Tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam đưa đường cho cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghiên cứu những nội dung cơ bản về cán bộ
và công tác cán bộ trong di sản tư tưởng của Người, để trên cơ sở đó vận dụng vào
việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở của Hưng Yên là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, không
chỉ đối với địa phương, mà còn có ý nghĩa trên phạm vi cả nước.
Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, công tác tổ chức cán bộ của Đảng vẫn còn
nhiều bất cập, yếu kém, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục
khẳng định: Nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm, công tác xây dựng Đảng là
then chốt. Do đó, công tác xây dựng Đảng, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của
Đảng mang tính cấp bách hơn lúc nào hết.
106 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5210 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tưởng Hồ Chí Minh lại chính là ở phía đối
tượng được đào tạo. Do đó, trước tiên phải làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, sau đó
mới tiến hành tuyển chọn cán bộ để đào tạo.
Quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của địa phương, công
tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ sát hợp đối với từng chức vụ cụ thể, đồng
thời phải hiểu rõ năng lực, phẩm chất của cán bộ (đức - tài) có đủ khả năng, tố chất
để đảm đương chức vụ đó hay không.
Đối với Hưng Yên, mặc dù đã được Thường vụ Tỉnh uỷ quan tâm, coi đây là
một trong những nội dung trọng yếu trong công tác cán bộ, nhưng muốn quy hoạch
đúng, phải đánh giá cán bộ đúng, có quan điểm đúng, căn cứ vào những chuẩn mực
đức tài mà Hồ Chí Minh đã nêu ra.
Thực tế cho thấy, không phải không có những cán bộ của Hưng Yên được
“gửi đi đào tạo” theo những con đường “không chính thống”, “đi bằng cửa hậu”, kết
quả sau khi đào tạo, họ không những không đủ phẩm chất lãnh đạo, mà thậm chí
còn gây hậu quả. Trong công tác này, vai trò của tổ chức Đảng rất quan trọng, nhất
là người đứng đầu tổ chức phải có bản lĩnh, khách quan, tránh cái nhìn nhất thời,
phiến diện. Kiên quyết không bố trí cán bộ tuy có bằng cấp nhưng năng lực thực
tiễn còn ít và còn yếu lại không chịu học tập, rèn luyện vươn lên, tụt hậu so với yêu
cầu của công cuộc đổi mới. Phải chú ý đến đội ngũ cán bộ có tài năng có tâm huyết,
say mê với nghề nghiệp, công việc của mình. Cần thay thế ngay những cán bộ do
hạn chế về trình độ, có tư tưởng bảo thủ, cục bộ, địa phương. Do đó, phải xem việc
lựa chọn một số cán bộ đủ tiêu chuẩn để quy hoạch, để giao giữ các chức vụ trong
thường trực Đảng uỷ, thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, đây là
nhiệm vụ đầu tiên nhưng có tính quyết định đến công tác cán bộ mà lãnh đạo cấp
trên phải hết sức coi trọng.
Công tác quy hoạch cán bộ là một quy trình, là một nhiệm vụ thường xuyên
của các cấp uỷ và tổ chức Đảng. Khi quy hoạch cần xác định rõ nguồn quy hoạch
theo yêu cầu cán bộ trước mắt hoặc lâu dài để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phục
vụ cho nhiệm vụ chính trị ở từng giai đoạn, đảm bảo sự kế thừa liên tục giữa quy
hoạch cán bộ đương nhiệm với việc mở rộng nguồn cán bộ cho lâu dài.
Rõ ràng, muốn đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, phải quay trở về nguồn gốc, phải làm tốt từ công
tác quy hoạch cán bộ, lựa chọn cán bộ. khâu nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo
cũng như đánh giá đúng cán bộ.
3.3.2. Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên phải lấy dân làm gốc, cán bộ vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên xét đến cùng đều từ “nhân
dân mà ra”, song phải thừa nhận trong cơ chế thị trường, quyền lực và đồng tiền có
xu hướng tự phát đẩy một số cán bộ xa nhân dân, quan liêu, làm cho họ mất tư chất
của người cán bộ của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Sức mạnh, khả năng lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là ở chỗ
có sự gắn bó, liên kết chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Nhân dân chịu sự lãnh
đạo, quản lý của cán bộ nhưng chính họ là chủ thể, người sáng tạo ra lịch sử, quyết
định mọi việc hình thành đến đội ngũ cán bộ. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở muốn hoàn
thành nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý nhân dân thì phải thực sự là người đày tớ trung
thành và bảo vệ những lợi ích chân chính của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định rõ:
“Nước lấy dân làm gốc ….” [5, tr.409].
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [5, tr.410].
Gắn bó chặt chẽ với nhân dân, lấy dân làm gốc, vừa là người lãnh đạo vừa là
người đày tớ thật sự trung thành của nhân dân là một phẩm chất đạo đức cách mạng
cơ bản, đó là một phẩm chất có vai trò quyết định sự thành công hay thất bại trong
hành động của người cán bộ. Thiếu phẩm chất, tư cách này, người cán bộ trở thành
một kẻ quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tự cao, tự đại, coi thường tập thể, khinh
quần chúng.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần ghi tạc một nguyên tắc quan trọng trong
đường lối quần chúng của Đảng là: sự lãnh đạo trong mọi công tác của Đảng đều
cần phải từ trong quần chúng mà ra, rồi lại trở lại, phục vụ quần chúng. Một giây,
một phút cũng không được giảm bớt mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên với quần
chúng nhân dân. Những vấn đề quan trọng cần đưa cho nhân dân thảo luận và tìm
cách giải quyết. Nếu cán bộ có khuyết điểm thì thật thà nhận trước quần chúng.
Nghị quyết, chính sách nào mà nhân dân cho là không hợp thì đề nghị sửa chữa.
Tuy vậy cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng mà
cần khéo tập trung ý kiến của quần chúng. Phải đưa các vấn đề chính trị vào giữa
dân gian, không nên việc gì cũng dội từ trên xuống mà nên việc gì cũng từ dưới đưa
lên. Có vậy, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở mới có thể lãnh đạo và đoàn kết được nhân
dân.
Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong phương pháp lãnh đạo và phong cách
công tác của mình luôn lấy dân làm gốc, khi giải quyết bất cứ công việc gì nên biết
xuất phát từ lợi ích, nhu cầu chính đáng của nhân dân sẽ phát huy được sức dân,
lòng dân, ý dân trong việc giải quyết các nhiệm vụ ở cơ sở.
3.3.3. Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có phong cách làm việc và
phương pháp lãnh đạo dân chủ, gần dân
Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải luôn tôn trọng dân; thái độ khinh dân,
coi thường dân là biểu hiện của phong cách lãnh đạo độc đoán, quan liêu. Người
lãnh đạo ở cơ sở phải nhận thức được rằng ở người dân bình thường nhất, trình độ
thấp nhất cũng có thể có được những sáng kiến hay nhất vì chân lý đều nảy sinh từ
vấn đề thực tiễn, người nông dân là những người thường xuyên phải đối mặt với
thực tiễn, trực tiếp tham gia hoạt động thực tiễn nhất là những hoạt động sản xuất
vật chất ở cơ sở, cho nên họ là những người có thể đưa ra những sáng kiến, kiến
nghị nảy sinh từ chính hoạt động của họ. Chính vì vậy, nếu người cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở biết lắng nghe dân nói, hiểu những việc dân làm, tiếp thu những ý kiến
đóng góp của nhân dân sẽ có những giải pháp tốt trong công tác cũng như lãnh đạo.
Thực tiễn ở nước ta đã chứng minh điều đó: việc đổi mới phương thức khoán trong
nông nghiệp cũng bắt đầu từ sáng kiến của quần chúng. Như vậy, việc thực sự tôn
trọng nhân dân không phải chỉ ở góc độ nhân văn, nhân đạo mà phải hiểu từ góc độ
khoa học, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải nhìn nhận người dân như người “thầy”
của mình, như Bác Hồ đã nhắc nhở: Cán bộ phải học ở nhân dân.
Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có phương pháp lãnh đạo và phong cách
làm việc dân chủ là người lãnh đạo phải biết gợi cho dân nói, dân phát biểu ý kiến
trong các cuộc họp bàn, nếu người lãnh đạo giữ vai trò chủ trì, điều khiển thì phải
quán triệt nguyên tắc “nghe dân nói là chính”, khắc phục bệnh thường gặp ở nhiều
người cán bộ lãnh đạo trong các cuộc họp, toàn “nói cho dân nghe là chính”. Người
lãnh đạo cơ sở phải chú ý dành thời gian để tiếp dân, tiếp xúc với dân. Do vậy, khi
tiếp dân ở cơ sở, người lãnh đạo phải chu đáo, tận tuỵ, giải thích cho dân hiểu một
cách chặt chẽ vì trình độ dân trí còn thấp
Khi giải quyết các công việc người cán bộ chủ chốt phải quán triệt nguyên
tắc giải quyết một cách dứt điểm, có lý, có tình, rõ ràng, không để dân thắc mắc đi
lại nhiều lần. Khi người cán bộ tham gia sinh hoạt cùng dân phải bình dị, không xa
cách, khác thường, rất tôn trọng, lắng nghe ý kiến phản ánh của dân. Phải sống hoà
đồng với quần chúng trong cách ăn mặc, giao tiếp, ứng xử, đi lại, học tập, theo tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đồng thời, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải biết giữ gìn phẩm chất,
thường xuyên rèn luyện tu dưỡng để xứng đáng với sự tin cậy và sự giúp đỡ của
nhân dân; gần dân, sát dân để qua giao tiếp, phát hiện ra những tâm tư nguyện vọng
chính đáng của nhân dân, những ý kiến xác đáng của nhân dân là rất cần thiết.
Người lãnh đạo phải thể hiện các đức tính khiêm tốn, niềm nở, lịch thiệp, dũng cảm,
dám quyết đoán kịp thời với tinh thần trách nhiệm cao, là người quan tâm, kiểm tra
sâu sát, cụ thể các hoạt động kinh tế xã hội ở địa phương và sẵn sàng tạo điều kiện
để các bộ phận có chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của mình.
Cán bộ lãnh đạo biết lo cho dân thì dân sẽ ủng hộ, cán bộ lãnh đạo có phong
cách dân chủ thì đó là cái cốt lõi để phát triển mọi mặt ở địa phương. Kinh nghiệm
của 20 năm đổi mới vừa qua cho thấy, ở đâu cán bộ biết khơi dậy và thực hiện tốt
phong cách làm việc dân chủ, tập thể thì ở đó quần chúng nhân dân ủng hộ, tháo gỡ
được những khó khăn, vướng mắc, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đặt ra. Thúc
đẩy công cuộc đổi mới phát triển. Ngược lại, ở nơi nào cán bộ làm việc mất dân
chủ, cửa quyền, độc đoán thì ở đó mất đoàn kết, các quyết định không sát với thực
tế, các nhiệm vụ đặt ra không thực hiện được (điểm nóng Thái Bình là một ví dụ
tiêu biểu). Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng phương pháp lãnh
đạo và phong cách làm việc dân chủ, tập thể là yêu cầu không thể thiếu được đối
với mỗi cán bộ lãnh đạo.
3.3.4. Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở phải nói đi đôi với làm, lý thuyết kết hợp với thực hành sáng
tạo
Nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn, luôn gương mẫu trong công
việc là một giải pháp quan trọng trong việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong
cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Người cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở muốn được dân tin, dân thống nhất cả ý trí và hành động trước những chủ trương
chính sách của Đảng cũng như những nhiệm vụ của cơ sở cần phải luôn luôn khi đã
nói là phải làm, tránh tình trạng nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng,
làm một nẻo. Thực tế có những cơ sở yếu kém, cán bộ chủ chốt nói rất hay nhưng
thực chất là mị dân, nói trước dân chúng một điều là vì lợi ích của dân, hai điều là vì
lợi ích của tập thể nhưng thực tế họ vì chính bản thân họ dẫn đến tình trạng dân mất
lòng tin, không thực hiện những điều họ nói. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã vạch
rõ: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông giàu tình cảm và đối với họ thì một
tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn và tuyên truyền.” [41,
tr.263]. Ngay trong trang đầu của tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu
23 điều về tư cách của người cách mệnh trong đó điều thứ 10 khẳng định: “Nói thì
phải làm” [42, tr.260].
Đối với tất cả mọi người, Hồ Chí Minh đều đòi hỏi nói phải đi đôi với làm,
trong đó Người đặc biệt nhấn mạnh đến cán bộ, Người cho rằng lời nói và việc làm
của cán bộ luôn được quần chúng theo dõi, coi là khuôn mẫu, mực thước. Nếu
người cán bộ, đảng viên yêu cầu mọi người siêng năng, nhưng mình thì ăn trưa, ngủ
trễ, muốn người ta tiết kiệm nhưng mình thì xa xỉ, lãng phí thì tuyên truyền một
trăm năm cũng vô ích:
“Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta
được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” [45, tr.552].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX
về nhiệm vụ chủ yếu của công tác lý luận, tư tưởng trong tình hình mới viết: “Toàn
Đảng, trước hết là Ban chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cán bộ chủ
chốt các cấp, các ngành kiên quyết thực hiện nói đi đôi với làm, nói và làm đúng
đường lối, đúng chính sách, pháp luật” [18, tr.141-142]. Hơn ai hết, người cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp gắn bó với nhân dân, trực tiếp đưa chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào trong dân chúng,
chính vì vậy đòi hỏi người cán bộ phải nghiêm túc thực hiện phong cách làm việc
nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn, làm tấm gương cho nhân dân học
tập.
Có thể nói rằng, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên hiện nay nói
riêng và cả nước nói chung trình độ còn hạn chế về nhiều mặt: chuyên môn, nghiệp
vụ, lý luận, phương pháp, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, chính vì vậy mà phương pháp
lãnh đạo và phong cách công tác nhìn chung thiếu tính khoa học, nặng về lý thuyết,
thiếu kinh nghiệm thực hành. Đây là hậu quả của việc chúng ta đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu. Hàng loạt các thói quen
xấu như phong cách làm việc tự do, tuỳ tiện, gặp chăng hay chớ, thiếu kế hoạch,
thiếu điều tra nghiên cứu, thiếu ngăn nắp, trật tự, luộm thuộn, lề mề, chậm chạp,
không coi trọng thời gian, không cụ thể, không thiết thực, bảo thủ, trì trệ, thiếu nhìn
xa, trông rộng, không biết xuất phát từ thực tiễn cơ sở để giải quyết công việc.
Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải xây dựng phương pháp lãnh
đạo và phong cách công tác khoa học, sửa dần lối lãnh đạo tùy tiện theo cảm hứng,
chủ quan, đôi khi cả nể. Muốn làm được điều đó, trước hết phải nâng cao trình độ
của mỗi cán bộ một cách toàn diện cả về chuyên môn nghiệp vụ cũng như lý luận
chính trị. Học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về phương pháp tư
duy biện chứng, sáng tạo, tư duy khoa học, biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận
với thực tiễn.
Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở muốn có phương pháp lãnh đạo và phong
cách công tác khoa học cần phải đi sâu, đi sát, điều tra, nghiên cứu, nắm tình hình
cụ thể. Đồng thời phải phát huy trí tuệ của cấp dưới, phát huy sự sáng tạo của quần
chúng nhân dân, biết sử dụng bộ máy, sử dụng những người cộng sự, sử dụng
những cơ quan giúp việc để nắm được những thông tin cần thiết, chính xác; sàng
lọc những thông tin sai lệch, những báo cáo dối trá, những phản ánh lựa chiều thiếu
trung thực.
Khi giải quyết những vấn đề đặt ra tại cơ sở, phải xem xét, đối chiếu, so sánh
những ý kiến khác nhau, tổng hợp những ý kiến đó, lựa chọn ý kiến đúng, tránh
nhầm lẫn giữa ý kiến đúng với ý kiến sai.
Người cán bộ chủ chốt phải có cái nhìn khách quan, toàn diện đối với bộ máy
giúp việc, tránh phiến diện, một chiều, tránh nể nang, nghe những kẻ nịnh hót mà cần
sử dụng những người thẳng thắn trung thực, có năng lực công tác.
Người cán bộ chủ chốt có phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác
khoa học phải quán triệt nguyên tắc: làm việc phải có tính mục đích rõ ràng, tập
trung chương trình, kế hoạch đặt ra phải sát, hợp. Khi đã đặt kế hoạch đúng đắn rồi
thì mình cùng mọi người nghiêm túc thực hiện kế hoạch đề ra. Khi thực hiện kế
hoạch rồi thì phải tổng kết việc thực hiện, cái gì làm được thì phát huy, cái gì chưa
làm được thì phải nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm. Trong công tác lãnh đạo,
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề tổng kết thực tiễn để rút kinh nghiệm, từng việc,
từng chủ trương, thấy rõ hay dở, đúng sai , từ đó Người bổ sung kịp thời những chủ
trương chưa đúng, chưa đủ, và quan trọng hơn là để rút ra những kết luận mới để bổ
sung cho lý luận. Vậy người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không chỉ xuất phát từ thực
tế của địa phương mình mà cần phải học hỏi những địa phương, những cơ sở bạn,
cái gì hay mà phù hợp với cơ sở mình để học hỏi, để áp dụng mà làm.
Tác phong khoa học đòi hỏi: Lãnh đạo phải cụ thể, phải kịp thời, phải thiết
thực, phải có trọng điểm và nắm điển hình, phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng
nói, tay làm, óc nghĩ, cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể, cẩn thận mà nhanh
nhẹn, kịp thời, làm đến nơi đến chốn. Có như vậy, người cán bộ chủ chốt mới thực
hiện tốt được công tác dân vận, được nhân dân tin yêu và phát huy được sức mạnh
to lớn của tập thể trong việc hoàn thành những nhiệm vụ ở cơ sở.
3.3.5. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có phong cách làm việc năng động
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
Trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, việc xây dựng được đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Thực tiễn hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở xã Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ đã chứng minh điều đó: cuối năm 2001, Đảng
uỷ xã phát động phong trào trồng dưa xuất khẩu, một loại cây đặc sản có giá trị kinh
tế cao, giúp xoá đói, giảm nghèo nhanh chóng. Nhưng cây dưa lại là một thách thức
với xã Hưng Đạo vì đồng đất ở đây từ lâu tới giờ chỉ độc canh cây lúa. Con người ở
đây chưa hiểu giá trị kinh tế cũng như kỹ thuật trồng dưa xuất khẩu. Hơn nữa, yêu
cầu về kỹ thuật đối với loại cây này là rất nghiêm ngặt. Chính vì vậy, nhân dân
trong xã rất ngần ngại vì nếu trồng mà không mang lại kết quả, bà con mất trắng,
lấy gì mà sống. Trước tình hình đó, Đảng uỷ xã với quyết tâm dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm đã phát động mỗi cán bộ chủ chốt và mỗi Đảng viên nhận
trồng một sào dưa. Với tư tưởng quyết tâm làm cho bằng được, đội ngũ cán bộ đảng
viên xã đã chia nhau đi Nhật Tân, Trung Nghĩa để nghiên cứu, học tập cách trồng
và chăm sóc dưa, và họ đã giành được thắng lợi xứng đáng: 2 mẫu dưa thu được
trên 22 tấn quả, bình quân một sào thu được 1,1 tấn, với giá 3.000đ/kg tương đương
với 3.520.000đ/sào. Như vậy, cây dưa thu gấp 4 đến 4,5 lần cây lúa có năng suất và
chất lượng cao nhất. Thắng lợi có ý nghĩa lớn hơn là xây dựng được lòng tin vững
chắc của nhân dân vào chi bộ, đảng viên. Chỉ tính riêng thôn Hậu Xá năm 2004 đã
trồng tới 15 mẫu dưa, phong trào nhà nhà trồng dưa, người người trồng dưa đã đem
lại một nguồn thu khá lớn và ổn định cho mỗi gia đình [5, tr.102].
Như vậy, việc đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, biết vận dụng sáng tạo cách làm của cơ sở bạn, áp dụng phù hợp
vào điều kiện thực tiễn địa phương mình đã góp phần thu được thành tích tốt trong
việc phát triển kinh tế xã hội ở cơ sở.
Theo một khảo sát điều tra xã hội học gần đây thì 70% số cán bộ được hỏi cho
rằng: năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm là một phẩm
chất cần thiết của người cán bộ, nhất là trong cơ chế thị trường. Trong thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền, đạo đức, trung thành, dám xả thân cho cách mạng quan
trọng như thế nào thì trong thời kỳ đổi mới phẩm chất năng động sáng tạo, thích ứng
nhanh với điều kiện mới, chủ động nắm yêu cầu của cơ chế thị trường, đổi mới tư
duy, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có đầu óc hạch
toán kinh tế cũng quan trọng như thế.
Xã hội hiện tại và tương lai mà chúng ta đón nhận không phải là một xã hội
bảo thủ, ngưng trệ mà là một xã hội luôn luôn vận động với tính cạnh tranh cao, chủ
yếu là cạnh tranh về sức sáng tạo, trí tuệ hoặc mang tính trí tuệ, sáng tạo. Cạnh
tranh thúc đẩy sự phát triển đồng thời chứa đựng sự rủi ro. Trong điều kiện kinh tế
thị trường, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải trực tiếp đối diện với cạnh tranh,
biết lựa chọn mô hình phát triển kinh tế, xã hội thích hợp cho địa phương mình, lựa
chọn giống cây trồng, vật nuôi, phát triển nghề truyền thống, tìm hướng đi thích hợp
với điều kiện của cơ sở mình, dám chịu trách nhiệm trước sự lựa chọn của mình sẽ
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương mình.
Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm không phải là hành động mạo
hiểm, liều lĩnh mà phải trên cơ sở nắm vững toàn diện thực tiễn địa phương với sự
phán đoán thận trọng, chu đáo để chớp thời cơ sản xuất ra những sản phẩm mà thị
trường cần, thu lợi ích cho tập thể, cho nhân dân. Hơn bao giờ hết, muốn thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước, việc đào tạo đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở của cả nước nói chung và của Hưng Yên nói riêng có phương
pháp làm việc năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm sẽ
góp phần thắng lợi không nhỏ cho sự nghiệp đổi mới đất nước ta nói chung và của
Hưng Yên nói riêng.
3.3.6. Học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xử lý
tình huống và trong các mối quan hệ
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam
hơn 70 năm qua và ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng với chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Học tập, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc đổi mới phương
pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính
là việc xử lý chính xác các tình huống trong công tác lãnh đạo, đồng thời xử lý đúng
đắn, hiệu quả trong các mối quan hệ đa chiều.
Theo phương châm Hồ Chí Minh đã dạy: cán bộ luôn vì dân, vì nước, gần
dân, sát dân, việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh,
chắc chắn đó sẽ là người cán bộ được dân tin yêu, có phong cách làm việc dân chủ,
tập thể, vừa “hồng” vừa “chuyên” đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người triển khai thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong nhân dân, biến ý tưởng của Đảng thành
niềm tin, sức mạnh cho nhân dân. Do vậy, phải học tập tư tưởng Hồ Chí Minh một
cách có hệ thống, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sâu sắc, vận dụng
một cách hiệu quả nhất. Chỉ khi có được kiến thức, phương pháp làm việc mà
Người đã dạy, cán bộ mới có thể xử lý bất cứ tình huống nào một cách khoa học và
chính xác.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và tuyên truyền giáo dục tư tưởng của Người
đối với các tầng lớp nhân dân, cũng là cách thức mới, góp giáo dục, rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại, đẩy lùi sự thoái hoá đạo đức, lối
sống, ổn định chính trị của địa phương.
Để làm được vấn đề này một cách hiệu quả, tôi xin đưa ra kiến nghị: hiện
nay trong chương trình trung cấp lý luận chính trị không có chuyên đề tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, cho nên việc đưa chuyên đề này vào giảng
dạy (một cách ngắn gọn, dễ hiểu) sẽ đạt được hiệu quả rất lớn, nó góp phần làm cho
đội ngũ cán bộ hiểu được vị trí, vai trò, nhiệm vụ của mình cũng như tránh mắc phải
những sai lầm, khuyết điểm mà cán bộ thường mắc phải trong điều kiện Đảng cầm
quyền, đồng thời giúp họ có cái nhìn đúng về phương pháp, lề lối làm việc của
mình. Việc đưa chuyên đề này vào giảng dạy có ý nghĩa rất lớn đối với học viên cả
về mặt lý luận và thực tiễn.
Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường chính trị các tỉnh phải trở
thành yêu cầu và nội dung chính trong chương trình học tập chính trị đối với đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Môn tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay trong chương trình
trung cấp chính trị chỉ có số tiết rất ít và giảng viên giảng dạy môn học này ở các
trường trung cấp chính trị chủ yếu là kiêm nhiệm chưa được đào tạo cơ bản. Muốn biến
tư tưởng Hồ Chí Minh thành hiện thực sinh động trong cuộc sống trước hết phải đào
tạo được đội ngũ giảng viên này một cách cơ bản. Có như vậy chất lượng học tập của
học viên mới được nâng lên.
3.3.7. Đổi mới cung cách tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ làm tăng
hiệu quả lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Đối với cán bộ chủ chốt cần: xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Đảng bộ, chi bộ cơ sở mà mình lãnh đạo, làm đúng vai trò là hạt nhân lãnh đạo
toàn diện các mặt công tác ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế
là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, mặt trận
và các đoàn thể nhân dân vững mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị, hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân và thực hiện tốt ở cơ sở. Phản ánh và giải
đáp mọi tâm tư nguyện vọng của dân , khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không
ngừng nâng cao trình độ dân sinh, dân trí và dân chủ ở cơ sở.
Cán bộ chủ chốt ở cơ sở phải biết động viên, giáo dục đảng viên nêu cao vai
trò tiên phong, gương mẫu, vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức cách
mạng, có lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân, phấn đấu để trở thành người lao
động giỏi, công dân mẫu mực. Đảng viên hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh phải phấn đấu làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc áp dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ mới, ra sức làm giàu chính đáng và hướng dẫn vận động nhân dân cùng
làm giàu, không cam chịu đói nghèo.
Tăng cường công tác phát triển đảng viên mới theo tiêu chuẩn và quy định
của Điều lệ đảng…
Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần tiến hành: đổi mới việc ra nghị quyết
của đảng bộ, chi bộ, của các cấp uỷ đảng; đối với những vấn đề lớn, quan hệ tới
cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương đòi hỏi sự phối hợp của
cả hệ thống chính trị ở cơ sở, đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng đề ra các chủ trương
và các giải pháp có tính định hướng và phân công, giao trách nhiệm cho từng cấp uỷ
viên phụ trách và các tổ chức trong hệ thống chính trị đề ra biện pháp, tổ chức thực
hiện theo quyền hạn, trách nhiệm.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần xây dựng và hoàn thiện quy chế làm
việc giữa Bí thư đảng uỷ với Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận tổ quốc và những người đứng đầu các đoàn thể nhân
dân và giải quyết kịp thời những công việc quan trọng và bức xúc trên địa bàn, đảm
bảo cho cấp uỷ đảng quán xuyến được các mặt công tác ở cơ sở, thực hiện chế độ
giao ban hàng tháng.
Đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều
thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ đảng viên đồng thời
phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo những người là bộ đội, công an đã qua thử thách
còn trẻ, xuất ngũ về địa phương và những người có tài, đức để đảm đương các vị trí
công tác.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần tăng cường việc kiểm tra, chấp hành
nghị quyết của đảng uỷ, chi uỷ, kiểm tra nhiệm vụ được phân công và tư cách đảng
viên. Chú trọng tìm hiểu, lắng nghe ý kiến nhận xét, đánh giá của quần chúng nhân
dân đối với đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng thông qua việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của chính quyền cơ sở, tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, hướng dẫn và giám sát hoạt động tự quản của
nhân dân, tạo thuận lợi để nhân dân và các tổ chức kinh tế xã hội hoạt động theo
pháp luật.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần sắp xếp hợp lý việc thu, chi ngân
sách, quản lý cán bộ, quản lý đất đai, bảo vệ đê điều và các công trình thuỷ lợi, quản
lý hộ tịch, quản lý các dự án đầu tư thuộc vốn của ngân sách nhà nước và vốn huy
động trong nhân dân, quản lý cơ sở vật chất về giáo dục, văn hoá, y tế phục vụ nhân
dân.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần đưa ra các giải pháp: đổi mới tổ chức
cơ quan hành chính, cấp cơ sở, giảm bớt số thành viên Uỷ ban nhân dân để bộ máy
năng động hơn... Kiện toàn bộ máy giúp việc gồm văn phòng Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân và ba khối công việc: khối kinh tế – tài chính (kể cả kế toán), khối
văn hoá - xã hội và khối nội chính; có sự phân biệt giữa xã, thị trấn và phường.
Tóm lại, trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay đòi
hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có phong cách làm việc nhanh gọn, dứt
khoát, tránh rườm rà, lề mề và thói quen quan liêu, bàn giấy như thời bao cấp, muốn
làm được điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải không ngừng nâng
cao trình độ về mọi mặt.
3.3.8. Đổi mới cách lãnh đạo, lấy hiệu quả công việc làm thước đo đánh giá
năng lực cán bộ, đề cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ đứng đầu
Hồ Chí Minh đã chỉ ra bốn hướng tiếp cận về đổi mới cách lãnh đạo:
Một là, khiêm tốn học hỏi quần chúng, không chỉ là vấn đề đạo đức mà phải
xác định như là điều kiện cần và đủ của lãnh đạo.
Hai là, nhân dân thi hành quyết định của lãnh đạo do đó nhân dân phải là
người tham gia quá trình ra quyết định. Đây là hướng tiếp cận tới dân chủ trực tiếp,
nó vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa thể hiện trách nhiệm cao trước quyền lực mà
người lãnh đạo được nhân dân uỷ thác.
Ba là, kiểm soát phải được xác định là điều kiện bắt buộc của lãnh đạo, nó
như là tiêu chí xác định có lãnh đạo và có biết lãnh đạo hay không: “Muốn chống
bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không,
thi hành có đúng không, muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một
cách là khéo kiểm soát” [45, tr.287].
Bốn là, hai cách liên hợp được coi là nguyên tắc phổ quát của phương pháp
lãnh đạo.
Đổi mới cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trước hết người
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở phải quán triệt nguyên tắc lấy hiệu quả công
việc làm thước đo đánh giá năng lực cán bộ. Hiệu quả công việc chính là sản phẩm
của quá trình công tác của người cán bộ. Hiệu quả công việc được thể hiện bằng sự
phát triển mọi mặt của địa phương: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính là những người trực tiếp đưa chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống, chính vì vậy
người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần được giao nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng hơn,
khắc phục tình trạng khi công việc thành công thì cá nhân nào, ngành nào cũng vơ
thành tích cho mình, nhưng khi thất bại thì không ai chịu trách nhiệm, người này
đùn đẩy cho người nọ. Trong tổ chức thực hiện, cần đề cao trách nhiệm cá nhân,
phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của cán bộ. Về phía mình, mỗi người
cán bộ chủ chốt cần phải nêu cao tính tổ chức kỷ luật, tự giác chịu sự phê bình,
giám sát của tập thể đã bầu ra mình, của tổ chức đã giao chức vụ cho mình; khắc
phục tình trạng cá nhân, độc đoán, lộng quyền, kiêu ngạo, đặt mình lên trên tập thể,
đứng ra ngoài tổ chức. Đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở sẽ góp
phần nâng cao ý thức dám làm, dám chịu trách nhiệm, tránh tình trạng ỷ lại, dựa
dẫm vào tập thể, ba phải. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường cạnh
tranh quyết liệt, nếu người cán bộ chủ chốt chậm đổi mới tư duy, không tìm ra được
con đường đi thích hợp để phát triển mọi mặt của cơ sở thì sẽ phải trả giá. Ngược
lại, khi người cán bộ chủ chốt được giao nhiệm vụ rõ ràng, tư duy năng động, sáng
tạo, dám chịu trách nhiệm trước những quyết định của mình, thậm chí khi thấy
quyết định của mình là phù hợp với thực tiễn dám quyết đoán sẽ góp phần thúc đẩy
sự phát triển của đơn vị mình. Đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu
nhưng phải quán triệt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nếu bỏ qua
nguyên tắc này, sẽ dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nếu làm tốt vai trò trách nhiệm
của người đứng đầu một đơn vị, họ tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước cấp
trên về những quyết định của mình, sẽ góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm, rèn
luyện tính Đảng và giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có cách nhìn khách
quan, cẩn trọng trước khi xem xét, ra quyết định hoặc giải quyết công việc ở cơ sở
góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác.
Bên cạnh đó, người cán bộ cần đổi mới cơ chế quản lý, áp dụng mạnh mẽ
công nghệ thông tin vào công tác quản lý, thanh giảm bộ máy hành chính, chất
lượng, gọn nhẹ.
Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có năng lực là người biết vận hành bộ máy
cơ sở mình một cách hiệu quả nhất, muốn vậy điều đầu tiên trong đổi mới phương
pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ chủ chốt là phải đổi mới cơ
chế quản lý. Quản lý tốt không có nghĩa là chỉ quản lý theo giờ hành chính, quản lý
theo cách ngồi bàn giấy. Người cán bộ chủ chốt phải quản lý cán bộ theo kết quả
công tác và hiệu quả công việc. Người cán bộ cơ sở là người phải biết bám dân, gần
dân, hiểu dân, học dân và biết cách lãnh đạo nhân dân. Chính vì vậy, người cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở cần quán triệt nguyên tắc quản lý: giữa làm việc tại trụ sở và làm
việc trên ruộng đồng, chỉ đạo nhân dân sản xuất, chỉ đạo các hoạt động khác ở cơ sở
như: văn hoá, y tế, an ninh, quốc phòng… Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải
xác định trong nhiệm vụ quản lý thì quản lý con người là phức tạp nhất vì như Mác
đã nói trong tính hiện thực trực tiếp của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội. Vì vậy, mỗi con người họ có ý kiến riêng, có suy nghĩ riêng và có
cách hành động riêng. Người cán bộ quản lý giỏi là người biết phát huy cái riêng,
biết biến cái riêng thành cái chung, biết vì tập thể.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế tri thức đã phát triển, khoa
học công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, vậy điều đó đòi hỏi người cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở không đứng ngoài xu thế chung dó, người cán bộ lãnh đạo quản
lý phải biết áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quá trình quản lý và làm việc
của mình. Hiện nay, ở Hưng Yên có 161 xã, phường, thị trấn thì có 161/161 máy vi
tính, chính vì vậy, người cán bộ chủ chốt phải biết truy cập thông tin trên mạng về:
giá cả thị trường, về giống, về phân bón, thuốc trừ sâu, về cầu trên thị trường qua
mạng… Bởi vì chỉ có nắm bắt, tiếp cận với điều đó hàng ngày, người cán bộ quản
lý mới biết được mình sẽ sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cái gì thị
trường cần chứ không phải sản xuất những cái gì mình có, không chỉ trong lĩnh vực
sản xuất, phát triển kinh tế mà trên cả những lĩnh vực khác như: dân số, y tế, môi
trường, văn hoá… Nếu được cập nhật thường xuyên trên mạng sẽ giúp cho người
cán bộ quản lý có định hướng đúng đắn, có giải pháp cho riêng cho cơ sở mình,
đồng thời có máy vi tính và biết sử dụng nó trong công việc sẽ giúp cho công việc
được nhanh chóng, hiệu quả hơn, tránh tình trạng mua máy về chỉ là hình thức,
không biết phát huy tác dụng của nó.
Bên cạnh việc áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quá trình quản lý
đòi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải biết tạo ra một bộ máy những người
giúp việc làm việc có hiệu quả. Muốn vậy, phải từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ,
lựa chọn những người vừa có năng lực, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa “hồng” vừa
“chuyên”, năng động sáng tạo. Bộ máy những người giúp việc đó không cần số
lượng nhiều mà chủ yếu là chất lượng từng bước thay thế lớp cán bộ già, cán bộ
kiêm nhiệm không có chuyên môn, nghiệp vụ. Có như vậy mới đáp ứng được mọi
nhiệm vụ mà cơ sở mình đề ra.
Trên đây là một số những vấn đề cơ bản đưa ra nhằm đổi mới phương pháp
lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Những
quan điểm này có được trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
thực trạng phương pháp lãnh đạo, phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở làm nền tảng. Việc quán triệt và vận dụng các quan điểm trên vào thực
tiễn địa phương sẽ là những đóng góp nhỏ về mặt lý luận và thực tiễn để góp phần
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà.
Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam đưa đường cho cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghiên cứu những nội dung cơ bản về cán bộ
và công tác cán bộ trong di sản tư tưởng của Người, để trên cơ sở đó vận dụng vào
việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở của Hưng Yên là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, không
chỉ đối với địa phương, mà còn có ý nghĩa trên phạm vi cả nước.
Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, công tác tổ chức cán bộ của Đảng vẫn còn
nhiều bất cập, yếu kém, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục
khẳng định: Nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm, công tác xây dựng Đảng là
then chốt. Do đó, công tác xây dựng Đảng, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của
Đảng mang tính cấp bách hơn lúc nào hết.
Đối với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, khâu cán bộ mang tính quyết
định. Song để làm tốt được công tác cán bộ, không có con đường nào khác là chúng
ta phải trở lại với những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ, vận dụng tư tưởng của Người để giáo dục, rèn luyện cán bộ trở thành những con
người có đức có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ
mới.
Trong công tác cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là vấn đề thiết thực, bởi đây là lực lượng trực
tiếp tác động đến tư tưởng tình cảm của quần chúng nhân dân, họ còn là những
người lãnh đạo gần dân nhất, những người chuyển tải chủ trương đường lối của
Đảng, trực tiếp chỉ đạo nhân dân thực thi chính sách của Nhà nước, họ giữ vai trò
hết sức quan trọng quyết định đến thành công hay thất bại của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nghiên cứu thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên, vốn là một tỉnh thuần nông ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đang
vươn lên mạnh mẽ trong quá trình chuyển đổi cơ cấu công nông nghiệp, có nét
tương đồng với nhiều địa phương khác trong cả nước, để tìm ra những bài học kinh
nghiệm về công tác cán bộ.
Từ việc phân tích những mặt ưu điểm và khuyết điểm của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở của địa phương, tìm ra những nguyên nhân tồn tại, trên
cơ sở đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới
một bước phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Hy vọng, những vấn đề
tôi dưa ra sẽ góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện các quy trình trong công tác
cán bộ.
Tôi cho rằng, trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và sự nghiệp xây
dựng tỉnh Hưng Yên nói riêng, việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách
công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính là khâu đột phá trong công tác
cán bộ, công tác xây dựng Đảng. Nếu làm tốt, chắc chắn sẽ có sự chuyển biến trong
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - chính trị của Hưng Yên nói riêng và cả đất
nước nói chung.
Việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở là vấn đề lớn, phức tạp, do đó ngay một lúc chúng ta khó có
thể thực hiện trọn vẹn, đầy đủ yêu cầu, nội dung của việc đổi mới. Quá trình đổi
mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở là quá trình lâu dài, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, vừa bổ sung những vấn đề
mới cho phù hợp với thực tiễn. Đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công
tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là giải pháp then chốt trong điều kiện
Đảng cầm quyền . Điều quan trọng để đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách
công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là chúng ta phải trở về với tư tưởng
Hồ Chí Minh, đồng thời có những chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở nói riêng và đội ngũ cán bộ ở cơ sở nói chung.
Tuy nhiên, “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới phương pháp
lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng
Yên” , do đó chắc chắn còn chưa hoàn thiện và còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải
tiếp tục nghiên cứu, công trình sẽ góp phần nhỏ bé vào việc củng cố và kiện toàn
hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở,
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà và từng bước thực hiện
mục tiêu: xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” đúng lòng mong ước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Danh mục tài liệu tham khảo
1- Ban Tổ chức cán bộ chính phủ, Viện khoa học tổ chức nhà nước (1998), Đạo
đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
2- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1998), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên, tập I, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
3- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1998), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên, tập II, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
4- Ban Thường vụ tỉnh uỷ Hưng Yên (2005), Bác Hồ với Hưng Yên, Hưng Yên
với Bác Hồ, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
5- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Hội nhà báo, Hội văn học nghệ thuật Hưng Yên
(2005), Hưng Yên trong tôi, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
6- Ban Chấp hành Trung ương – Ban Tổ chức (2003), Hướng dẫn số 17
HD/TCTW ngày 23/4 về quy hoạch công tác cán bộ lãnh đạo, quản lý
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội.
7- Nguyễn Khánh Bật (2002), giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội.
8- Nguyễn Văn Chỉnh (2000), Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác huấn
luyện, đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
hiện nay, Nxb Đà Nẵng.
9- Thành Duy (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb chính
trị quốc gia, Hà Nội.
10- Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
11- Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
12- Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
trung ương (Khoá VII), Lưu hành nội bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13- Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
14- Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành trung ương (Khoá VIII), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
15- Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban
Chấp hành Trung ương (Khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16- Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành trung ương (Khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17- Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương (Khoá IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
18- Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành trung ương (Khoá IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19- Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 11 NQ/TW ngày 25/11/2002
của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý, Hà
Nội.
20- Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp
hành trung ương (Khoá IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21- Trần Bạch Đằng (2005), Đến với tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ.
22- Nguyễn Hữu Đổng (2002), “Học tập phương pháp tuyên truyền giáo dục tư tưởng
chính trị của Hồ Chí Minh”, Lý luận chính trị, trang 11 - 13.
23- Bùi Thế Đăng (2005), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp lãnh
đạo vào việc xây dựng, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác của
cán bộ chính trị trong quân đội ta hiện nay”, Tạp chí quốc phòng toàn
dân (5), trang 73 - 75.
24- Trần Đình Hoan (2002), “Luân chuyển cán bộ, khâu đột phá nhằm xây dựng
đội ngũ cán bộ quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển mới”, Tạp chí Cộng
sản (7), trang 6 – 12.
25- Trần Đình Hoan (2002), “ Mười năm công tác tổ chức cán bộ của Đảng và
những yêu cầu của nhiệm vụ trong thời gian tới”, Tạp chí Cộng sản, (2),
trang 7.
26- Trần Đình Hoan (2003), “Về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (9),
trang 31-35.
27- Trần Đình Huỳnh (2005), Hồ Chí Minh kiến trúc sư lỗi lạc của nền hành chính
nhà nước Việt Nam, Nxb Lao động xã hội.
28- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1993), Cơ cấu và tiêu chuẩn đội
ngũ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới ở nước ta. Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài KX.05.11, Hà Nội
29- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Đào tạo và nâng cao kỹ
năng lãnh đạo, Hội nghị thông tin khoa học, Hà Nội.
30- Học viện Nguyễn ái Quốc (1992), Mẫu hình và con đường hình thành người
cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở, Hà Nội.
31- Đặng Xuân Kỳ (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
32- Đặng Xuân Kỳ, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn Hoà (đồng chủ biên) (2005),
Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33- V.I. Lê nin – Stalin (1971), Vấn đề cán bộ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Nxb Sự Thật.
34- V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
35- V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 40, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
36- V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
37- V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
38- V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 45, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
39- Các Mác và Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
40- Các Mác và Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
41- Các Mác và Ph Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội
42- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
43- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
44- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
45- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
46- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
47- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
48- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
49- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
50- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
51- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
52- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
53- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
54- Hà Quang Ngọc (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và huấn luyện cán
bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, (7), trang 2 – 3.
55- Dương Xuân Ngọc (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và huấn luyện
cán bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, (7), trang 2 – 3.
56- Bùi Đình Phong (2002, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ,
Nxb Lao động.
57- Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh, Một số vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Lao động, (2005)
58- Nguyễn Trọng Phúc (2002), “Lênin, Hồ Chí Minh nói về vai trò luân chuyển
cán bộ”, Tạp chí Cộng sản, (9), trang 31 – 35.
59- Trần Đình Quảng (2003), “Thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
“cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính”, chống tham ô, lãng phí và quan liêu”,
Tạp chí Lao động và công đoàn, (289) trang 9, 34.
60- Trần Đình Quảng (2003), “Thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ”, Tạp chí Thanh tra, (9), trang 33 - 36.
61- Trần Đình Quảng (2005), “Chủ tịch Hồ Chí Minh tấm gương sáng ngời về
phong cách làm việc”, Tạp chí Lao động và công đoàn, (331), trang
5,6,11.
62- Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (chủ biên) (2003), Làm người cộng sản trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63- Tỉnh Uỷ Hưng Yên, Quyết định số 350/QĐ/TU: Quyết định ban hành đề án
đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
64- Trường chính trị Nguyễn Văn Linh: Báo cáo thành tích của Trường chính trị
Nguyễn Văn Linh (1997 – 2003)
65- Tỉnh uỷ Hưng Yên số 84/BC/TU: Báo cáo tổng kết năm năm thực hiện chỉ thị
30-CT/TW của Bộ chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
66- Tỉnh uỷ Hưng Yên số 349 – QĐ/TU: Quyết định ban hành đề án công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn
67- Tỉnh uỷ Hưng Yên (2005), Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XVI của
Đảng bộ tỉnh
68- Trần Hậu Thành (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5), trang 5 - 6.
69- Nguyễn Đức Thắng (2005),“Phương pháp, tác phong làm việc của người cán
bộ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa giáo, (5),
trang 15 – 17.
70- Nguyễn Xuân Thông (2003), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng đội ngũ cán bộ cơ sở”, Tạp chí Cộng sản (22+23), trang 59-62.
71- Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Thị Thuý (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác cán bộ và một số vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, (12), trang 310.
72- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2001), Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73- Đức Vượng (1195), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
Phụ lục
Phụ lục 1
Bảng tỷ lệ cơ cấu giới tính, độ tuổi của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh hưng
yên
(Tại thời điểm tháng 6 năm 2005)
Đơn vị tính: %
TT Hạng mục Bí thư, Phó bí thư đảng uỷ
Chủ tịch, Phó chủ tịch
HĐND, Chủ tịch, Phó
chủ tịch UBND.
Giới tính
1 Nam 93,19 97,27
2 Nữ 6,81 2,73
Độ tuổi
3 Từ 31 – 45 26,32 38,8
4 Từ 45 – 50 36,84 40,62
5 Từ 51 trở lên 38,39 20,58
Nguồn: Đề án quy hoạch đào tạo ĐNCB theo tiêu chuẩn từng chức danh
cán bộ cấp xã, phường, thị trấn tỉnh Hưng Yên đến năm 2010 của UBND tỉnh tháng
6 năm 2005
Phụ lục 2
Bảng phân tích chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh hưng yên
(Tại thời điểm tháng 6 năm 2005)
Đơn vị tính: %
TT Hạng mục
Bí thư, Phó bí thư
đảng uỷ
Chủ tịch, Phó chủ tịch
HĐND, Chủ tịch, Phó chủ
tịch UBND
Chuyên môn nghiệp vụ
1 Sơ cấp 2,48 2,73
2 Trung cấp 23,219 27,41
3 Cao đẳng 0,619 1,545
4 Đại học 12,419 12,568
Lý luận chính trị
5 Sơ cấp 17,96 22,04
6 Trung cấp 77,72 59,925
7 Đại học, cao cấp 0 0,1821
Nguồn: Đề án quy hoạch đào tạo ĐNCB theo tiêu chuẩn từng chức danh
cán bộ cấp xã, phường, thị trấn tỉnh Hưng Yên đến năm 2010 của UBND tỉnh tháng
6 năm 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 164_6259.pdf