Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm về GCCN Việt Nam được
Người nhận thức đúng đắn, khoa học, là giai cấp có sứ mệnh lịch sử đưa cách mạng Việt
Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Để GCCN hoàn thành được sứ mệnh lịch sử đó, Người
chỉ rõ: Trước hết và hơn ai hết giai cấp công nhân phải giác ngộ quyền lợi giai cấp, giác
ngộ xã hội chủ nghĩa ra sức học tập, trau dồi văn hoá, chính trị và kỹ thuật, nâng cao trình
độ về mọi mặt, gương mẫu trong sản xuất và trong cuộc sống, đặc biệt, nâng cao tinh
thần làm chủ tập thể, mạnh dạn đấu tranh. Vì vậy, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, GCCN Việt Nam mà đội tiên phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn nêu cao bản chất cách mạng, lãnh đạo toàn dân tộc làm nên những
thắng lợi lịch sử vô cùng to lớn.
109 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2353 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân vào việc xây dựng đội ngũ công nhân Nghệ An trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong điều kiện bị áp bức, bóc lột, nên ở họ ý thức giác ngộ giai
cấp, ý thức chính trị thể hiện rất rõ (bộ phận này trong 10 đến 20 năm tới sẽ không còn do
già yếu và nghỉ hưu). Đa số lực lượng công nhân của tỉnh hiện nay là thế hệ công nhân
trẻ, họ có trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật, nhưng đây lại là lực lượng vừa mới lớn
lên trong chế độ mới, mới gia nhập vào giai cấp công nhân, nên về mặt nhận thức chính
trị còn hạn chế. Mặt khác đội ngũ công nhân Nghệ An ra đời và phát triển trong một nước
nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chậm phát triển, do đó tác phong công nghiệp, ý thức
tổ chức kỷ luật còn hạn chế. Tâm lý, thói quen và tác phong lao động gắn liền với nền sản
xuất nhỏ còn in đậm trong đội ngũ công nhân.
Nội dung của giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng cho đội ngũ công nhân là giáo
dục bồi dưỡng và nâng cao nhận thức cho giai cấp công nhân về chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH; giáo dục ý thức giai cấp,
truyền thống cách mạng, ý thức trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
nâng cao tính cách mạng triệt để; giáo dục tinh thần yêu nước, yêu CNXH, nâng cao trình
độ giác ngộ chính trị, chống lại những luận điệu xuyên tạc, vu cáo, đòi xóa bỏ chủ nghĩa
Mác - Lênin, hệ tư tưởng của GCCN, từ bỏ con đường độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH; trung thành với của nghĩa quốc tế của GCCN, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả.
Nội dung giáo dục ý thức pháp luật, kỹ luật lao động và tác phong công nghiệp
cho đội ngũ công nhân là quá trình giáo dục Hiến pháp và pháp luật đặc biệt là luật lao
động, Luật công đoàn, Luật đầu tư, các chế độ chính sách có liên quan đến người lao
động như chính sách việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội; tuyên truyền và đề cao kỹ
luật lao động trong sản xuất công nghiệp, từ đó hình thành đội ngũ công nhân tác phong
lao động công nghiệp.
Để công tác này thực sự đạt hiệu quả, thật sự nâng cao nhận thức, thái độ của mổi
công nhân, cần chú trọng đẩy mạnh thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
+ Tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng, phát triển GCCN
trong thời kì mới, đồng thời tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong tất cả các
cấp, các ngành để GCCN quán triệt sâu sắc vai trò, vị trí của giai cấp mình.
+ Giáo dục lý luận, chính trị gắn với coi trọng giáo dục thực tiễn, rèn luyện phẩm
chất, đạo đức cách mạng, xây dựng nhân cách người công dân sống có văn hóa; Giác ngộ
truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự lực tự cường, nêu cao tinh thần
trách nhiệm, tận tâm với công việc, thái độ kiên quyết chống tham nhũng, quan liêu.
+ Đưa chương trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
nội dung hoạt động của tổ chức công đoàn: gắn việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin với
quá trình giáo dục đường lối chủ trương chính sách của Đảng cho công nhân lao động
trong các xí nghiệp, trong các trường trung học kỹ thuật, dạy nghề. Ngoài ra cần phối hợp
và khai thác cao nhất thế mạnh của các trường, lớp, trung tâm, cơ sở nghiên cứu khoa học
trên địa bàn tỉnh để mở rộng diện đào tạo và tri thức hóa đội ngũ công nhân.
+ Đa dạng hoá các loại hình tuyên truyền, sử dụng phong phú các phương tiện
truyền thông nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Sử dụng các loại hình tuyên truyền như thông
qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, qua các hội thi tìm hiểu, qua các đợt vận động, qua
hoạt động văn hoá, văn nghệ, các phong trào thi đua, hoạt động thể thao, giải trí... sử
dụng nhiều loại tuyên truyền như qua sách báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, diễn đàn
công nghiệp, cổ động, áp phích... một cách linh hoạt, sáng tạo với những nội dung dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ làm sẽ giúp công nhân tiếp cận một cách tự giác.
+ Phải có sự phối hợp của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức đoàn thể có liên quan
đến đội ngũ công nhân nhằm tiến hành đợt tuyên truyền, giáo dục rộng khắp trong toàn
thể đội ngũ công nhân ở mọi loại hình doanh nghiệp. Các tổ chức cơ sở đảng, tổ chức
công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ... trong các doanh nghiệp là lực lượng chủ yếu
tuyên truyền, vận động, đặc biệt là công đoàn tổ chức bảo vệ quyền lợi cho người lao
động và trực tiếp tuyên truyền đến đội ngũ công nhân.
+ Phải xây dựng nội dung giáo dục thống nhất, phù hợp với mọi đối tượng công
nhân. Đội ngũ làm công tác tuyên truyền giáo dục phải có trình độ nhận thức, có kỹ năng
về tuyên tuyền miệng, có khả năng thu hút và tập hợp quần chúng về mình, thường xuyên
tập huấn nâng cao nghiệp vụ, có chính sách khen thưởng xứng đáng...
+ Trong quá trình tuyên truyền giáo dục ý thức chính trị cần chú ý phát hiện
những thanh niên công nhân ưu tú vừa có tay nghề, trình độ học vấn cao vừa có lập
trường chính trị vững vàng, ý thức giác ngộ CNXH để tiếp tục đào tạo thành những nhà
quản lý, những nhà lãnh đạo giỏi xuất thân từ công nhân.
+ Có cơ chế khuyến khích những người có ý thức nâng cao trình độ chính trị, ý
thức pháp luật, kỹ luật lao động...
Nâng cao ý thức chính trị, ý thức pháp luật, kỹ luật lao động và tác phong công
nghiệp là việc làm cơ bản, liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của đội ngũ công nhân, do
đó phải được coi là việc làm thường xuyên, lâu dài và phải có sự chỉ đạo của cấp uỷ
đảng, sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, sự chú trọng của các tổ chức
chính trị - xã hội, ý thức tự giác của bản thân mỗi người công nhân tỉnh Nghệ An trong
suốt tiến trình cách mạng xây dựng thành công CNXH.
b. Bồi dưỡng trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp
Cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước và quá trình chuyển giao công nghệ trong mối quan hệ hợp tác ngày càng rộng mở
với nước ngoài, nhiều khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao đã và đang được
hình thành. Điều đó đòi hỏi phải có một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có trình
độ văn hóa, có sức khỏe, có tác phong công nghiệp, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công
nghệ mới.
Trong khi đó chất lượng nguồn nhân lực của đội ngũ công nhân tỉnh Nghệ An còn
thấp so với yêu cầu CNH - HĐH. Tỷ lệ công nhân chưa qua đào tạo còn cao, trong khi số
được đào tạo lại không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn sản xuất. Sự thiếu hụt công
nhân đã qua đào tạo, đủ khả năng ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đang trở
thành vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh muốn mở
rộng sản xuất và cải tiến công nghệ mới.
Trong những năm qua, UBND tỉnh đã tổ chức xây dựng và phát triển “Đề án đào
tạo công nhân kỹ thuật bậc cao phục vụ phát triển kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn
2006 - 2010”, đến nay, đề án đã tạo sự chuyển biến khá mạnh trong việc nâng cao chất
lượng đội ngũ công nhân Nghệ An. Tuy nhiên, nhìn chung trình độ học vấn, kỹ năng
nghề nghiệp của đa số công nhân còn rât nhiều hạn chế. Do vậy, vấn đề nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn nghề nghiệp cho đội ngũ công nhân là vấn đề bức thiết, nếu chậm
giải quyết sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thật ra, nhu cầu mong muốn nâng cao trình độ học vấn tay nghề cho công nhân là
nhu cầu chính đáng từ người công nhân đến đơn vị, doanh nghiệp và Nhà nước. Người
công nhân muốn được học, được học thêm để nâng cao trình độ học vấn, tay nghề nhằm
trước hết khỏi bị "sàng lọc" ra ngoài dây chuyền sản xuất, tự mình hoàn thiện các điều
kiện đảm bảo để có một việc làm ổn định và thu nhập cao trên cơ sở thành thạo công việc
và nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả lao động. Các đơn vị sản xuất, công ty, xí
nghiệp cũng rất muốn lao động của mình có trình độ học vấn ngày càng cao, chuyên môn
nghiệp vụ giỏi để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, đổi mới trang thiết
bị công nghệ, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Tuy có mong muốn
và nhu cầu chung như thế, nhưng việc tổ chức thực hiện trong cơ chế thị trường lại rất
khó. Nhà nước không còn bao cấp toàn bộ cho học tập và đào tạo nghề của công nhân
như trước kia: công nhân muốn được học thêm, đào tạo thêm nhưng lại khó khăn về kinh
phí, thời gian, điều kiện sống của gia đình, sợ đi học, đi đào tạo về mất chỗ làm... Các
doanh nghiệp, đơn vị sản xuất cũng muốn công nhân mình được đào tạo thêm nhưng lại
ngại về khoản kinh phí, sợ ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất...
Để quá trình này thực sự đạt hiệu quả, theo chúng tôi cần có các biện pháp cơ bản
sau:
+ Trước mắt Nhà nước cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các
trường đào tạo nghề, các trường đại học, các viện nghiên cứu, trung tâm ứng dụng khoa
học công nghệ. Đẩy mạnh việc tuyên truyền vận động xã hội về chủ trương xã hội hóa
giáo dục, đào tạo, có chính sách huy động các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần
kinh tế đầu tư vào giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng văn hóa, tay nghề cho công nhân.
Khuyến khích, mở rộng các hình thức đào tạo tại các nhà máy, xí nghiệp và cơ sở sản
xuất kinh doanh.
+ Đổi mới nội dung chương trình giáo dục đào tạo sao cho ngắn gọn, dễ hiểu sát
với yêu cầu của từng ngành, từng cơ sở để có thể áp dụng ngay vào sản xuất. Xây dựng
quy chế học tập, có chế độ, hình thức thi đua, khen thưởng, khuyến khích động viên công
nhân học tập, rèn luyện tay nghề. Đồng thời mở rộng các hình thức đào tạo (tập trung,
chính quy, tại chức, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tự đào tạo...) Coi trọng và quan
tâm hơn nữa tới việc nâng cao chất lượng các trung tâm dạy nghề theo hướng kết hợp
chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, lý luận với thực tiễn. Chăm lo đời sống của cán bộ,
giáo viên, công nhân viên và học sinh trong các trường dạy nghề.
+ Tham vấn với các địa phương khác có kinh nghiệm trong lĩnh vực đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ công nhân thông qua nhiều con đường khác nhau
nhằm nâng dần trình độ công nhân trong tỉnh lên ngang tầm đội ngũ công nhân trình độ
cao ở các trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Thực hiện quá trình chuyển giao kinh
nghiệm đào tạo, có hướng liên doanh đào tạo, dạy nghề với nước ngoài để có thể tận
dụng được vốn và kỹ thuật, công nghệ của các nước công nghiệp phát triển nhằm nâng
cao trình độ cho đội ngũ công nhân Nghệ An.
c. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phong trào xây dựng nếp sống văn hoá
trong công nhân
- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước: Trong điều kiện kinh tế thị trường, thi đua
vẫn là động lực, là biện pháp quan trọng nhằm khơi dậy ý thức trách nhiệm, nhiệt tình cách
mạng, tinh thần năng động sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám làm, vượt qua
khó khăn với nhiều sáng kiến làm lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần ổn định
chính trị, thiết thực xây dựng GCCN vững mạnh. Trên cơ sở 3 phong trào do Tổng liên đoàn
lao động Việt Nam phát động: phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo với năng
suốt, chất lượng, hiệu quả cao; Phong trào học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH; Phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham những,
chống các biểu hiện tiêu cực, sách nhiễu phiền hà, làm trái pháp luật, chống các tệ nạn xã
hội. Công đoàn lao động Tỉnh đã vận dụng sáng tạo 3 phong trào thi đua và cụ thể hoá thành
các phong trào trong xây dựng đội ngũ công nhân như: phong trào “Chất lượng, tiến độ, an
toàn, tiết kiệm”; phong trào “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”; phong trào “Thi đua phục vụ
CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn”; phong trào “Xanh - sạch - đẹp, bảo đảm
an toàn vệ sinh lao động”; phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; phong trào “Lao động
giỏi, lao động sáng tạo”; phong trào “Học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
thuật nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước”.
Hàng năm đều có sự tổng kết, đánh giá. Nhìn chung, kết quả đạt được rất khả
quan, song trong phong trào còn tồn tại một số hạn chế, hiệu quả còn thấp như phong trào
“Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng”; chính sách động viên thi đua
còn thấp; nội dung thi đua chưa thật sự phù hợp với một số doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Trong thời gian tới để phong trào thi đua được đẩy mạnh hơn nữa, có tác dụng
trực tiếp đến sự phát triển chung, cần phải có những biện pháp cụ thể sau:
+ Tuyên truyền sâu rộng trong công nhân lao động, chủ các doanh nghiệp về chủ
trương, chính sách của Đảng, của Công đoàn về thi đua khen thưởng trong tình hình mới.
+ Công đoàn cần chủ động phối hợp với chính quyền, cơ quan quản lý các cấp và
người sử dụng lao động để tổ chức chỉ đạo phong trào.
+ Nghiên cứu, rà soát phân loại đối tượng, tính chất nghề, giới, để đưa nội dung
thi đua cho phù hợp.
+ Kiện toàn bộ phận theo dõi, chỉ đạo phong trào.
- Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá trong công nhân: Bên cạnh đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, tỉnh cũng cần chú trọng đẩy mạnh phong trào xây dựng nếp
sống văn hoá trong công nhân lao động. Cần lưu ý rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường,
người lao động quan tâm tới việc làm và thu nhập, đó là một yêu cầu khách quan. Song
điều đó cũng không có nghĩa là họ chỉ dùng lại ở đời sống vật chất đơn thuần không quan
tâm tới đời sống văn hoá tinh thần. Việc xây dựng nếp sống văn hoá trong công nhân lao
động không chỉ tạo điều kiện để đội ngũ công nhân có điều kiện sinh hoạt, thưởng thức giá
trị văn hoá cộng đồng mà còn có tác động tích cực tới việc tái sản xuất sức lao động, hình
thành lối sống mới, lối sống có văn hoá mà những mặt trái của cơ chế thị trường có thể ảnh
hưởng khá mạnh mẽ. Để đẩy mạnh nếp sống văn hoá trong công nhân lao động cần thực
hiện một số giải pháp sau:
+ Giáo dục những giá trị đạo đức và lối sống tốt đẹp cho đội ngũ công nhân được
biểu hiện ở tinh thần đoàn kết, thương yêu giai cấp, giàu lòng nhân ái, đem hết sức mình
phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
+ Bồi dưỡng lòng yêu nghề, đam mê nghề nghiệp cho công dân, góp phần định
hướng và phát triển nhân cách cá nhân và các giá trị văn hóa lao động cho GCCN: tác
phong lao động công nghiệp, tính tổ chức, tính kỷ luật công nghiệp; đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp; đời sống tinh thần phong phú; tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt
động nghề nghiệp, hoạt động chính trị - xã hội.
+ Nghiên cứu đề xuất các chính sách đầu tư ưu đãi để thông qua các nhà văn hóa
lao động, câu lạc bộ công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, các hoạt động văn hóa,
thể dục thể thao nhằm xây dựng đời sống văn hóa cho công nhân, đấu tranh chống các
trào lưu văn hóa lai căng, phản động; giữ gìn phát huy truyền thống và phát huy bản sắc
dân tộc.
Thực hiện tốt những điều đó sẽ tạo ra những điều kiện cho sự phát triển ngày càng
lớn mạnh của đội ngũ công nhân Nghệ An trong giai đoạn mới.
2.3.2.3. Giải pháp về chính sách:
Suốt đời, Hồ Chí Minh chỉ có một mục đích là phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ
quốc và hạnh phúc của nhân dân. Với cương vị là lãnh tự tối cao của Đảng, Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người nhấn mạnh: mọi đường lối, chủ trương, chính
sách đều chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ cũng hết
sức làm. Người luôn luôn tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làn cho dân có mặc,
phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. Những vấn đề đó vẫn đang
được đặt ra trong việc xây dựng hệ thống chính sách xây dựng GCCN hiện nay. Bởi lẽ,
sự phát triển và biến động của GCCN nước ta có sự liên quan chặt chẽ với đường lối phát
triển kinh tế và chính sách sử dụng các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Chính sách xã hội, một mặt thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với
GCCN; mặt khác là sự thể hiện và phục vụ đường lối chính trị của từng thời kỳ. Chính
sách xã hội thì nhiều, nhưng cơ bản có hai loại: Chính sách đảm bảo xã hội như về thu
nhập, về đời sống, giải quyết các tranh chấp lao động, bảo hiểm xã hội... và các chính sách
khuyến khích xã hội như: chính sách thi đua khen thưởng; các chính sách thu hút những
người lao động đi đến những nơi cần thiết, làm những việc khó khăn; các chính sách về
phát huy sáng kiến, phát minh, sáng chế; các chính sách phát hiện, bồi dưỡng và bảo vệ tài
nguyên. Các chính sách xã hội tác động vào giai cấp công nhân có vai trò to lớn. Nó tạo ra
những đảm bảo xã hội và những khuyến khích xã hội, tạo động lực khai thác và phát huy
những tiềm năng của GCCN trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Chính sách xã hội tạo
điều kiện cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện điều kiện sống, nâng cao sức khỏe, nâng
cao mức sống vật chất và tinh thần cho GCCN, sẽ góp phần tích cực ổn định GCCN về mặt
kinh tế, chính trị, xã hội, đồng thời tạo ra những động lực vật chất và tinh thần to lớn cho
sự phát triển của GCCN. Cùng với các chính sách khác (chính sách kinh tế, văn hóa, chính
trị...), các chính sách xã hội là một chất keo gắn bó người công nhân với nhà máy, xí
nghiệp, với chế độ ta. Các chính sách xã hội đối với GCCN phải tạo ra được động lực về
vật chất và tinh thần cho sự phát triển GCCN đáp ứng yêu cầu CNH -HĐH đất nước, nhu
cầu của công nhân hiện nay là những lợi ích thiết thân về việc làm và thu nhập, nhu cầu
ngày càng tăng về văn hóa. Vì vậy, việc xây dựng các chính sách nhằm đảm bảo lợi ích của
GCCN phải tập trung vào những vấn đề này để tạo động lực cho GCCN vươn lên đấu tranh
trong công cuộc đổi mới đất nước.
a. Chính sách giải quyết việc làm và điều kiện làm việc cho đội ngũ công nhân
- Chính sách giải quyết việc làm:
Chính sách này có liên quan trực tiếp đến quy mô số lượng và chất lượng của
GCCN. Để xây dựng chính sách giải quyết việc làm, trước hết tỉnh cần chú trọng công
tác điều tra nhu cầu thị trường lao động (nắm yêu cầu số lượng, cơ cấu, chất lượng các
ngành nghề... từ các cơ quan doanh nghiệp), điều tra lập danh sách lao động, thất nghiệp
từ xã, phường, số lao động đang học trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp,
dạy nghề. Thiết lập mạng thông tin về thị trường lao động, trung tâm lao động và chợ
việc làm. Tiến tới hàng năm lập dự báo nhu cầu lao động và các thông tin về thị trường
lao động để cung cấp cho xã hội.
Trên cơ sở những chính sách vĩ mô của Nhà nước, tỉnh cần điều chỉnh bổ sung
chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề tạo việc làm mới, trong đó đặc biệt chú
trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, ngành nghề truyền thống nông thôn, các
cơ sở công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ, công nghiệp hướng về xuất khẩu tạo nhiều
chỗ làm việc mới ở các khu công nghiệp, các đô thị. Ban hành chính sách hỗ trợ việc làm
cho các địa phương đảm bảo giải quyết kịp thời và hướng nguồn vốn vay và hỗ trợ người
lao động tổ chức việc làm và phát triển thêm ngành nghề mới. Trong đó chú trọng vốn
vay cho học sinh, sinh viên tốt nghiệp đại học và sau học nghề, thanh niên hoàn thành
nghĩa vụ quân sự cần vốn vay để tổ chức sản xuất tạo việc làm.
- Chú trọng cải thiện điều kiện làm việc cho đội ngũ công nhân:
ở Nghệ An, môi trường làm việc của đội ngũ công nhân nhiều nơi còn yếu kém.
Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn nhiều. Việc tăng cường độ và thời gian lao
động của các doanh nghiệp ngoài nhà nước khiến sức khoẻ của công nhân lao động
không đảm bảo, có nguy cơ giảm sút nghiêm trọng. Do vậy, biện pháp cấp bách hiện nay
là chú trọng cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho công nhân Nghệ An như tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về vệ sinh môi trường, an
toàn lao động. Kiểm tra việc chấp hành luật và các điều khoản liên quan đến bảo vệ sức
khoẻ người lao động, xữ lý nghiêm các trường lợp vi phạm, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh điều kiện lao động không đảm bảo phải dừng ngay sản xuất và có biện pháp cụ thể
để doanh nghiệp phải chấp hành các quy định về an toàn lao động và trang bị các phương
tiện bảo hộ lao động cũng như các điều khoản trong Luật lao động và Luật công đoàn...
nhằm tạo ra môi trường ngày càng tốt cho hoạt động của người công nhân trong sản xuất.
b. Chính sách tiền công, tiền lương lao động, tiền thưởng:
ở Nghệ An, đội ngũ công nhân làm việc trong các DNNN còn chiếm tỷ lệ khá lớn.
Đối với những người công nhân này thì hầu hết họ không có nguồn thu nhập nào khác
ngoài lương với mức lương do Nhà nước quy định. Vì vậy, tiền lương, tiền công là thu
nhập chủ yếu, quan trọng nhất đối với công nhân lao động, không chỉ để tái tạo ra sức lao
động mà còn để công nhân tổ chức cuộc sống của mình. Chính sách tiền lương là chính
sách ở tầm vĩ mô của Nhà nước, Nhà nước cần tiếp tục cải cách chế độ tiền lương đối vơi
khu vực sản xuất kinh doanh đặc biệt đối với những người lao động sản xuất trực tiếp.
Xây dựng các thang bảng lương hợp lý, trong đó khoảng cách của mỗi bậc lương đáng kể
để khuyến khích công nhân học tập nâng cao tay nghề.
c. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật lao động
Trong những năm qua, các doanh nghiệp ở Nghệ An đã thực hiện tương đối đầy
đủ chế độ bảo hiểm đối với người lao động, nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót. Một số doanh
nghiệp khi ký kết hợp đồng lao động thường lợi dụng sự kém hiểu biết của người lao
động ký hợp đồng thời hạn ngắn để khỏi chi trả phí bảo hiểm. Bản thân công nhân do
thiếu hiểu biết cũng không muốn đóng bảo hiểm xã hội. Doanh thu của các doanh nghiệp
còn thấp chỉ đủ trả lương cho người lao động nên dư nợ bảo hiểm xã hội còn lớn. Để
khắc phục tình trạng trên, cần một mặt tuyên truyền về quyền lợi của người lao động khi
tham gia bảo hiểm xã hội, mặt khác đề ra quy định bắt buộc các doanh nghiệp và người
lao động phải đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ. Giảm bớt các thủ tục khi thanh toán chi trả
bảo hiểm xã hội, xữ phạt nghiêm với những tổ chức và cá nhân cố tình vi phạm không
đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Có cơ chế giám sát việc thực hiện các chế độ
thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, chế độ nghĩ ngơi đối với người lao động... Thực hiện
tốt chế độ bảo hiểm xã hội góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động tạo
sự ổn định trong đời sống của công nhân lao động trong giai đoạn tiếp theo.
d. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động kĩ thuật
Ban hành chính sách nhằm khuyến khích mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng
công tác đào tạo nghề, chuẩn bị đủ số lao động, cơ cấu và chất lượng lao động cho sự
phát triển kinh tế xã hội, trong đó chú trọng chuẩn bị lao động cho các ngành kinh tế mũi
nhọn, kinh tế mới (Du lịch, thủy sản, vật liệu xây dựng, đóng tàu biển, cảng biển, giao
thông vận tải...) và các nghề dịch vụ và hoạt động sự nghiệp (giáo dục, y tế, thể dục thể
thao, môi trường, bảo hiểm...) và cho các thành phần kinh tế. Phát triển hướng đào tạo
nghề theo địa chỉ, khuyến khích hình thức đào tạo nghề để người lao động tự tổ chức sản
xuất tại gia đình hoặc tự lập cơ sở sản xuất kinh doanh.
Tranh thủ nguồn vốn của bộ, ngành chủ quản để ban hành chính sách đầu tư trang
thiết bị thực hành, nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên, Có chính sách đầu tư về kinh
phí đào tạo, đãi ngộ, sử dụng công nhân làm nghề nặng nhọc, độc hại, công nhân sản xuất
than hầm lò, cán bộ công nhân kỹ thuật trồng trọt, thú y, chăn nuôi, lâm nghiệp, nông
nghiệp.
e. Chính sách nhà ở và bảo vệ sức khỏe cho công nhân:
ở Nghệ An, nhu cầu về nhà ở, điều kiện sinh hoạt tối thiểu là một trong những vấn
đề cấp thiết hiện nay đối với những người công nhân. Vì vậy, giải quyết tốt vấn đề nhà ở,
đáp ứng nhu cầu về điện, nước, phương tiện đi làm, trường học, bệnh viện, cơ sở văn hóa,
thể thao cho công nhân lao động là vô cùng quan trọng. Trước mắt cần sớm hoàn thiện
chính sách nhà ở và chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở theo hướng Nhà
nước và doanh nghiệp bỏ vốn xây dựng nhà ở cho công nhân thuê (bán trả góp) hoặc huy
động vốn từ công nhân. Phối hợp với các doanh nghiệp xây dựng khu gia đình tập thể
nhằm giải quyết chỗ ở cho công nhân.
2.3.2.4. Giải pháp về tổ chức:
a. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố tổ chức Công đoàn, tổ chức
Đoàn thanh niên trong các doanh nghiệp
Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng đội ngũ công nhân vững mạnh, đồng thời
đảm bảo những điều kiện chính trị - xã hội thuận lợi, phát huy quyền làm chủ thực sự,
thực hiện thắng lợi vai trò lịch sử của công nhân thì song song với quá trình đổi mới kinh
tế, đổi mới giáo dục, văn hóa... cần tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố
tổ chức Công đoàn, tổ chức Đoàn thanh niên trong các doanh nghiệp
- Về nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp:
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, bộ phận tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân. Bởi vậy, vai trò của giai cấp công nhân sẽ không thể phát huy được nếu
Đảng. đội tiên phong của nó không trong sạch, vững mạnh, không được kiện toàn về tổ
chức và đổi mới về phương pháp lãnh đạo. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và có ý
nghĩa quyết định để xây dựng và phát huy vai trò của GCCN trong sự nghiệp đẩy mạnh
sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Ngày nay, trước những biến động phức tạp về tình hình chính trị - xã hội trong
nước và trên thế giới, trước những tác động tiêu cực từ sự thoái trào của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, cũng như ý đồ chống phá của những thế lực thù địch của
CNXH; quá trình phát triển ngày càng đông đảo đội ngũ công nhân ở khu vực ngoài quốc
doanh, nơi mà tổ chức Đảng khó có điều kiện hiện diện và hoạt động thuận lợi như trong
DNNN... đang là một vấn đề đặc biệt quan trọng đòi hỏi sự tăng cường lãnh đạo của
Đảng đối với sự phát triển của phong trào công nhân, đảm bảo cho sự phát triển phong
trào công nhân theo đúng định hướng và GCCN hình thành vai trò lịch sử của mình.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng phải được tiến hành ở tất cả các cấp, các ngành
đối với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Đổi mới phương
thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao động và vai
trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp.
Để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp của tỉnh cần phải:
+ Về nhận thức: Đảng viên trong các doanh nghiệp ngày càng đông do vậy phải
khẳng định vai trò của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp, đã hình thành doanh nghiệp
phải có tổ chức đảng, có tổ chức đảng thì tổ chức đảng phải lãnh đạo và tham gia lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp.
+ Các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp phải thực hiện đúng chức năng nhiệm
vụ theo các quy định và hướng dẫn của Trung ương; cấp ủy phải xây dựng, thực hiện quy
chế làm việc; xây dựng mối quan hệ giữa cấp ủy với Hội đồng quản trị, giữa bí thư với
giám đốc trong doanh nghiệp đồng thuận.
+ Xây dựng đội ngũ cấp ủy có năng lực và phẩm chất; đề cao vai trò trách nhiệm của
đảng viên, đặc biệt vai trò của bí thư và giám đốc doanh nghiệp.
+ Lãnh đạo, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh; chủ động đề xuất với cấp ủy
cấp trên, giám đốc doanh nghiệp xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ trong doanh nghiệp.
+ Tổ chức đảng trong doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác kiểm tra đối với
doanh nghiệp về việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
kiểm tra việc thực hiện quy định của Điều lệ Đảng.
+ Duy trì sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, đảm bảo và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, nâng cao tự phê bình và phê bình, đề cao trách nhiệm của cấp ủy, bí thư chi bộ trong
việc lãnh đạo, kiểm tra thực hiện nghị quyết Đảng.
+ Đẩy mạnh công tác kết nạp đảng viên mới và thành lập tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh; cấp ủy cấp trên chỉ đạo phát triển đảng viên ở những
doanh nghiệp chưa có đảng viên và những doanh nghiệp có đảng viên nhưng chưa đủ
điều kiện để lập tổ chức đảng; trong khi chờ quy định của Trung ương, Ban Tổ chức Tỉnh
ủy nghiên cứu hướng dẫn về tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình kết nạp Đảng viên là chủ
doanh nghiệp.
b. Về củng cố tổ chức Công đoàn
Xây dựng GCCN vững mạnh, đủ sức vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo, là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp đổi mới, thực hiện CNH - HĐH đòi hỏi phải xây dựng tổ chức công đoàn vững
mạnh ở cơ sở và từ cơ sở. Đó chính là các tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp ở mọi
thành phần kinh tế.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN Việt Nam, là nơi vận
động giáo dục, nuôi dưỡng và rèn luyện công nhân, viên chức, lao động về mọi mặt làm
chỗ dựa vững chắc cho Nhà nước, làm cầu nối liền giữa Đảng với quần chúng công nhân,
viên chức, lao động, làm nòng cốt trong khối liên minh công - nông - trí thức.
Chức năng của Công đoàn là đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người lao động, tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm,
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; đại diện và tổ chức người lao
động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật; tổ chức giáo
dục động viên người lao động; phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ
công dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Một tổ chức Công đoàn vững mạnh và thật sự có tác dụng thiết thực, hữu ích nếu
nó tỏ rõ sức hấp dẫn, lôi cuốn được đông đảo công nhân. Một khi công nhân và lao động
cảm nhận được tổ chức Công đoàn thực sự gần gũi, thân thiết với mình, cảm thấy có nhu
cầu gắn bó với công đoàn, tự giác và tích cực tham gia hoạt động của công đoàn thì chính
những dấu hiệu đó đồng thời cho thấy sự trưởng thành ý thức chính trị của công nhân và
tác dụng tích cực của công đoàn. Đây là những nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh có hiệu quả.
Muốn phát triển được nhanh chóng đoàn viên công đoàn, trước hết phải xây dựng
tổ chức công đoàn cơ sở vững mạnh; phải có chủ trương, chính sách và phương thức tập
hợp công nhân một cách thích hợp với điều kiện môi trường thực tế. Muốn thế, công
đoàn cơ sở phải xác định trọng tâm công tác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của công đoàn đã được pháp luật quy định, phù hợp với điều kiện thực tiễn của tổ
chức công đoàn và phong trào công nhân tại cơ sở. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh để công đoàn thực sự là chỗ dựa, niềm tin của
công nhân lao động, là nơi họ có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình.
Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh Nghệ An cần quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn mà trước hết là cán bộ công đoàn chủ chốt cấp trên
cơ sở và chủ tịch công đoàn cơ sở, đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn vững mạnh
"vừa hồng, vừa chuyên" đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH. Trước hết
Liên đoàn lao động tỉnh phải có kế hoạch chiến lược xây dựng cán bộ công đoàn phục vụ
đắc lực cho công tác công đoàn trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Từ việc xây dựng
danh hiệu chuẩn cán bộ công đoàn các cấp đến việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
lựa chọn nội dung, chương trình đào tạo đến phương pháp, phương thức đào tạo... nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn nhiệt tình công tác công đoàn, am hiểu chuyên môn
và hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở, nắm vững luật pháp, chính sách có liên
quan đến công nhân lao động. Có chính sách thu hút cán bộ giỏi trong các thành phần
kinh tế tham gia hoạt động công đoàn, coi trọng sử dụng cán bộ công đoàn không chuyên
trách với việc bảo đảm thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với cán bộ công đoàn để
họ yên tâm mang hết năng lực, nhiệt tình vào công tác công đoàn.
Thường xuyên đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống
cho GCCN theo chương trình giáo dục huấn luyện của Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn, nhất là người đứng đầu
các tổ chức Công đoàn cơ sở đảm bảo chọn đúng người có uy tín, trình độ chuyên môn
cao, năng lực vận động quần chúng, tổ chức tốt quần chúng tham gia hoạt động công
đoàn. Tìm tòi, thể nghiệm những đổi mới về nội dung, phương pháp hoạt động công đoàn
sao cho giản dị, sâu sắc, thiết thực, phù hợp với lòng dân, ở đây là quần chúng công nhân.
Hơn nữa, Công đoàn phải thường xuyên phát huy dân chủ, thực hiện dân chủ, đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng.
Xây dựng công đoàn vững mạnh là góp phần quan trong trong việc xây dựng và
phát huy vai trò của GCCN.
c. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh
niên, trong đó có thanh niên công nhân , vì thế, tổ chúc Đoàn có vai trò quan trọng trong
tập hợp công nhân lao động trẻ, hướng họ vào các hoạt động chung, có định hướng chính
trị, định hướng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có cơ hội phát triển tài năng, sở thích
để trở thành người công nhân tốt, những quần chúng ưu tú có thể giới thiệu họ vào Đảng.
Thực tế hiện nay ở Nghệ An hoạt động của Đoàn thanh niên cũng đặt ra những điểm
đáng lưu ý: Tổ chức Đoàn chủ yếu hoạt động có hiệu quả trong khối hành chính sự
nghiệp và trong các doanh nghiệp quốc doanh. Còn đa số các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, hoạt động Đoàn còn nhiều yếu kém. Lợi thế của đoàn thanh niên trong vận động,
tập hợp công nhân trẻ là ở phương thức hoạt động rất dễ lôi cuốn có thể thông qua các
hoạt động vui chơi giải trí, hoạt động văn hoá thể thao. Trên cơ sở những hoạt động đó
Đoàn thanh niên có thể lồng ghép có hiệu quả các nội dung tuyên truyền mục tiêu, lý
tưởng, định hướng chính trị, giác ngộ giai cấp cho thanh niên công nhân. Trong điều kiện
hiện nay, để đẩy mạnh hoạt động của Đoàn thanh niên, xây dựng và cũng cố tổ chức
Đoàn trong sạch, vững mạnh trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, các tổ chức đoàn
cần đổi mới nội dung, phương thức, hình thức hoạt động cho phù hợp để tập hợp, thu hút
thanh niên công nhân tham gia vào các hoạt động do Đoàn tổ chức như: tổ chức các cuộc
thi tay nghề, luyện thợ giỏi, thi đua lao động sáng tạo, khuyến khích các phong trào học
văn hoá, ngoại ngữ, tin học, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật; tổ chức nghe thời
sự, các cuộc thi tìm hiểu về đường lối, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tìm
hiểu về Đảng, Đoàn, vị trí, vai trò lịch sử của GCCN. Qua những hoạt động trên làm cho
thanh niên công nhân thấy rõ vinh dự, tự hào cũng như trách nhiệm của mình trong xây
dựng tổ chức Đoàn, phấn đấu trở thành những công nhân hội đủ những phẩm chất cần
thiết đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới. Để thực hiện tốt những điều này, tổ chức
Đoàn phải được kiện toàn từ cấp tỉnh xuống đến từng cơ sở sản xuất. Nếu không xây
dựng được tổ chức đoàn thì việc tập hợp, vận động thanh niên công nhân để thực hiện
những nhiệm vụ chính trị của đoàn là vô cùng khó khăn. Tỉnh phải đầu tư về kinh phí để
hỗ trợ cho các hoạt đọng của đoàn, tăng hiệu quả thu hút đoàn viên. Công tác cán bộ
cũng cần phải được chú trọng, không thể có tổ chức đoàn vững mạnh trong khi cán bộ
làm công tác đoàn yếu kém về năng lực và trình độ.
Kết luận
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm về GCCN Việt Nam được
Người nhận thức đúng đắn, khoa học, là giai cấp có sứ mệnh lịch sử đưa cách mạng Việt
Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Để GCCN hoàn thành được sứ mệnh lịch sử đó, Người
chỉ rõ: Trước hết và hơn ai hết giai cấp công nhân phải giác ngộ quyền lợi giai cấp, giác
ngộ xã hội chủ nghĩa ra sức học tập, trau dồi văn hoá, chính trị và kỹ thuật, nâng cao trình
độ về mọi mặt, gương mẫu trong sản xuất và trong cuộc sống, đặc biệt, nâng cao tinh
thần làm chủ tập thể, mạnh dạn đấu tranh. Vì vậy, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, GCCN Việt Nam mà đội tiên phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn nêu cao bản chất cách mạng, lãnh đạo toàn dân tộc làm nên những
thắng lợi lịch sử vô cùng to lớn.
Ngày nay, trong xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, nhất là
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đội ngũ công nhân Nghệ An nói riêng đã
tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đang tiếp tục phát
huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục làm nên những kỳ tích mới.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế đội ngũ công nhân Nghệ An đang bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là trình độ học vấn,
chuyên môn nghiệp vụ, nhận thức chính trị, ý thức tổ chức kỹ luật, tác phong công nghiệp,
kiến thức pháp luật và giác ngộ giai cấp của một bộ phận công nhân lao động còn thấp,
nhất là công nhân mới, công nhân trẻ từ nông thôn, nông dân bổ sung cho giai cấp công
nhân. Thậm chí, có một số người phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, sa vào
tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng tới bản chất tốt đẹp của GCCN.
Đặc biệt, những biểu hiện tiêu cực lại đanh diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới diễn
biến phức tạp, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội về chính trị đang âm mưu chống phá
nhà nước ta hòng làm mất ổn định chính trị và gây những khó khăn, thách thức trong quá
trình hội nhập.
Tất cả những vấn đề trên sẽ tiếp tục tồn tại trong thời gian dài và xu hướng sẽ tiếp
tục gia tăng nếu không có những giải pháp tích cực nhằm giảm thiểu sự phát triển của
những xu hướng tiêu cực đó.
Để xây dựng đội ngũ công nhân Nghệ An trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về GCCN đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, phải hình thành một số
thống các nhóm giải pháp, đồng thời phải kết hợp đồng bộ, có hiệu quả các nhóm giải
pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân Nghệ An trong tình hình mới. Những nhóm giải
pháp đó là:
- Giải pháo về nhận thức
- Giải pháp về giáo dục
- Giải pháp về chính sách
- Giải pháp về tổ chức
Đây là những nhóm giải pháp then chốt, vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa mang
tính thiết thực trước mắt. Bốn giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân Nghệ An đã nêu
trên không thể biệt lập nhau mà là hệ thống đồng bộ, một chỉnh thể cùng hướng vào xây
dựng đội ngũ công nhân Nghệ An dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với sự
nghiệp CNH, HĐH hiện nay.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Trương Công Anh (2000): Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Nghệ An,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tỉnh.
2. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2008):
Đảng cộng sản Việt Nam với giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, Nxb
Lao động, Hà Nội.
3. PGS. Phan Văn Ban và các cộng tác viên (1998): Bản sắc con người Nghệ An trong
tiến trình lịch sử và qua những năm của sự nghiệp đổi mới, Đề tài NCKH cấp
tỉnh.
4. Báo cáo Tổng quan (8 - 2000) Về giai cấp công nhân hiện đại; phong trào cộng sản và
công nhân; trào lưu xã hội dân chủ trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đề tài
KHXH 06 - 07, chủ nhiệm TS. Đào Duy Quát, Hà Nội.
5. Bùi Đình Bôn (1997): Một số vấn đề về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bùi Đình Bôn (1999): Giai cấp công nhân Việt Nam mấy vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Lao động, Hà Nội.
7. Cục thống kê Nghệ An, Niên giám thống kê năm 2004, Tháng 8, 2005.
8. Cục thống kê Nghệ An, Niên giám thống kê năm 2007, Tháng 8, 200 8
9. PGS. TS Đoàn Minh Duệ (2005): Trí thức Nghệ An trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, Nxb Nghệ An.
10. PGS. TS Đoàn Minh Duệ, TS Đinh Thế Định (2002): Nông dân Nghệ An trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Nghệ An,
11. PGS, TS Đoàn Minh Duệ, TS Đinh Thế Định (2003): Kết hợp giữa phát triển kinh tế
và giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn Bắc Trung Bộ trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Nghệ An.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội , Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành
Trung ương Đảng, khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung
ương Đảng khoá X. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng bộ, chính quyền và Liên đoàn lao động tỉnh Nghệ An (1986 - 2008): Các văn
bản liên quan đến giai cấp công nhân.
18. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
(1 – 2009), Kỷ yếu hội thảo khoa học xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong tiến trình đổi mới Hà Nội.
19. GS. Trần Văn Giàu (1958): Giai cấp công nhân Việt Nam – Sự hình thành và phát
triển từ giai cấp tự mình đến giai cấp cho mình, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. V.I Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, M1977.
21. Lê Thanh Hà (2007) : Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân
trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2006), Nxb Lao động, Hà Nội.
22. GS Lê Bá Hán, PGS Đoàn Minh Duệ (2001): Con người Nghệ An trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Nghệ An.
23. PGS Phạm Minh Hùng và các cộng tác viên (1998): Vai trò của gia đình trong giáo
dục con người ở Nghệ An, Đề tài NCKH cấp tỉnh.
24. GS.TS Đỗ Quang Hưng (2008): Chủ tịch Hồ Chí Minh với giai cấp công nhân và
Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội - Xã hội.
25. Phan Thanh Khôi (2003): ý thức chính trị của giai cấp công nhân trong một số doanh
nghiệp ở Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Liên Đoàn lao động Tỉnh Nghệ An, Báo cáo tổng kết hoạt động Công đoàn Nghệ An năm
2006, nhiệm vụ trọng tâm 2007.
27. Liên Đoàn lao động Tỉnh Nghệ An, Báo cáo tổng kết hoạt động Công đoàn Nghệ An năm
2007, nhiệm vụ trọng tâm 2008.
28. Liên Đoàn lao động Tỉnh Nghệ An, Báo cáo tổng kết hoạt động Công đoàn Nghệ An năm
2008, nhiệm vụ trọng tâm 2009.
29. Liên Đoàn lao động Tỉnh Nghệ An, Báo cáo của Ban chấp hành LĐLĐ tỉnh Nghệ An
khoá XV tại Đại hội Công đoàn Nghệ An khoá XVI.
30. Liên Đoàn lao động Tỉnh Nghệ An, Văn kiện Đại hội Công đoàn Nghệ An lần thứ XV
(2003-2008 )Báo cáo của Ban chấp hành LĐLĐ tỉnh Nghệ An khoá XV tại Đại hội
Công đoàn Nghệ An khoá XVI.
31. Liên Đoàn lao động Tỉnh Nghệ An, Báo cáo của Ban chấp hành LĐLĐ tỉnh Nghệ An
khoá VXI nhiệm kỳ 2008 - 2013.
32. Liên Đoàn lao động Tỉnh Nghệ An, Lịch sử công nhân và Công đoàn Nghệ An, Tập I, II,
III, IV.
33. Thảo Linh, Minh Châu, Trung Kiên (2007): Chủ tịch Hồ Chí Minh với giai cấp công
nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội,
34. Luật công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội, 1994.
35. Luật doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
36. Luật đầu tư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
37. Nguyễn Văn Lan (2004): Phong trào công nhân ở các nước tư bản hiện nay thực
trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. V.I Lênin (2005): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
39. PGS. Cao Văn Lượng (2001): Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển của
giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
40. C. Mác và Ph. ăngghen (2002) : Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. C. Mác và Ph. ăngghen (2002) : Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
42. C. Mác và Ph. ăngghen (2002) : Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (2002) : Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (2002) : Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2002) : Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh(2002): Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Trình Mưu (1995): Quan điểm giai cấp trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí minh với giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam,
Nxb Lao động, Hà Nội.
56. PGS. TS Dương Xuân Ngọc (2004): Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Nguyễn An Ninh (2004): Một số vấn đề nổi trội trong quá trình phát triển về lượng
và về chất giai cấp công nhân nước ta thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lao động và
Công đoàn, số 340 và 341.
58. Nguyễn An Ninh (2008): Vấn đề xu hướng công nhân hoá ở nước ta hiện, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Phòng Thương mại và Công nghiệp Hà Nội (2008): Bác Hồ với doanh nghiệp và
doanh nhân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. GS. Nguyễn Duy Quý, TS. Trần Văn Danh, TS. Thái Văn Cung (1994): Kinh tế - xã hội -
văn hoá tỉnh Nghệ An trong tiến trình đổi mới, Nxb Nghệ An.
61. Dương Văn Sao (2005): Công đoàn và phong trào thi đua trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội.
62. Dương Văn Sao(2005): Thực trạng và giải pháp đổi mới quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước với công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội,.
63. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Nghệ An, Đề án đào tạo công nhân kỹ thuật
bậc cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn 2006 -
2010.
64. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Nghệ An (6 - 2008), Báo cáo tình hình thực hiện
Đề án đào tạo công nhân kỹ thuật bậc cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Nghệ An giai đoạn 2006 - 2010.
65. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An ( 5 - 2009), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội quý I năm 2009, nhiệm vụ và giải pháp quý II năm 2009.
66. GS. Văn Tạo (1997). : Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. GS. Văn Tạo (2008): Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công
nhân tri thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Đan Tâm (1997): Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam - Một cách tiếp cận, Tạp
chí cộng sản, số 5 - 1997.
69. Đan Tâm (2002): Công đoàn Việt Nam thế kỷ 21 phát triển trong thách thức, Nxb
Lao động, Hà Nội,
70. Mai Thanh (2002): Định hướng xã hội chủ nghĩa với giai cấp công nhân và tổ chức
công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
71. Nguyễn Đăng Thành (2007): Về một số nghịch lý xuất hiện trong quá trình phát
triển giai cấp công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp
chí Lý luận chính trị, số 2, 2007, tr 30- 35.
72. Nguyễn Đăng Thành và Nguyễn Thanh Tuấn (2006): Đình công và một số vấn đề về
quan hệ lao động của công nhân hiện nay, Tạp chí Lao động xã hội, số 293 và
294, Hà Nội.
73. Mạch Quang Thắng: Đảng cộng sản Việt Nam với việc xây dựng giai cấp công nhân
trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí lịch sử Đảng, 88(3) tr 13-16.
74. TS. Nguyễn Thế Thắng (2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội từ góc
nhìn xã hội học, Nxb Lao động.
75. Nguyễn Đình Thể (1993): Công nhân Nghệ An - thực trạng và xu hướng biến đổi
trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
76. Lê Quang Thiệu (2008): Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước”
Nxb Thanh niên, Hà Nội,
77. PGS.TS Lê Văn Tích (2008): Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống - Mấy vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Tỉnh uỷ Nghệ An (1995), Văn kiện Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIV, Lưu hành nội
bộ.
79. Tỉnh uỷ Nghệ An (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV, Lưu hành nội
bộ Tỉnh uỷ Nghệ An, Văn kiện Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI, Lưu hành
nội bộ.
80. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2000): Toàn cầu hoá và phong trào công nhân
quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội.
81. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2000): Toàn cầu hoá và phong trào công nhân
quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội.
82. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1995): Hồ Chí Minh với công nhân và công đoàn
Việt Nam , Nxb Lao động, Hà Nội.
83. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (2003): Văn kiện đại hội công đoàn lần thứ IX
Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
84. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (2008): Văn kiện đại hội công đoàn lần thứ X
Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
85. Nguyễn Phú Trọng(2001): Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn, Nxb
Lao động, Hà Nội.
86. Trung tâm nghiên cứu tư liệu, lý luận, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1995):
Đổi mới chính sách xã hội đối với công nhân và thợ thủ công, Nxb Lao động,
Hà Nội.
87. Phạm Quang Trung, Cao Văn Biền, Trần Đức Cường (2001): Về thực trạng giai cấp
công nhân hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
88. Nguyễn Thanh Tuyền (1993), Thực trạng giai cấp công nhân và giải pháp Công
đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
89. Viện Công nhân và công đoàn (2002): Xu hướng biến động của giai cấp công nhân
Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, Hà Nội.
90. Viện Công nhân và Công đoàn (2003): Nâng cao hiệu quả công đoàn trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb Lao động, Hà Nội.
91. Viện Công nhân và Công đoàn (2004): Một số vấn đề xây dựng, phát huy vai trò giai
cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb
Lao động, Hà Nội.
92. Viện Công nhân và Công đoàn, Viện Priedrich Ebert (2005): Những tác động tới việc
làm, đời sống của người lao động và các giải pháp hành động công đoàn khi Việt
Nam gia nhập WTO, Nxb Lao động, Hà Nội.
93. PGS.TS Nguyễn Viết Vượng (2003): Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động,
Hà Nội.
94. Tham khảo các Web:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74_8984.pdf