đều có điểm cao dao động xung quanh điểm 7 và 8. Kết quả này chứng tỏ cách đánh
giá quá trình học tập PBL là chấp nhận được.
Bảng 3.2: Bảng phân bố tần suất tích lũy kết quả học tập lớp thực nghiệm
Điểm
Số % học sinh đạt điểm xi trở xuống
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Quá
trình
0 0 0 0 0 9.09 32.73 63.64 92.73 100 100
Kiểm
tra
0 0 0 7.27 14.54 18.18 36.36 61.81 79.99 89.08 100
0
10
20
30
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Quá trình
Kiểm tra
Điểm
Tần
suất
Hình 3.2: Biểu đồ phân bố tần suất tích lũy kết quả học tập lớp thực nghiệm
Nhận xét: Theo biểu đồ phân bố tần suất tích lũy kết quả học tập lớp thực nghiệm
hình 3.2 ta thấy đường biểu diễn kết quả đánh giá quá trình và kiểm tra kiến thức không
mấy khác biệt, gần như tương ứng nhau. Điều đó chứng tỏ kết quả đánh giá quá trình học
tập của học sinh là khách quan và phù hợp với kết quả thực tế của học sinh.
3.4.2.2. Xử lí kết quả học tập lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Điểm
Tổng
số
Số % học sinh đạt điểm xi
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Điểm
Tần suất
tích lũy
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
0 2 4 6 8 10
Quá trình
Kiểm tra
Bảng 3.3: Bảng phân bố tần suất lớp đối chứng và lớp thực nghiệm
Hình 3.3 Biểu đồ phân bố tần suất lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Thực
nghiệm
55 0 0 0 7.27 7.27 3.64 18.18 25.45 18.18 9.09 10.91
Đối
chứng
47 0 0 0 6.38 14.89 14.89 21.28 17.02 6.38 8.51 10.63
0
10
20
30
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thực nghiệm
Đối chứng
Bảng 3.4: Bảng so sánh tần số tích lũy giữa hai lớp thực nghiệm và đối chứng
Hình 3.4: Biểu đồ tần số tích lũy giữa hai lớp thực nghiệm và đối chứng
Điểm Tổng số
Số % học sinh đạt điểm xi trở xuống
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thực
nghiệm 55 0 0 0 7.27 14.54 18.18 36.36 61.81 79.99 89.08 100
Đối
chứng 47 0 0 0 6.38 21.27 36.16 57.44 74.46 80.84 89.35 100
Các đường tích lũy rất thuận lợi trong việc so sánh điểm số học tập của học sinh hai
lớp thực nghiệm và đối chứng. Dựa vào đồ thị ta có thể thấy:
- Lớp thực nghiệm có 14,54% học sinh có điểm kiểm tra từ 4 điểm trở xuống (tức loại
yếu) và kết quả này là 21,27% đối với lớp đối chứng.
- Điểm dưới TB (điểm < 5) lớp thực nghiệm có 18,18% học sinh và lớp đối chứng có
36,16%.
- 50% học sinh lớp thự nghiệm đạt từ 6,5 điểm trở xuống và 5,5 đối với lớp đối chứng.
Qua đó, ta thấy kết quả thu được khi kiểm tra về kiến thức ở lớp thực nghiệm tốt hơn lớp
đối chứng.
3.4.2.3. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn
Công thức tính điểm trung bình
1
1 n
i
i
X X
n =
= ∑ (3.1)
Công thức độ lệch chuẩn:
( )
1
i if X Xs
n
−
=
−
∑ (3.2)
Trong đó: fi là tần số ứng với điểm Xi
n là số học sinh tương ứng
Bảng 3.5: Bảng thống kê điểm trung bình của
lớp thực nghiệm
Điểm Tần số
Lớp 10A4 Lớp 10A6
0 0 0
1 0 0
2 0 0
3 4 3
4 4 7
5 2 7
6 10 10
7 14 8
8 10 3
9 5 4
10 6 5
Điểm TB 6.93 6.25
Độ lệch chuẩn điểm của lớp 10 A4 (Điểm trung bình 1 7X = )
Điểm Xi Tần số fi iX X− ( )2iX X− ( )
2
i if X X−
0 0 -6.93 48.0249 0
1 0 -5.93 35.1649 0
2 0 -4.93 24.3049 0
3 4 -3.93 15.4449 61.7796
4 4 -2.93 8.5849 34.3396
5 2 -1.93 3.7249 7.4498
6 10 -0.93 0.8649 8.649
7 14 0.07 0.0049 0.0686
8 10 1.07 1.1449 11.449
9 5 2.07 4.2849 21.4245
10 6 3.07 9.4249 56.5494
n = if∑ = 55
2
( )i if X X−∑ = 201.7095
Độ lệch chuẩn: s = 1.93
Bảng 3.6 Bảng độ lệch chuẩn của lóp 10A4 thực nghiệm
Độ lệch chuẩn điểm của lớp 10A6 (Điểm trung bình 2X = 6,25)
Bảng 3.7 Bảng độ lệch chuẩn của lóp 10A6 đối chứng
Điểm Xi Tần số fi iX X− ( )2iX X− ( )
2
i if X X−
0 0 -6.25 39.0625 0
1 0 -5.25 27.5625 0
2 0 -4.25 18.0625 0
3 3 -3.25 10.5625 31.6875
4 7 -2.25 5.0625 35.4375
5 7 -1.25 1.5625 10.9375
6 10 -0.25 0.0625 0.625
7 8 0.75 0.5625 4.5
8 3 1.75 3.0625 9.1875
9 4 2.75 7.5625 30.25
10 5 3.75 14.0625 70.3125
n = if∑ = 47
2
( )i if X X−∑ = 192.9375
Độ lệch chuẩn s = 2.05
Ý nghĩa độ lệch chuẩn
Trong thống kê độ lệch chuẩn xác định mức độ ổn định của số liệu thống kê xoay
quanh giá trị trung bình. Giá trị của độ lệch chuẩn càng thấp thì mức độ ổn định của số liệu
càng lớn, dao động quanh giá trị trung bình càng nhỏ. Giá trị độ lệch chuẩn càng cao thì
mức độ ổn định của số liệu càng nhỏ, dao động quanh giá trị trung bình càng lớn.
Bảng 3.8. Các tham số thống kê kết quả học tập của lớp thực nghiệm và đối chứng
Lớp
Điểm
trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Điểm dưới
mức TB
Xi < 5
Điểm loại
khá, giỏi
Xi ≥ 5
Điểm loại
giỏi
Xi ≥ 8
Thực nghiệm 6.93 1.93 14.54% 85.46% 38.19%
Đối chứng 6.25 2.05 21.27% 78.73% 25.54%
Dựa vào những tham số thống kê được ta thấy độ lệch chuẩn của lớp đối chứng lớn
hơn của lớp thực nghiệm, điều này chứng tỏ mức độ phân tán của điểm kiểm tra của học
sinh trong lớp đối chứng lớn hơn so với điểm trung bình của cả lớp (6.25 điểm). Trong khi
đó, lớp thực nghiệm có độ phân tán điểm quanh điểm trung bình của cả lớp (6.93 điểm) là
nhỏ. Nói cách khác, nó cho thấy lớp thực nghiệm học đều và ổn định hơn so với lớp đối
chứng.
Sự khác nhau về kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng có ý nghĩa không? Có
phải thực sự phương pháp dạy mới tốt hơn phương pháp dạy cũ hay chỉ do ngẫu nhiên mà
có? Nếu ta áp dụng phương pháp dạy mới rộng rãi nói chung thì kết quả có tốt hơn phương
pháp dạy cũ không?
Để kiểm tra kết luận chắc chắn, hay do ngẫu nhiên, may rủi ta tiến hành kiểm định kết
quả này theo phương pháp kiểm định giả thuyết thống kê.
3.4.3. Kiểm định giả thuyết thống kê
Kiểm định sự khác nhau giữa hai điểm trung bình cộng 1X và 2X của hai lớp thực
nghiệm và đối chứng.
Giả thiết thống kê H0 đưa ra: “Sự khác nhau giữa điểm trung bình 1X của lớp thực
nghiệm và 2X của lớp đối chứng là không có ý nghĩa”
Đại lượng kiểm định:
1 2 1 2
1 2
.X X n nt
s n n
−
=
+
Trong đó:
2 2
1 1 2 2
1 2
( 1) ( 1)
2
n s n ss
n n
− + −
=
+ −
;
s1, s2 là độ lệch chuẩn trong các mẫu
n1, n2 là kích thước các mẫu.
Giả thiết đối: “Điểm trung bình của lớp thực nghiệm lớn hơn điểm trung bình của lớp
đối chứng là có ý nghĩa”
Chọn xác suất sai (mức ý nghĩa) α = 0.05 và f = 100 tα = 2
1X 2X s1 s2 n1 n2
6.93 6.25 1.93 2.05 55 47
2 2
1 1 2 2
1 2
( 1) ( 1)
2
n s n ss
n n
− + −
=
+ −
= 1.55
Tính giá trị của đại lựơng kiểm định 1 2 1 2
1 2
.X X n nt
s n n
−
=
+
= 2.21
So sánh giá trị đại lượng kiểm định t với giá trị tới hạn tα, ta thấy t > tα. Do đó, giả
thiết H0 bị bác bỏ và ta chấp nhận giả thiết “Điểm trung bình của lớp thực nghiệm lớn hơn
điểm trung bình của lớp đối chứng là có ý nghĩa”. Điều này chứng tỏ phương pháp dạy học
dựa trên vấn đề thực sự có hiệu quả cao hơn so với phương pháp truyền thống.
3.4.4. Nhận xét kết quả thực nghiệm
Thông qua kết quả quá trình thực nghiệm kéo dài trong 4 tuần, tôi rút ra những nhận
xét sau:
Về lớp thực nghiệm:
Không khí các giờ học sôi nổi, cởi mở, các em sẵn sàng nêu ý kiến, xây dựng kiến
thức bài học. So với trước đây, trong các giờ học vật lí các em chỉ ngồi lắng nghe, ngại phát
biểu ý kiến, thì trong những giờ thảo luận nhóm PBL các em hăng hái, hào hứng hơn.
Thông qua hoạt động nhóm các em gắn bó, tính tương trợ và tinh thần đoàn kết, trách nhiệm
được nâng cao. Không chỉ với môn vật lí, các nhóm còn bắt đầu cùng nhau học tập các môn
khác. Điều này là một trong những yếu tố tạo sự hứng thú học tập của các em.
Kiến thức học sinh thu thập được thể hiện sự tham gia, đóng góp của các em vào quá
trình học tập. Bên cạnh những nội dung kiến thức chính liên quan môn học, các em còn mở
rộng những kiến thức về liên môn, xã hội mà với phương pháp dạy truyền thống, chỉ với sự
nỗ lực của giáo viên khó có thể lồng ghép vào được.
Về kết quả học tập sau khóa học, kết quả đánh giá quá trình học tập và kết quả bài
kiểm tra gần như tương đồng, không có sự chênh lệch nhiều. Điều đó cho thấy, tiêu chí và
cách đánh giá học sinh trong quá trình học tập là phù hợp. Bên cạnh đó, những buổi báo
cáo, những kết quả mà các nhóm làm việc sau mỗi nhiệm vụ đã cho thấy sự thay đổi rõ rệch
về các kĩ năng cơ bản mà trong những giờ học truyền thống các em không có cơ hội rèn
luyện, cọ xát. Đây là một điểm đáng ghi nhận.
So sánh giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Lớp đối chứng được học bình thường theo phương pháp truyền thống. Về kết quả kiểm
tra giữa hai lớp, kết quả điểm bài kiểm tra của lớp đối chứng thấp hơn không nhiều so với
lớp thực nghiệm. Nhưng sau kì thi, khi tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra về kiến thức
cơ bản và những liên hệ thực tế cho thấy học sinh lớp đối chứng mau quên kiến thức và chỉ
có hiển thị lại kiến thức khi được dặn trước, học để kiểm tra. Ngược lại, với học sinh lớp
thực nghiệm các em nhớ kiến thức lâu hơn, có thể giải thích được một số kiến thức liên
quan ngoài môn học. Có kết quả như thế là do học sinh của lớp thực nghiệm được dạy các
thao tác tư duy, phép suy luận logic và cách trình bày ngôn ngữ một cách có chủ định nên
các em có sự phân tích và hiểu sâu sắc.
Không khí giờ học ở lớp đối chứng khá im ắng, học sinh không mấy tích cực trong giờ
học chỉ trừ những học sinh học khá, còn lại đa số thì thụ động, chờ đợi kiến thức từ giáo
viên truyền đạt.
Ngoài những nội dung bài học, giáo viên cũng yêu cầu học sinh lớp đối chứng về tìm
hiểu, đọc những tài liệu liên quan về công nghiệp điện lạnh, nhưng các em không mấy hứng
thú và chỉ hoàn thành các nhiệm vụ học bài và làm bài.
Xét về mặt vận dung kiến thức thì tôi thấy khả năng vận dụng kiến thức đã học để giải
quyết các vấn đề thực tiễn, chế tạo mô hình đơn giản của lớp thực nghiệm cũng cao hơn hẳn
lớp đối chứng.
Nhìn chung, khi dạy học bằng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề những mục tiêu
về kiến thức, ta vẫn có thể giúp hoàn thiện các mục tiêu về kĩ năng và thái độ. Hay nói cách
khác, phương pháp này có khả năng đáp ứng cho mục tiêu đổi mới, nâng cao chất lượng
giảng dạy.
2.16. Kết luận chương 3
Quá trình thiết kế vấn đề và chuẩn bị soạn thảo giáo án quyết định khá nhiều đến thành
công của khóa học. Một giáo án PBL không thể dùng rập khuôn cho mọi tình huống học
tập, mà theo tôi tùy vào điều kiện, hoàn cảnh, sự kiện khác nhau mà người giáo viên khi
muốn vận dụng phương pháp này cần xây dựng cho phù hợp với thực tế giảng dạy của
mình. Chính vì thế, phương pháp này đòi hỏi sự sáng tạo, đầu tư nhiều hơn ở người giáo
viên. Và PBL cũng giúp giáo viên có cơ hội nâng cao về nghiệp vụ chuyên môn với việc
vận dụng các phương pháp tư duy vào giảng dạy, sử dụng đa phương tiện, công nghệ thông
tin và bổ sung thêm vào kiến thức giảng dạy.
Về kết quả thực nghiệm, những số liệu thực nghiệm ban đầu đã khẳng định giả thuyết
nghiên cứu của đề tài là khả thi. Phương pháp dạy học này sẽ giúp hình thành các kỹ năng
giải q yết vấn đề và tư duy phê phán cho học sinh, góp phần đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, chính sự nhạy bén trong suy luận, biết cách
thức phân tích vấn đề làm cho người học tích cực hơn với việc học, đồng thời nâng cao chất
lượng dạy học. Bên cạnh những kiến thức thu được - bằng con đường tìm tòi, thảo luận giúp
học sinh khắc sâu, nhớ lâu kiến thức, phương pháp này còn tạo cơ hội cho học sinh hình
thành, cải thiện và phát triển các kĩ năng rất cần thiết cho sự phát triển tiếp sau quá trình học
tập. Phương pháp này giúp khắc phục hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống.
Phương pháp dạy học này có thể được áp dụng rộng rãi, trong các điều kiện khác nhau
bởi vì các vấn đề của phương pháp xuất phát từ thực tế, với sự hỗ trợ các nguồn tài liệu học
tập phong phú từ mạng internet và từ chính cuộc sống đem đến. Tuy nhiên, như những khó
khăn được đề cập ở phần thực nghiệm, tôi nhận thấy để phương pháp đạt hiệu quả cao, và
phát huy được tác dụng của nó đòi hỏi nhiều sự thay đổi về cơ bản: nội dung, cách thức
kiểm tra, đánh giá, và hình thức tổ chức học tập và cần sự phối hợp, hỗ trợ từ xã hội để đưa
việc học đến với thực tế cuộc sống.
Khi chuẩn bị tiến hành thực nghiệm, tôi lo lắng về học lực của các em học sinh được
chọn thực nghiệm chỉ ở mức trung bình, liệu các em có thể bắt kịp và học tập theo phương
pháp đòi hỏi sự chủ động. Từ những khác biệt về chất lượng kiến thức và kĩ năng đạt được
của các em của lớp thực nghiệm, tôi nhận thấy sự hứng thú, hợp tác cùng nhau làm việc
nhóm, sự hỗ trợ, hướng dẫn kịp thời của giáo viên giúp các em xác định cách thức học tập
thì các em vẫn có thể làm tốt nhiệm vụ học tập của mình, trình độ ban đầu của các em
không quan trọng.
PHẦN KẾT LUẬN
Sau thời gian gần một năm, tác giả đã tìm hiểu cơ sở lí luận, bước đầu tập thiết kế và
xây dựng một vấn đề phi cấu trúc, lên kế hoạch tổ chức giảng dạy và tiến hành thực nghiệm,
đánh giá kết quả thực nghiệm. Đó là một quá trình làm việc không chỉ bản thân tác giả mà
còn có sự hỗ trợ thiết thực từ thầy hướng dẫn, các đồng nghiệp, ban giám hiệu nhà trường
và sự hợp tác cùng thử nghiệm phương pháp mới của các em học sinh. Kết quả thu nhận
được đã đóng góp thêm một nghiên cứu với kết luận khả quan về khả năng áp dụng phương
pháp dạy học dựa trên vấn đề (PBL) vào giảng dạy ở trường phổ thông ở Việt Nam.
Nét thành công nổi bật mà theo tác giả đánh giá khi thực hiện đề tài:
1. Về mục tiêu đào tạo: PBL có khả năng đáp ứng mục tiêu đào tạo con người mới, đáp
ứng được sự hình thành về kiến thức lẫn kĩ năng cần thiết cho sự phát triển tiếp theo sau học tập,
phù hợp với những mục tiêu định hướng giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO.
2. Về nội dung và chất lượng nội dung học tập: Khi thực nghiệm, những nội dung
kiến thức cố định theo sách giáo khoa không còn khô khan, cô lập với thực tế, mà được giáo viên
lồng vào trong những vấn đề thực, các em dễ dàng liên kết kiến thức học được với thế giới thực mà
các em sống. Bên cạnh đó, những kiến thức liên quan không nằm trong khung nội dung chuẩn
chương trình được các em khai thác và chia sẻ với nhau, làm cho lượng thông tin tăng lên gấp bội.
Nội dung kiến thức được mở rộng mà chất lượng cũng được đảm bảo, các em nhớ kiến thức lâu
hơn. Qua kết quả kiểm tra so sánh với lớp đối chứng cho thấy, kết quả kiểm tra kiến thức đơn thuần
của các em khá cao, với số điểm trung bình của cả lớp xấp xỉ 7.
3. Về môi trường học tập: đây là khía cạnh cho thấy sự thay đổi nổi bật nhất. Tinh
thần, thái độ học tập của học sinh có sự chuyển biến rõ rệt. So với những giờ học mà tôi phải thao
thao bất tuyệt, lí giải, giải thích, không khí lớp học im ắng, đa phần hờ hợt với những câu hỏi, thì
những tiết học PBL không khí lớp học sôi nổi, vui vẻ và thân tình hơn.
4. Về kết quả học tập: Với những tri thức có được từ sự hoạt động, làm việc, tìm tòi
của các nhóm học sinh, kết quả kiểm tra cuối chương của lớp thực nghiệm đạt kết quả tốt. Thêm
vào đó, tác giả thông qua hoạt động nhóm để đánh giá các kĩ năng có được sau khóa học của các
em. Các đánh giá quá trình và đánh giá về kiến thức cho kết quả tương đồng nhau, chứng tỏ các tiêu
chí đánh giá được xây dựng trong luận văn có thể chấp nhận và sử dụng được.
Trong khi các phương pháp dạy học truyền thống lấy kiến thức là mục tiêu hàng đầu thì PBL
còn giúp học sinh phát triển các kĩ năng tìm kiếm thông tin, hợp tác, làm việc nhómkiến thức một
môn học theo năm tháng các em có thể sẽ lãng quên, nhưng kĩ năng khi được hình thành và mài dũa
sẽ là một công cụ tốt cho các em sau này ra đời. Do đó, khi đánh giá chỉ bằng kiến thức học sinh
học được, phương pháp dạy học truyền thống đã đánh giá sự phát triển của học sinh nhất thời tại
thời điểm mà các em ôn bài, học để kiểm tra. Từ đó tạo tâm lý, học xong các em mau chóng quên
đi, để có thể tiếp nhận kiến thức mới. Ngược lại, đánh giá trong PBL lại là một quá trình đánh giá
lâu dài, dựa vào sự tham gia học tập và cả kết quả đạt được cuối khóa học.
Những điểm nổi bật thu được đã phần nào giúp khẳng định giả thuyết đưa ra: Khi xây
dựng được một hệ thống các vấn đề phi cấu trúc có tính thử thách gắn liền với thực tế thì sẽ
giúp học sinh hình thành các kỹ năng giải quyết vấn đề và tư duy phê phán, góp phần đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, đồng thời nâng
cao chất lượng dạy học.
Ngoài những thành công kể trên đối với học sinh, PBL còn là cơ hội cho chính giáo
viên nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, cải thiện và phát triển những kĩ năng tư
duy.
Để đạt những kết quả nổi bật nói trên, trong quá trình thực ngiệm tác giả cũng phải đối
mặt với rất nhiều trở ngại:
Những khó khăn khi tiến hành thực nghiệm đề tài:
Về chủ quan: Dù tôi đã cố gắng tìm hiểu về cơ sở lý luận của phương pháp, học hỏi
trao đổi kinh nghiệm với giáo viên hướng dẫn, các đồng nghiệp lâu năm nhưng do thời gian
có hạn và lần đầu tiên tôi được tiếp xúc và tiến hành thực nghiệm với phương pháp mới này
nên không tránh khỏi thiếu sót.
Về khách quan:
• PBL là phương pháp khá mới ở Việt Nam, các nguồn tài liệu tham khảo về tổ chức
giảng dạy bằng PBL còn hạn chế.
• Nhược điểm của học sinh: khả năng trình bày, chưa quen làm việc nhóm, sử dụng
công nghệ thông tin để tìm kiếm thông tin, ngoại ngữ, việc tự học, tự nghiên cứu còn hạn
chế.
• Điều kiện về thời gian: (đây có thể là đặc điểm riêng của trường nơi tôi thực nghiệm)
học sinh tại trường thực nghiệm có thời gian học hai buổi, với số lượng môn học ở Việt
Nam hiện nay khá nhiều (11 môn / học kì), thời gian tự học của các em bị hạn chế, gây khó
khăn khi các nhóm tìm thời gian làm việc nhóm.
• Điều kiện về thực tế lớp học: Lớp học đông học sinh khiến việc quản lí nhóm, tổ
chức nhóm gặp nhiều bất lợi. Một nhóm PBL tốt nên có số thành viên vào khoảng 6-8 em,
trong khi đó, mặc dù đã nhờ sự trợ giúp của hai thầy trợ giảng trong công tác quản lí nhóm,
nhưng với số lượng học sinh trong mỗi nhóm quá đông, thời gian họp nhóm hạn chế nên
gây khá nhiều cản trở hoạt động nhóm.
• Nội dung môn học ở cấp phổ thông còn mang tính cố định.
• Cách thức kiểm tra - đánh giá đối với việc học tập của học sinh trong trường học hiện
nay nặng về kiến thức, kĩ năng được đánh giá thiên về kĩ năng giải bài tập.
• Khi các thầy cô tham gia dự giờ, đánh giá, rút kinh nghiệm thì không có một tiêu
chuẩn nào cụ thể để đánh giá giáo viên.
• Mối liên hệ nhà trường - xã hội chưa thật sự hỗ trợ nhau trong công tác giáo dục.
Sau khi tiến hành thực nghiệm, những thành quả thu được và rút ra được những bài
học kinh nghiệm, những khó khăn gặp phải, tôi có kiến nghị như sau:
Hiện tại, với điều kiện nội dung chương trình vẫn cố định theo sách giáo khoa và dung
lượng kiến thức còn khá nhiều thì không nên áp dụng PBL cho toàn bộ các nội dung. Ta vẫn
có thể đổi mới cách thức dạy học nhằm đạt hiệu quả cao hơn bằng cách ta nên chọn một vài
bài, hoặc chương có nội dung phù hợp với thực tế giảng dạy, khả năng làm việc nhóm, khả
năng tìm kiếm thông tin mà sao cho vẫn đảm bảo thời lượng dạy học theo phân phối để dạy
bằng PBL.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh nên dành thời gian và cho các em cùng xây
dựng các tiêu chí đánh giá. Để các em có thể chủ động trong quá trình học tập, hiểu tiêu chí
các em có thể làm việc và cải thiện nếu chưa tốt.
Các cơ quan đầu ngành, các trường học, cần có sự liên hệ và kí kết hỗ trợ, tạo điều
kiện cho học sinh tiếp xúc môi trường thực tế khi học.
Việc đánh giá giáo viên có thể thực hiện tương tự như đánh giá học sinh - đánh giá quá
trình, có thể bao gồm các mặt sau: kế hoạch giảng dạy, thái độ học sinh tham gia tiết học,
tính hợp lí khi tổ chức lớp, kết quả học sinh có được sau khóa học.
Hoàn thành luận văn nhưng do điều kiện giới hạn về thời gian chắc chắn còn những
vấn đề trong phạm vi luận văn tôi chưa thể tìm hiểu sâu và cũng sẽ còn những vấn đề mà tôi
chưa biết, với những kiến thức có được về phương pháp dạy học mới, tôi sẽ tiếp tục nghiên
cứu và áp dụng phương pháp vào một số các nội dung khác nhằm hướng đến việc dạy học
tích cực và hiệu quả hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ cải cách giáo dục của một số nước hiện nay rút bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam – PGS.TS.Nghiêm Đình Vỳ
2. Quan điểm của UNESCO về bốn trụ cột giáo dục, Đặng Quốc Bảo, Giáo dục Thủ đô
số 8 - tháng 8/2010
3. Một số phương pháp dạy học tích cực, PGS.TS Vũ Hồng Tiến
4. Một số vấn đề lý luận giáo dục chuyên nghiệp và đổi mới phương pháp dạy học/
Nguyễn Quang Huỳnh. - H.: ĐHQG Hà Nội, 2006
5. Một số cơ sở lý luận cho việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nayTS. Nguyễn
Ánh Hồng, Khoa Giáo dục, ĐH KHXH và Nhân văn.
6. (trích Nguyễn Uy Đức, Vân dụng đạy học theo chủ đề trong dạy học chương “Từ vi
mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT ban cơ bản, 2009)
7. Partners in learning, Microsoft
8. (trích Nguyễn Minh Trí (2010), Vận dụng phương pháp dạy học khám phá vào dạy
học chương chất khí (Vật lí 10 cơ bản) nhằm phát triển tư duy của học sinh, Đại học
Sư phạm TPHCM)
9. Historical Origins, Problem-Based Learning: An Introduction, James Rhem,
Executive Editor
10. Tài liệu Understanding problem-based learning
11.
12. Problem-based Learning: Using Ill-structured problems in Biology project Work
13. All Problems are Not Equal- Implications for Problem-Based Learning
14. Characteristics of Problems in Problem-based Learning_Nachamma
Sockalingam_Thesis
15. Tài liệu Problem-Based Learning - PBL Tác giả: Frank Forsythe, trường Đại học
Ulster tại Jordanstown
16. (Tài liệu 11-pbl)
17. (Tài liệu Prof. Hale Pub 1_2)
18. (Tài liệu An introduction to Problem Based Learning - Jill McCarthy )
19. A Briefing on Assessment in Problem-based Learning, Ranald Macdonald & Maggi
Savin-Baden
20. Problem-Based Learning – PBL, Frank Forsythe, trường Đại học Ulster tại
Jordanstown
21. Adult Learning and Retention: Factors anh Strategies, CAL
22. Đỗ Xuân Hội (2008), Bài giảng phương pháp dạy học dựa trên vấn đề, LST School,
TP.HCM.
23. Đỗ Xuân Hội (2009), Phương pháp giải bài tập và trắc nghiệm, NXB Giáo dục.
24. Nguyễn Thị Thu Thủy (2009), Luận văn thạc sĩ “Phương pháp dạy học dựa trên vấn
đề và vận dụng vào thiết kế giảng dạy chương VII “Mắt và các dụng cụ quang học”
vật lí 11”, Đại học Sư phạm TPHCM.
25. Nguyễn Đức Thâm, Nguyễn Ngọc Hưng (2001), Tổ chức hoạt động nhận thức cho
học sinh trong dạy học vật lí ở trường phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Dương Trọng Bái, Vũ Thanh Khiết (2000), Từ điển vật lí phổ thông, NXB Giáo dục.
27. Phạm Viết Vượng (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
28. Dương Thiệu Tống (2002), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lí,
NXB Đại học Quốc gia.
29. Lev Tarasov (1973), Questions anh problems in school physics, Mir Publication,
Moscow.
30. Dr. Allyn Walsh (2005), The tutor in PBL a Novice‘s guide, Mc Master University.
31. Barbara Duch (2001), PBL learning House, Delaware University.
32. Duch, B, Groh, S & Allen, D. (2001), The Power of Problem-based Learning, Stylus,
Virginia.
33. Robert Delisle, How to use Problem-based Learning in the classroom, United State
of America.
34. David Boud Grahame E Feletti (1991), The Challenge of Problem-based Learning,
Koran Page.
35. Các website liên quan:
Phụ lục 1: Hướng dẫn học sinh làm quen với phương pháp
học tập dựa trên vấn đề - Problem Based Learning
Học tập dựa trên vấn đề
Ảnh: Phương pháp PBL khuyến khích sự
hợp tác trong học tập giữa các thành viên trong
nhóm.
Chào mừng các em đến với hướng dẫn làm quen phương pháp PBL. PBL là một
tiến trình học tập mà trong đó các em – những người học – đóng vai trò trung tâm.
Không giống như những phương pháp dạy học truyền thống khác, PBl sẽ không cố làm
mở đầu óc của các em và lắp đầy vào đó những sự kiện và những hình ảnh mà các em
có thể nhắc lại chúng khi đựơc yêu cầu trong các kì thi. Thay vì quá trình bắt chước quá
trình học tập tự nhiên qua đó các em sẽ học thông qua hoạt động, tạo mối kiên kết với
những kiến thức mà các em đã biết, học tập dựa trên sự công tác với các bạn khác và
học ngay cả trên những lỗi lầm các em mắc phải.
Nếu như các em lần đầu biết đến PBL thì mô hình học tập này có thể làm các em
thấy khó khăn, nản chí và dễ hoảng. Tuy nhiên “vạn sự khởi đầu nan” ai cũng đều phải
trải qua những điều khó khăn ban đầu, đến khi các em đã có kinh nghiệm học PLB thì
sẽ tìm thấy ở mô hình học tập này một sự tự do, thoải mái, thích hợp hơn và nhiều thử
thách hơn, cung cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về các vấn đề mà các em phải trải qua
trong quá trình học tập của mình. Nếu thực hành thường xuyên sẽ trở thành một thói
quen học tập tốt, giải quyết những vấn đề các em gặp phải sau này.
PBL đòi hỏi các em phải hợp tác và làm việc nhóm. Trong các em, ai cũng từng
biết đến câu tục ngữ:
“Một cây làm chẳng nên non.
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Hiệu quả học tập sẽ cao hơn khi các em tham gia và làm việc nhóm một cách tích
cực.
Trong PBL, các em sẽ học trong những nhóm nhỏ khoảng từ 5 đến 12 người, tùy
theo hoàn cảnh của các thành viên. Em phải chắc chắn chịu trách nhiệm về việc học của
chính bản thân và của nhóm mình và cũng phải chắc chắn rằng em đáp ứng thời hạn và
đóng góp hiệu quả vào quá trình này.
Hình : Nếu phương pháp học tập truyền
thống trong các bài giàng cho các em cảm
thấy tẻ nhạt, thì PBL có thể tốt cho các em.
Giáo viên sẽ hướng dẫn các em trong
suốt quá trình nhưng điều quan trọng phải chú
ý rằng giáo viên không phải ở đó để giải quyết
các vấn đề cho các em hay trả lời tất cảc các
câu hỏi để làm thỏa mãn các em. Đây có thể
coi như là một cú sốc đối với những người coi việc dạy học như là một quá trình truyền
tải kiến thức. Những nhà nghiên cứu cho rằng những bài học hay seminar truyền thống
không giúp người học hiểu sâu sắc về kiến thức. PBL là một phương pháp có thể đưa
đến nhiều cách để giải quyết vấn đề. Các em có thể đề nghị giáo viên hướng dẫn, cho dù
các em đã đi đúng hướng, cho dù nguồn tài liệu các em hiện có là thích hợp, nhưng
không được hỏi câu hỏi trực tiếp vào vấn đề.
Khi các em tham gia tiến trình các em sẽ nhận ra rằng sẽ có những thất vọng và
trở ngại. Điều này như một phần của quá trình học tập. Nhưng sau tất cả những điều đó,
các em sẽ học cách vượt qua những trở ngại và nhận ra những thiếu sót, sai lầm trong
quá trình học tập.
Do đó, phương pháp PBL ngụ ý rằng phải có một không khí của sự hợp tác và
hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Các em có thể đưa ra một phát biểu ngớ ngẩn,
các em có thể trở nên tốt hơn thông qua những câu hỏi, các em có thể mắc lỗi lầm và
quan trọng hơn là nhìn ra lỗi lầm và tự khắc phục. Đó chính là những tính chất hoàn hảo
của mô hình học tập này và các em nên nhìn nhận kinh nghiệm sau mỗi tiến trình PBL.
Quá trình
Các em sẽ làm việc trong các nhóm từ 5 đến 12 người. Nhớ rằng mổi người trong
nhóm sẽ có vai trò ngang nhau vì không ai trong nhóm biết trước vấn đề cần giải quyết,
mặc dù mổi thành viên có thể có kinh nghiệm và trình độ kiến thức khác nhau để đối
mặt với vấn đề.
Mỗi nhóm sẽ cần có một nhóm trưởng và một thư kí. Trong suốt tiến trình PBL
mỗi thành viên sẽ hoạt động như là một nhóm trưởng và thư ký tại nhiều thời điểm.
Nhóm trưởng có nhiệm vụ lên kế hoạch và tiến hành các buổi họp nhóm. Một nhóm
trưởng tốt là người có kỹ năng tạo mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau và giáo viên
hướng dẫn của các em có thể quyết định để đánh giá năng lực của các em trong vai trò
này. Nếu có, giáo viên sẽ cung cấp cho các em bảng tiêu chí những điều họ đang tìm
kiếm để đánh giá trong năng lực của
các em.
Thư ký sẽ chịu trách nhiệm ghi
chép và phổ biến các biên bản của
cuộc họp để viết thành bản báo cáo
tóm tắt về hoạt động của nhóm vào
cuối quá trình. Khi mỗi thành viên
của nhóm sẽ làm việc của một thư ký
trong suốt chu trình PBL, mỗi người
sẽ có một văn bản để đánh giá. Bản
báo cáo này cũng cần được phổ biến
cho các thành viên còn lại trong nhóm để tất cả các thành viên có hổ sơ về cuộc thảo
luận và kết quả của quá trình.
Tiến trình PBL theo 6 bước chính sau:
1.Giáo viên và nhóm nhận vấn đề, giáo viên yêu cầu các em làm rõ những từ ngữ
liên quan đến vấn đề nếu có bất cứ nhóm nào không hiểu bất cứ từ nào trong vấn đề -
không phải là các khái niệm hay lý thuyết nhưng theo từng chữ của từ mới. Bất cứ câu
hỏi chất vấn nào cũng có thể giải quyết thông qua từ điển!
Giáo viên yêu cầu các nhóm xác định họ nghĩ về vấn đề là về cái gì. Trong giai
đoạn này, các em có thể không biết, không có đầu mối về kiến thức cố hữu trong vấn đề
nhưng điều này sẽ rõ ràng hơn trong những giai đoạn tiếp theo. Một vài câu hỏi có thể
đựơc biết câu trả lời nhưng điều đó không quan trọng . Điều quan trọng cho nhóm để
bắt đầu khám phá những vấn đề liên quan đến vấn đề chính- những suy nghĩ trên có thể
rất cần thiết.
2. Mỗi buổi Brainstorming được tổ chức để xác định, chia sẻ bất cứ điều được biết
về tài liệu môn học bởi bất cứ nhóm nào tại thời điểm này.
3. Thư ký ghi biên bản để xác định từ vấn đề chính vừa được thảo luận. Giáo viên
đảm bảo về một danh sách rõ ràng về những điều đã được biết, những gì chưa rõ ràng
và những gì cần được nghiên cứu cụ thể hơn được thành lập.Bước này được thiết kế
nhằm giúp các nhóm hiểu được các vấn đề xung quanh vấn đề chính.
4. Các nhóm đồng ý về mục tiêu học tập mà họ sẽ phải nghiên cứu trước buổi báo
cáo tới.
5. Học cá nhân – tùy thuộc vào lộ trình nghiên cứu mà nhóm sẽ quyết định, mỗi
thành viên sẽ giải quyết tất cả các mục tiêu học tập hoặc mục tiêu cụ thể chỉ định từng
cá nhân. Cách thứ nhất thì tốn nhiều thời gian hơn và có thể tránh việc ghi nhớ của
nhóm hợp tác dựa trên kinh nghiệm học tập. Tuy nhiên, lựa chọn thứ hai có thể dẫn đến
những nổ lực trong kiến thức và hiểu biết của mỗi cá nhân. Bạn có thể được cung cấp
một danh sách các tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu của bạn.
6. Nhóm họp lần thứ hai. Mỗi mục tiêu học tập được xem xét và các thành viên
đóng góp kết quả nghiên cứu của họ đưa ra thảo luận nhóm. Có một gợi ý rằng điều này
có thể thực hiện một cách chính thức hoặc thông qua thảo luận nhóm. Và cuối giai đoạn
này thư ký sẽ có một thời gian nhất dịnh để viết biên bản báo cáo. Nhóm sau đó sẽ được
đưa ra một vấn đề xa hơn và quá trình bắt đầu lặp lại các bước trên.
Phụ lục 2: PHIẾU KHẢO SÁT
Phiếu này đựơc thiết kế nhằm thu thập thông tin nhằm đánh giá hiểu biết của các
em về một phần môn học Vật lý. Qua đó, tạo điều kiện giúp giáo viên hiểu hơn về sự
cảm thụ kiến thức của các em sau đợt thi, và điểu chỉnh phương pháp giảng dạy theo
hướng phù hợp nhất. Mong các em sẽ tiến hành làm phiếu khảo sát trung thực, và
nhiệt tình.
Câu 1: Tính chất nào sau đây không phải là của phân tử ?
A. Chuyển động không ngừng
B. Chuyển động càng nhanh thì nhiệt
độ của vật càng cao.
C. Có lúc đứng yên, có lúc chuyển
động?
D. Giữa các phân tử có khoảng cách
Câu 2: Tính chất nào sau đây không phải của các phân tử vật chất ở thể khí ?
A. Chuyển động hỗn loạn
B. Chuyển động không ngừng
C. Chuyển động hỗn loạn và không
ngừng
D. Chuyển động hỗn loạn xung quanh
các vị trí cân bằng cố định
Câu 3: Trong các đại lượng nào sau đây, địa lượng nào không phải thông số
trạng thái của một lượng khí?
A. Thể tích
B. Khối lượng
C. Nhiệt độ tuyệt đối
D. Áp suất
Câu 4: Một khối khí lý tưởng đưởc nhốt trong một bình kín. Khi tăng nhiệt độ
khối khí từ 1000C lên 2000C. Áp suất khối khí trong bình sẽ:
A. Có thể tăng hoặc giảm
B. Tăng lên hơn 2 lần áp suất cũ
C. Tăng lên ít hơn 2 lần áp suất cũ
D. Tăng lên đúng bằng 2 lần áp suất cũ
Câu 5: Khi nhiệt độ tuyệt đối tăng lên 6K
A. Nhiệt độ Celcius (0C) cũng tăng
60C
B. Nhiệt độ Celcius (0C) tăng 2670C
C. Nhiệt độ Celcius (0C) tăng 2790C
D. Nhiệt độ Celcius (0C) tăng hơn
60C
Câu 6: Độ không tuyệt đối là nhiệt độ tại đó:
A. Nước đông thành đá
B. Tất cả các chất đều hóa rắn
C. Tất cả các chất khí hóa lỏng
D. Chuyển động nhiệt của phân tử
hầu như dừng lại
Câu 7: Đọc tên các quá trình biến đổi của chu trình cho bởi
đồ thị sau:
A. Đẳng áp – đẳng nhiệt – đẳng tích
B. Đẳng áp – đẳng tích – đẳng nhiệt
C. Đẳng tích – đẳng áp – đẳng nhiệt
D. Đẳng tích – đẳng nhiệt – đẳng áp
Câu 8: Thiết bị nào sau đây có nguyên lý hoạt động
tương tự máy lạnh:
A. Quạt máy
B. Tủ kem
C. Lò vi sóng
D. Máy sười
Câu 9: Nếu hai vật có cùng nhiệt độ đặt tiếp xúc nhau thì:
A. Năng lượng có thể truyền từ vật này sang vật khác nhưng thể tích mỗi vật không thay đổi.
B. Năng lượng có thể truyền từ vật này sang vật khác nhưng nội năng của mỗi vật không thay
đổi.
C. Năng lượng có thể truyền từ vật này sang vật khác và một vật có nhiệt độ tăng, một vật có
nhiệt độ giảm..
D. Không có năng lượng trao đổi giữa hai vật.
Câu 10: Chiều truyền nhiệt lượng tự nhiên giữa hai vật phụ thuộc vào:
A. Áp suất hai vật
B. Nhiệt độ hai vật
C. Thể tích hai vật
D. Trạng thái (rắn, lỏng, khí) của hai vật
Câu 11: Mội chất lạnh (Gas lạnh) đóng vai trò gì trong hoạt động của máy lạnh? Nếu hết
gas lạnh thì máy lạnh có còn làm việc được không?
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Câu 12: Em có biết tại sao trong máy lạnh người ta lại sử dụng dây đồng?
...
Câu 13: Theo em, nếu muốn chế tạo máy lạnh thì cần những bộ phận chính nào ?
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Câu 14: Em có biết máy lạnh tiết kiệm điện khác máy lạnh bình thường như thế nào không?
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Câu 15: Để sử dụng máy lạnh có hiệu quả, ít tốn kém theo em chúng ta cần phải làm gì?
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_dung_mo_hinh_hoc_tap_tren_co_so_van_de_problem_based_learning_vao_to_chuc_day_hoc_cac_chuong_cha.pdf