Hiện có không ít hộ nghèo do thiếu vốn, thiếu lao động, thiếu việc làm, thiếu kinh
nghiệm, do ốm đau, tai nạn, thiên tai, dịch bệnh. tức là do những yếu tố khách quan, các hộ
này phần lớn tập trung ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào người dân tộc,
đa số các hộ này là đông con, trình độ văn hóa thấp (có gần 35,6% chủ hộ gia đình chưa học
hết tiểu học hoặc chưa bao giờ đến trường) và không có tư liệu sản xuất. Cho nên bên cạnh
việc miễn giảm các khoản đóng góp, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi hơn trong đào tạo
nghề, hướng dẫn, tư vấn cách làm ăn, hỗ trợ vốn cho phù hợp với từng đối tượng.
99 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6354 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nghèo
Từ nay đến năm 2010 bằng nhiều hình thức, biện pháp tỉnh nên tập trung huy động
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trước hết là ưu tiên xây dựng đồng bộ kết cấu hạ
tầng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; đồng thời đầu tư có trọng điểm
phát triển mạnh những ngành có tiềm năng lợi thế như: nông – lâm thuỷ sản, công nghiệp
sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông - thuỷ sản, thương mại – du lịch và đầu tư có
hiệu quả vào các địa bàn trọng điểm như: Rạch Giá, Châu Thành, Hà Tiên, Kiên Lương,
Phú Quốc, U Minh Thượng để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chủ động hội nhập
kinh tế, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ.
Đầu tư phát triển nông - lâm nghiệp - thuỷ sản theo chiều sâu, chuyển đổi giống cây
con có chất lượng cao, tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến tăng giá trị và áp
dụng đồng bộ khoa học công nghệ giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh nông sản
hàng hoá. Giữ sản lượng lương thực ở mức 3 triệu tấn và theo hướng nâng cao chất lượng
và giá trị lúa hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu. Tiếp tục thực hiện tốt các nghị quyết
chuyên đề và chương trình hành động của Tỉnh uỷ về nông nghiệp và nông thôn nhằm
chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp, đưa nông nghiệp phát triển toàn diện, da dạng, hiệu
quả cao và bền vững; khai thác lợi thế của tỉnh về nguyên liệu và mặt nước để phát triển
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản.
Đầu tư phát triển công nghiệp theo hướng ưu tiên sản xuất vật liệu xây dựng và chế
biến nông - thuỷ sản, làm tăng sức cạnh tranh nông hải sản hàng hoá trên thị trường trong
nước và quốc tế. Đa dạng hoá các sản phẩm, nâng lên chất lượng và giá trị sản phẩm chế
biến truyền thống, tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh. Khuyến khích và tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sửa chữa tàu thuyền,
máy nông nghiệp, gia dụng, phục vụ sản xuất và đời sống. Đầu tư xây dựng các khu, cụm
công nghiệp ở Châu Thành, Gò Quao…, thúc đẩy các khu công nghiệp tiếp tục đổi mới
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo môi trường. Đẩy mạnh thực hiện đề
án phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu nông thuỷ sản của tỉnh đến 2010, các
chương trình hành động của Tỉnh uỷ về khoa học công nghệ, về hội nhập kinh tế quốc
tế,…
Tập trung đầu tư ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển nhanh
và bền vững. Phát triển Phú Quốc thành khu du lịch sinh thái chất lượng cao của cả nước
và khu vực, đồng thời phát triển đồng bộ các vùng du lịch trọng điểm khác của tỉnh.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư đa dạng hoá các loại hình du lịch, mở rộng
liên doanh liên kết, hình thành các tour du lịch liên hoàn trong tỉnh và khu vực, tạo ra các
sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh, nâng cao chất lượng phục vụ. Tăng cường giới thiệu
tiềm năng và kêu gọi đầu tư, phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành các dự án xây dựng điểm,
khu du lịch trọng điểm của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2010 đón trên 1 triệu khách du lịch,
nâng thời gian lưu trú của khách lên trên 2 ngày.
Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ, nhất là dịch vụ vận tải đường bộ, đường thuỷ,
đường hàng không, đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển hàng hoá, hành khách. Phát triển các
dịch vụ về tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, khoa học kỹ thuật… hỗ
trợ cho việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí và mức sống dân cư, đảm bảo đủ điều
kiện thực hiện các mục tiêu phát triển, đồng thời thúc đẩy chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế của
tỉnh.
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tương xứng tiềm năng và lợi thế của tỉnh, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, đi
đôi với coi trọng thị trường nội địa. Có kế hoạch liên doanh, liên kết trong nước và với
nước ngoài để mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Khai thác, phát huy
lợi thế khu kinh tế cửa khẩu. Quy hoạch phát triển hoàn chỉnh, ổn định mạng lưới chợ trên
địa bàn tỉnh, trước mắt xây dựng và đưa vào hoạt động hai chợ đầu mối nông sản của tỉnh
tại Giồng Riềng và Châu Thành. Phát triển thương mại - dịch vụ nông thôn, bảo đảm lưu
thông hàng hoá thông suốt. Mở rộng kinh tế đối ngoại, tăng cường quảng bá và thông tin
về thị trường ngoài nước.
Thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước và dân doanh tích cực tham gia hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực. Tiếp tục thực hiện đề án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, sớm xây
dựng, triển khai chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Khuyến khích các doanh nghiệp tham
gia các hiệp hội ngành nghề. Tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trong các lĩnh vực, trước
hết trong nông nghiệp và nông thôn, với nhiều hình thức đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi
cho các thành phần kinh tế phát triển. Tiếp tục thực hiện tốt hơn các chính sách ưu đãi để
khuyến khích đầu tư.
Với tổng thể các biện pháp huy động nguồn lực và phát triển kinh tế như trên, ngân
sách của tỉnh sẽ có nguồn thu lớn hơn, nhờ đó có khả năng chi cho công cuộc XĐGN
nhiều hơn. Mặt khác, sự phát triển sôi động của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế
sẽ tạo cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập khá và ổn định cho lao động nghèo, giúp hộ
nghèo tăng thu nhập. Ngoài ra, sự phát triển của kinh tế trên địa bàn tỉnh cũng tạo các thị
trường ngách về dịch vụ, về sản xuất để người nghèo sử dụng nguồn lực hạn chế của họ
hiệu quả hơn.
3.2.1.3. Qui hoạch phát triển kinh tế và phân bố lực lượng sản xuất theo hướng tạo môi
trường và cơ hội để người nghèo cải thiện thu nhập
Tại vùng Tứ giác Long Xuyên và ven biển Hòn Đất - Kiên Lương - Hà Tiên tỉnh nên
tập trung ổn định dân cư, khai thác 100% quĩ đất còn hoang hoá; nâng cao năng suất, hiệu
suất sử dụng đất, chuyển từ trồng rừng tràm qua sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi đại gia
súc và nuôi trồng thuỷ sản. Tỉnh nên chú trọng đầu tư đồng bộ vùng chuyên canh thuỷ sản
và nuôi thuỷ sản cụm biển đảo ven bờ.
Cần đầu tư phát triển du lịch sinh thái biển đảo, cảnh quan và văn hoá lịch sử cụm
Hà Tiên – Kiên Lương – Hòn Đất, nối kết với du lịch Phú Quốc - An Giang - Rạch Giá;
hoàn thành các tuyến, điểm du lịch chính: Mũi Nai, Chùa Hang, khu di tích Hòn Đất (mộ
chị Sứ). Khi những công trình này hoàn thành, dân nghèo có cơ hội tham gia và hưởng lợi
từ phát triển ngành du lịch.
Phát huy cụm công nghiệp vật liệu xây dựng, xây dựng nhà máy chế biến và khu
công nghiệp nhằm tạo công ăn việc làm cho lao động trong vùng, tuy nhiên cần chú trọng
chống ô nhiễm khí thải, bảo vệ môi trường cảnh quan, sinh thái biển đảo, di tích văn hoá -
lịch sử. Đầu tư phát triển kinh tế cửa khẩu, nâng cấp cửa khẩu Xà Xía thành cửa khẩu quốc tế,
xây dựng khu bảo thuế, hoàn thành xây dựng trung tâm thương mại Hà Tiên…để phát triển
thương mại mậu biên, bán buôn và mua sắm phục vụ du lịch tạo cơ hội tham gia cho hộ dân
cư địa phương.
Hoàn thành kết cấu hạ tầng, trước hết là đường Hà Giang nối Kiên Giang - An
Giang, công trình cấp nước, hệ thống thuỷ lợi đa mục tiêu, xây dựng phát triển kinh tế - xã
hội ở địa bàn gắn chặt với an ninh quốc phòng, an ninh biên giới biển đảo và đất liền, làm
tốt công tác đối ngoại với Campuchia…chuẩn bị tốt mọi điều kiện đưa thị xã Hà Tiên trở
thành thành phố văn hoá – du lịch từ những năm 2010 trở đi… Khi tiến hành quy hoạch
những hoạt động này phải chú ý đến nhu cầu của người nghèo, nhất là nhu cầu sinh nhai
của họ.
Trên địa bàn thành phố Rạch Giá và vùng phụ cận, tỉnh nên tập trung đầu tư hoàn
thành hạ tầng các khu công nghiệp tập trung, mở rộng khu công nghiệp và cảng cá, đẩy
mạnh phát triển công nghiệp cơ khí sửa chữa, hậu cần nghề cá, đầu tư công nghiệp chế
biến thuỷ hải sản gắn với khu công nghiệp… nhằm tạo dư địa cho người nghèo tham gia
và hưởng thụ lợi ích từ các hoạt động kinh tế.
Ngoài ra, tỉnh nên đẩy mạnh phát triển thương mại và các dịch vụ cao cấp như: tài
chính, ngân hàng, bưu chính- viễn thông, khám chữa bệnh; bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân
lực; phát triển các thị trường: vốn, lao động, khoa học – công nghệ, bất động sản; xây dựng
siêu thị, chợ đầu mối, tăng chỗ lưu trú và ẩm thực du lịch… Những hoạt động này sẽ tạo
thêm những cơ hội mới cho người nghèo.
Vùng Tây sông Hậu, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn một cách toàn
diện để trở thành vùng sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, ổn định; tăng cường dạy nghề
phục vụ yêu cầu phát triển nông nghiệp toàn diện. Tập trung chuyển giao ứng dụng khoa
học công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp, hình thành vùng lúa chất lượng
cao, đẩy mạnh chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, gắn vùng nguyên liệu với công
nghiệp chế biến. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng đường, điện, thuỷ lợi; hoàn thành hạ
tầng khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu phát triển công nghiệp
chế biến nông sản, cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp và nghề truyền thống, chợ đầu
mối nông sản, phát triển trung tâm thương mại, hệ thống chợ nông thôn, gắn kết hoạt động
kinh tế với Hậu Giang và Cần Thơ. Gắn sản xuất với chế biến, thu hút doanh nghiệp vừa
và nhỏ về nông thôn, thúc đẩy liên kết 3 nhà. Phát triển một phần nông nghiệp đô thị ở Tân
Hiệp. Khi thực thi những giải pháp này, luôn phải lồng ghép trong đó mục tiêu XĐGN cho
bộ phận dân cư liên quan, nhất là trong hỗ trợ nông dân nghèo tiếp nhận kỹ thuật mới, hỗ
trợ nông dân mất đất.
Tại vùng bán đảo Cà Mau, tỉnh nên tiếp tục đầu tư thuỷ lợi theo hướng phục vụ đa
mục tiêu, trong đó chú trọng vùng ven biển. Trước mắt tập trung áp dụng các mô hình sản
xuất luân canh 1 vụ tôm, 1 vụ lúa, xen canh đa dạng phù hợp với điều kiện tự nhiên từng
tiểu vùng. Nâng cao hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi đại gia súc, phát triển tiểu thủ
công nghiệp, xí nghiệp vừa và nhỏ chế biến nông thuỷ sản. Chú ý thu hút người nghèo
tham gia các chương trình phát triển vùng với tư cách vừa là người thụ hưởng vừa là người
tham gia vào các hoạt động.
Tiếp tục đầu tư hình thành trung tâm kinh tế, văn hoá Kinh làng Thứ Bảy; hoàn
thành và phát huy tác dụng du lịch sinh thái và du lịch nghiên cứu khoa học (du khảo) U
Minh Thượng, gắn với bảo vệ môi trường; phòng chống cháy rừng quốc gia… nhằm bảo tồn
môi trường sản xuất và kinh doanh cho người dân ở đây, hỗ trợ họ nâng cao thu nhập từ khai
thác thế mạnh của vùng.
Đẩy mạnh đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật như: cảng cá, đường quốc lộ liên
tỉnh, giao thông nông thôn, các trung tâm thương mại huyện, trung tâm dạy nghề trong đó
chú trọng dạy nghề nông nghiệp và xuất khẩu lao động cho người nghèo, khuyến khích lao
động nghèo tham gia các thị trường lao động tại khu công nghiệp. Phấn đấu đưa các huyện
trong vùng thoát nghèo, vươn lên ngang bằng mức phát triển chung của tỉnh năm 2010.
Đối với vùng biển đảo Kiên Hải – Phú Quốc, tỉnh nên tập trung huy động nguồn lực
để có thể phát triển mạnh kinh tế biển đảo theo hướng tổng hợp, trong đó trọng tâm là du
lịch với nhiều loại hình, sản phẩm du lịch độc đáo đặc thù như du lịch sinh thái chất lượng
cao, du khảo, du lịch văn hoá - kết hợp hội nghị, nghiên cứu khoa học… nhằm khai thác
lợi thế vùng biển, lôi cuốn các hộ dân nghèo lâu năm ở đây vào vòng quay kinh tế thị
trường. Tỉnh cũng nên đầu tư sớm cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch như giao thông nối kết đất
liền và các trung tâm đô thị lớn, giao thông nội đảo, điện, nước …để làm tiền đề thu hút
đầu tư cơ sở nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí… cho các đảo, nhất là đảo Phú Quốc để tạo cơ
sở hạ tầng cho dân cư làm du lịch, từ đó có thể đổi đời. Ngoài ra, tỉnh nên sớm đầu tư
trước một bước về nguồn nhân lực, chú trọng hỗ trợ đào tạo con em các hộ nghèo, đi đôi
với hoàn thành cơ chế quản lý đầu tư hợp lý, thu hút đầu tư mạnh ở Phú Quốc, thông qua
đó cải thiện đời sống cư dân trên đảo.
Phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản, mở rộng đánh bắt xa bờ, gắn với công nghiệp chế
biến, kết hợp với phát triển du lịch, phát triển các dịch vụ cao cấp phục vụ du lịch, dịch vụ
quốc tế… nhằm làm cho cư dân ở đảo tạo được nhiều giá trị gia tăng ở đảo hơn.
3.2.1.4. Thực hiện các chương trình trọng điểm mang tính đòn bẩy, tổ chức các loại thị
trường hỗ trợ người nghèo
Trước hết, tỉnh nên chú trọng đầu tư ban đầu cho các chương trình phát triển khu
công nghiệp tập trung như mở rộng khu công nghiệp Tắc Cậu, xây dựng khu công nghiệp
Thạnh Lộc - Châu Thành, khu công nghiệp Rạch Vượt - Hà Tiên, cụm công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp Gò Quao, Thứ Bảy - An Biên. Nếu đầu tư đúng mức, tỉnh sẽ thu hút được
nhiều dự án thuê đất trong khu công nghiệp, từ đó tăng thêm chỗ làm việc cho người
nghèo.
Thứ hai, tỉnh cần xem xét đầu tư thoả đáng để triển khai chương trình phát triển
công nghiệp chế biến nông hải sản, nhất là cần xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư nhà máy
chế biến trong các khu công nghiệp, phát triển thêm các nhà máy chế biến thức ăn gia súc,
phục vụ chăn nuôi, trồng trọt, đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu gắn với chính sách thu
mua sao cho tỷ trọng chế biến tại tỉnh đạt trên 70% sản lượng, tăng cường chỉ đạo đầu tư
đổi mới kỹ thuật - công nghệ theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm để xuất khẩu, mở
rộng thị trường. Chương trình này tác động trực tiếp đến cải thiện điều kiện kinh doanh
cho hộ nghèo.
Thứ ba, tỉnh nên đẩy mạnh thực hiện chương trình phát triển các trung tâm thương
mại, chợ nông thôn nhằm thúc đẩy giao lưu hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, lôi cuốn
người nghèo vào quỹ đạo sản xuất hàng hoá. Cụ thể là cần ưu tiên xây dựng trung tâm bán
buôn nông - hải sản ở Rạch Sỏi, Tân Hiệp, siêu thị lớn ở Rạch Giá, xây dựng các trung tâm
thương mại khu vực và huyện ở thị trấn Gò Quao, Hà Tiên, Hòn Đất, Tân Hiệp, Giồng
Riềng, Tắc Cậu và Kinh làng Thứ bảy, qui hoạch và phát triển các chợ xã….
Thứ tư, UBND tỉnh cần đầu tư tiền của và nhân lực nhiều hơn cho chương trình dạy
nghề giới thiệu việc làm cho người lao động, trong đó ưu tiên cho diện lao động nghèo. Cụ
thể là, tỉnh cần đầu tư ưu tiên từ ngân sách và xã hội hoá, mở rộng khả năng dạy nghề ở
các bậc để 20% lao động có nghề. Đầu tư mở rộng trường dạy nghề cấp tỉnh, các trung tâm
dạy nghề vùng bán đảo Cà Mau, các huyện, thị; đẩy mạnh liên kết dạy nghề với các trường
ngoài tỉnh cho xuất khẩu lao động và nhu cầu các khu công nghiệp, thị trường lao động;
đầu tư đào tạo giáo viên dạy nghề. Chú trọng các lĩnh vực nghề nông nghiệp, chế biến
nông - hải sản, du lịch.
3.2.2. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách hỗ trợ cho người nghèo
3.2.2.1. Giải pháp về tạo vốn và tín dụng ưu đãi đối với người nghèo
Trước hết, tỉnh nên coi việc cung cấp vốn để trợ cấp cho người nghèo sản xuất kinh
doanh là một trong những nội dung quan trọng của chương trình XĐGN. Bởi, theo số liệu
điều tra của Cục Thống kê Kiên Giang, năm 2005 trên địa bàn tỉnh có 12.423 hộ thiếu vốn
sản xuất, chiếm tỷ lệ 26,55% trong tổng số hộ nghèo. Hơn nữa, tỉnh cần mở rộng và đa
dạng hoá hình thức huy động các nguồn vốn tín dụng cho người nghèo như khuyến khích
các quỹ hỗ trợ nhau, kêu gọi các nguồn tài trợ, tổ chức các hình thức bảo lãnh…. Ngoài ra,
cần gắn kết hoạt động cấp vốn tín dụng của Ngân hàng chính sách – xã hội với các kênh
tín dụng và các nguồn quĩ khác như Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, Quỹ xoá đói, giảm
nghèo của tỉnh và của các tổ chức đoàn thể, tổ chức phi chính phủ, để đảm bảo cơ bản số
hộ nghèo có sức lao động, có nhu cầu vay vốn làm ăn được trợ vốn, vay vốn tín dụng ưu
đãi. Chú trọng cấp tín dụng cho phụ nữ, đồng bào dân tộc và hộ có người tàn tật. Đồng
thời phải giám sát được đối tượng vay vốn, thiết lập cơ chế để người vay tham gia tiết
kiệm vốn làm ăn có hiệu quả. Về lãi suất cho vay diện hộ nghèo nên thấp hơn mức lãi suất
của thị trường.
Thứ hai, tỉnh cũng nên thực hiện đa dạng hoá các phương thức hỗ trợ, cho vay vốn
gắn với các giải pháp khác như khuyến nông, lâm, ngư; gắn kết tín dụng với các hoạt động
nâng cao năng lực, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người nghèo; trợ vốn cho hộ nghèo có
nhu cầu về vốn để chủ động làm ăn sinh sống đi đôi với việc tổ chức hướng dẫn cách làm
ăn sinh lợi thông qua hướng dẫn người nghèo nuôi con gì, trồng cây gì... Tạo điều kiện về
vốn cho những cơ sở sản xuất, các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp, các chủ trang
trại làm ăn có hiệu quả trên địa bàn huyện, thị có đông đồng bào nghèo để họ mở rộng quy
mô sử dụng lao động và hỗ trợ giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hộ nghèo.
Thứ ba, tỉnh nên đẩy mạnh các biện pháp tạo nguồn vốn và khả năng đầu tư vốn
phục vụ cho chương trình XĐGN theo hướng sau: hàng năm dành một tỷ lệ ngân sách nhất
định để đầu tư cho chương trình XĐGN của tỉnh; tổ chức vận động phong trào toàn xã hội
ủng hộ Quỹ XĐGN các cấp bằng các biện pháp như: tổ chức vận động hộ nhân dân và
doanh nghiệp (trong nước, liên doanh và nước ngoài) trên địa bàn tỉnh đóng góp ủng hộ
Quỹ vì người nghèo. Mở rộng quy mô vốn tín dụng của ngân hàng chính sách – xã hội
phục vụ cho vay vốn đối với hộ nghèo, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng
chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài, đi làm việc ngoài tỉnh. Song song đó, tỉnh
nên tiếp tục khuyến khích hộ nghèo kết hợp sử dụng nguồn vốn tự có, tự vận động của các
tổ chức đoàn thể (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh và Hội Cựu chiến binh…) với vốn vay để kinh doanh hiệu quả hơn.
Ngoài các nguồn quỹ nói trên phục vụ cho chương trình XĐGN trên địa bàn tỉnh,
Kiên Giang cần huy động nhiều nguồn vốn của các chương trình, dự án phát triển kinh tế -
xã hội khác của tỉnh cũng như cần lồng ghép mục tiêu XĐGN trong các chương trình hợp
tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ… Chương trình XĐGN của tỉnh cần
kết hợp tốt việc lồng ghép, phối hợp các nguồn vốn từ các chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh với vốn XĐGN. Các nguồn vốn này phải được xác định cụ thể, có
sự kiểm tra, chỉ đạo và phối hợp thực hiện chặt chẽ theo hợp đồng trách nhiệm và phải
được thống nhất ký kết giữa các ngành chức năng hoặc tổ chức đơn vị là chủ quản đầu tư
trực tiếp các chương trình, dự án này với Ban chỉ đạo chương trình XĐGN nhằm đảm bảo
cho nguồn vốn sử dụng đúng mục tiêu, đúng đối tượng và không mâu thuẫn với chương trình,
dự án chung đó.
3.2.2.2. Giải pháp về hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt đối với hộ
nghèo
Theo kết quả khảo sát hộ nghèo của Cục Thống kê Kiên Giang, đến tháng 9/ 2006
Kiên Giang có 36.810 hộ thì có 20.243 hộ nông dân không có đất sản xuất, chiếm 54,9%.
Vì vậy, thực hiện giải pháp về đất sản xuất, đất ở cho hộ nghèo là vấn đề mang ý nghĩa
chính trị, kinh tế hết sức sâu sắc. Để thực hiện tốt giải pháp này cần thực hiện những nội
dung sau:
- Đẩy mạnh việc tổ chức thực hiện Quyết định số 134/2004/QĐ - TTg của Thủ
tướng Chính phủ về việc hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho đồng bào
dân tộc thiểu số. Đối với các hộ nghèo khác có khó khăn về nhà ở tỉnh nên áp dụng cơ chế
tương trợ lẫn nhau trong gia đình, dòng họ, cộng đồng cùng với sự hỗ trợ một phần của
ngân sách địa phương. Chính sách hỗ trợ nên ưu tiên chủ hộ là nữ, hộ có đối tượng bảo trợ
xã hội. Nên tiếp tục thực hiện phong trào xây dựng nhà tình thương, nhà Đại đoàn kết cho
hộ nghèo, trong đó vai trò chính là Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và cộng đồng
xã hội phối hợp cùng tham gia. Tích cực huy động sự trợ giúp của các doanh nghiệp và các
đơn vị lực lượng vũ trang thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở và nước sinh hoạt cho
hộ nghèo.
- Đối với những hộ đủ điều kiện tiến hành hỗ trợ đất sản xuất, đất ở để đảm bảo
người dân có ruộng đất sản xuất, có đất cất nhà ổn định cuộc sống. Về phương diện này
tỉnh cần thực hiện các chính sách:
+ Về đất sản xuất: Đối với những hộ đã cầm cố đất, đề nghị có chủ trương cho vay
vốn dài hạn để chuộc lại đất. Chỉ xem xét giải quyết cho những hộ chí thú làm ăn, nhưng
vì lý do khách quan mà phải cầm cố đất, nay có lao động và thực sự muốn sản xuất thì phải
xây dựng phương án, kế hoạch sản xuất cụ thể trình chính quyền địa phương xác nhận và
đề nghị Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay chuộc lại đất; Đối với những hộ đã sang bán
đất, hiện nay không còn đất hoặc thiếu đất sản xuất, nhưng có lao động và năng lực khai
thác đất canh tác thì thực hiện việc giao cấp đất thông qua các dự án di dân, mỗi hộ từ 2-3
ha. Ngoài tiền hỗ trợ di dời theo dự án, cần phải có chính sách hỗ trợ thêm để tạo điều kiện
ổn định việc ăn ở và tổ chức sản xuất cho những hộ thuộc diện di dời (thuỷ lợi, tập huấn về
khoa học kỹ thuật, tổ chức tổ hợp tác, cung ứng dịch vụ…). Nên thực hiện cấp đất theo
hướng xen kẽ những hộ biết làm ăn với hộ kém để những hộ biết cách làm ăn giúp đỡ, kèm
cặp những hộ kém cùng vươn lên. Đối với những hộ đã sang bán hết đất sản xuất nhưng họ
không có khả năng khai thác ở vùng đất mới và cũng không có khả năng chuyển đổi ngành
nghề khác thì cần có chính sách hỗ trợ việc mua đất tại địa phương để sản xuất nhằm ổn
định cuộc sống, mỗi hộ mức tối thiểu là 0,5 ha, trị giá khoảng 20 triệu đồng (ngân sách
trung ương 80%, ngân sách tỉnh 20%).
+ Về đất ở: Mức hỗ trợ đất ở tối thiểu cho mỗi hộ nông thôn nghèo người dân tộc là
200m2, từ nguồn quỹ đất địa phương, hoặc hỗ trợ bằng nguồn ngân sách để mua đất ở tại
chỗ từ 8 - 10 triệu đồng/hộ (ngân sách Trung ương 80%, ngân sách tỉnh 20%).
- Tổ chức kiểm tra lại tình hình quản lý và sử dụng đất đai của các cấp, các ngành
được giao quyền sử dụng đất, xem xét, xử lý các trường hợp vi phạm, sử dụng không đúng
mục đích, thu hồi đất, mở thêm vùng đất hoang hoá đưa vào sản xuất, tạo quỹ đất giải
quyết cho hộ nghèo. Thực hiện xử lý tình trạng cầm cố đất trái phép, tuyên truyền, giáo
dục, ngăn chặn việc cầm cố, sang bán ruộng đất trái pháp luật, đặc biệt chú ý nhắc nhở cán
bộ đảng viên, cán bộ công chức và mọi người không được lợi dụng đồng bào Khmer gặp
khó khăn hoạn nạn để nhận cầm cố, mua bán đất trục lợi.
- Đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng gắn với quy hoạch bố trí lại dân cư trong
vùng ngập lũ. Thực hiện chính sách lợi ích bảo vệ rừng và trợ vốn di dân đi vùng kinh tế
mới theo phương châm lấy ngắn nuôi dài để hộ nghèo ổn định cuộc sống, từng bước có
tích luỹ, vượt qua nghèo khó. Thực hiện chính sách hỗ trợ giống, cây, con và chính sách
giảm, miễn thuế cho các hộ nghèo.
3.2.2.3. Thực hiện chính sách chăm lo sức khoẻ, giáo dục và văn hoá cho người nghèo
- Về chăm sóc sức khỏe, tỉnh nên thực hiện mục tiêu chung là bảo đảm chăm sóc y
tế cho người nghèo, trước mắt là thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho hộ nghèo, thực
hiện chế độ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo trong chương trình XĐGN. Tăng khả năng
tiếp cận dịch vụ y tế đối với hộ nghèo. Tập trung đầu tư xây dựng các bệnh viện tuyến
huyện, bệnh viện khu vực, xây dựng hoàn chỉnh các trạm y tế xã, ưu tiên cho các xã nông
thôn, vùng sâu, phấn đấu đến năm 2010 tất cả các xã, phường, thị trấn đều có trạm y tế
được xây dựng kiên cố và bán kiên cố, đảm bảo các điều kiện như có bác sĩ, cán bộ y tế,
trang thiết bị cơ bản, những thuốc thiết yếu phục vụ kịp thời cho người dân, thực hiện việc
khám chữa bệnh cho người nghèo tại xã…Cần giám sát chặt chẽ đối tượng và việc sử dụng
quỹ khám chữa bệnh, giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua việc phát
triển mạng lưới y tế cơ sở, tăng cường y tế ở khu phố, ấp, tăng tỷ lệ kinh phí khám chữa
bệnh cho tuyến xã và huyện.
- Về chăm lo giáo dục: Mục tiêu của chính sách giáo dục- đào tạo cho con em hộ
nghèo là tạo cơ hội cho trẻ em nghèo đến trường, khuyến khích hỗ trợ cho con em hộ
nghèo học các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học; phấn đấu đến
năm 2010 con em hộ nghèo trong độ tuổi đến trường đạt 90 – 95%, xoá tình trạng dạy 3
ca, khắc phục có hiệu quả tình trạng thiếu giáo viên, 100% trường lớp được cơ bản kiên cố
hoá.
Thực hiện miễn học phí cho học sinh nghèo dân tộc thiểu số, học sinh tàn tật ở các
cấp bậc học. Hỗ trợ về tập, viết và sách giáo khoa cho học sinh nghèo là con em dân tộc.
Giảm 50% học phí cho học sinh, sinh viên nghèo còn lại. Hạn chế các khoản đóng góp đối
với học sinh nghèo.
Có cơ chế hỗ trợ học sinh nghèo ở trường công lập và các trường ngoài công lập.
Phát triển mô hình trường bán trú, trường nội trú cho con em đồng bào dân tộc thiểu số và
thực hiện cơ chế cử tuyển đối với học sinh dân tộc nội trú. Tăng cường giáo dục mầm non
ở vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống. Tiếp tục mở rộng các lớp học tình thương, tổ
chức tốt những tổ, đội học sinh, đoàn viên, thanh niên tình nguyện tham gia dạy học tại các
vùng sâu trong các lớp học tình thương.
- Chăm lo đời sống văn hoá: Chú trọng xây dựng và phát triển phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"vừa coi đây là việc làm lâu dài cùng với việc nâng
cao dân trí cho người nghèo, vừa để chủ động đấu tranh hạn chế và loại bỏ dần những mặt
tiêu cực và mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, số đề… mà người nghèo thường hay mắc phải.
Có chương trình giáo dục kiến thức pháp luật cho người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo
tiếp cận với các chính sách, pháp luật có liên quan đến đời sống hàng ngày như: Luật dân sự,
Luật hình sự, Luật đất đai, Luật hôn nhân gia đình… Mở rộng việc tư vấn pháp luật miễn phí
cho các hộ nghèo về những chính sách của Nhà nước, nhất là những chính sách liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của họ.
3.2.2.4. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng làm chuyển biến bộ mặt xã hội các xã nghèo và
vùng nghèo
- Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo và vùng nghèo của tỉnh,
trước hết là cơ sở hạ tầng liên quan trực tiếp đến sản xuất, giao lưu kinh tế, tạo ra hiệu quả
nhanh, tăng cường đầu tư thuỷ lợi, quy hoạch bố trí lại cụm dân cư, quy hoạch các trung
tâm, các xã vùng trung tâm nông thôn phục vụ sản xuất và đời sống. Hỗ trợ xây dựng các
công trình nhà nước và nhân dân cùng làm, ưu tiên các công trình phục vụ sản xuất.
- Hàng năm Uỷ ban Nhân dân tỉnh nên đưa vào cân đối trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh và kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản để thông qua Hội đồng Nhân
dân tỉnh, cần dành ưu tiên một số tỷ lệ hợp lý trong Ngân sách để đầu tư cho các vùng, xã
nghèo. Ngoài nguồn vốn Ngân sách Nhà nước, nên huy động thêm từ nguồn các dự án,
chương trình của Bộ, ngành Trung ương và kết hợp với sự vận động, huy động lực lượng
trong dân.
- Nên mở rộng áp dụng cơ chế đầu tư hạ tầng cơ sở của chương trình 135: giao cho
xã làm chủ đầu tư đi đôi với tăng cường năng lực quản lý, gắn với việc thực hiện cơ chế dân
chủ ở cơ sở để nhân dân tham gia lựa chọn công trình đầu tư hợp lý, thực hiện việc giám sát
quản lý khi đưa công trình vào sử dụng.
3.2.3. Nhóm giải pháp tác động trực tiếp đến vùng nghèo, hộ nghèo, vùng đông đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống
3.2.3.1. Nhân rộng các mô hình xoá đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số
Tỉnh nên tập trung chỉ đạo xây dựng và rút kinh nghiệm các mô hình lồng ghép
XĐGN có hiệu quả và bền vững, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng huyện, xã có đồng
bào dân tộc thiểu số để sau đó nhân rộng ra. Nên chú trọng chỉ đạo các nhóm mô hình như:
Liên kết giữa các công ty, đơn vị với các xã và hộ nghèo phát triển vùng nguyên liệu, hợp
đồng tiêu thụ sản phẩm, tạo việc làm, tăng thu nhập, XĐGN. Mở rộng tuyên truyền, quảng
bá các mô hình phát triển nuôi trồng thuỷ sản gắn với XĐGN thành công tại các địa
phương ven biển như: Huyện An Minh, Kiên Lương, An Biên, các nghề phù hợp như nuôi
sò huyết, nuôi tôm sú…; Phát triển mô hình câu lạc bộ, tổ, nhóm phụ nữ, nông dân, thanh
niên… giúp nhau làm kinh tế để XĐGN. Mô hình xây dựng nhà ở gắn với cụm, tuyến dân
cư vùng lũ, xây dựng nhà tình nghĩa và hỗ trợ xây dựng nhà tình thương, nhà đại đoàn kết.
Phát triển ngành nghề ở khu vực nông thôn, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động và
tạo việc làm.
Tổ chức phong trào thi đua trong các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau thông qua
việc tình nguyện và hỗ trợ giúp đỡ người nghèo ở ấp, khu phố, xã, phường; đặc biệt phối
hợp với chính quyền quan tâm giáo dục, giúp đỡ nhau làm chuyển biến các hộ nghèo trong
chương trình thuộc diện đặc biệt (không biết cách làm ăn, dính vào tệ nạn xã hội) để có thể
trực tiếp trợ giúp cho họ vươn lên làm lại cuộc đời. Phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả
hoạt động của chính quyền ấp, khu phố, tổ nhân dân tự quản và các tổ chức đoàn thể trong
việc phối hợp giúp đỡ trao đổi kinh nghiệm cùng nhau học tập, vận dụng cách làm ăn có
hiệu quả hơn cho từng hộ hoặc từng nhóm dân cư.
Hàng năm tỉnh nên tổ chức hội nghị sơ kết phong trào hộ nghèo vươn lên sản xuất
giỏi, vượt nghèo, phong trào nông dân sản xuất giỏi giúp đỡ hộ nghèo, phong trào phụ nữ,
Hội Cựu chiến binh giúp nhau XĐGN... Trên cơ sở các hội nghị đó sơ kết các mô hình sản
xuất kinh doanh có hiệu quả phù hợp đặc điểm ở địa phương để phổ biến và nhân rộng mô
hình.
3.2.3.2. Hướng dẫn cung cách làm ăn và chuyển giao kỹ thuật cho hộ nghèo
Các tổ chức khuyến nông, khuyến công nên tăng cường chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
mới về trồng trọt, chăn nuôi, những cây, con có năng suất cao và xây dựng các mô hình
chế biến sản phẩm theo kiểu trình diễn cho các hộ nghèo. Các đoàn thể nên tổ chức hướng
dẫn hộ nghèo về cung cách làm ăn, lập kế hoạch sản xuất. Tỉnh cần ưu tiên công tác
khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư cho vùng nghèo, xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn,
nhất là hướng dẫn kiến thức chi tiêu trong sinh hoạt gia đình, có lưu ý đến tập quán của hộ
dân tộc thiểu số nghèo.
Nên tổ chức chuyển giao kỹ thuật đa dạng để phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế
của các vùng, các xã và nhóm hộ dân khác nhau trên địa bàn tỉnh. Việc chuyển giao không
những phải đảm bảo cung cấp thông tin về kỹ thuật, mà còn phải cung cấp thông tin về
kinh tế, nhất là về thị trường, nhằm đảm bảo cho người nghèo được trang bị các điều kiện
cần thiết để tiếp cận và tham gia vào thị trường một cách thuận lợi. Đồng thời hướng dẫn
hộ nghèo bán ở đâu với giá cả hợp lý để đảm bảo sản xuất có lãi, từng bước vượt qua đói
nghèo. Gắn việc chỉ đạo các thành phần kinh tế tham gia tiêu thụ hàng hoá, nhất là hàng nông
sản, hải sản cùng với sự tác động tích cực của chính sách Nhà nước, sao cho người nghèo
không quá thua thiệt khi tham gia thị trường.
- Khuyến khích mạnh các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh vào lĩnh
vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông hải sản, sản xuất vật liệu xây dựng,
cơ khí nhỏ, làm dịch vụ…nhằm tạo môi trường thuận lợi cho người nghèo.
3.2.3.3. Tăng cường đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người nghèo
- Về công tác đào tạo nghề: Tỉnh cần tăng cường công tác tuyên truyền về xã hội hoá
trong giáo dục - đào tạo, tạo điều kiện thông thoáng cho các tổ chức, cá nhân có đủ điều
kiện đầu tư để mở rộng, thành lập nhiều cơ sở, trung tâm dậy nghề tư thục trên địa bàn.
Chú trọng công tác đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn cho người nghèo theo hướng phục vụ
nhu cầu xuất khẩu lao động và cung cấp lao động có tay nghề cho các khu công nghiệp và
các thành phần kinh tế trong tỉnh. Nên thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề
miễn phí cho người nghèo, người dân tộc nhằm tạo điều kiện giải quyết việc làm, bố trí
ngành nghề, chuyển dần từ lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Tỉnh cần tăng
quy mô đào tạo cho người nghèo, tăng số lượng học sinh nghèo được học nghề. Thực hiện
đào tạo nghề tập trung cho các nhóm đối tượng thiếu kinh nghiệm sản xuất
- Về giải quyết việc làm: Tập trung chỉ đạo công tác giải quyết việc làm cho người lao động
nói chung và người nghèo nói riêng bằng nhiều hình thức. Tiếp tục thực hiện chính sách phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại ở nông thôn nhằm giải quyết
việc làm tại chỗ cho những hộ nghèo.
3.2.4. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện xoá đói, giảm nghèo
3.2.4.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động về chương trình xoá đói, giảm nghèo
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động sâu rộng và đều khắp trên các
phương tiện thông tin đại chúng và dưới nhiều hình thức khác nhau, thực hiện tuyên truyền
liên tục và thành từng đợt có trọng tâm, trọng điểm. Phương châm giải quyết chủ yếu của
chương trình tuyên truyền, vận động là dựa vào cộng đồng tại chỗ với sự phối hợp của
nhiều cấp, nhiều ngành. Tăng cường vai trò tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc,
của các tổ chức đoàn thể và các phương tiện thông tin đại chúng. Hướng công tác tuyên
truyền tập trung vào việc kích thích, thúc đẩy các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và
mọi người cùng tham gia, đóng góp, ủng hộ tạo nguồn lực cho chương trình. Kịp thời giới
thiệu những kinh nghiệm tốt điển hình, những nhân tố mới, mô hình sản xuất kinh doanh
giỏi từ thực tiễn ở địa phương để nhân rộng ra toàn tỉnh và khuyến khích người nghèo tích
cực vươn lên.
Phối hợp sức mạnh của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tôn giáo, Ban dân tộc tỉnh
tạo thành một mặt trận đoàn kết rộng rãi nhằm thực hiện tuyên truyền vận động toàn dân
thực hiện chương trình XĐGN. Tổ chức tốt phong trào vận động "Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, "xây dựng ý thức tương trợ tình làng nghĩa
xóm"góp công, góp của, góp sức, góp kinh nghiệm giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn hoạn
nạn. Phát động phong trào: nhiều hội viên, đoàn viên giúp đỡ cho một hội viên, đoàn viên;
Việc giúp đỡ nhau trong dòng họ thân tộc để cả dòng họ không còn hộ nghèo; trong đồng
bào dân tộc, trong các gia đình chính sách, gia đình neo đơn… do các tổ chức đoàn thể,
các tổ nhân dân tự quản tại các ấp, xã, phường chủ trì việc tuyên truyền, vận động sự giúp
đỡ của cộng đồng.
- Liên đoàn Lao động, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh đều có
trách nhiệm tham gia tích cực trong các giải pháp trợ giúp cho hộ nghèo phù hợp với chức
năng nhiệm vụ của từng tổ chức, phù hợp với tình hình cụ thể trong sản xuất và đời sống
của đoàn viên, hội viên thuộc tổ chức mình. Vận động tuyên truyền cho các đảng viên,
đoàn viên, hội viên hưởng ứng phong trào XĐGN mà trước hết là XĐGN cho hộ đảng
viên, đoàn viên, hội viên thuộc diện nghèo trong chương trình và trực tiếp tổ chức các hoạt
động XĐGN trong tổ chức mình từ tỉnh đến tận xã, phường, xóm ấp, khu phố.
- Đối với khu phố, ấp và tổ nhân dân tự quản cần có kế hoạch tuyên truyền vận động
nhân dân một cách thường xuyên trong các cuộc họp hàng tháng. Đồng thời tăng cường
công tác quản lý chặt chẽ hộ nghèo để có giải pháp phù hợp và thiết thực như quyên góp
quần áo cũ, chia sẻ về giống cây trồng, quyên góp tiền giúp đỡ những người nghèo đang
bệnh tật, ốm đau…
3.2.4.2. Tiếp tục kiện toàn về tổ chức và hoạt động của Ban chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo
các cấp
Tăng cường và củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN từng cấp, bố trí cán bộ
chuyên trách làm công tác XĐGN, xây dựng quy chế về tổ chức và hoạt động thống nhất, để
đủ sức thực hiện mục tiêu của chương trình đã đặt ra. Đồng thời phân công cán bộ chuyên
trách theo dõi chương trình XĐGN (từ cấp tỉnh, cấp huyện, thị, thành phố đến cấp xã, phường,
thị trấn). Tăng cường và phát huy tổ chức trợ giúp pháp lý trực thuộc Sở Tư pháp theo Quyết
định số 734/TTg ngày 06/09/1997 của Thủ tướng Chính phủ, để trợ giúp pháp lý miễn phí cho
người nghèo và các đối tượng chính sách.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ làm công tác XĐGN; đặc biệt là cán bộ cơ sở và các trưởng khu phố, trưởng ấp.
Thống nhất cơ chế quản lý các nguồn vốn phục vụ chương trình XĐGN: quỹ xoá
đói, giảm nghèo phải được quản lý tập trung, thống nhất về một mối dưới sự điều hành
của thường trực Ban chỉ đạo XĐGN tỉnh, khắc phục tình trạng quản lý phân tán, đầu tư
kém hiệu quả. Bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý và sử dụng các nguồn quỹ XĐGN
trên địa bàn tỉnh. Đối với nguồn vốn XĐGN của ngân sách sẽ tiếp tục giao về cho Ngân
hàng Chính sách xã hội phục vụ người nghèo quản lý, đối với nguồn vốn của các tổ
chức đoàn thể do trung ương phân bổ hoặc tự huy động trong hội viên thì đoàn thể
đứng ra cho vay nhưng lãi suất phải thống nhất bằng với lãi suất của Ngân hàng chính
sách xã hội phục vụ người nghèo. Thực hiện tốt cân đối thu chi, quyết toán hàng năm
đảm bảo việc phát triển lâu dài và bền vững của chương trình.
Đối với các nguồn vốn khác phải thực hiện cơ chế phối hợp, lồng ghép các chương
trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thống nhất trên địa bàn tỉnh; thông qua các
chủ quản đầu tư chương trình, dự án cùng với Ban chỉ đạo XĐGN thực hiện việc ký kết
trong kế hoạch triển khai thực hiện hàng năm để thống nhất phân bổ nguồn vốn, đúng mục
tiêu, đối tượng đầu tư.
Ban chỉ đạo chương trình XĐGN tỉnh tham mưu đề xuất cho Uỷ ban Nhân dân tỉnh
xây dựng kế hoạch để kết hợp chặt chẽ với Mặt trận, đoàn thể thực hiện chương trình
XĐGN với các giải pháp tập trung, đồng bộ theo lộ trình, tiến độ mang lại hiệu quả cao,
xác định trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải. Ban chỉ đạo chương trình XĐGN phải làm
tốt chức năng tham mưu cho UBND tỉnh trong việc phân cấp cho huyện, thị, thành phố
quy định hộ nghèo tại địa phương để hài hoà ý thức trách nhiệm với quyền hạn.
3.2.4.3. Tăng cường công tác quản lý và giúp đỡ hộ nghèo
Nội dung của giải pháp này là thực hiện các cơ chế chính sách XĐGN mang tính
hướng dẫn, hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng là người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo. Nguyên tắc
của giải pháp này là không dừng lại ở chổ "cho cần câu hơn cho xâu cá" mà phải vươn tới
mục tiêu cao hơn là: "chỉ cho người nghèo chỗ đặt cần câu, chỗ có nhiều cá và cách câu
cá".
Cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở xã, phường, thị trấn là tổ chức trực tiếp
quản lý và vận động nhân dân thực hiện chương trình XĐGN. Trong quá trình thực hiện có
phân công cán bộ đảng viên, đoàn viên, hội viên trực tiếp giúp đỡ một số hộ nghèo bằng
biện pháp hết sức cụ thể như hướng dẫn kế hoạch làm ăn, sử dụng vốn đúng mục đích, có
hiệu quả…
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghèo đói đã và đang được nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về bản chất và tác động
của nó đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội không chỉ ở phạm vi một tỉnh, một quốc
gia mà cả thế giới. Cuộc chiến chống đói nghèo đang được cả nhân loại quan tâm. Ở Việt
Nam, xoá đói, giảm nghèo giờ đây thực sự đã trở thành một chiến lược lớn của quốc gia và
đã được tổ chức thực hiện một cách bài bản theo Chương trình mục tiêu quốc gia, thể hiện
bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Thực tiễn hơn 15 năm thực hiện XĐGN trên địa bàn
Kiên Giang đã thu được những kết quả bước đầu rất quan trọng, góp phần tích cực thực hiện
thành công các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững trật tự an ninh chính
trị, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Qua thực tiễn tổ chức hoạt động XĐGN trong thời
gian qua cũng đã rút ra cho Kiên Giang những bài học kinh nghiệm cần thiết để triển khai
thực hiện nhiệm vụ XĐGN trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn. Song XĐGN là vấn đề
phức tạp và phải có chiến lược thực hiện lâu dài. Với mong muốn góp phần vào công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu về chủ đề xoá đói,
giảm nghèo ở Kiên Giang. Trên cơ sở lý luận được đề cập ở chương 1, chương 2 đã phân
tích thực trạng nghèo đói, hoạt động XĐGN và những vấn đề đặt ra cho công tác XĐGN ở
tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. Chương 3 nêu mục tiêu chung của quốc gia về xoá đói,
giảm nghèo trên địa bàn Kiên Giang và kiến nghị hệ thống giải pháp đồng bộ, thiết thực
nhằm tiếp tục XĐGN phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế ở tỉnh Kiên Giang ở từng vùng,
khu vực và nhóm đối tượng khác nhau.
Để thực hiện tốt hệ thống giải pháp đã nêu,tác giả luận văn kiến nghị:
- Tỉnh nên quan tâm làm giảm nhẹ mức độ nghèo của tỉnh Kiên Giang so với khu
vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và so với cả nước nói chung. Theo đánh giá của
các chuyên gia kinh tế thì mức chênh lệch giàu nghèo sẽ còn tăng nhanh trong thời gian
tới. Cho nên, cần quan tâm thực thi chính sách khuyến khích người giàu làm giàu chính đáng
hơn nữa, đồng thời khuyến khích họ hỗ trợ người nghèo về phương tiện làm ăn, đi đôi với hỗ
trợ của UBND và các tổ chức đoàn thể để người nghèo tăng thu nhập, tự thoát nghèo.
- Trong các chính sách đầu tư phát triển, ngoài việc đẩy mạnh phát triển nông thôn,
thì cần phải tính đến việc tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa hai khu vực nông thôn và
thành thị nhằm huy động và phát huy mọi nguồn lực hỗ trợ công cuộc XĐGN.
- Hiện có không ít hộ nghèo do thiếu vốn, thiếu lao động, thiếu việc làm, thiếu kinh
nghiệm, do ốm đau, tai nạn, thiên tai, dịch bệnh... tức là do những yếu tố khách quan, các hộ
này phần lớn tập trung ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào người dân tộc,
đa số các hộ này là đông con, trình độ văn hóa thấp (có gần 35,6% chủ hộ gia đình chưa học
hết tiểu học hoặc chưa bao giờ đến trường) và không có tư liệu sản xuất. Cho nên bên cạnh
việc miễn giảm các khoản đóng góp, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi hơn trong đào tạo
nghề, hướng dẫn, tư vấn cách làm ăn, hỗ trợ vốn cho phù hợp với từng đối tượng. Còn đối với
các hộ nghèo do nguyên nhân chủ quan, như lười lao động, chi tiêu lãng phí, đua đòi, do sinh
đẻ không kế hoạch… ỷ lại vào sự trợ giúp trực tiếp của Nhà nước, của xã hội..., thậm chí còn
sa vào các tệ nạn cờ bạc, nghiện hút, rượu chè... thì cần phải xử lý kiên quyết và cứng rắn,
nhất là về hành chính, không nên áp dụng các các chính sách ưu đãi một cách đại trà.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Chương trình phát triển Liên Hợp quốc
(2004), Đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và
chương trình 135, Hà Nội.
2. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2005), Quy định chuẩn nghèo mới giai đoạn
2006-2010, Số 2128/LĐTB-XH-KHTC.
3. Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, dự án đào tạo cán bộ làm công tác xoá đói giảm
nghèo (2004), Tài liệu tập huấn cán bộ xoá đói giảm nghèo cấp xã, Nxb Lao
động, Hà Nội.
4. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Chiến lược toàn diện
về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Hà Nội.
5. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Việt Nam thực hiện
mục tiêu thiên niên kỷ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
6. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Quyết định số 134 của
Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và
nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn.
7. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Chương trình mục tiêu
quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
8. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Hà Nội
9. Cục Thống kê Kiên Giang (2002), Kết quả tổng điều tra hộ nghèo của Ban chỉ đạo
điều tra hộ nghèo tỉnh.
10. Cục Thống kê Kiên Giang (2007), Đánh giá về đời sống dân cư qua kết quả điều tra
mức sống hộ gia đình năm 2007.
11. Cục Thống kê Kiên Giang (2005), Kết quả khảo sát hộ nghèo.
12. Cục Thống kê Kiên Giang (2006), Kết quả khảo sát hộ nghèo.
13. Cục Thống kê Kiên Giang (2007), Kết quả khảo sát hộ nghèo.
14. Cục Thống kê Kiên Giang (2005), Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang năm
2005.
15. Cục Thống kê Kiên Giang (tháng 6-2006), Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kiên
Giang 6 tháng đầu năm 2006.
16. Đảng bộ tỉnh Kiên Giang (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII
(nhiệm kỳ 2005-2010)
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm khoá VII, Lưu hành
nội bộ, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), "Báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá IX về các văn kiện Đại hội X của Đảng", Báo Nhân Dân, (18515), ra ngày
19/4/2006.
26. Trần Đình Đàn (2002), Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xoá đói giảm
nghèo ở Hà Tĩnh, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
27. Võ Trọng Đường (2000), Phân hoá giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh Kiên
Giang-thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
28. Đỗ Thế Hạnh (2000), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo ở
vùng định canh định cư tỉnh Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Hải (1999), Những giải pháp chủ yếu về quản lý nhằm xoá đói, giảm
nghèo ở nông thôn Phú Thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Thị Hằng (2000), Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
32. Hoàng Thị Hiền (2005), Xoá đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc ít người tỉnh
Hoà Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
33. Thái Văn Hoạt (2007), Giải pháp xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
trong giai đoạn hiện nay,Luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
34. Hội đồng Nhân dân tỉnh Kiên Giang (1992), Chương trình số 2/NQ- HĐND về xoá
đói, giảm nghèo.
35. Hội đồng Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2007), Chương trình số 42/NQ- HĐND về mục
tiêu giảm nghèo của tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2006-2010.
36. Danh Ngọc Hùng (8-2006), "Giải pháp nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc
Khmer ở Kiên Giang", Tạp chí Cộng sản, (15), tr.58-62.
37. Liên Hợp quốc (2000), Báo cáo phát triển con người 2001, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Ngô Quang Minh (1999), Tác động kinh tế của Nhà nước góp phần xoá đói giảm
nghèo trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
43. Phân viện thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003),
Một số giải pháp nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc Khmer ở miền Tây
Nam bộ trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, thành phố Hồ
Chí Minh.
44. Sở Lao động- Thương binh và xã hội Kiên Giang (2006), Tổng hợp tình hình hộ
nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
45. Thủ tướng Chính phủ (11/7/2006), Quyết định số 164/2006/QĐ-TTg phê duyệt danh
sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương
trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc
và miền núi giai đoạn 2006-2010 (Chương trình 135 giai đoạn II).
46. Tỉnh ủy Kiên Giang (1/2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ tỉnh
Kiên Giang nhiệm kỳ 2005-2010.
47. Tỉnh uỷ Kiên Giang (19/7/2007), Chỉ thị số 349- CT/TU về tăng cường chỉ đạo công
tác xoá đói, giảm nghèo.
48. Tỉnh uỷ Kiên Giang (1992), Nghị quyết số 11/NQ/TU về chương trình xoá đói, giảm
nghèo.
49. Tỉnh uỷ Kiên Giang (2004), Báo cáo số 102/BC-TU về kết quả xoá đói, giảm nghèo
trong vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Kiên Giang.
50. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2004), Báo cáo số 82/BC-UB về sơ kết chương
trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo- việc làm và công tác đào tạo nghề
trên địa bàn Kiên Giang.
51. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2005), Báo cáo số 63/BC-UB về tình hình
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng
bào dân tộc, biên giới, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135) từ năm 1999-
2005.
52. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2005), Báo cáo số 01/BC-UB về thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo việc làm 2001-2005.
53. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2006), Quyết định số1770/QĐ-UBND v/v kiện
toàn Ban chỉ đạo các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh Kiên Giang giai đoạn
2006-2010.
54. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2006), Chỉ thị số 3/CT-UBND về việc trợ giúp
pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách trên địa bàn Kiên
Giang.
55. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (17/7/2006), Báo cáo số 72/BC-UB về kết quả
thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt
cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Quyết định
134/TTg).
56. Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2007), Báo cáo số 198/BC-UB về kết quả thực
hiện công tác xoá đói giảm nghèo năm 2006.
57. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2007), Chương trình số 21/CTr-UBND về giảm
nghèo giai đoạn 2006-2010 tỉnh Kiên Giang.
58. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2008), Báo cáo số 5/BC-UBND về tình hình thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2007.
59. Lê Xuân Vinh (2003), Những giải pháp cơ bản nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo ở
các huyện miền núi, vùng cao tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ chí Minh, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.pdf