Kết hợp “vị từ + tên bộ phận cơ thể người” cho phép người viết thấy người Việt
đã tri nhận những quá trình phức tạp như thế nào: họ đơn giản hóa quá trình đó, đó
cũng là cách tri nhận phổ biến phản ánh trong các ngôn ngữ khác trên thế giới.
Nói chung, qua những kết hợp “vị từ + tên bộ phận cơ thể người” có thể thấy
người Việt nhìn thế giới với con mắt thơ ngộ. Nó có thể không giống với thế giới mà
các nhà khoa học miêu tả nhưng nó hiệu quả trong việc tiếp nhận cái mới và nó mang
dấu ấn văn hóa đậm nét.
Để kết thúc, người viết muốn nói rằng ngôn ngữ học tri nhận nói chung và ẩn dụ
tri nhận nói riêng ở Việt Nam không phải là mới nhưng cũng chưa cũ và còn nhiều
vấn đề có thể tiếp tục tìm hiểu. Và bất kì vấn đề nào cũng có chỗ thuận lợi và khó
khăn khi nghiên cứu. Dù đã rất cố gắng nhưng luận văn này chắc chắn vẫn có rất
nhiều thiếu sốt và mang nhiều tính chủ quan, người viết rất mong nhận được sự góp ý
của quý thầy cô để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
112 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1070 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Về cấu trúc “vị từ + tên gọi bộ phận của cơ thể người” (kiểu như mát tay, lên mặt, nóng ruột…), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoa và kiến thức
ngôn ngữ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, bằng chứng là có hai loại từ điển khác
nhau: từ điển bách khoa và từ điển ngôn ngữ.
Xem xét ẩn dụ ý niệm tức là nói đến bức tranh ngôn ngữ mà cộng đồng người
bản ngữ tạo ra dựa trên những hiểu biết về thế giới xung quanh và được phản ánh
trong ngôn ngữ. Như vậy có thể nói nhiệm vụ của ngôn ngữ là phản ánh thế giới
trong tâm trí con người chứ không phản ánh thế giới bên ngoài. Điều này liên quan
đến ý kiến của nhiều nhà ngôn ngữ học về nghĩa trong ngôn ngữ. Họ cho rằng ngữ
nghĩa không phải được xây dựng trên cơ sở các điều kiện khách quan có giá trị chân
ngụy, nó không hề đối ứng với thế giới khách quan mà đối ứng với thế giới phi khách
quan được phóng chiếu lại trong ý thức và đồng thời nó có quan hệ trực tiếp với cấu
trúc ý niệm được định ước trong đó. Sự hình thành các cấu trúc ý niệm này có quan
hệ chặt chẽ với kinh nghiệm và các chiến lược tri nhận của con người. Ở phần này
người viết trình bày một số ẩn dụ tri nhận mà người viết khái quát được dựa trên ngữ
liệu đã thu thập được và dựa vào kinh nghiệm bản thân.
Ẩn dụ tri nhận ở đây được phân chia dựa theo cách phân chia của Lakoff và
Thomson, tức là gồm có ba loại:
Ẩn dụ bản thể
Ẩn dụ cấu trúc
Ẩn dụ định hướng
Sự phân chia trên chỉ mang tính chất tương đối, thực tế có những ẩn dụ khó có
thể phân định rạch ròi thuộc vào loại nào trong ba loại trên vì ranh giới giữa ba loại
trên là một ranh giới mờ và một ẩn dụ có thể liên quan đến nhiều ẩn dụ khác, tạo nên
một mạng lưới, một bức tranh rộng lớn không có ranh giới rõ ràng
3.2. Một số ẩn dụ tri nhận cụ thể
3.2.1. Ẩn dụ bản thể
BỤNG, DẠ LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC, SUY NGHĨ
Với nghĩa đen là một bộ phận của cơ thể, bụng cũng đã là một vật chứa các cơ
quan nội tạng, từ đó theo con đường ẩn dụ bụng trở thành vật chứa cảm xúc, suy nghĩ
và trong tiếng Việt có những kết hợp:
Bấm bụng: cố chịu đựng, không để lộ ra cho ai biết
Anh ấy bấm bụng chịu đau chú không kêu la.
Định bụng: có ý định làm việc gì
Bà ấy định bụng là mai sẽ đi.
Hẹp bụng: thiếu độ lượng trong cách đối xử, ăn ở
Cô ấy là người hẹp bụng.
Để bụng: giữ trong lòng không nói ra hoặc ghi nhớ những sai sót nhỏ của người khác
đối với mình một cách cố chấp, khó chịu
Tôi nói không phải anh đừng để bụng.
Nghĩ bụng: suy nghĩ và có nhận định, đánh giá về một vấn đề nào đó, nhưng không
nói ra
Nó nghĩ bụng họ thì cũng có tốt đẹp gì mà chê mình.
Kiến thức khoa học cho chúng ta biết bụng không phải là vật chứa cảm xúc, suy
nghĩ nhưng tri thức thơ ngộ hay nói cách khác là cách con người tri nhận về thế giới
lại cho rằng bụng chứa cảm xúc, suy nghĩ. Kiến thức khoa học tất nhiên được nhân
loại chấp nhận nhưng kiến thức thơ ngộ thể hiện trong ngôn ngữ vẫn có chỗ đứng
không thể thay thế và vì vậy những kết hợp như hẹp bụng, định bụng hay để bụng
vẫn tồn tại hằng ngày trong những cuộc đối thoại của người Việt. Văn hóa nông
nghiệp coi trọng sự quân bình âm dương (tâm – thận); trong đó cái âm làm chủ cái
dương, cái tĩnh làm chủ cái động (thận làm chủ tâm); cái vô hình làm chủ cái hữu
hình (tạng, mệnh môn làm chủ cơ thể). Với nhận thức về tầm quan trọng của vùng
bụng (chứa thận) đối với cơ thể và cuộc sống, người Việt Nam đã lấy lòng làm biểu
trưng của tình yêu (phải lòng nhau); thậm chí lấy trung tâm thể xác làm trung tâm
lí trí (sáng dạ, tối dạ, nghĩ bụng, bụng bảo dạ, suy bụng ta ra bụng người) [34, tr.
83]
NÃO LÀ VẬT CHỨA
Kiến thức khoa học cho chúng ta biết rằng não là khối tập trung các thần kinh
trung ương nằm trong sọ và con người suy nghĩ nhờ có bộ não. Quá trình tư duy của
con người là một quá trình phức tạp nhưng trong tiếng Việt nó đã được đơn giản hóa.
NÃO LÀ VẬT CHỨA ở đây tức là nói rằng não chứa suy nghĩ và tiết ra suy nghĩ
giống như gan tiết ra mật hay dạ dày tiết ra dịch vị. Điều này xét về mặt khoa học là
không đúng nhưng đó là cách người Việt tri nhận về quá trình suy nghĩ của con người
và phản ánh nó vào ngôn ngữ. Cách tri nhận này tương tự như triết học duy lí khi cho
rằng cơ thể con người có cơ chế hoạt động như một cỗ máy. Các cơ quan trong cơ thể
được lắp ghép vào nhau. “Ảnh hưởng của những quan niệm máy móc, cũng coi các
cơ thể động vật như một cái máy. Đó chính là hệ thống trong đó mọi cơ quan kết cấu
chặt chẽ với nhau tựa như các bộ phận trong chiếc đồng hồ vậy.” [48, tr. 207].
Người Việt biết con người suy nghĩ bằng cái đầu và cũng giống như rất nhiều
cách nói ẩn dụ khác, người Việt biến một quá trình tư duy, suy nghĩ phức tạp thành
một quá trình cơ học dễ hiểu: suy nghĩ tiết ra từ não. Cách tri nhận này thể hiện qua
những kết hợp:
Bóp óc: cố sức suy nghĩ một cách vất vả
Nó có bóp óc cũng không tìm ra kế sách gì.
Nặn óc: cố suy nghĩ rất lâu, rất vất vả
Nó đang nặn óc viết cho xong bài làm văn.
Vắt óc: vận dụng trí óc một cách hết sức căng thẳng
Cả đội vắt óc suy nghĩ mãi mà vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân.
Những ví dụ trên cũng minh họa cho một ẩn dụ bản thể khác có liên quan: SUY
NGHĨ LÀ DÒNG CHẢY vì những động từ bóp, nặn, vắt đều có thể được dùng với
nghĩa là tác dụng lực làm chất lỏng chảy ra.
GAN CHỨA SỰ TỨC GIẬN
Cũng như quan niệm “não tiết ra dòng suy nghĩ, ý tưởng”, quan niệm cho rằng
“gan chứa sự tức giận” cũng là cách người Việt đơn giản hóa một quá trình phức tạp.
Theo luận án của Phan Thế Hưng, gan là một bộ phận liên quan đến việc diễn
đạt sự tức giận trong tiếng Việt, nhưng trong tiếng Anh thì không. Sự khác biệt này
liên quan đến văn hóa của hai dân tộc. Với người Việt, “bộ phận cơ thể này được
người Việt dùng để biểu trưng cho tinh thần, ý chí mạnh mẽ của con người. Chẳng
hạn, bền gan chiến đấu, thi gan đọ sức
Gan lại còn có thể biểu trưng cho cả tâm trạng, tình cảm tiêu cực, phủ định (như
căm thù, tức giận) của con người” [39, tr. 209]
Qua những kết hợp “vị từ + tên gọi bộ phận cơ thể người”, có thể thấy gan là nơi
chứa đựng sự tức giận:
Bấm gan: cố nén sự tức giận, không để cho ai biết
Nó cứ bấm gan đứng im không nói gì.
Chọc gan: cố tình trêu làm cho tức lên
Nó cứ chọc gan thằng bé.
Ngứa gan: cảm thấy tức giận không chịu được mà phải nén lại trong lòng
Thấy thái độ của hắn ta mà ngứa gan.
Sôi gan: giận dữ đến tột độ.
Nghĩ tới lại sôi gan
Với trường hợp sôi gan, ta có sự tương tác giữa ẩn dụ GIẬN DỮ LÀ CHẤT
LỎNG TRONG BÌNH CHỨA và GAN LÀ VẬT CHỨA SỰ TỨC GIẬN
Trong những kết hợp trên có thể thấy, gan được tri nhận như một nơi chứa sự
tức giận, làm gì đó cho người khác tức giận tức là chọc vào gan của họ, hay kìm nén
sự tức giận chính là giữ sự tức giận lại trong gan. Đây là một cách nhìn rất cụ thể và
có tính hình tượng.
CÁI NHÌN LÀ MỘT VẬT THỂ CÓ THỂ DI CHUYỂN
Trong cơ thể con người, bộ phận được chuyên môn hóa để nhìn là mắt và cái
nhìn gắn liền với mắt nhưng trong tiếng Việt cái nhìn được coi như một vật thể độc
lập, có thể di chuyển, có thể gắn vào một đối tượng khác, vì vậy tiếng Việt có những
kết hợp:
Dán mắt: hướng cái nhìn chăm chú vào không rời
Từ sáng đến giờ thằng con cứ dán mắt vào ti vi.
Bên cạnh kết hợp dán mắt người Việt còn nói:
Cả buổi tối anh không rời mắt khỏi cô ấy.
Ghé mắt: trông chừng, thỉnh thoảng chú ý đến
Nhờ hàng xóm ghé mắt trông nhà giúp.
Để mắt: để ý trông coi, theo dõi
Bố mẹ phải để mắt đến việc học hành của con cái.
Đưa mắt: liếc mắt ra hiệu hoặc chuyển cái nhìn về phía khác
Nói đến đó cô ấy đưa mắt đi chỗ khác.
Trong tác phẩm Chúng ta sống bằng ẩn dụ, tác giả cũng đã đề cập đến một ẩn dụ
tương tự NHÌN THẤY LÀ CHẠM VÀO; MẮT LÀ TỨ CHI CỦA CƠ THỂ
(SEEING IS TOUCHING; EYES ARE LIMBS) và đưa ra một số ví dụ:
I can’t take my eyes off her.
Tôi không thể rời mắt khỏi cô ấy.
He sits with his eyes glued to the TV.
Nó ngồi dán mắt vào TV.
Her eyes picked out every detail of the patterm.
Mắt cô ấy chộp lấy từng chi tiết của hình mẫu.
Their eyes met.
Mắt họ gặp nhau.
She never moves her eyes from hes face.
Cô ấy không bao giờ rời mắt khỏi khuôn mặt anh ấy.
She ran her eyes over evrything in the room.
Cô ấy đưa mắt nhìn tất cả các thứ trong phòng.
He wants everything within reach of his eyes.
Anh ta muốn tất cả những gì trong tầm mắt.
Điều này một lần nữa chứng minh ngôn ngữ các cộng đồng người trên thế giới
có thể khác nhau nhiều nhưng cách tư duy của con người luôn có những điểm tương
đồng.
Theo Cao Xuân Hạo, “các ngôn ngữ khác loại hình có thể có những cách biểu
hiện khác hẳn nhau () có thể tư duy khác nhau về một sự tình (cấu trúc hóa sự tình
thành những hình thức mệnh đề khác nhau) nhưng cách tri giác của loài người đối
với hiện thực là một và dù hệ thống từ vựng của ngôn ngữ có phân chia thế giới khác
nhau đến đâu (như trong cách gọi tên các màu sắc chẳng hạn), dù ngữ pháp của các
ngôn ngữ có phân biệt các phạm trù, các chức năng, các sắc độ tình thái một cách
khác nhau đến đâu thì cách cảm thụ những sự tình của thế giới hiện thực vẫn như
nhau, và do đó cái được biểu hiện phải giống nhau” [15, tr. 40]
BẢN LĨNH, KINH NGHIỆM LÀ CÂY CỐI
Bản lĩnh, kinh nghiệm là một thứ trừu tượng, không có hình thù nhất định và quá
trình hoàn thiện bản lĩnh, tích lũy kinh nghiệm là một quá trình phức tạp. Theo đúng
quy luật của tư duy người Việt đã dùng hình ảnh gần gũi, dễ hiểu để hiểu cái trừu
tượng, khó hiểu. Trong tiếng Việt, quá trình này được tri nhận như là quá trình lớn
lên của một cái cây. Điều này thể hiện trong những kết hợp:
Non gan: thiếu can đảm, hay sợ
Non tay: kém về trình độ nghề nghiệp, về bản lĩnh
Vở kịch viết còn non tay.
Ngược lại, thi hào Nguyễn Du từng viết về Hoạn Thư:
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già (Truyện Kiều)
Với ý Hoạn Thư là người ứng xử khéo léo, khuôn phép nhưng khi cần thì nàng
cũng đủ mưu chước, thủ đoạn.
Chắc tay: làm việc gì một cách vững vàng
Ngoài ra, người Việt còn nói những câu kiểu như: Cậu ấy đã đạt đến độ chín
trong suy nghĩ, hành động.
Theo Võ Kim Hà [14, tr. 34], ở kết hợp non tay ở trên có sự tương tác ẩn-hoán
dụ. Ẩn dụ KINH NGHIỆM LÀ CÂY CỐI tương tác với hoán dụ TAY THAY CHO
KĨ NĂNG.
LO LẮNG, TỨC GIẬN LÀ NHIỆT ĐỘ CAO
Ý niệm này gần giống với ý niệm TỨC GIẬN LÀ CHẤT LỎNG TRONG BÌNH
CHỨA mà trong tác phẩm Chúng ta sống bằng ẩn dụ, Lakoff và Johnson đã đề cập
đến với những cách nói như:
She was doing a slow burn.
Cô ấy đang nhóm lửa từ từ.
He was breathing fire.
Anh ta đang thở ra lửa.
Your sincere apology just added fuel to the fire.
Lời xin lỗi chân thành của anh chỉ thêm dầu vào lửa.
After the argument, Dave was smoldering for days.
Sau cuộc bàn cãi, Dave âm ỉ cả mấy ngày.
Smoke was pouring out of his ears.
Khói tuôn ra khỏi tai anh ấy.
Billy’s a hothead.
Billy có cái đầu nóng.
You make my blood boil.
Mày làm máu tao sôi lên.
Trong tiếng Việt, cũng có những cách nói thể hiện ý niệm TỨC GIẬN LÀ
CHẤT LỎNG TRONG BÌNH CHỨA: Điều đó làm anh ta sôi máu hay TỨC GIẬN
LÀ CHẤT KHÍ TRONG VẬT CHỨA: tức anh ách, tức đến nổ bong bóng, phải nén
giận đi thôi, nó phùng mang trợn mắt.
Theo Phan Thế Hưng, tiếng Việt dùng nhiều bộ phận cơ thể để diễn đạt sự giận
dữ hơn là tiếng Anh. Cụ thể, tiếng Anh sử dụng mắt, đầu, cổ, tay, chân còn trong
tiếng Việt những bộ phận được nhắc đến còn có thêm gan, ruột, bụng, họng, răng,
tóc, mày, hông.
Những kết hợp “vị từ + tên bộ phận cơ thể” không thể hiện ý niệm TỨC GIẬN
LÀ CHẤT LỎNG TRONG BÌNH CHỨA một cách rõ ràng mà người viết cho rằng
chúng chủ yếu thể hiện ý niệm LO LẮNG, TỰC GIẬN LÀ NHIỆT ĐỘ CAO:
Nóng ruột: nóng lòng, sốt ruột
Nó thấy nóng ruột, không chờ lâu được.
Sốt ruột: ở trạng thái nôn nóng, không yên lòng
Sốt ruột chờ tin.
Sôi gan: giận dữ đến tột độ
Nghĩ tới lại sôi gan.
Ở đây có sự tương tác giữa hai ẩn dụ: ẩn dụ GAN CHỨA SỰ TỨC GIẬN và LO
LẮNG, TỨC GIẬN LÀ NHIỆT ĐỘ CAO
LÒNG LÀ ĐỒ VẬT
Lòng vốn nghĩa là “bụng của con người”. Đây là nghĩa cụ thể nhưng nghĩa
chuyển của nó “bụng của con người, coi là biểu tượng của mặt tâm lí, tình cảm, ý chí,
tinh thần” thì lại rất trừu tượng. Luận văn này tập trung vào nghĩa trừu tượng này.
Trong cách diễn đạt bằng tiếng Anh, cái ý nghĩa “tượng trưng cho mặt tâm lí, tình
cảm, ý chí, tinh thần” thường được gán cho tim. Lòng là một khái niệm rất Việt Nam,
“chuyển dịch ý nghĩa biểu vật của từ lòng trong những câu như bà ôm cháu vào lòng,
mẹ ôm con vào lòng có lẽ là không thể” [33, tr. 55]. Và quá trình tư duy theo con
đường ẩn dụ đã mang đến sản phẩm là LÒNG LÀ ĐỒ VẬT. Ý niệm này làm cho
lòng từ chỗ là khái niệm trừu tượng khó nắm bắt trở nên cụ thể. Ý niệm này thể hiệm
qua những kết hợp như:
Đem lòng: nảy sinh ra tình cảm nào đó trong lòng
Tôi đem lòng yêu cô ấy từ lâu rồi.
Được lòng: được sự yêu mến, tin cậy của ai đó
Ông giám đốc mới rất được lòng nhân viên.
Động lòng: 1. cảm thấy thương xót
2. cảm thấy bị xúc phạm
Nhìn đứa trẻ khóc vì nhớ mẹ ai cũng động lòng.
Lấy lòng: cốt để làm vừa lòng, để tranh thủ tình cảm
Cô con dâu mới ra sức lấy lòng mẹ chồng.
Mất lòng: làm cho không bằng lòng
Anh ấy cư xử rất khéo, không bao giờ để mất lòng ai.
Mềm lòng: trở nên yếu đuối trước tác động tình cảm hoặc trước khó khăn
Nhìn thấy cô ấy khóc là anh ấy lại mềm lòng.
Nén lòng: kìm giữ tình cảm, cảm xúc không để bộ lộ ra ngoài
Nó phải nén lòng lắm mới không khóc trong buổi chia tay.
CÔNG VIỆC LÀ VẬT CHỨA
Ẩn dụ này thể hiện ở những kết hợp:
Cắm đầu: cúi đầu xuống làm việc gì một cách mải miết, không để ý đến xung quanh.
Cô ấy cắm đầu vào học.
Vùi đầu: để hết tâm trí vào một việc nào đó, không còn biết gì những việc khác
Anh ấy vùi đầu vào công việc.
Cắm cổ: cúi đầu xuống làm động tác gì một cách mải miết, không để ý gì đến xung
quanh
Nó cứ cắm cổ chạy mãi đến khi mệt lả.
Chúi đầu chúi mũi: cắm cúi, miệt mài, để hết tâm trí vào việc gì
Thằng bé chúi đầu chúi mũi vào trò chơi điện tử.
Chen vai: góp sức để cùng làm việc gì
Thanh niên phải chen vai góp sức xây dựng đất nước.
Nhúng tay: trực tiếp tham gia vào
Việc gì nó cũng nhúng tay vào.
Có thể thấy người Việt tri nhận CÔNG VIỆC LÀ VẬT CHỨA và nó chứa những cái
đầu, cái cổ, cái vai, cái tay... Ở đây có sự tương tác ẩn-hoán dụ. Ẩn dụ CÔNG VIỆC
LÀ VẬT CHỨA tương tác với hoán dụ TAY THAY CHO HÀNH ĐỘNG, ĐẦU
THAY CHO SUY NGHĨ, VAI THAY CHO SỰ GÁNH VÁC.
CẢM XÚC LÀ CHẤT LỎNG TRONG BÌNH CHỨA
Ẩn dụ này thể hiện ở những kết hợp:
Nén lòng: kìm giữ tình cảm, cảm xúc không để bộc lộ ra ngoài
Cô ấy nén lòng lắm mới không khóc trong buổi chia tay.
Sôi gan: giận dữ đến tột độ
Nàng giận đến sôi gan.
QUYẾT TÂM LÀ VẬT CỨNG
Mềm lòng: trở nên yếu đuối trước tác động tình cảm hoặc trước khó khăn
Cô ấy mà khóc là anh ấy lại mềm lòng.
Sờn lòng: (thường dùng trong câu có ý phủ định) lung lay, dao động trước khó khăn,
thử thách
Bền lòng: giữ vững được tinh thần, ý chí, trước sau như một, không thay đổi
Các ẩn dụ này cũng phần nào có liên hệ đến những cách nói như “trái tim sắt đá”
tức là con người khó bị tác động, khó bị chinh phục nhưng trong tiếng Việt xu hướng
sử dụng lòng phổ biến hơn. Theo tác giả Lý Lan, biểu trưng tình cảm của người Việt
thường quy chiếu tới bộ phận ngực/ lồng ngực hoặc các bộ phận nội tạng và những
cách nói liên quan tới tim có lẽ là mang tính “du nhập” từ các nền văn hóa khác khi
có sự tiếp xúc ngày càng nhiều thêm giữa tiếng Việt và các thứ tiếng châu Âu khác
trong mấy thế kỉ gần đây. [25]
TÌNH CẢM LÀ CÂY THẲNG ĐỨNG
Ý niệm này thể hiện ở những kết hợp:
Động lòng: cảm thấy thương xót
Nghe tâm sự của cô ấy nhiều người động lòng rơi lệ.
Xiêu lòng: không còn kiên định ý kiến nữa, bị thuyết phục mà nghe theo, ngả theo ý
của người khác
Nghe lời nói ngọt mà xiêu lòng.
Nao lòng: cảm thấy có những xao động nhẹ về tình cảm
Nhìn thấy thằng bé khóc như vậy ai mà không nao lòng.
Ngã lòng: Không còn giữ được ý chí, quyết tâm trước thử thách
Thất bại quá nhiều khiến cô ấy ngã lòng.
Mềm lòng: trở nên yếu đuối trước tác động hoặc trước khó khăn
Cậu ấy dễ bị nước mắt làm cho mềm lòng.
HOÀN CẢNH LÀ VẬT CHỨA
Ẩn dụ này thể hiện ở những cách kết hợp:
Sa chân: lỡ chân bước vào chỗ thấp, bị hẫng và ngã, thường dùng để ví trường hợp
bị rơi vào cảnh không hay
Trước sau gì nó cũng sa chân vào con đường nghiện ngập.
Chen chân: chen vào để đứng, để chiếm chỗ
Bây giờ khó lòng chen chân vào trường đó lắm.
Bên cạnh những trường hợp trên, người Việt cũng dùng những cách nói như: trong
hoành cảnh đó, trong tình huống đó, rơi vào hoành cảnh, ở vào địa vị Những cách
đó cũng thể hiện ẩn dụ HOÀN CẢNH LÀ VẬT CHỨA.
3.2.2. Ẩn dụ cấu trúc
TAI LÀ CỬA NGÕ VÀO CƠ THỂ
Quan niệm này thể hiện ở những cách nói:
Bỏ ngoài tai: coi như không nghe thấy, không thèm để ý
Bỏ ngoài tai những lời gièm pha.
Lọt tai: xuôi tai
Nói nghe cũng lọt tai.
Quan niệm dân gian cho rằng cơ thể người trao đổi với môi trường thông qua
một số của ngõ - vía. Theo đó vía là khái niệm trung gian giữa xác cụ thể và hồn trừu
tượng, là cái làm hoạt động các quan năng – những nơi cơ thể tiếp xúc với môi
trường xung quanh. Đàn ông có 7 vía cai quản 7 “lỗ” trên mặt: hai tai, hai mắt, hai lỗ
mũi và miệng. Phụ nữ thì có thêm hai vía cai quản nơi sinh đẻ và nơi cho con bú.
Như vậy trong quan niệm dân gian tai đã được coi như một cửa ngõ giữa cơ thể và
môi trường nhưng chủ yếu là xem xét trên bình diện sinh học còn trong ngôn ngữ tai
được coi như cửa ngõ vào cơ thể của lí lẽ, lập luận.
CHÂN LÀ CƠ THỂ
Cách nói hoán dụ này thể hiện qua những kết hợp như:
Cầm chân: giữ lại ở một chỗ, một vị trí không cho tự do hoạt động, phát triển
Bị địch cầm chân trong đồn.
Đặt chân: đến, có mặt thật sự ở một nơi nào đó
Con người đã đặt chân lên mặt trăng
Chen chân: chen vào để đứng, để chiếm chỗ
Khó lòng chen chân vào thương trường.
Giữ chân: giữ lại không để cho đi
Cảnh đẹp giữ chân nhiều du khách.
Sa chân: lỡ chân bước vào chỗ thấp, bị hẫng và ngã, thường dùng để ví trường hợp
bị rơi vào cảnh không hay
Sa chân vào cảnh sống truỵ lạc.
Kế chân: thay người khác ở một cương vị, chức vị nào đó
Cậu ấy sắp được kế chân ông trưởng phòng.
Đây là cách nói hoán dụ quen thuộc lấy bộ phận thay cho toàn thể nhưng cũng
phải thấy rằng sở dĩ chân được chọn để thay thế chứ không phải những bộ phận khác
có lẽ là vì tất cả những kết hợp trên đều liên quan đến việc thay đổi vị trí.
MẶT LÀ NGƯỜI
Tác phẩm “Chúng ta sống bằng ẩn dụ” cũng đã đề cập đến hoán dụ CÁI MẶT
THAY THẾ CHO CON NGƯỜI, ví dụ:
She’s just a pretty face.
Nàng chỉ là một cái mặt dễ thương.
There are an awful lot of faces out there in the audience.
Có một số lượng lớn những cái mặt trong hội trường.
We need some new faces around here.
Chúng ta cần những cái mặt mới xung quanh đây.
Trong nền văn hóa của chúng ta, để có được một ý niệm con người trông như thế
nào, thì chúng ta nhìn trước hết đến khuôn mặt của họ hơn là nhìn dáng đi dáng đứng
của họ. Khi chúng ta nhận biết về con người theo khuôn mặt của họ và ra quyết định
trên cơ ở đó, chúng ta đã hành động theo nguyên tắc hoán dụ.
Trong tiếng Việt, hoán dụ này thể hiện ở những kết hợp:
Có mặt: có ở tại nơi nào đó lúc sự việc xảy ra.
Hôm qua, khi tôi nói chuyện với anh cô ấy cũng có mặt ở đó.
Gặp mặt: gặp nhau nhân một dịp gì giữa những người có cùng một quan hệ nào đó.
Tuần sau chúng tôi tổ chức một buổi gặp mặt.
Giáp mặt: gặp nhau, tiếp xúc trực tiếp với nhau.
Từ ngày chia tay họ tránh giáp mặt nhau.
Lạ mặt: không ai quen biết, không ai rõ tung tích
Mấy hôm nay, trong khu này có một người lạ mặt thường xuất hiện.
Lánh mặt: tránh không gặp hoặc không để cho gặp
Anh ấy cố tình lánh mặt tôi.
Nhận mặt: nhìn mặt mà nhận ra, chỉ ra người đang che giấu tên thật hay người đang
cần tìm
Công an đưa hai người bị bắt ra cho nhận mặt nhau.
Quen mặt: có nét mặt trông quen, nhận ra được ngay là đã có lần gặp (nhưng không
nhất thiết là đẵ biết người và tên tuổi).
Trông anh ấy rất quen mặt.
Thay mặt: (làm việc gì) lấy tư cách của (những) người khác hoặc của một tổ chức nào
đó.
Cô ấy thay mặt bố mẹ đi dự đám cưới một người họ hàng.
Tránh mặt: tránh không gặp hoặc không để cho gặp.
Họ cứ tìm cách tránh mặt nhau.
Vác mặt: tự mình đi đến một nơi nào đó (hàm ý khinh bỉ)
Cô ấy nói hôm qua chồng cô ấy đi uống rượu với bạn bè đến 2 giờ sáng mới vác mặt
về.
Xem mặt: đến nhà người con gái để nhìn mặt người định hỏi làm vợ, theo tục lệ cũ.
Hôm nay, nhà trai đến xem mặt cô dâu.
Vắng mặt: không có mặt ở nơi lẽ ra phải có mặt.
Những ai vắng mặt hôm qua xin mời đứng lên.
Trong tiếng Việt, mặt không chỉ là bộ phận thay thế cho toàn thể là con người
mà mặt còn là biểu tượng của thể diện, danh dự, phẩm giá.
CỔ LÀ NGƯỜI
Hoán dụ này thể hiện qua những kết hợp:
Tóm cổ: bắt giữ
Mọi người mới tóm cổ được tên trộm.
Tống cổ: đuổi ra khỏi bằng hành động mạnh mẽ, dứt khoát
Nó bị tống cổ ra khỏi nhà.
Ta đã gặp rất nhiều hoán dụ bộ phận cơ thể thay thế cho toàn cơ thể như: mặt
thay cho người, chân thay cho người, tay thay cho người và ở đây trong tiếng Việt
có hoán dụ CỔ LÀ NGƯỜI. Có lẽ với con người, cổ là vị trí dễ bị nắm bắt nhất vì
vậy có thể thấy những kết hợp CỔ LÀ NGƯỜI thường là những kết hợp nói đến việc
bị bắt
MÁT LÀ TỐT, NÓNG LÀ KHÔNG TỐT
Mát vốn nghĩa là:
1. Có nhiệt độ vừa phải, không nóng nhưng cũng không lạnh, gây cảm giác dễ
chịu
2. Có cảm giác khoan khoái, dễ chịu, không nóng bức
3. Có tác dụng làm cho cơ thể không bị nhiệt, không bị rôm sảy, mụn nhọt
4. Có vẻ như dịu nhẹ, nhưng thật ra là mỉa mai, chê trách, hờn dỗi.
Mát trong kết hợp “mát + tên bộ phận cơ thể” thường mang ý nghĩa:
i. Có cảm giác khoan khoái dễ chịu, không nóng bức
Mát mắt: có cảm giác dễ chịu, ưa thích khi nhìn đến, do tác động của ánh sáng và
màu sắc êm dịu
Tường màu xanh nhạt trông mát mắt.
ii. Hài lòng, thỏa ý
Mát mặt: 1. cảm thấy có phần dễ chịu về mặt đời sống vật chất
Sau cách mạng, người nông dân mới được mát mặt.
2. cảm thấy có sự hài lòng về tinh thần trước mặt những người khác
Con giỏi, con ngoan, cha mẹ cũng mát mặt với mọi người.
Mát dạ hoặc mát lòng, mát ruột: hả hê, vui thích trong lòng do được thỏa ý
Con giỏi giang, cha mẹ mát lòng.
iii. Dễ đạt được thành công khi làm việc gì
Mát tay: (người) thường dễ đạt được kết quả tốt, dễ thành công trong công việc làm
cụ thể (như chữa bệnh, chăn nuôi)
Một thầy thuốc mát tay.
Nóng vốn nghĩa là:
1. Có nhiệt độ cao hơn so với nhiệt độ cơ thể người, hoặc (nói về trạng thái thời
tiết) cao hơn múc được coi là trung bình; trái với lạnh
2. Dễ nổi cơn tức giận, khó kìm giữ được những phản ứng thiếu suy nghĩ do quá
tức giận
3. Có sự mong muốn thôi thúc cao độ về điều gì
4. (Đường dây điện thoại) trực tiếp, có thể liên lạc với nhau bất cứ lúc nào
5. (Vay mượn) gấp, cần có ngay và chỉ tạm trong thời gian ngắn
6. (Màu) thiên về đỏ hoặc vàng, gợi cảm giác nóng bức, trái với lạnh
Trong kết hợp “nóng + tên bộ phận cơ thể”, nóng thường mang nghĩa:
i. Dễ nổi cơn tức giận:
Nóng mắt: nổi nóng vì thấy việc bất bình
Nhìn thấy cái cảnh nhà đó là nó lại nóng mắt.
Nóng mặt: nổi nóng vì bị đụng chạm đến danh dự cá nhân
Cái kiểu nói chuyện của nó dễ làm người ta nóng mặt.
Nóng gáy: nổi nóng vì bị đụng chạm tới quyền lợi, danh dự bản thân
Vừa nghe thấy lời phê bình đã nóng gáy lên.
ii. Có sự mong muốn thôi thúc cao độ về điều gì
Nóng lòng: có tâm trạng mong muốn cao độ về việc gì
Nóng lòng trở lại quê hương.
Nóng ruột: nóng lòng, sốt ruột
Nóng ruột, không chờ được.
Qua những ví dụ vừa dẫn có thể thấy người Việt thể hiện trong ngôn ngữ một
quan niệm rằng mát là cảm giác tốt, nóng là cảm giác không tốt.
QUÁ TRÌNH HIỂU LÀ ĐI TỪ CHỖ TỐI ĐẾN CHỖ SÁNG
Ẩn dụ này thể hiện qua những cách nói:
Tối dạ: chậm hiểu, kém về khả năng tiếp thu kiến thức
Sáng dạ: mau hiểu, mau nhớ, thông minh
Sáng mắt: thấy ra, nhận ra lẽ phải, sự thật mà trước đó mê muội không thấy
Mở mắt: thấy được nhận thức sai lầm, tỉnh ngộ
Trong giao tiếp hằng ngày người Việt Nam vẫn nói những câu như:
Tối dạ nên nghe giảng mãi vẫn chưa hiểu.
Hay: nó là đứa sáng dạ nói qua một lần là hiểu ngay.
Hoặc những câu kiểu như: thực tế làm cho anh ta mở mắt ra.
Qua ngôn ngữ, có thể thấy người Việt coi bụng, dạ là cơ quan để tư duy. Với
nghĩa gốc của từ sáng là “có ánh sáng tỏa ra trong không gian khiến cho có thể nhìn
thấy mọi vật” sau quá trình chuyển nghĩa ẩn dụ sáng mang thêm nghĩa là có khả năng
cảm biết, nhận thức nhanh, rõ. Từ tối vốn nghĩa gốc là “không có hoặc có ít ánh sáng
chiếu tỏa ra trong không gian, khiến cho không hoặc khó nhìn thấy sự vật xung
quanh”, qua quá trình chuyển nghĩa theo con đường ẩn dụ, nó mang thêm nghĩa là “tỏ
ra hiểu biết rất chậm; kém thông minh”. Cách tri nhận quá trình hiểu đi từ tối đến
sáng là cách tri nhận mang tính hình ảnh, dễ hiểu hơn so với khái niệm thông minh
hay kém. Tất nhiên đấy là đặc điểm chung của tất cả các quá trình tri nhận: lấy cái đã
hiểu để giải thích cái chưa hiểu nhưng ở ẩn dụ này ta còn thấy đằng sau nó một quan
niệm khác, đó chính là việc người Việt đề cao bộ phận bụng, dạ. Bụng, dạ là nơi chứa
đựng tình cảm và cả trí tuệ. Như vậy có thể thấy đối với người Việt bụng dạ nói
chung là bộ phận quan trọng nhất cơ thể.
3.2.3. Ẩn dụ định hướng
SỰ TẬP TRUNG ĐỊNH HƯỚNG VÀO TRONG VÀ XUỐNG DƯỚI
Cách tri nhận này phần nào liên quan tới quan niệm cho rằng trung tâm là phần
nằm ở giữa. Từ đó trong tiếng Việt có những kết hợp:
Vùi đầu: để hết tâm trí vào một việc nào đó, không còn biết gì những việc khác
Vùi đầu vào học thi.
Chúi đầu: cắm cúi, miệt mài, để hết tâm trí vào việc gì
Chúi đầu vào công việc.
Cắm đầu: cúi đầu xuống làm việc gì một cách mải miết, không để ý đến xung quanh
Nó cắm đầu vào cuốn sách.
Cắm cổ: cúi đầu xuống làm động tác gì một cách mải miết, không để ý đến xung
quanh
Cắm cổ chạy một mạch
Cắm đầu cắm cổ: như cắm đầu nhưng nghĩa mạnh hơn
Chúi đầu chúi mũi: như chúi đầu nhưng nghĩa mạnh hơn
Liên quan đến ý niệm này ta có ý niệm ngược lại: SỰ LƠ LÀ, THIẾU TẬP
TRUNG ĐỊNH HƯỚNG RA NGOÀI thể hiện qua cách nói: lo ra
SỰ ÁP BỨC HƯỚNG TỪ TRÊN XUỐNG
Ẩn dụ này liên quan đến một số quan niệm khác như quan niệm coi người dân
lao động là thấp cổ bé họng, coi những người có vai vế trong xã hội là những người
ăn trên ngồi trốc. Đây vốn là thực tế trong xã hội Việt Nam trước đây. Một điều thú
vị là không chỉ trong tiếng Việt mà với cứ liệu tiếng Anh, Lakoff và Johnson cũng đã
nói đến hai ẩn dụ liên quan, đó là ĐỊA VỊ XÃ HỘI CAO ĐỊNH HƯỚNG LÊN
TRÊN và ĐỊA VỊ XÃ HỘI THẤP ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI qua những ví dự
như:
She’ll rise to the top.
Cô ấy sẽ lên rất cao.
He’s at the peak of his career.
Anh ấy đang ở trên đỉnh cao danh vọng.
He’s at the bottom of the social hierarchy.
Anh ấy ở dưới đáy của tôn ti xã hội.
She fell in status.
Địa vị của cô ấy giảm đi.
và QUYỀN LỰC HOẶC CÓ SỨC MẠNH ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN; PHỤC
TÙNG SỰ KIỂM SOÁT HOẶC SỨC MẠNH ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI.
Ví dụ:
I have control over her.
Cô ta trong tay tôi.
I am on top of the situation.
Tôi điều khiển được tình hình.
He is under my control.
Nó đang dưới quyền của tôi.
His power is on the decline.
Quyền lực của nó đang suy giảm.
Trong tiếng Việt, ẩn dụ SỰ ÁP BỨC HƯỚNG TỪ TRÊN XUỐNG thể hiện
trong ngôn ngữ qua một số cách kết hợp sau:
Cưỡi cổ: ức hiếp, đè nén
Cưỡi đầu cưỡi cổ cũng như cưỡi cổ nhưng nghĩa mạnh hơn.
Đè đầu cưỡi cổ: dùng quyền thế áp bức; như cưỡi đầu cưỡi cổ
3.3. Tiểu kết
Cơ thể người là một miền nguồn rất thông dụng có thể thấy rõ điều này khi khảo
sát “vị từ + tên bộ phận cơ thể người”. Hầu hết tên các bộ phận đều xuất hiện. Với
nguồn là một bộ phận có thể dẫn đến nhiều đích khác nhau. Sự phân chia những ẩn
dụ ý niệm như trên có tính chất chủ quan và có tính tương đối vì một ẩn dụ ý niệm có
thể liên quan đến nhiều ẩn dụ khác. Một số ẩn dụ mà người viết trình bày ở trên là
những ẩn dụ phổ biến trên thế giới, điều này một lần nữa chúng minh sự giống nhau
trong cách tư duy của nhân loại. Những sự khác nhau nếu có không chứng minh rằng
điều người Việt tư duy khác phần còn lại của thế giới mà chỉ là vì sự lựa chọn cái để
đưa vào ngôn ngữ là khác nhau hoặc con đường ẩn dụ khác nhau mà thôi. Ẩn dụ ý
niệm vốn xuất phát từ trải nghiệm của con người mà những trải nghiệm đó lại mang
tính phổ quát từ đó dẫn đến những ẩn dụ ý niệm có tính cơ bản và phổ quát.
KẾT LUẬN
Như đã trình bày ở phần dẫn nhập, mục tiêu cơ bản của đề tài này là góp phần
tìm hiểu bản chất của ẩn dụ và mối liên hệ giữa tiếng Việt với tư duy của người Việt.
Từ những kết quả nghiên cứu có được từ trước của những nhà nghiên cứu ngôn ngữ
cũng như từ những phân tích trong luận văn này người viết xin nêu ra một số kết luận
sau:
Ẩn dụ không đơn thuần là vấn đề của ngôn ngữ mà nó là vấn đề của tư duy. Ẩn
dụ đóng vai trò quan trọng trong cách con người tri nhận thế giới và điều này thể hiện
rõ trong ngôn ngữ. Ẩn dụ không phải là cách nói mang tính văn chương chỉ phổ biến
trong một nhóm nhỏ người mà là cách nói của tất cả mọi người tức là một cách có ý
thức hoặc không có ý thức tất cả mọi người đều đang dùng cách nói ẩn dụ trong giao
tiếp hằng ngày mà không hề gây ra bất kì một sự mù mờ, khó hiểu nào.
Trong tiếng Việt những kết hợp có dấu ấn ẩn dụ tri nhận xuất hiện rất nhiều và
đó là những cách nói người Việt sử dụng hằng ngày, nó là một phần trong hệ thống từ
ngữ tiếng Việt, là tài sản chung của người Việt và nhiều người Việt sử dụng nó mà
không hề ý thức rằng mình đang sử dụng cách nói ẩn dụ.
Những kết hợp “vị từ + tên bộ phận cơ thể người” là kết quả của quá trình tri
nhận của người Việt và mang dấu ấn văn hóa rất đậm nét. Người Việt dùng ẩn dụ tri
nhận để gọi tên những hiện tượng mới dựa trên những hiện tượng đã biết. Người Việt
sử dụng rất nhiều tên gọi của bộ phận cơ thể với nghĩa chuyển trong những kết hợp
“vị từ + tên bộ phận cơ thể người”. Trong những kết hợp kiểu này, tên gọi các bộ
phận cơ thể sẽ là biểu tượng của một hiện tượng nào đó. Những tên gọi nào xuất hiện
và tần số xuất hiện ra sao đều liên quan đến yếu tố văn hóa. Có lẽ nhiều người sẽ
đồng ý rằng không phải vô cớ mà tay xuất hiện rất nhiều lần hay vì sao trong tiếng
Việt bộ phận sẽ lòng xuất hiện trong những kết hợp mà nếu là tiếng là tiếng Anh thì
vị trí đó phải là của tim.
Kết hợp “vị từ + tên bộ phận cơ thể người” cho phép người viết thấy người Việt
đã tri nhận những quá trình phức tạp như thế nào: họ đơn giản hóa quá trình đó, đó
cũng là cách tri nhận phổ biến phản ánh trong các ngôn ngữ khác trên thế giới.
Nói chung, qua những kết hợp “vị từ + tên bộ phận cơ thể người” có thể thấy
người Việt nhìn thế giới với con mắt thơ ngộ. Nó có thể không giống với thế giới mà
các nhà khoa học miêu tả nhưng nó hiệu quả trong việc tiếp nhận cái mới và nó mang
dấu ấn văn hóa đậm nét.
Để kết thúc, người viết muốn nói rằng ngôn ngữ học tri nhận nói chung và ẩn dụ
tri nhận nói riêng ở Việt Nam không phải là mới nhưng cũng chưa cũ và còn nhiều
vấn đề có thể tiếp tục tìm hiểu. Và bất kì vấn đề nào cũng có chỗ thuận lợi và khó
khăn khi nghiên cứu. Dù đã rất cố gắng nhưng luận văn này chắc chắn vẫn có rất
nhiều thiếu sốt và mang nhiều tính chủ quan, người viết rất mong nhận được sự góp ý
của quý thầy cô để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Diệp Quang Ban (2008), Cognition: nhận tri và nhận thức concept: ý niệm hay
khái niệm?, Ngôn ngữ (2), 1-11
2. Lê Đang Bảng (dịch) (1999), Nghệ thuật thơ ca (Aristote), Nxb Văn học
3. Đỗ Hữu Châu (2000), Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ, Ngôn ngữ (10), 1-18
4. Trần Văn Cơ (2009), Khảo luận ẩn dụ tri nhận, Nxb Lao động – xã hội
5. Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận (suy nghĩ và ghi chép), Nxb Khoa
học xã hội
6. Trần Văn Cơ (2008), Nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của ngôn
ngữ học tri nhận, Ngôn ngữ (5), 26-42
7. Nguyễn Đức Dân (2009), Tri nhận thời gian trong tiếng Việt, Ngôn ngữ (12), 1-
16
8. Võ Thị Dung (2003). Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận.
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh
9. Hữu Đạt (2007), Thử áp dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận vào phân tích nhóm
từ đồng nghĩa chỉ vận động “rời chỗ” trong tiếng Việt, Ngôn ngữ (11), 20-27
10. Nguyễn Thị Vân Đông (2008), Một số biểu hiện của văn hóa qua các thành ngữ
tục ngữ có từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Anh và tiếng Việt, Ngôn
ngữ và đời sống (10), 28-31
11. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (2003), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo
dục
12. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Giáo
dục
13. Nguyễn Thiện Giáp (2006), Những lĩnh vực ứng dụng của Việt ngữ học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội
14. Võ Kim Hà (2011), Phân tích cơ chế tri nhận các ngữ biểu trưng tiếng Việt có yếu
tố tay (đối chiếu với tiếng Anh), Ngôn ngữ (8), 34-43
15. Trần Thị Hồng Hạnh (2007), Sự trùng hợp và khác biệt trong việc lựa chọn các
ẩn dụ trong các nền văn hóa (trên cứ liệu thành ngữ tiếng Việt), Ngôn ngữ
(11), 61-37
16. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - sơ thảo ngữ pháp chức năng, tập 1, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội
17. Nguyễn Hòa (2007), Tri nhận và biểu đạt thời gian trong tiếng Việt qua các ẩn dụ
không gian, Ngôn ngữ (7), 1-23
18. Bùi Mạnh Hùng (2009), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb Giáo dục
19. Phan Thế Hưng (2007), Ẩn dụ ý niệm, Ngôn ngữ (7), 9-18
20. Phan Thế Hưng (2007), So sánh trong ẩn dụ, Ngôn ngữ (4), 1-12
21. Phan Thế Hưng (2009), Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên cứ liệu
tiếng Việt và tiếng Anh), luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh
22. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo
dục
23. Nguyễn Lai (2009), Suy nghĩ về ẩn dụ khái niệm trong thế giới thơ ca từ góc nhìn
của ngôn ngữ học tri nhận, Ngôn ngữ (10), 1-11
24. Ly Lan (2009), Ý niệm biểu đạt trong biểu thức có từ “mặt”, từ “anger” của tiếng
Việt và tiếng Anh: một khảo sát ẩn dụ tri nhận, Ngôn ngữ và đời sống (5), 18-
20
25. Ly Lan (2009), Biểu trưng tình cảm bằng các bộ phận cơ thể từ góc nhìn tri nhận
của người bản ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, Ngôn ngữ (12), 25-37
26. Ly Lan ( 2009), Về các ý niệm và phạm trù tình cảm cơ bản của con người (Trên
dẫn liệu tiếng Anh), Ngôn ngữ và đời sống (9), 21-26
27. Lê Hồng Linh (2009), Đặc trưng văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ (Một số liên hệ
với tiếng Việt và tiếng Anh ), Ngôn ngữ và đời sống (5), 22-28
28. Trần Thị Minh (2009), Hiện tượng chuyển nghĩa của các từ chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Anh và tiếng Việt, Ngôn ngữ (10), 55-63
29. Hoàng Kim Ngọc (2003). Ẩn dụ hóa: Một trong những cơ chế cấu tạo các đơn vị
định danh bậc hai, Ngôn ngữ (8), 22 – 26
30. Hoàng Kim Ngọc (2004). So sánh ẩn dụ trong ca dao trữ tình của tiếng Việt (từ
góc nhìn ngôn ngữ - văn hóa học). Luận án tiến sĩ. Thư viện Viện Ngôn ngữ
và thư viện quốc gia
31. Trịnh Thị Kim Ngọc (1999), Ngôn ngữ văn hóa tri thức nền và việc giảng dạy
tiếng nước ngoài, Nxb Khoa học xã hội
32. Nguyễn Văn Nở (2006), Dấu ấn văn hóa – dân tộc qua chất liệu biểu trưng tự
nhiên và từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tục ngữ, Ngôn ngữ và đời sống
(12), 21-23
33. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lí thuyết đại cương đến thực
tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, Hà Nội
34. Lí Toàn Thắng (2004). Ngôn ngữ học tri nhận: Thử khảo sát ý niệm RA. Ngôn
ngữ và đời sống (9), 4-8
35. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục
36. Nguyễn Thị Thu (2006), Thành ngữ tiếng Việt có từ chỉ “tay”, “chân” với đặc
trưng văn hóa dân tộc, Ngôn ngữ và đời sống (3), 22-26
37. Trần Bá Tiến (2009), Ẩn dụ về sự tức giận và niềm vui trong tiếng Anh và tiếng
Việt, Ngôn ngữ (7), 22-35
38. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở
người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), Nxb Khoa học xã hội
39. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận
trong thành ngữ (kì I), Ngôn ngữ (12), 20-27
40. Nguyễn Đức Tồn ( 2009), Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận
trong thành ngữ (Tiếp theo và hết), Ngôn ngữ (1), 12-24
41. Nguyễn Đức Tồn (2008), Bản chất của hoán dụ trong mối quan hệ với ẩn dụ,
Ngôn ngữ (3), 1-6
42. Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Thị Phương (2008), Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm từ
biểu thị cảm giác trong tiếng Việt, Ngôn ngữ (11), 1-9
43. Lưu Trọng Tuấn (2009), Ẩn dụ tình yêu trong thơ ca, Ngôn ngữ (10), 23-29
44. Trần Túy (2005), Lịch sử triết học là một khoa học, Nxb Y học
45. Lê Đình Tường (2008), Thử phân tích mộ bài ca dao hài hước từ bình diện ngôn
ngữ học tri nhận, Ngôn ngữ (9), 51-57
46. Hoàng Văn Vân (dịch) (2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội
47. Nguyễn Ngọc Vũ ( 2008), Hoán dụ ý niệm “Bộ phận cơ thể người biểu trưng
cho sự chú ý” trong thành ngữ chứa yếu tố “mắt”, “mũi” và “tai” tiếng Anh và
tiếng Việt, Ngôn ngữ (9), 17-22
48. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia
49. Nguyễn Huệ Yên, Vũ Thị Sao Chi (2008), Ẩn dụ trong thơ Tố Hữu, Ngôn ngữ
(10), 42-48
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
50. Ungerer, F & H. J. Schmid (1997), An Introduction to Cognitive Linguistics,
Longman, London – New York
51. Lakoff, G & M. Johnson (2003), Metaphors We Live by, University of Chicago
Press, Chicago
PHỤ LỤC
DANH SÁCH “VỊ TỪ + TÊN GỌI BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI”
A ác ác miệng, ác bụng
ách ách bụng
ắng ắng cổ, ắng họng
ấm ấm đầu
B bảnh bảnh mắt
bạo bạo gan, bạo mồm bạo miệng, bạo phổi
bằng bằng vai (phải lứa)
bắt bắt mắt
bấm bấm bụng, bấm gan
bền bền gan, bền lòng
biết biết tay, biết thân, biết thóp, biết mặt
bình bình chân (như vại)
bỏ bỏ mình, bỏ ngoài tai
bó bó cẳng, bó gối, bó tay
bóp bóp cổ, bóp bụng, bóp hầu, bóp họng, bóp mũi, bóp
miệng, bóp mồm, bóp óc, bóp trán
bợ bợ đít
bớt bớt mồm bớt miệng
bù bù đầu, bù đầu bù cổ
bùi bùi tai
buộc buộc lòng
buôn buôn nước bọt
buồn buồn chân, buồn tay, buồn mồm buồn miệng
buột buột miệng
bực bực mình
C cả cả gan
cam cam lòng
cao cao tay
cáu cáu sườn
cắm cắm cổ, cắm đầu, cắm đầu cắm cổ
cắn cắn răng
cắt cắt cổ, cắt họng
cầm cầm chân, cầm đầu, cầm lòng
cân cân não
chạm chạm trán
chán chán đến mang tai
chắc chắc chân, chắc dạ, chắc tay
chặc chặc lưỡi
chen chen chân, chen vai thích cánh
chép chép miệng
chỉ chỉ tay năm ngón
chia chia tay
chọc chọc gan
chóng chóng mặt
chôn chôn nhau cắt rốn
chột chột dạ
chúi chúi đầu, chúi đầu chúi mũi
chung chung lưng đấu cật, chung thân
chuyển chuyển bụng, chuyển dạ, chuyển mình
chướng chướng tai gai mắt
có có da có thịt, có mặt
coi coi mắt
còi còi xương
cứa cứa cổ
cứng cứng cổ, cứng đầu cứng cổ, cứng họng, cứng lưỡi
cười cười mũi
cưỡi cưỡi cổ, cưỡi đầu cưỡi cổ
D dài dài lưng, dài mồm
dại dại mặt, dại mồm dại miệng
dán dán mắt
dằn dằn mặt
dắt dắt mũi
dẫn dẫn xác
dẻo dẻo mỏ
dở dở miệng
dung dung thân
dưỡng dưỡng thân
Đ đang đang tay
đau đau lòng, đau đầu
đặt đặt chân
đâm đâm họng
đấm đấm họng
đè đè đầu cưỡi cổ
đem đem lòng
đẹp đẹp lòng, đẹp mắt, đẹp mặt
để để mắt
động động lòng, động não
đưa đưa chân, đưa mắt
được được lòng
đương đương đầu
đứt đứt ruột
G gác (gác) bỏ ngoài tai, gác mỏ
gai gai mắt
gảy gảy móng tay cũng xong
gặp gặp mặt
ghé ghé lưng, ghé mắt
ghét ghét mặt
ghi ghi lòng tạc dạ
già già gan, gìa họng, già tay, già mồm
giam giam chân
giãn giãn xương giãn cốt
giáp giáp mặt
gieo gieo mình
giỡn giỡn mặt
giữ giữ chân, giữ mình, giữ mồm giữ miệng
giương giương mắt
gồng gồng mình
gởi gởi mình
gớm gớm mặt
H hả hả dạ, hả lòng hả dạ
hạ hạ mình
hài Hài lòng
hãm hãm mình
hăng hăng máu
hẹp hẹp bụng
hết hết lòng hết dạ
hiến hiến thân
hòa hòa mình
hư hư thân
I inh inh tai
K kề kề vai sát cánh
kế kế chân
kệ kệ xác
kết kết tóc xe tơ
khát khát máu
khắc khắc cốt ghi xương
khéo khéo mồm, khéo mồm khéo miệng, khéo tay
khó khó lòng
khỏa khỏa thân
khổ khổ thân
khoanh khoanh tay
khom khom lưng
kiết kiết xác
L
lạ lạ mắt, lạ mặt, lạ miệng, lạ tai
lác lác mắt
lại lại gan, lại mặt
lánh lánh mặt
M
lạnh lạnh gáy, lạnh xương sống
lạt lạt lòng
lắc lắc đầu lè lưỡi
lắm lắm mồm, lắm mồm lắm miệng
lăn lăn lưng
lập lập thân
lật lật mặt, lật mặt như trở bàn tay
lấy lấy lòng
lên lên gan, lên gân, lên mặt, lên râu
liếm liếm gót, liếm mép
liền liền tay
liều liều mình, liều thân
lóa lóa mắt
loạn loạn óc
lót lót dạ, lót tay
lọt lọt lòng, lọt tai
lộn lộn gan, lộn ruột
lộng lộng óc
lở lỡ miệng
lú lú gan, lú gan lú ruột
lửng lửng dạ
mạnh mạnh miệng, mạnh mồm, mạnh tay
mát mát da mát thịt, mát dạ, mát dạ hả lòng, mát gan mát
ruột, mát lòng, mát mắt, mát mặt, mát ruột, mát tay
mau mau miệng, mau mồm, mau mồm mau miệng
máy máy tay
mặc mặc lòng
mặn mặn miệng
mất mất lòng, mất mặt, mất mật
méo méo mặt
mếch mếch lòng
mềm mềm lòng, mềm lưng uốn gối, mềm môi
mó mó tay
móc móc họng
moi moi ruột moi gan
mỏi mỏi gối chồn chân
mỏng mỏng môi, mỏng tai
mở mở lòng mở dạ, mở mày mở mặt, mở mắt, mở miệng
múa múa mép
mủi mủi lòng
muối muối mặt
mửa mửa mật
N nai nai lưng
nản nản lòng
nao nao lòng
nát nát óc
nắn nắn gân
nặn nặn óc
nặng nặng tai
nẫu nẫu ruột nẫu gan
nén nén lòng
nể nể mặt
ngả ngả lưng
ngã ngã lòng
ngang ngang tai
ngay ngay lưng
ngậm ngậm miệng
ngập ngập đầu
nghỉ nghỉ tay
nghĩ nghĩ bụng
ngoài ngoài mặt, ngoài miệng
ngon ngon mắt, ngon miệng
ngửa ngửa tay
ngứa ngứa gan, ngứa mắt, ngứa miệng, ngứa tai, ngứa tay
ngượng ngượng mặt, ngượng mồm ngượng miệng
nhàm nhàm tai
nhát nhát gan
nhạt nhạt mồm nhạt miệng
nhắm nhắm mắt, nhắm mắt đưa chân
nhăn nhăn răng
nhẵn nhẵn mặt
nhận nhận mặt
nhẹ nhẹ dạ, nhẹ miệng, nhẹ tay
nhọc nhọc lòng
nhồi nhồi sọ
nhúng nhúng tay
nỏ nỏ mồm
nợ nợ máu
non non tay
nóng nóng gáy, nóng lòng, nóng mắt, nóng mặt, nóng ruột
nối nối gót
nới nới tay
nức nức lòng
nương nương tay, nương thân
nứt nứt mắt
P phải phải lòng
phật phật lòng
phỉ phỉ dạ, phỉ lòng
phỉnh phỉnh mũi
phòng phòng thân
phóng phóng tay
phờ phờ râu
phủ phủ đầu
phủi phủi tay
Q qua qua mặt, qua mắt, qua tay
quá quá tay
quẫng quẫng mỡ
quay quay lưng
quen quen mặt, quen mắt, quen miệng, quen tay
quên quên mình
quỳ quỳ gối ( cúi đầu )
R ra ra mắt, ra mặt, ra tay
rộng rộng cẳng
rủ rủ lòng
rứt rứt ruột
S sa sa chân
sạch sạch mắt
sát sát suờn
sốt sốt ruột
sờn sờn lòng
sởn sởn gáy
sượng sượng mặt
T tạc tạc dạ ghi lòng
tan tan xương nát thịt
tắc tắc họng
tặc tặc lưỡi
tắm tắm máu
tắt tắt mắt
tận tận mắt, tận tay
thành thành thân
thay thay da đổi thịt, thay lòng đổi dạ, thay mặt
tháo tháo thân
thẳng thẳng cẳng, thẳng tay
thấp thấp cổ bé họng
theo theo gót
thi thi gian
tiếp tiếp tay
tím tím gan
to to đầu, to gan, to mồm
trém trém mép
trơ trơ mắt
trở trở tay
trơn trơn lông đỏ da
tóm tóm cổ
tối tối dạ, tối mắt tối mũi, tối mặt tối mày
tống tống cổ
tốt tốt bụng
trái trái tai
tránh tránh mặt
trắng trắng mắt, trắng tay
treo treo giò, treo mỏ
tréo tréo giò
trêu trêu gan
trở trở mặt, trở tay
trước trước mắt
V vác vác mặt
vạch vạch mặt
vắng vắng mặt
vắt vắt óc
vinh vinh thân phì gia
vò vò đầu bóp trán
vỗ vỗ ngực
vỡ vỡ lòng
vui vui lòng, vui miệng, vui tai
vùi vùi đầu
vung vung tay quá trán
váng váng mình váng mẩy
vắt vắt óc
vững vững bụng, vững dạ
U uốn uốn lưỡi
uống uống máu
X
xả xả thân
xanh xanh mật
xấu xấu bụng, xấu mặt
xem xem mặt
xiêu xiêu lòng
xỏ xỏ mũi
xót xót ruột, xót dạ
xuôi xuôi tai
xứng xứng vai
Y yên yên lòng, yên thân
DANH SÁCH VỊ TỪ + TÊN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI”
(Xếp theo tên bộ phận cơ thể)
STT Trang Tên bộ phận Kết hợp
1 31 Đầu
ấm đầu, bù đầu, ngập đầu, cắm đầu, cầm đầu,
chúi đầu, cứng đầu cứng cổ, cưỡi đầu cưỡi cổ,
đè đầu cưỡi cổ, đương đầu, lắc đầu lè lưỡi,
phủ đầu, to đầu, vò đầu bóp trán, vùi đầu, đau
đầu
2 33 Cổ
ắng cổ, bóp cổ, bù đầu bù cổ, cắm đầu cắm cổ,
cắt cổ, cứa cổ, cứng đầu cứng cổ, cưỡi cổ, thấp
cổ bé họng, tóm cổ, tống cổ
3 35 Tay
biết tay, bó tay, buồn tay, cao tay, chắc tay,
chia tay, đang tay, già tay, khéo tay, khoanh
tay, liền tay, lót tay, mạnh tay, mát tay, máy
tay, mó tay, bắt tay, nghỉ tay, ngửa tay, ngứa
tay, nhẹ tay, nhúng tay, non tay, nới tay,
nương tay, phóng tay, phủi tay, qua tay, quá
tay, quen tay, ra tay, tận tay, thẳng tay, tiếp
tay, trở tay, trắng tay, trao tay, lên tay
4 39 Chân
giữ chân, giam chân, đặt chân, đưa chân, tiễn
chân, mỏi gối chồn chân, chắc chân, chen chân,
kế chân, bình chân, nhắm mắt đưa chân, cầm
chân
5 41 Mắt
bảnh mắt, bắt mắt, gai mắt, coi mắt, dán mắt,
đẹp mắt, để mắt, đưa mắt, ghé mắt, giương
mắt, lạ mắt, lóa mắt, mát mắt, mở mắt, ngon
mắt, ngứa mắt, nhắm mắt, nóng mắt, nứt mắt,
qua mắt, ra mắt, sạch mắt, tắt mắt , tận mắt, tối
mắt, trắng mắt, trước mắt, vui mắt, lác mắt, trơ
mắt, sáng mắt, mờ mắt, đỏ mắt, tráo mắt, mỏi
mắt
6 44 Miệng
ác miệng, bạo miệng, bóp miệng, bớt miệng,
buồn miệng, buột miệng, chép miệng, dại
miệng, dở miệng, (độc mồm) độc miệng, giữ
mồm giữ miệng, khéo miệng, lạ miệng, nhạt
miệng, lắm mồm lắm miệng, lỡ miệng, mạnh
miệng, mau miệng, mặn miệng, mở miệng,
ngậm miệng, ngoài miệng, ngon miệng, ngứa
miệng, nhẹ miệng, ngọng miệng, quen miệng,
vui miệng, chõ miệng
7 46 Mồm
bạo mồm bạo miệng , bóp mồm bóp miệng,
bớt mồm bớt miệng, chõ mồm chõ miệng, dại
mồm dại miệng, độc mồm độc miệng, dài
mồm, giữ mồm giữ miệng, khéo mồm khéo
miệng, lắm mồm lắm miệng, mạnh mồm, mau
mồm mau miệng, ngượng mồm, nỏ mồm, to
mồm, buồn mồm buồn miệng, nhạt mồm nhạt
miệng, già mồm
8 48 Tai bỏ ngoài tai, bùi tai, chướng tai (gai mắt), inh
tai, lạ tai, lọt tai, mỏng tai, nặng tai, ngang tai,
ngứa tai, nhàm tai, trái tai, vui tai, xuôi tai
9 49 Lưng
dài lưng, ghé lưng, khom lưng, lăn lưng, mềm
lưng uốn gối, nai lưng, ngả lưng, ngay lưng,
quay lưng
10 51 Mình bỏ mình, dấn mình, gieo mình, giữ mình, gửi
mình, váng mình (váng mẩy), liều mình, quên
mình, nhún mình, hạ mình, hãm mình, hòa
mình, bực mình, gồng mình
11 52 Thân
biết thân, hư thân, vinh thân phì gia, yên thân,
lập thân, khổ, thân, dung thân, nương thân,
hành thân, xả thân, phòng thân, khỏa thân,
dưỡng thân, tháo thân
12 53 Vai
bằng vai, chen vai thích cánh, kề vai sát cánh,
xứng vai
13 54 Bụng
bấm bụng, bóp bụng, chuyển bụng, hẹp bụng,
nghĩ bụng, tốt bụng, vững bụng, xấu bụng,
định bụng
14 55 Lòng bền lòng, nản lòng, ngã lòng, xiêu lòng, sờn
lòng, buộc lòng, cam lòng, cầm lòng, đau lòng,
đem lòng, động lòng, được lòng, hết lòng (hết
dạ), khó lòng, lạt lòng, lấy lòng, mát lòng, mất
lòng, mếch lòng, mềm lòng, mở lòng (mở dạ),
mủi lòng, nao lòng, nén lòng, nhọc lòng, nóng
lòng, nức lòng, phải lòng, rủ lòng, ghi lòng (tạc
dạ), thay lòng (đổi dạ), vui lòng, yên lòng, mặc
lòng, vừa lòng, đẹp lòng, phật lòng, hài lòng ,
vỡ lòng, lọt lòng
15 58 Ruột đứt ruột, nẫu ruột (nẫu gan), nóng ruột, rứt
ruột, sốt ruột, xót ruột, lú ruột, lộn ruột, moi
ruột (moi gan)
16 59 Dạ
tối dạ, (ghi lòng) tạc dạ, sáng dạ, trẻ người non
dạ, mát dạ, chột dạ, (hết lòng) hết dạ, vững dạ,
nhẹ dạ, lót dạ, lửng dạ, chặt dạ
17 61 Họng
ắng họng, cứng họng, già họng, tắc họng, móc
họng, đâm họng, bóp họng, cắt họng, (thấp cổ)
bé họng
18 62 Óc bóp óc, loạn óc, lộng óc, nát óc, nặn óc, vắt óc
19 63 Gan bạo gan, bền gan, cả gan, già gan, nhát gan, to
gan, thi gan, bấm gan, chọc gan, lại gan, lên
gan , lộn gan, tím gan, ngứa gan, trêu gan
20 64 Mũi bóp mũi, chúi mũi, cười mũi, dắt mũi, nở mũi,
phỉnh mũi, xỏ mũi
21 65 Mặt
ngoài mặt, ra mặt, có mặt, gặp mặt, ghét mặt,
giáp mặt, lạ mặt, lánh mặt, nhẵn mặt, nhận
mặt, quen mặt, thay mặt, mất mặt, tránh mặt,
vác mặt, vắng mặt, xem mặt, lại mặt, dại mặt,
đẹp mặt, lên mặt, mát mặt, mất mặt, méo mặt,
mở mặt, muối mặt, nể mặt, ngượng mặt, qua
mặt, sượng mặt, vạch mặt, trở mặt, gớm mặt,
lật mặt , dằn mặt, biết mặt, giỡn mặt, chóng
mặt
22 68 Máu
khát máu, say máu, tắm máu, uống máu, nợ
máu, hăng máu, chảy máu
23 69 Trán chạm trán, vò đầu bóp trán, vung tay quá trán
24 70 Răng cắn răng, rỉ răng, nhăn răng
25 70 Ngực vỗ ngực
26 70 Tóc kết tóc xe tơ
27 71 Gáy lạnh gáy, nóng gáy, sởn gáy
28 71 Tim không có kết hợp
29 71 Xương ghi xương khắc cốt, tan xương nát thịt, lạnh
xương sống, còi xương, giãn xương giãn cốt
30 72 Não cân não, động não
31 72 Gối
bó gối, mỏi gối (chồn chân), (mềm lưng) uốn
gối, quỳ gối (khom lưng), quỳ gối (ôm chân)
32 73 Da
có da có thịt, mát da (mát thịt), trơn lông đỏ
da, ruột để ngoài da, thay da đổi thịt
33 73 Lưỡi tắc lưỡi, tặc lưỡi, chặc lưỡi, lắc đầu lè lưỡi,
uốn lưỡi
34 74 Mép
bẻm mép, múa mép, lẻo mép, liếm mép, trém
mép
35 74 Giò bó giò, treo giò, tréo giò
36 75 Phổi bạo phổi
37 75 Môi
mềm môi, mỏng môi, khua môi múa mép,
mỏng môi hay hớt, trả môi trả miếng
38 75 Lông không có kết hợp
39 75 Xác dẫn xác, mặc xác, kệ xác, kiết xác
40 76 Đít bợ đít, ngồi chưa nóng đít
41 76 Nước bọt buôn nước bọt, bã bọt mép
42 77 Thóp biết thóp
43 77 Cẳng rộng cẳng, thẳng cẳng
44 77 Hầu bóp hầu (bóp cổ)
45 77 Mỡ quẩng mỡ, rửng mỡ
46 78 Sọ nhồi sọ
47 78 Sườn sát sườn, cáu sườn
48 78 Mỏ múa mỏ, treo mỏ, gác mỏ
49 79 Gót liếm gót, nối gót, theo gót, bén gót
50 79 Râu phờ râu, lên râu, vểnh râu
51 80 Bàn tay thuộc như lòng bàn tay, dễ như trở bàn tay, lật
như lật bàn tay
52 80 Gân lên gân, nắn gân
53 81 Ngón tay chỉ tay năm ngón
54 81 Móng tay không đụng móng tay, gảy móng tay cũng
xong
55 81 Mật mất mật, xanh mật, to gan lớn mật
56 82, 82 Nhau, rốn chôn nhau cắt rốn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ve_cau_truc_vi_tu_ten_goi_bo_phan_cua_co_the_nguoi_kieu_nhu_mat_tay_len_mat_nong_ruot_7884.pdf