XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB là một công cụ quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nƣớc về giao thông vận tải, vì vậy hoạt động này luôn nhận
đƣợc sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc, các tổ chức kinh tế - xã hội và nhân dân.
Đây là lĩnh vực để xảy nhiều vi phạm nhất trong các loại VPHC, ảnh hƣởng trực
tiếp, thƣờng xuyên tới tất cả các đối tƣợng tham gia giao thông, và cũng là lĩnh
vực “động chạm” nhiều đến sự tăng trƣởng kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội
cũng nhƣ tác động đến nhận thức, thói quen, hành vi ứng xử văn minh của cộng
đồng. Bảo đảm XPVPHC trong hoạt động của cơ quan nhà nƣớc nói chung, của
các lực lƣợng chức năng trên địa bàn quận 10 nói riêng không dừng ở đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế địa phƣơng mà là nhận thức xuyên suốt, thƣờng
xuyên, là đòi hỏi cấp thiết để xây dựng một hệ thống giao thông hiện đại, thuận
tiện, ngƣời dân tham gia giao thông tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật,
góp phần quan trọng củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật GTĐB.
Công tác XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn quận 10, dù đôi khi
có lúng túng trong vận dụng văn bản pháp luật XPVPHC do sự thay đổi liên tục
của các Nghị định, tuy nhiên, với nỗ lực của Quận ủy, HĐND, UBND và lực
lƣợng chủ công trong xử phạt vi phạm là CSGT, CSTT, đã đáp ứng đƣợc yêu
cầu bảo đảm trật tự an toàn giao thông, xử lý tƣơng đối kịp thời các hành vi
VPPL trong lĩnh vực GTĐB. Số lƣợng VPHC bị xử phạt hàng năm, từ năm 2013
đến 2016 vẫn cao. Cùng với đó là nạn tắc đƣờng, sự gia tăng chóng mặt của
ngƣời và phƣơng tiện tham gia giao thông, chỉ riêng việc giải quyết đƣờng thông
hè thoáng, dòng xe không bị ùn tắc đã là nỗ lực lớn của Công an quận 10. Điều
này dẫn tới hạn chế của lực lƣợng công an khi quân số mỏng, CBCS tập trung
điều hành giao thông nên việc phát hiện, XPVPHC có nơi, có lúc bị buông lỏng
khi lƣu lƣợng ngƣời và xe quá đông, CSGT không thể xử lý nổi.102
Bên cạnh đó, một số văn bản về XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB mới ban
hành đã không theo kịp tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, và bộc lộ những hạn
chế. Những hạn chế này có nguyên nhân khách quan, chủ quan, trong đó chủ
yếu do các quy định hƣớng dẫn thi hành luật chƣa khả thi đối với khu vực đô thị
đông dân cƣ, các điều kiện cơ sở hạ tầng, k thuật không đồng bộ, manh mún và
thiếu kiểm soát.
Để nâng cao hiệu quả công tác XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa
bàn quận 10 nói riêng, TP.HCM và các đô thị lớn của Việt Nam nói chung, cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp phù hợp trong từng giai đoạn, tiến tới nghiên
cứu, dự báo, hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng sự thay đổi không ngừng
của đời sống xã hội; kiện toàn và trang bị đầy đủ phƣơng tiện, vật lực cho công
tác quản lý GTĐB. Có nhƣ vậy mới đáp ứng đƣợc yêu cầu quản lý nhà nƣớc về
GTĐB trong giai đoạn hội nhập, phát triển cũng nhƣ đáp ứng đầy đủ yêu cầu
xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền XHCN thực sự của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân, xây dựng một nền hành chính công khai, minh bạch, hành động
và hết lòng phụng sự nhân dân./
114 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 847 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p luật về GTĐB có thể làm phát sinh những
quan hệ pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, kỷ luật nhà nƣớc (đối với cán
bộ, công chức hành chính trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nƣớc trong
79
lĩnh vực GTĐB), pháp luật về đất đai. XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB là một
hoạt động quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nƣớc về GTĐB, giúp pháp
luật đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc, tạo sự răn đe đồng thời giáo dục,
thuyết phục ngƣời tham gia vào quan hệ pháp luật GTĐB, đƣa mọi hoạt động
GTĐB vào khuôn khổ theo sự quản lý, điều tiết của Nhà nƣớc. Vì thế về nguyên
tắc, các chủ thể vi phạm đều phải bình đẳng trong việc áp dụng các hình thức
chế tài xử phạt, tránh tình trạng bao che, xử lý nội bộ cho những ngƣời vi phạm
là cán bộ, công chức [21]. Mặt khác, cùng một hành vi vi phạm, nếu chủ thể là
cán bộ, công chức cần thiết và nên bị xử lý nặng hơn do có trình độ am hiểu nhất
định về lĩnh vực vi phạm, ngoài ra có thể xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ, Công
chức.
- Theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP, các mức phạt đối với hành vi VPHC
trong lĩnh vực GTĐB đều theo chiều hƣớng tăng nặng, có nhiều nhóm hành vi bị
xử phạt tiền rất cao nhƣ điều khiển phƣơng tiện có nồng độ cồn quá mức cho
phép, lạng lách, đánh võng trên đƣờng, vƣợt đèn đỏ,... Nhƣng tại sao số ngƣời vi
phạm vẫn tăng? Hiệu quả xử phạt lại thấp? Bất cập chủ yếu trong quy định mức
phạt tiền hiện nay là sự biến động của tiền Việt Nam, cũng nhƣ một số mức phạt
đƣợc cho là các lỗi vặt vẫn diễn ra phổ biến, hiệu quả xử phạt chƣa đảm bảo tính
trừng phạt và răn đe. Điều 56 Luật XLVPHC ghi rõ: XPVPHC không lập biên
bản đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000
đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức và ngƣời có thẩm quyền xử
phạt phải ra quyết định XPVPHC tại chỗ. Trƣờng hợp VPHC đƣợc phát hiện
nhờ sử dụng phƣơng tiện, thiết bị k thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản. Khi
XPVPHC không lập biên bản, ngƣời có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định
xử phạt hành chính tại chỗ. Trƣờng hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ
mức tiền phạt. Về nguyên tắc, khi phát hiện có hành vi vi phạm GTĐB, cán bộ
tuần tra, kiểm soát đƣợc phân công nhiệm vụ phải kịp thời lập biên bản VPHC,
80
trừ các trƣờng hợp XPVPHC không lập biên bản (Khoản 1 Điều 15 Thông tƣ
01/2016/TT-BCA, ngày 04/1/2016 quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức,
nội dung tuần tra, kiểm soát GTĐB của CSGT). Việc áp dụng sai hình thức xử
phạt là một trong những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Khoản 6 Điều 12
Luật XLVPHC. Khi đó, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi hoàn theo quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc (Khoản 2 Điều 16
Luật XLVPHC, Khoản 2 Điều 18 Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19-7-2013,
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC). Thực tế,
chế tài kiểm tra, giám sát ngƣời thi hành công vụ nếu không đƣợc thực hiện
nghiêm sẽ dẫn đến tình trạng ngƣời vi phạm vẫn nộp tiền phạt và vẫn tiếp tục vi
phạm. Thủ tục phạt tiền tại chỗ, không phải lập biên bản đối với cá nhân đến
250.000 đồng là kẽ hở để ngƣời vi phạm và cán bộ xử lý thỏa thuận ngầm với
nhau áp dụng mức phạt thấp nhất để vừa có lợi đôi bên, vừa giảm các thủ tục
phiền hà [45], [47].
- Với lý lẽ đó, cần áp dụng hình thức phạt tiền thật nặng (tăng mức tiền
phạt) cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm, đặc
biệt với các đô thị lớn, càng cần phải quản lý xã hội chặt chẽ, đôi khi hà khắc
hơn mới đảm bảo sự ổn định và phát triển lâu dài. Việt Nam nên học tập kinh
nghiệm của một số nƣớc nhƣ Singapore, Nhật Bản với việc quy định mức tiền
phạt rất cao để ngƣời vi phạm thấy đƣợc sự nghiêm khắc của pháp luật và sự trả
giá tƣơng xứng cho hành vi vi phạm của mình, từ đó tránh tái diễn vi phạm.
Chẳng hạn, hành vi đổ rác thải ra nơi công cộng nhƣ công viên, bờ sông, hè
đƣờng theo quy định của luật Nhật Bản, có thể bị phạt tiền tới 10 vạn yên. Xử
phạt cao và xử phạt nghiêm minh sẽ loại bỏ đƣợc tâm lý của ngƣời vi phạm là
chỉ cần nộp tiền phạt là đủ, sau đó cứ tiếp tục vi phạm, hoặc tìm cách tiếp cận
81
cán bộ, công chức có thẩm quyền xử phạt để tìm cách có lợi cho đôi bên, tiếp
tay cho hành vi hối lộ, bao che.
- Tập trung tăng nặng khung xử phạt tiền đối với các lỗi, thƣờng đƣợc cho
là lỗi vặt, nhƣng có tác động hình thành thói quen xấu khi tham gia giao thông
của ngƣời dân:
+ Bổ sung, hoàn thiện chế tài theo hƣớng tăng nặng mức phạt ngƣời điều
khiển, ngƣời đƣợc chở trên xe ôtô và các loại xe tƣơng tự xe ôtô vi phạm: không
chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đƣờng; chuyển hƣớng
không nhƣờng quyền đi trƣớc cho: ngƣời đi bộ, xe lăn của ngƣời khuyết tật qua
đƣờng tại nơi có vạch kẻ đƣờng dành cho ngƣời đi bộ; xe thô sơ đang đi trên
phần đƣờng dành cho xe thô sơ; khi dừng xe, đỗ xe không có tín hiệu báo cho
ngƣời điều khiển phƣơng tiện khác biết; chuyển làn đƣờng không đúng nơi cho
phép hoặc không có tín hiệu báo trƣớc; không giảm tốc độ và nhƣờng đƣờng khi
điều khiển xe chạy từ trong ngõ, đƣờng nhánh ra đƣờng chính; dừng xe, đỗ xe
không sát mép đƣờng phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề
đƣờng, hè phố quá 0,25m ở nơi đƣờng có lề đƣờng hẹp hoặc không có lề đƣờng;
dừng xe ôtô trên miệng cống thoát nƣớc, miệng hầm của đƣờng điện thoại, điện
cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nƣớc; chuyển hƣớng không giảm
tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hƣớng rẽ (trừ trƣờng hợp điều khiển xe đi
theo hƣớng cong của đoạn đƣờng bộ ở nơi đƣờng không giao nhau cùng mức);
dùng tay sử dụng điện thoại di động khi đang điều khiển xe chạy trên đƣờng;
điều khiển xe trên đƣờng mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vƣợt quá
quy định.
+ Với các hành vi điều khiển xe ôtô vi phạm quy định về vận chuyển chất
gây ô nhiễm môi trƣờng, hàng nguy hiểm nhƣ: vận chuyển hàng nguy hiểm mà
dừng xe, đỗ xe ở nơi đông ngƣời, khu dân cƣ, công trình quan trọng; không có
báo hiệu hàng nguy hiểm theo quy định; vận chuyển các chất gây ô nhiễm môi
82
trƣờng không theo đúng quy định về bảo vệ môi trƣờng, Điều 20 Nghị định
46/2016/NĐ-CP có mức phạt từ 1.000.000 - 3.000.000 đồng, 4.000.000 -
6.000.000 đồng, 10.000.000 - 15.000.000 đồng. Tuy nhiên các mức phạt này lại
chƣa thống nhất với khung tiền phạt của nhiều nghị định khác, nhƣ Nghị định
155/2016/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực môi trƣờng, có hiệu lực
từ 01/2/2017, có một số hành vi liên quan: Phạt tiền từ 500.000 - 1.000.000 đồng
đối với cá nhân vứt, thải, bỏ đầu, mẩu thuốc lá không đúng nơi quy định khi
tham gia GTĐB. Phạt tiền từ 1.000.000 - 3.000.000 đồng đối với cá nhân có
hành vi vệ sinh cá nhân (tiểu tiện, đại tiện) không đúng nơi quy định, đặc biệt
trên đƣờng phố đô thị. Phạt tiền từ 3.000.000 - 5.000.000 đồng đối với hành vi
vứt rác thải, bỏ rác sinh hoạt không đúng nơi quy định; từ 5.000.000 - 7.000.000
đồng khi vứt, thải rác thải sinh hoạt trên vỉa hè, đƣờng phố, vào hệ thống thoát
nƣớc thải đô thị. Phạt từ 7.000.000 - 10.000.000 đồng đối với hành vi chở
nguyên vật liệu, hàng hóa không che chắn để rơi vãi khi tham gia GTĐB. Phạt
tiền từ 10.000.000 - 15.000.000 đồng đối với hành vi không sử dụng thiết bị,
phƣơng tiện chuyên dụng trong quá trình chuyên chở nguyên vật liệu, hàng hóa
làm rò rỉ, phát tán gây nguy hiểm, ô nhiễm môi trƣờng.
- Thẩm quyền phạt tiền hiện nay đƣợc quy định còn chƣa phù hợp [3].
Quy định thẩm quyền phạt tiền đối với các cán bộ có thẩm quyền xử phạt
nhƣng không ở vị trí lãnh đạo, chẳng hạn các chiến sĩ công an, thanh tra giao
thông đang thi hành công vụ đƣợc phạt đến 400.000 đồng, trong khi nhiều vi
phạm lại ở mức phạt tiền cao hơn, buộc phải có quyết định của ngƣời có thẩm
quyền cấp trên, dẫn đến việc quy định chỉ mang tính hình thức, bỏ sót lỗi vi
phạm, không đảm bảo tính chính xác, kịp thời trong XPVPHC và đƣơng nhiên
không thể ra quyết định xử phạt mà chủ yếu là lập biên bản sau đó chuyển lên
cấp trên để xử lý. Vì vậy, cần tăng mức phạt cho các chức danh không ở vị trí
lãnh đạo nhƣ nêu trên để tránh tình trạng việc xử phạt bị dồn lên cấp trên.
83
- Cần quy định thêm các hình thức xử phạt bổ sung. Đà Nẵng đã áp dụng
hình thức rất hợp lý. Với những ngƣời vi phạm lần đầu, lỗi nhẹ, CSGT đã yêu
cầu chép 100 lần lỗi vi phạm và cam kết không tái phạm. Ở các nƣớc phát triển
nhƣ Đức, Pháp, Luật Đô thị quy định các hành vi VPHC trong giao thông, ngoài
phạt tiền, ngƣời vi phạm có thể lao động công ích: quét dọn đƣờng phố, cọ nhà
vệ sinh công cộng, mục đích là giáo dục, để ngƣời vi phạm ghi nhớ, sợ và
không vi phạm. Với một đô thị lớn mật độ đông đúc, dân cƣ dày đặc nhƣ
TP.HCM, cần thiết phải thiết lập lại phạt vi cảnh các hành vi tái phạm, lặp lại
nhiều, ngƣời vi phạm không có tiền nộp phạt, hoặc khi phạt tiền nhƣng chƣa đủ
sức mạnh răn đe, có thể buộc họ lao động cho lợi ích cộng đồng để chuộc lại lỗi
lầm nhằm đảm bảo tính giáo dục và sự tôn trọng pháp luật của công dân. Bên
cạnh đó, việc buộc ngƣời vi phạm học tập các quy định pháp luật để tránh tái
phạm cũng rất cần thiết, kinh phí cho việc học này, ngƣời vi phạm phải gánh
chịu.
- Với các nhóm lỗi điều khiển phƣơng tiện thiếu an toàn, quá hạn sử dụng,
không đảm bảo k thuật, ngƣời từ trên 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi điều khiển
phƣơng tiện xe gắn máy trên 50cc, điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông
có nồng độ cồn quá quy định, điều khiển phƣơng tiện có chất ma túy, cần có
chế tài nghiêm khắc hơn để tạm giữ, tịch thu phƣơng tiện. Các biện pháp xử phạt
hành chính nêu trên chủ yếu thể hiện bản chất nhân đạo và mang tính giáo dục
cao, nhƣng xét về bản chất, các chế tài xử lý vẫn cần thể hiện sự cƣỡng chế và
mang tính trừng phạt, bởi đây là những biện pháp ảnh hƣởng đến lợi ích, tài sản
công dân, hạn chế cả về mặt tinh thần và thể xác đối với ngƣời vi phạm [5], [17].
Điều này lý giải cho việc tại sao nhiều đối tƣợng bỏ chạy, phóng xe gây nguy
hiểm trên đƣờng khi bị lực lƣợng chức năng phát hiện, kiên quyết xử lý.
- Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về GTĐB và TTATGT, khi tổ chức lấy
ý kiến nhân dân đóng góp, xây dựng phƣơng án, tìm kiếm giải pháp chống ùn
84
tắc giao thông, TTATGT trong khu vực dân cƣ, cần thiết đƣa ra lấy ý kiến về
xây dựng văn bản pháp luật liên quan đến an toàn giao thông, XLVPHC trong
GTĐB, bởi pháp luật GTĐB liên quan đến mọi tầng lớp nhân dân, liên quan mật
thiết đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc ban hành pháp luật GTĐB cần phải
có sự đóng góp ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân dân thì hiệu quả của pháp
luật GTĐB mới có thể dễ dàng thực thi và đi vào đời sống [26].
- Khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB phải đảm bảo đƣợc tính
đồng bộ của nhiều ngành luật: Luật Hiến pháp (quy định tổ chức, thẩm quyền
của các cơ quan hành chính nhà nƣớc trong các lĩnh vực quản lý nhà nƣớc, trong
đó có GTĐB), Luật Hành chính (phần lớn các văn bản QPPL về GTĐB thuộc
Luật Hành chính), Bộ Luật Dân sự (quy định trách nhiệm, thẩm quyền, quyền và
nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực GTĐB), Luật Đất đai (quy định
quản lý đất dành cho đƣờng bộ, công trình đƣờng bộ), Luật Tài nguyên Môi
trƣờng (các vi phạm gây ô nhiễm môi trƣờng). Để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực GTĐB cần rất nhiều quy phạm đồng bộ, đồng thời cùng
với việc cụ thể hóa Luật GTĐB, cũng cần chú ý sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các
QPPL có liên quan đến GTĐB ở các ngành luật khác nhau. Vì thế, cần có sự bổ
sung, trao đổi và thống nhất cụ thể về nhóm các hành vi vi phạm với thẩm quyền
xử phạt, trách nhiệm hành chính của ngƣời thực thi công vụ, chế tài xử phạt
thống nhất, xuyên suốt, có thế mới đảm bảo hiệu quả thi hành, tránh vận dụng
chồng chéo, xử lý không thuyết phục, không chính xác, kịp thời, từ đó phát huy
đƣợc vai trò của pháp luật GTĐB trong hoạt động quản lý nhà nƣớc [23].
3.2. Đổi mới và duy trì thƣờng xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật giao thông đƣờng bộ n ng cao phẩm chất đạo đức chính trị
và chuyên môn kỹ thuật cho lực lƣợng làm nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành
chính
85
3.2.1. Đ i mới và duy trì thường xuyên công tác tuyên truyền, ph biến, giáo
dục pháp luật giao thông đường bộ
- Tổ chức tuyên truyền văn bản QPPL giao thông đƣờng bộ về các tổ dân
phố, trƣờng học trên địa bàn quận đã bƣớc đầu bộc lộ những nhàm chán, khô
cứng khi các hình thức kịch hóa, phổ biến tuyên truyền hay các cuộc thi tìm hiểu
đang lặp đi lặp lại. Việc tổ chức tuyên truyền TTATGT đƣờng bộ cũng nhƣ các
quy định, mức xử phạt cần gắn đến lợi ích ngƣời dân. Tại các buổi họp dân phố,
giáo dục công dân trong nhà trƣờng, nên đƣa ra những thông tin thiết thực, ngắn
gọn về:
+ Những hành vi bị nghiêm cấm: Phá hoại đƣờng, cầu, đèn tín hiệu, biển
báo hiệu, dải phân cách, hệ thống thoát nƣớc và các công trình, thiết bị khác
thuộc kết cấu hạ tầng GTĐB; đặt, rải vật nhọn, đổ chất gây trơn trên đƣờng; để
trái phép vật liệu, phế thải, thải rác ra đƣờng; sử dụng lòng đƣờng, lề đƣờng, hè
phố trái phép; đƣa xe cơ giới, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an
toàn k thuật và bảo vệ môi trƣờng tham gia GTĐB; đua xe, cổ vũ đua xe, tổ
chức đua xe trái phép, lạng lách, đánh võng; điều khiển phƣơng tiện GTĐB mà
trong cơ thể có chất ma túy; điều khiển xe ôtô, xe gắn máy trên đƣờng mà trong
máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vƣợt quá 50mg/100ml máu hoặc 0,25mg/lít
khí thở; lợi dụng việc xảy ra TNGT để hành hung, đe dọa, xúi giục, gây sức ép,
làm mất trật tự, cản trở việc xử lý TNGT; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề
nghiệp của bản thân hoặc ngƣời khác để vi phạm pháp luật về GTĐB (giữ lại vụ
vi phạm có dấu hiệu tội phạm để XLVPHC; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản của ngƣời vi phạm; dung túng, bao che, hạn
chế quyền của ngƣời VPHC khi XPVPHC hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính; ban hành trái thẩm quyền văn bản quy định về hành vi VPHC, thẩm
quyền, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi
VPHC trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc và biện pháp xử lý hành chính; xử phạt
86
VPHC, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả hoặc áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính không kịp thời, không nghiêm minh, không đúng hành vi VPHC,
không đúng thẩm quyền, thủ tục, đối tƣợng quy định; can thiệp trái pháp luật
vào việc xử lý VPHC; sử dụng tiền thu đƣợc từ tiền nộp phạt VPHC, tiền nộp do
chậm thi hành quyết định xử phạt tiền, tiền bán, thanh lý tang vật, phƣơng tiện
VPHC bị tịch thu và các khoản tiền khác thu đƣợc từ XPVPHC trái quy định của
pháp luật về ngân sách nhà nƣớc).
+ Những tình tiết giảm nhẹ: Ngƣời VPHC đã có hành vi ngăn chặn, làm
giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thƣờng
thiệt hại; đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan
chức năng phát hiện VPHC, XLVPHC; VPHC trong tình trạng bị kích động về
tinh thần do hành vi trái pháp luật của ngƣời khác gây ra; vƣợt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng; vƣợt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; VPHC do bị ép
buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần; ngƣời VPHC là phụ nữ mang
thai, ngƣời già yếu, ngƣời có bệnh hoặc khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
+ Những tình tiết tăng nặng: VPHC có tổ chức; VPHC nhiều lần; tái
phạm; xúi giục, lôi kéo, sử dụng ngƣời chƣa thành niên vi phạm; ép buộc ngƣời
bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi VPHC; lăng mạ,
phỉ báng ngƣời đang thi hành công vụ; VPHC có tính chất côn đồ; lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để VPHC.
+ Những hành vi không bị xử phạt hành chính: Thực hiện hành vi VPHC
trong tình thế cấp thiết; do phòng vệ chính đáng; do sự kiện bất ngờ; do sự kiện
bất khả kháng; ngƣời thực hiện hành vi VPHC không có năng lực trách nhiệm
hành chính; chƣa đủ tuổi bị XPVPHC theo quy định.
+ Trách nhiệm đấu tranh phòng, chống VPHC: Cá nhân, tổ chức phải
nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật về XLVPHC. Các tổ chức có
87
nhiệm vụ giáo dục thành viên thuộc tổ chức mình về ý thức bảo vệ và tuân theo
pháp luật, quy tắc của cuộc sống xã hội, kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên
nhân, điều kiện gây ra VPHC trong tổ chức mình. Khi phát hiện VPHC, ngƣời
có thẩm quyền XLVPHC có trách nhiệm xử lý vi phạm theo quy định của pháp
luật. Cá nhân, tổ chức có trách nhiệm phát hiện, tố cáo và đấu tranh phòng,
chống VPHC.
+ Quyền khiếu nại, tố cáo và khởi kiện trong XPVPHC: Cá nhân, tổ chức
bị xử phạt hành chính có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định
XPVPHC theo quy định của pháp luật; có quyền tố cáo đối với hành vi vi phạm
pháp luật trong việc XPVPHC theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải
quyết khiếu nại, khởi kiện nếu xét thấy việc thi hành quyết định XPVPHC bị
khiếu nại, khởi kiện sẽ gây hậu quả khó khắc phục, ngƣời giải quyết khiếu nại,
khởi kiện phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó theo quy
định của pháp luật.
- Đan xen các hình thức tuyên truyền để nhân dân, thanh, thiếu niên trên
địa bàn quận hiểu, thu nhận thêm kiến thức về quyền, nghĩa vụ, những hành vi
bị nghiêm cấm khi tham gia giao thông, sử dụng các dịch vụ giao thông công
cộng bằng thông báo, thi trắc nghiệm, cần sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc,
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội phụ nữ, ngƣời cao tuổi, khuyến
học, tham gia xây dựng và triển lãm tranh ảnh, dựng panô về TTATGT đƣờng
bộ tại các điểm sinh hoạt cộng đồng, tại tổ dân cƣ, nhà thi đấu, sân vận động,
nhà văn hóa, công viên, các giao cắt chính trên tuyến phố trung tâm, các trung
tâm thƣơng mại lớn, trƣờng học, từ đó tác động đến ý thức của ngƣời xem
trong thời gian lâu dài. Mở các cuộc triển lãm tranh ảnh về TTATGT đƣờng bộ,
tại triển lãm có thể trƣng bày tranh, ảnh, sơ đồ, bảng thống kê phân tích TNGT,
hình ảnh các vụ TNGT nghiêm trọng đã xảy ra; nếu có điều kiện, trƣng bày hiện
vật xe môtô, ôtô bị hƣ hỏng do TNGT. Tuyên truyền bằng khẩu hiệu: Cắt dán
88
các khẩu hiệu tuyên truyền, nhắc nhở chấp hành các quy định pháp luật GTĐB
trên các đƣờng phố chính, dọc các tuyến đƣờng có bố trí tín hiệu đèn giao thông,
đƣờng đô thị, trên đoạn đƣờng có điểm đen về TNGT, ùn tắc giao thông: “An
toàn GTĐB là hạnh phúc cho mỗi ngƣời”, “Nghiêm chỉnh chấp hành Luật
GTĐB”, “Văn hóa giao thông là tự giác chấp hành pháp luật về TTATGT”,
“Chung tay xây dựng một xã hội giao thông an toàn, thân thiện”, Đi kèm đó là
các mức phạt tiền đối với nhóm vi phạm thƣờng xuyên xảy ra trên đƣờng đô thị.
Với điều kiện k thuật hiện nay, việc lập các bảng điện tử, vừa giúp quảng cáo
cho doanh nghiệp, vừa giúp thông tin về tình hình kinh tế - xã hội đất nƣớc,
TP.HCM, vừa chuyển tải các nội dung tuyên truyền an toàn giao thông nêu trên;
thông tin về tình hình ùn tắc giao thông, về ô nhiễm khí thải, đặc biệt vào các
khung giờ cao điểm; sự cảnh báo các vi phạm, các tình huống vi phạm và các
hành vi bị xử phạt, mức xử phạt tiền và các hình thức phạt bổ sung khác bằng
bảng điện tử có hình ảnh, có âm thanh là hình thức tuyên truyền, theo tác giả
luận văn, khá hiệu quả và cần áp dụng tại các trung tâm đô thị.
3.2.2. Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và chuyên môn kỹ thuật cho lực
lượng làm nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành chính
- Không ngừng nâng cao trình độ, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của
những ngƣời thi hành công vụ, đảm bảo phát hiện kịp thời mọi vi phạm pháp
luật GTĐB và xử lý nghiêm minh, triệt để để giáo dục, răn đe và phòng ngừa,
đồng thời tránh đƣợc các biểu hiện tiêu cực. Nếu mọi hành vi vi phạm pháp luật
GTĐB đều bị xử lý nghiêm minh, triệt để, hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc
trong lĩnh vực GTĐB sẽ đƣợc nâng cao, các hành vi vi phạm pháp luật GTĐB sẽ
giảm và đó là yếu tố quan trọng có tác dụng tuyên truyền giáo dục ngƣời tham
gia giao thông, đồng thời làm ổn định TTATGT, giảm thiểu TNGT.
89
Công an quận 10 liên tục trong 03 năm 2014, 2015, 2016 đã chú trọng xây
dựng phong cách ngƣời chiến s CSGT vì nhân dân phục vụ, nâng cao tinh thần
trách nhiệm trƣớc yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; xây dựng tƣ thế, lễ tiết,
tác phong, thái độ phục vụ nhân dân, tăng cƣờng công tác dân vận, xây dựng
mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân trong thực hiện công tác chuyên
môn. CBCS tiếp dân phải nắm rõ các văn bản luật, nghị định, thông tƣ hƣớng
dẫn liên quan đến GTĐB để giải đáp thắc mắc, yêu cầu của ngƣời dân. Đảm bảo
yếu tố nghiêm minh, công bằng, chính xác, mọi thủ tục XPVPHC, điều tra
TNGT phải niêm yết công khai tại trụ sở làm việc; CSGT, CSTT khi tuần tra
phát hiện vi phạm, phải tuân thủ Sáu điều Bác Hồ dạy CAND, đứng chốt ở vị trí
quang đãng, ngƣời dân dễ quan sát, giám sát hành vi của ngƣời thực thi công vụ,
có tác phong thân thiện, lịch sự, kiên quyết, hiểu biết, thấu tình đạt lý nhằm lấy
lại niềm tin và xây dựng hình ảnh đẹp về ngƣời chiến s CAND.
3.3. Đầu tƣ cơ sở vật chất, bảo đảm điều kiện trang thiết bị kỹ thuật cho lực
lƣợng Thanh tra giao thông và Cảnh sát giao thông đƣờng bộ
- Trong xu thế hội nhập quốc tế nhƣ hiện nay, việc ứng dụng CNTT vào
quản lý nhà nƣớc ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế -
xã hội. Xác định CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất để phát triển,
góp phần làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, vǎn hóa, xã hội của TP.HCM,
thời gian qua, Công an quận 10, Thanh tra giao thông đô thị đã thực hiện áp
dụng CNTT vào công tác XPVPHC, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, giảm
thiểu các quy trình thủ công và xử lý các hành vi vi phạm theo đúng các quy
định của pháp luật. Phòng CSGT CATP.HCM triển khai việc lắp đặt, đƣa vào sử
dụng hệ thống camera quan sát, xử lý vi phạm Luật Giao thông trên địa bàn
thành phố đã đạt đƣợc những kết quả tích cực. Thông qua hệ thống ghi hình, sử
dụng các hệ thống mạng truyền dữ liệu internet, cơ quan quản lý nắm bắt đƣợc
90
tình hình giao thông đang diễn ra tại khu vực tốt hơn, từ đó kịp thời có biện
pháp, phƣơng án xử lý hiệu quả những sự cố, đảm bảo tuyệt đối an toàn giao
thông. Tuy nhiên nhìn tổng thể, việc triển khai ứng dụng CNTT vào XPVPHC
trên địa bàn thành phố vẫn chƣa đồng bộ, các tuyến lắp camera vẫn hạn chế,
không kết nối với các không gian quản lý, triển khai ứng phó tình huống, phối
hợp kiểm tra, xử lý vi phạm trên địa bàn từng quận. Ở đây vẫn là yếu tố con
ngƣời. Việc Công an quận 10 tổ chức vận động nhân dân lắp đặt camera an ninh
tại nhiều khu phố cho thấy hiệu quả rõ rệt trong phòng chống tội phạm, giữ gìn
an ninh trật tự song chƣa kết hợp xử lý vi phạm trong GTĐB. Nếu đƣợc xã hội
hóa kết hợp doanh nghiệp quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, đầu tƣ lắp đặt thêm
hệ thống camera trên tất cả các tuyến phố trên địa bàn sẽ là một trải nghiệm thú
vị. Đồng thời, cần kết hợp các bảng điện tử tấm lớn trên các tuyến phố hƣớng
dẫn giao thông, tuyên truyền Luật GTĐB, cảnh báo các mức độ VPHC sẽ có tác
động hỗ trợ tốt cho kiểm soát, quản lý an toàn giao thông, hạn chế vi phạm giao
thông.
- Khi triển khai đƣợc hệ thống camera quan sát an ninh - giao thông, lực
lƣợng CSGT, CSTT sẽ tập trung hơn cho hƣớng dẫn, vận động nhân dân và phạt
nguội đối với hành vi vi phạm. Với hệ thống giám sát này, CSGT sẽ không cần
thu tiền phạt tại chỗ, cơ chế kiểm đếm sẽ giúp CSGT trực sa bàn tại trung tâm
điều khiển xác định có bao nhiêu vi phạm, loại vi phạm, hạn chế thấp nhất tiêu
cực xảy ra trên đƣờng khi CSGT vòi vĩnh ngƣời vi phạm. Tất nhiên ở hƣớng
thuận chiều tích cực đó, tăng cƣờng công tác XPVPHC cũng tạo một nguồn thu
tăng gấp nhiều lần so với hiện nay, giúp UBND quận có nguồn vốn tiếp tục đầu
tƣ, trang bị về hạ tầng CNTT đồng bộ, đáp ứng các yêu cầu về bảo mật, an ninh
an toàn thông tin trong hệ thống mạng, đảm bảo duy trì đƣờng truyền dữ liệu
hoạt động ổn định, phục vụ kết nối mạng diện rộng Wan của thành phố; qua đó,
đảm bảo việc triển khai công việc, công tác chỉ đạo điều hành trên toàn quận,
91
toàn thành phố đƣợc hiệu quả cao. Và nếu mô hình hệ thống camera an ninh
đƣợc triển khai sâu rộng, mỗi tuyến phố nhỏ có 3-10 mắt quan sát, tuyến phố
chính sẽ có 2-3 mắt quan sát gắn tại từng ngã ba, ngã tƣ; hệ thống này kết nối
với trung tâm điều hành ở Công an quận, đƣợc phép của Trung tâm điều hành
giao thông thành phố kết nối ở một vài tuyến đƣờng huyết mạch, thì việc trích
xuất hình ảnh sẽ hỗ trợ tốt cho lực lƣợng CSGT xử phạt các lỗi vi phạm mà
không cần đứng chốt liên tục [14].
- Việc quản lý các hành vi vi phạm cần phải chuyên nghiệp hơn, nhƣ lƣu
trữ dữ liệu trên máy vi tính, các sổ lƣu trữ điện tử của cảnh sát hay các cơ quan
có thẩm quyền xử phạt khác. Ở Nhật Bản, cảnh sát với sổ điện tử rất nhỏ có thể
có đầy đủ thông tin về các cá nhân đã từng vi phạm và biện pháp áp dụng, rất
tiện lợi cho việc áp dụng hình thức, chế tài và mức độ xử lý. Với trình độ phát
triển hiện nay, việc trang bị điện thoại di động thông minh kết nối 3G, 4G cho
lực lƣợng thanh tra, lực lƣợng công an không khó, giúp việc tra cứu vi phạm,
chụp ảnh và gửi hình ảnh vi phạm, lập các biên bản xử phạt, ngay tại trung
tâm lƣu trữ, điều hành của Công an TP.HCM, Công an quận cũng là gợi ý đáng
lƣu tâm. Với các đội tuần tra kiểm soát lƣu động, việc hỗ trợ trang bị máy tính
bảng kết nối 3G để khi cần có thể truy xuất thông tin từ trung tâm điều hành
giao thông, lấy dữ liệu lƣu trữ Luật GTĐB, Luật XLVPHC, các nghị định, thông
tƣ hƣớng dẫn liên quan đến GTĐB là cần thiết để đọc, hƣớng dẫn, giải thích và
làm căn cứ tuyên truyền, giáo dục nhân dân hiểu biết về pháp luật GTĐB, qua
đó, công tác xử phạt cũng thuận lợi hơn rất nhiều. Việc lƣu trữ thông tin trên hệ
thống máy tính hiện đại cũng giảm áp lực trong việc lƣu trữ thủ công các hồ sơ
vi phạm, việc tạm thu giữ Giấy đăng ký môtô, xe máy và Giấy phép lái xe cũng
nhƣ buộc ngƣời vi phạm nộp tiền phạt sẽ dễ dàng hơn. Cần có chế tài quy định,
sau 30-45 ngày nếu ngƣời vi phạm không nộp phạt, không đến nhận lại giấy tờ,
sẽ tăng nặng mức tiền phạt theo lũy tiến, gửi thông tin truy xuất về nơi cƣ trú,
92
địa chỉ tạm trú, hoặc gửi thông báo về Sở GTVT và công an địa phƣơng, đề nghị
phối hợp ngăn chặn, tránh hiện tƣợng ngƣời vi phạm xin cấp lại giấy tờ mới; qua
đó lấp lỗ hổng trong quản lý hành chính và nâng cao hiệu lực của pháp luật hành
chính, hiệu quả của hoạt động thực thi Luật GTĐB.
- Đầu tƣ mua sắm trang bị đầy đủ vũ khí, công cụ hỗ trợ, đảm bảo an toàn
tính mạng và tài sản cho nhân dân, cho bản thân CBCS và cho chính ngƣời vi
phạm. Quá trình tiếp xúc với đối tƣợng VPHC, phải phân công CBCS có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, linh hoạt, ứng xử khéo léo trong các tình huống,
qua đó học tập trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau về k năng giao tiếp với nhân dân,
không ngừng trau dồi, cập nhật kiến thức pháp luật và các biện pháp nghiệp vụ.
Nên một năm 2-3 lần mời các chuyên gia đào tạo k năng giao tiếp, chuyên gia
pháp luật về hƣớng dẫn chuyên đề giúp CBCS không ngừng hoàn thiện bản thân
để phục vụ công tác tốt hơn.
- Lập Fanpage xử lý vi phạm giao thông trên địa bàn để mọi ngƣời dân
cùng tham gia giữ gìn an ninh trật tự. Ngƣời dân có quyền cung cấp hình ảnh,
video clip và gửi đến trang thông tin của Công an quận để hỗ trợ CSGT phát
hiện và xử lý kịp thời vi phạm, cung cấp bằng chứng CBCS sai phạm để Công
an quận điều tra, xử lý nghiêm minh. Kinh nghiệm cho thấy, sự kết hợp của
kênh VOV giao thông với trang web của OtoFun có tác dụng phát hiện nhanh,
chính xác các tình huống vi phạm cũng nhƣ công tác tuyên truyền giáo dục Luật
GTĐB, Luật XLVPHC triển khai rất tốt đối với cộng đồng. Hay, Công an Hà
Nội đã thực hiện cuộc khảo sát về tận từng hộ gia đình khi điều tra tạm trú, tạm
vắng, rồi TP.HCM cũng triển khai kê khai xe gắn máy, ôtô trong dân để thu phí
đƣờng bộ. Rất tiếc những kế hoạch này chƣa đƣợc áp dụng để tổng hợp số lƣợng
xe gắn máy, ngƣời đăng ký xe, xe đã hết hạn sử dụng, Nếu công tác này đƣợc
Công an quận 10 ứng dụng CNTT vào điều tra cơ bản, thống kê nhân khẩu
thƣờng trú, tạm trú, lƣu trú ngắn hạn, số ngƣời làm việc và làm ăn trên địa bàn;
93
thực hiện, việc lập hồ sơ sƣu tra về tổng lƣợng phƣơng tiện trên địa bàn, cập
nhật di biến động số xe chuyển vùng, sang tên hàng năm, xe đứng tên chủ sở
hữu, làm cơ sở để hệ thống camera phát hiện và xử phạt nguội đối với tất cả
hành vi vi phạm, chắc chắn công tác tuyên truyền giáo dục và xử phạt sẽ đạt
hiệu quả hơn.
- Tăng biên chế cho lực lƣợng CSGT, Thanh tra GTĐB đến tận địa bàn
phân khu, đặc biệt biên chế CBCS cho mảng k thuật sử dụng phƣơng tiện điện
tử, truyền hình khi hệ thống camera an ninh và camera giao thông kết nối đến
tận các tuyến đƣờng cấp quận quản lý. Thời gian tới, UBND quận nên đẩy mạnh
đào tạo, bồi dƣỡng k năng ứng dụng CNTT cho cán bộ, công chức, viên chức
của các đơn vị, đặc biệt là CSGT nhằm bồi dƣỡng kiến thức để bám sát nhu cầu
thực tế, đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ.
3.4. Tăng cƣờng công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để,
kịp thời m i hành vi vi phạm pháp luật giao thông đƣờng bộ
- Đi đôi với công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về
TTATGT, phải nâng cao hiệu quả công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm.
Phải coi XPVPHC là một biện pháp giáo dục, xử lý vi phạm phải kiên quyết,
nghiêm minh, công khai, minh bạch. Trong thực hiện tuần tra, kiểm soát, xử lý
vi phạm, lực lƣợng CSGT giữ vai trò nòng cốt quan trọng song vẫn cần huy
động tối đa lực lƣợng tham gia bảo đảm TTATGT, huy động cả lực lƣợng công
an phƣờng, dân phòng, thanh niên xung kích, đoàn thanh niên với phƣơng châm
không để trống địa bàn, vào giờ cao điểm thƣờng xảy ùn tắc giao thông, 100%
CBCS ứng trực. Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội cho thấy, khi Công an
thành phố yêu cầu tất cả CSKV, CSTT phƣờng cùng dân phòng, thanh niên
tham gia hỗ trợ CSGT điều tiết giao thông, tình hình vi phạm giảm hẳn.
94
+ Cần tăng cƣờng sự phối hợp giữa Thanh tra giao thông với CSGT địa
bàn, tránh tình trạng thanh, kiểm tra chuyên đề theo kỳ cuộc, mà phải thực hiện
thƣờng xuyên, liên tục hàng tuần; tránh chồng chéo, đùn đẩy, né tránh dẫn đến
buông lỏng quản lý bằng cách đƣa Thanh tra giao thông quản lý địa bàn phối
hợp hoạt động hàng tuần, cùng CSGT điều tra cơ bản và lên phƣơng án phối hợp
theo dõi, phát hiện, xử lý vi phạm nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
+ Tại các chốt trực trọng điểm thƣờng xảy ra VPHC, cần lập các tổ an
ninh trật tự, bƣớc đầu nhắc nhở, sau một thời gian sẽ kiên quyết xử phạt. Tất
nhiên, rất cần một thông tƣ của cấp có thẩm quyền, cho phép công an cơ sở có
quyền xử phạt vi phạm ở mức phạt tiền cao hơn hiện nay nhằm giảm nhẹ áp lực
cho các lực lƣợng chuyên trách Thanh tra GTVT, CSGT của quận.
- Mặt khác, trong công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật
GTĐB cũng phải thƣờng xuyên tổ chức rút kinh nghiệm các chuyên đề, các đợt
cao điểm để đƣa ra các biện pháp, giải pháp đồng thời phát huy kết quả đạt đƣợc
và khắc phục những thiếu sót trong quá trình thực hiện công vụ. Lực lƣợng
CSGT làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật GTĐB phải
chấp hành nghiêm chỉnh “quy trình tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực GTĐB” đƣợc ban hành theo Thông tƣ số 27/2009/TT- BCA (C11) ngày
06/5/2009 của Bộ Công an, Thanh tra GTVT phải tuân thủ nghiêm ngặt quy
trình kiểm tra theo đúng Thông tƣ số 08/2010/TT-BGTVT ngày 19/3/2010 của
Bộ GTVT quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra đƣờng bộ, tổ chức phân
công, phân nhiệm rõ ràng nhiệm vụ giữa lực lƣợng CSGT và các lực lƣợng khác
tham gia đảm bảo trật tự ATGT. Đồng thời cũng cần có những bổ sung kịp thời
các quy trình có liên quan đến công tác tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm
pháp luật GTĐB cho phù hợp với yêu cầu thực tế tại địa phƣơng, nhằm tháo gỡ
những khó khăn, vƣớng mắc trong việc thực hiện nhiệm vụ. Nhƣ quy định chỉ
đƣợc dừng phƣơng tiện khi có dấu hiệu vi phạm, hay vấn đề trang bị phƣơng
95
tiện, công cụ hỗ trợ cho việc cƣỡng chế thi hành pháp luật GTĐB mà CSGT cần
đƣợc quan tâm đúng mức và đƣợc đáp ứng đầy đủ các trang thiết bị công cụ hỗ
trợ: máy đo nồng độ cồn, cân tải trọng, máy đo tốc độ phƣơng tiện, máy ảnh
chuyên dụng, camera; phƣơng tiện, nhiên liệu để phục vụ tuần tra, kiểm soát,
thanh tra, kiểm tra, tiến tới cung cấp một phần trang thiết bị hỗ trợ cho cảnh sát
cấp cơ sở.
- Tiếp tục kiểm tra chấn chỉnh, xử lý các trƣờng hợp vi phạm về trật tự đô
thị, buôn bán lấn chiếm lòng lề đƣờng trên các tuyến đƣờng 3-2, Sƣ Vạn Hạnh,
Lê Hồng Phong, Cách mạng Tháng Tám, góp phần đẩy mạnh việc thực hiện
nếp sống văn minh, xây dựng m quan đô thị trên 4 tuyến đƣờng trọng điểm của
thành phố, 6 tuyến đƣờng trọng điểm của quận và tuyến đƣờng nội bộ trƣớc
Bệnh viện Nhân dân 115 - Viện Tim, Tập trung xử lý nghiêm, không bỏ lọt
hành vi vi phạm với các nhóm lỗi diễn ra phổ biến, nghiêm khắc răn đe, xử phạt,
không để tình trạng nhờn luật, coi thƣờng luật tái diễn. Cụ thể, kiên quyết xử
phạt:
+ Xử phạt ngƣời điều khiển, ngƣời ngồi trên xe môtô, xe gắn máy (kể cả
xe máy điện): Sử dụng đèn chiếu xa khi tránh xe đi ngƣợc chiều; chở ngƣời ngồi
trên xe sử dụng ô (dù); không tuân thủ các quy định về nhƣờng đƣờng tại nơi
đƣờng giao nhau; không giảm tốc độ hoặc không nhƣờng đƣờng khi điều khiển
xe chạy từ trong ngõ, đƣờng nhánh ra đƣờng chính; bấm còi, rú ga (nẹt pô) liên
tục trong đô thị, khu đông dân cƣ; ngƣời điều khiển, ngƣời ngồi trên xe không
đội “mũ bảo hiểm cho ngƣời đi môtô, xe gắn máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho
ngƣời đi môtô, xe gắn máy” không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao
thông trên đƣờng bộ; chở theo 2 ngƣời lớn trên xe; đang điều khiển xe sử dụng
điện thoại di động, thiết bị âm thanh; chuyển hƣớng không giảm tốc độ hoặc
không có tín hiệu báo hƣớng rẽ (trừ trƣờng hợp điều khiển xe đi theo hƣớng
cong của đoạn đƣờng bộ ở nơi đƣờng không giao nhau cùng mức); điều khiển xe
96
trên đƣờng mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vƣợt quá quy định; sử
dụng chân chống hoặc vật khác quệt xuống đƣờng khi xe đang chạy; buông cả
hai tay khi đang điều khiển xe; dùng chân điều khiển xe; ngồi về một bên điều
khiển xe; điều khiển xe lạng lách hoặc đánh võng trên đƣờng bộ,
+ Xử phạt ngƣời điều khiển, ngƣời ngồi trên xe đạp, xe đạp máy, ngƣời
điều khiển xe thô sơ: Không đi bên phải theo chiều đi của mình, đi không đúng
phần đƣờng quy định; dừng xe đột ngột; chuyển hƣớng không báo hiệu trƣớc;
điều khiển xe đạp, xe đạp máy đi dàn hàng ngang từ 3 xe trở lên, xe thô sơ khác
đi dàn hàng ngang từ 2 xe trở lên; ngƣời điều khiển xe đạp, xe đạp máy sử dụng
ô (dù), điện thoại di động; chuyển hƣớng đột ngột trƣớc đầu xe cơ giới đang
chạy.
+ Xử phạt ngƣời đi bộ vi phạm quy tắc giao thông đƣờng bộ do không đi
đúng phần đƣờng quy định; không chấp hành hiệu lệnh hoặc chỉ dẫn của đèn tín
hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đƣờng; vƣợt qua dải phân cách; đi qua đƣờng không
đúng nơi quy định hoặc không bảo đảm an toàn.
+ Xử phạt các hành vi vi phạm khác về quy tắc giao thông đƣờng bộ: Tập
trung đông ngƣời trái phép; nằm, ngồi trên đƣờng bộ gây cản trở giao thông; sử
dụng bàn trƣợt, pa-tanh, các thiết bị tƣơng tự trên phần đƣờng xe chạy; để vật
che khuất biển báo, đèn tín hiệu giao thông; ném gạch, đất, đá, cát hoặc vật thể
khác vào phƣơng tiện đang tham gia giao thông trên đƣờng bộ; đổ dầu nhờn
hoặc các chất gây trơn khác trên đƣờng bộ; chăng dây hoặc các vật cản khác qua
đƣờng gây nguy hiểm đến ngƣời và phƣơng tiện tham gia giao thông; bán hàng
rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ; họp chợ, kinh doanh dịch vụ ăn uống; sửa chữa
phƣơng tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe, trông giữ xe trên lòng đƣờng đô thị, trên
vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng; chiếm dụng dải phân cách giữa
của đƣờng đôi làm nơi: bày, bán hàng hóa; để vật liệu xây dựng; đổ rác, xả nƣớc
ra đƣờng bộ không đúng nơi quy định,
97
- Bên cạnh đó, Công an quận 10 trên tinh thần chủ động thực hiện nghiêm
chế độ sẵn sàng chiến đấu, xây dựng, huấn luyện nghiệp vụ, cần dự kiến nhiều
phƣơng án, xử lý các tình huống, không để bị động, bất ngờ. Phong trào “Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, chuyển
hóa các địa bàn phức tạp về an ninh trật tự có trọng tâm, trọng điểm gắn liền với
các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kết hợp xử lý nghiêm các vi
phạm, sử dụng có hiệu quả các công cụ, phƣơng tiện hỗ trợ và ứng dụng công
nghệ thông tin nhƣ: tin nhắn, camera, Nhân rộng hình thức tuyên truyền quay
clip tại một số trƣờng học, ghi nhận cảnh chờ đón, chen lấn của phụ huynh, học
sinh gây mất TTATGT và trình chiếu tại trƣờng đó nhằm tuyên truyền, giáo dục
ý thức chấp hành Luật GTĐB. Kiến nghị UBND quận và Khu quản lý giao
thông đô thị số 1 cấm các phƣơng tiện ôtô dừng đỗ, hạn chế qua lại trong phạm
vi 200m trƣớc cổng trƣờng học vào giờ 6-7h và 16-17h, để phòng ngừa nạn ùn
tắc cục bộ. Với các tuyến phố chính giờ cao điểm, cần lắp đặt biển cấm dừng đỗ.
- Kiên quyết lập chốt tại các điểm thƣờng xuyên ăn nhậu trên địa bàn
tuyên truyền nhắc nhở nhân dân “Vui có chừng, dừng đúng lúc” hoặc khi đã
uống say không đƣợc điều khiển xe, nên đi về nhà bằng các phƣơng tiện khác.
Sau thời gian nhắc nhở, kiên quyết phạt, có nhƣ vậy mới đảm bảo an toàn cho
không chỉ ngƣời vi phạm mà còn cho bao ngƣời đang lƣu thông trên đƣờng.
- Kiên quyết lập chốt nhắc nhở nhân dân kinh doanh, buôn bán không lấn
chiếm vỉa hè, lòng đƣờng làm nơi trông giữ xe, buôn bán rong. Xây dựng tuyến
phố văn minh thƣơng mại đồng thời nghiêm túc xử lý các trƣờng hợp lợi dụng
lợi ích nhóm để giao khoán vỉa hè, thu nộp các khoản khác trái quy định. Không
để tình trạng hàng rong làm mất TTATGT xung quanh các bệnh viện, trƣờng
học. Kinh nghiệm tháng 2-2017 khi UBND quận 1 TP.HCM kiên quyết lập lại
TTATGT và trật tự, văn minh đô thị, khi xử phạt cả phƣơng tiện lãnh đạo văn
phòng bộ, UBND quận, xử phạt nhiều cơ quan, nhiều nhà hàng đƣợc cho là có
98
thân quen với nhiều quan chức, không để tình trạng phạt ngƣời này bỏ ngƣời
khác, mô hình này tạo hiệu ứng tốt, đã nhân rộng và đƣợc nhiều quận trên địa
bàn TP.HCM áp dụng, tình trạng lấn chiếm vỉa hè, buôn bán rong, để xe gắn
máy đúng nơi quy định giảm rõ rệt.
- Kiên quyết xử phạt ngƣời điều khiển phƣơng tiện vi phạm quy định về
điều kiện của phƣơng tiện khi tham gia giao thông, phạt tiền đối với hành vi:
điều khiển xe không có còi; đèn soi biển số; đèn báo hãm; gƣơng chiếu hậu bên
trái ngƣời điều khiển hoặc có nhƣng không có tác dụng; điều khiển xe gắn biển
số không đúng quy định; biển số không rõ chữ, số; biển số bị bẻ cong, bị che
lấp, bị hỏng; điều khiển xe không có đèn tín hiệu hoặc có nhƣng không có tác
dụng; điều khiển xe không có bộ phận giảm thanh, giảm khói hoặc có nhƣng
không bảo đảm quy chuẩn môi trƣờng về khí thải, tiếng ồn, vệ sinh môi trƣờng;
điều khiển xe không có đèn chiếu sáng gần, xa hoặc có nhƣng không có tác
dụng, không đúng tiêu chuẩn thiết kế; điều khiển xe không có hệ thống hãm
hoặc có nhƣng không có tác dụng, không bảo đảm tiêu chuẩn k thuật.
- Kiên quyết xử phạt các hành vi vi phạm quy định về vận tải đƣờng bộ,
dịch vụ hỗ trợ vận tải đƣờng bộ: không niêm yết hoặc niêm yết không chính xác,
đầy đủ tên, số điện thoại của đơn vị kinh doanh vận tải, khối lƣợng bản thân xe,
khối lƣợng hàng hóa cho phép chuyên chở theo quy định; sử dụng loại xe ôtô
chở ngƣời có thiết kế từ 10 chỗ ngồi trở lên làm xe taxi chở hành khách; sử dụng
xe taxi chở hành khách không có hộp đèn “Taxi” hoặc có nhƣng không có tác
dụng, không gắn cố định trên nóc xe theo quy định; không lắp đồng hồ tính tiền
cƣớc hoặc lắp đồng hồ tính tiền cƣớc không đúng quy định; không có thiết bị in
hóa đơn đƣợc kết nối với đồng hồ tính tiền cƣớc theo quy định; sử dụng xe taxi
chở hành khách không có hoặc có biểu trƣng (lôgô), số điện thoại giao dịch ghi
trên xe không đúng với đăng ký của doanh nghiệp.
99
- Hạn chế và tiến tới không cho các loại phƣơng tiện không đảm bảo tiêu
chuẩn an toàn k thuật của phƣơng tiện cơ giới đƣờng bộ tham gia GTĐB. Cần
có chế tài và các phƣơng tiện giám định, hỗ trợ xác định chất lƣợng phƣơng tiện
giúp tịch thu các phƣơng tiện hết hạn sử dụng, không đảm bảo an toàn, không
đảm bảo tiêu chuẩn khí thải. Tập trung xử lý nghiêm bằng các hình thức thu giữ
Giấy phép lái xe đối với ngƣời điều khiển xe máy nếu vi phạm liên tục 2-3 lần
trong thời gian nhất định, xe ôtô 2 lần trong thời gian nhất định; buộc đào tạo,
sát hạch lại để đƣợc cấp Giấy phép lái xe, bằng, chứng chỉ chuyên môn nhằm
giáo dục nâng cao đạo đức cho ngƣời điều khiển phƣơng tiện giao thông cơ giới
đƣờng bộ.
100
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Để lập lại trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ, bảo đảm thực hiện tốt
nguyên tắc mọi hành vi vi phạm hành chính phải đƣợc phát hiện nhanh chóng,
xử lý kịp thời, công minh theo quy định của pháp luật, hoạt động XPVPHC
trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn quận 10, TP.HCM cần sự nỗ lực, chung tay
của các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội và nhân dân. Tác giả luận văn
mạnh dạn đề xuất những giải pháp mà nếu đƣợc tiến hành đồng bộ sẽ góp phần
bảo đảm XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn quận 10, trƣớc hết là: tăng
cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc, xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao thông
đƣờng bộ và pháp luật về XPVPHC. Cần cụ thể hóa các quy định về XLVPHC
trong lĩnh vực GTĐB một cách chi tiết hơn, bám sát thực tế nhƣng cũng tạo nền
tảng cho sự ổn định của hệ thống pháp luật. Các văn bản QPPL phải có tính dự
báo, thống nhất, nhất quán trong hệ thống pháp luật nói chung, không chồng
chéo, không mâu thuẫn.
Đồng thời, cần đổi mới và duy trì thƣờng xuyên công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật giao thông đƣờng bộ; nâng cao phẩm chất đạo đức
chính trị và chuyên môn k thuật cho lực lƣợng làm nhiệm vụ XPVPHC; đầu tƣ
cơ sở vật chất, đảm bảo điều kiện trang thiết bị k thuật cho lực lƣợng Thanh tra
giao thông và CSGT đƣờng bộ; tăng cƣờng công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý
nghiêm minh, triệt để, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật GTĐB.
101
KẾT LUẬN
XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB là một công cụ quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nƣớc về giao thông vận tải, vì vậy hoạt động này luôn nhận
đƣợc sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc, các tổ chức kinh tế - xã hội và nhân dân.
Đây là lĩnh vực để xảy nhiều vi phạm nhất trong các loại VPHC, ảnh hƣởng trực
tiếp, thƣờng xuyên tới tất cả các đối tƣợng tham gia giao thông, và cũng là lĩnh
vực “động chạm” nhiều đến sự tăng trƣởng kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội
cũng nhƣ tác động đến nhận thức, thói quen, hành vi ứng xử văn minh của cộng
đồng. Bảo đảm XPVPHC trong hoạt động của cơ quan nhà nƣớc nói chung, của
các lực lƣợng chức năng trên địa bàn quận 10 nói riêng không dừng ở đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế địa phƣơng mà là nhận thức xuyên suốt, thƣờng
xuyên, là đòi hỏi cấp thiết để xây dựng một hệ thống giao thông hiện đại, thuận
tiện, ngƣời dân tham gia giao thông tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật,
góp phần quan trọng củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật GTĐB.
Công tác XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn quận 10, dù đôi khi
có lúng túng trong vận dụng văn bản pháp luật XPVPHC do sự thay đổi liên tục
của các Nghị định, tuy nhiên, với nỗ lực của Quận ủy, HĐND, UBND và lực
lƣợng chủ công trong xử phạt vi phạm là CSGT, CSTT, đã đáp ứng đƣợc yêu
cầu bảo đảm trật tự an toàn giao thông, xử lý tƣơng đối kịp thời các hành vi
VPPL trong lĩnh vực GTĐB. Số lƣợng VPHC bị xử phạt hàng năm, từ năm 2013
đến 2016 vẫn cao. Cùng với đó là nạn tắc đƣờng, sự gia tăng chóng mặt của
ngƣời và phƣơng tiện tham gia giao thông, chỉ riêng việc giải quyết đƣờng thông
hè thoáng, dòng xe không bị ùn tắc đã là nỗ lực lớn của Công an quận 10. Điều
này dẫn tới hạn chế của lực lƣợng công an khi quân số mỏng, CBCS tập trung
điều hành giao thông nên việc phát hiện, XPVPHC có nơi, có lúc bị buông lỏng
khi lƣu lƣợng ngƣời và xe quá đông, CSGT không thể xử lý nổi.
102
Bên cạnh đó, một số văn bản về XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB mới ban
hành đã không theo kịp tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, và bộc lộ những hạn
chế. Những hạn chế này có nguyên nhân khách quan, chủ quan, trong đó chủ
yếu do các quy định hƣớng dẫn thi hành luật chƣa khả thi đối với khu vực đô thị
đông dân cƣ, các điều kiện cơ sở hạ tầng, k thuật không đồng bộ, manh mún và
thiếu kiểm soát.
Để nâng cao hiệu quả công tác XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa
bàn quận 10 nói riêng, TP.HCM và các đô thị lớn của Việt Nam nói chung, cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp phù hợp trong từng giai đoạn, tiến tới nghiên
cứu, dự báo, hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng sự thay đổi không ngừng
của đời sống xã hội; kiện toàn và trang bị đầy đủ phƣơng tiện, vật lực cho công
tác quản lý GTĐB. Có nhƣ vậy mới đáp ứng đƣợc yêu cầu quản lý nhà nƣớc về
GTĐB trong giai đoạn hội nhập, phát triển cũng nhƣ đáp ứng đầy đủ yêu cầu
xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền XHCN thực sự của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân, xây dựng một nền hành chính công khai, minh bạch, hành động
và hết lòng phụng sự nhân dân./.
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 v Chiế ược
xây dựng và hoàn thi n h thống pháp lu t Vi t Na ế ă 2010, ị ướng
ế ă 2020.
2. Nguyễn Ngọc Bích (2003), t u t v ý v
ố vớ gườ ưa t ê , Luận văn thạc s luật học, trƣờng Đại học Luật
Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Bích (2007), T ẩ u t v ữ g ất
tr g u ị ành, Tạp chí Luật học số 8-2007.
4. Kim Long Biên (2015), X ý v tr g ĩ vự ả ua ở
V t Na - N ữ g vấ ý u v t ự t ễ , Luận án tiến s luật học, Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam.
5. Nguyễn Trọng Bình (2000), t u u t v
t v , Luận văn thạc s luật học, trƣờng Đại học
Luật Hà Nội.
6. Chính phủ (2010), Ng ị ị số 34/2010/N -C v X t v
tr g ĩ vự G a t ô g ườ g ộ v ườ g sắt.
7. Chính phủ (2013), Ng ị ị số 171/2013/N -C v X t v
tr g ĩ vự G a t ô g ườ g ộ v ườ g sắt.
8. Chính phủ (2014), Ng ị ị 107/2014/N -CP s a ổ , ổ su g ột số u
ủa Ng ị ị 171 v X t v tr g ĩ vự G a t ô g
ườ g ộ v ườ g sắt.
9. Chính phủ (2016), Ng ị ị 46/2016/N -C v X t v
tr g ĩ vự G a t ô g ườ g ộ v ườ g sắt.
10. Công an quận 10 (2013), Báo cáo tì ì ả ả a tr t tự, a t
ã ộ trê ịa u 10.
104
11. Công an quận 10 (2014), Báo cáo tì ì ả ả a tr t tự, a t
ã ộ trê ịa u 10.
12. Công an quận 10 (2015), Báo cáo tì ì ả ả a tr t tự, a toàn
ã ộ trê ịa u 10.
13. Công an quận 10 (2016), Báo cáo tì ì ả ả a tr t tự, a t
ã ộ trê ịa u 10.
14. Cục CSGT - Bộ Công an (2016), Xây dựng h thống giám sát, x lý vi ph m
TTATGT ường bộ v ơ sở pháp lý vi c x lý vi ph m bằng hình ảnh.
15. Vũ Ngọc Dƣơng (2009), T ự tr g v g ả v tr t tự a t g a
t ô g ườ g ộ trê ịa tỉ ả Dươ g, Tạp chí Khoa học công nghệ và
Môi trƣờng số 4-2009.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Vă k i hộ i biểu toàn quốc lần
thứ XII.
17. Nguyễn Minh Đức (2013), Một số ất v ướ g t u t
ý v , báo Luật Việt 22/7/2013
18. Hồ Thanh Hiền (2012), X ý v tr g ĩ vự g a t ô g
ườ g ộ - qua t ự t ễ t t ố N g, Luận văn thạc s luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
19. Lê An Hiệp (2011), X t v tr g ĩ vự g a t ô g
ườ g ộ trê ịa tỉ Bế Tre, Luận văn cử nhân luật học, Đại học Cần
Thơ.
20. Trƣơng Khánh Hoàn, T ủ tụ t - T ự tr g v ướ g
t , Diễn đàn Luật học Cafe.com
21. Nguyễn Thị Hồi (chủ biên) (2009), Á dụ g u t ở V t Na a -
ột số vấ ý u v t ự t ễ , NXB Tƣ pháp.
22. Hội đồng nhà nƣớc (1989), X t v .
105
23. Nguyễn Quang Huy (2007), T ự u t tr g ĩ vự ả ả tr t
tự a t g a t ô g ua t ự tế tỉ T Ngu ê , Luận văn thạc s luật học,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Trần Văn Luyện, Trần Sơn, Nguyễn Văn Chính (2003), Tr t tự a t g a
t ô g ườ g ộ, t ự tr g v g ả , NXB Chính trị Quốc gia.
25. Đinh Văn Mậu (2008), Lu t V t Na , Giáo trình, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Minh (2012), X ý v tr g ĩ vự g a
t ô g ườ g ộ trê ịa tỉ T a óa, Luận văn thạc s luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
27. Vũ Thanh Nhàn (2009), u t v ý v tr g ĩ
vự g a t ô g ườ g ộ ở V t Na a - Một số vấ ý u , t ự t ễ
v ươ g ướ g t , Luận văn thạc s luật học, trƣờng Đại học Luật
Hà Nội.
28. Nguyễn Bá Phùng (2015), X ý v tr g ĩ vự uả ý
tr t tự â dự g ô t ị - t ự tr g v g ả , Luận án tiến s luật học, Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam.
29. Quốc hội (2008), Lu t G a t ô g ườ g ộ.
30. Quốc hội (2012), Lu t X ý v .
31. Phạm Hồng Thái (2009), Lý u u g v N ướ v u t, Giáo
trình, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
32. Trung tâm Từ điển học Hà Nội - Đà Nẵng (2002), Từ ể t ế g V t, NXB
Đà Nẵng.
33. Nguyễn Quốc Tuấn (2016), X ý v tr g ĩ vự tế
trê ịa t ố Nộ , Luận án tiến s luật học, Viện Hàn lâm KHXH
Việt Nam.
34. Ủy ban An toàn giao thông quốc gia (2013), Báo cáo ă 2013.
106
35. Ủy ban An toàn giao thông quốc gia (2014), B ă 2014.
36. Ủy ban An toàn giao thông quốc gia (2015), B ă 2015.
37. Ủy ban An toàn giao thông quốc gia (2016), B ă 2016.
38. Ủy ban nhân dân quận 10 (2013), Báo cáo tì ì k tế - ã ộ , a
uố ò g.
39. Ủy ban nhân dân quận 10 (2014), Báo cáo tì ì k tế - ã ộ , a
uố ò g.
40. Ủy ban nhân dân quận 10 (2015), Báo cáo tì ì k tế - ã ộ , a
uố ò g.
41. Ủy ban nhân dân quận 10 (2016), Báo cáo tì ì k tế - ã ộ , a
uố ò g.
42. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (1995), X ý v .
43. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (2002), X ý v ,
(sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).
44. Nguyễn Cửu Việt (2013), Lu t V t Na , Giáo trình, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
45. Nguyễn Quốc Việt (chủ biên) (2015), V v ý v
hành chính.
46. Võ Khánh Vinh (2003), Lợ ã ộ v u t, NXB Công an nhân
dân.
47. Viện Nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển (2012), T
ủa u ết ị , NXB Lao động xã hội.
48. Viện nghiên cứu phát triển TP.HCM (2016), Báo cáo ă 2016.
49.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_xu_phat_vi_pham_hanh_chinh_trong_linh_vuc_giao_thon.pdf