Ngành công nghiệp giầy dép được khẳng định là một thế mạnh trong sự
phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt với những nước đang phátn triển
và đang ở giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá như Việt Nam. Ngành
giầy dép Việt Nam trong những năm qua luôn đóng góp một phần đáng kể
trong kim ngạch xuất khẩu và là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam là nhiệm vụ qun trọng để
thực hiện chiến lược CNH-HĐH hướng về xuất khẩu của đất nước. Xu huớng
phát triển hàng giầy dép thế giới đã mở ra nhiều cơ hội cho ngành giầy dép
Việt Nam . Tuy nhiên, trong quá trình thâm nhập và tiếp cận thị trường thế
giới, đặc biệt là thị trường EU, ngành giầy dép Việt Nam đã và đang gặp phải
không ít khó khăn chủ quan và khách quan cản trỏ kim ngạch đạt tới mức tiềm
năng của ngành.
45 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4235 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU:Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh trên thị trường quốc tế. Nó biểu hiện khả năng duy trì
phần thị trường hiện có và chiếm lĩnh thị trường mới. Sức cạnh tranh của
doanh nghiệp thể hiện ở ba yếu tố cơ bản sau: giá cả, chất lượng, dịch vụ sau
bán hàng.
6.2 .Trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Bộ máy năng động, gọn nhẹ sẽ giúp doanh nghiệp luôn biến đổi để thích
nghi với điều kiện kinh doanh mới, doanh nghiệp dễ dàng vượt qua những
khóp khăn trong cạnh tranh. Bộ máy quản trị cần những người năng động và
sáng tạo chịu được áp lực cạnh tranh.
6.3 .Trình độ kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp.
Đó là năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, trình độ tay nghề của công
nhân, thiết bị máy móc và công nghệ mà doanh nghiệp áp dụng và sử dụng cho
việc sản xuất và chế biến những mặt hàng xuất khẩu. Điều này phản ánh tiềm
năng của doanh nghiệp, trình độ công nghệ của doanh nghiệp có mối liên hệ
mật thiết với chất lượng và giá thành phẩm. Có trình độ kỹ thuật tiên tiến hiện
đại thì mới có điều kiện tăng năng suất, tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường quốc tế.
6.4 .Nguồn lục tài chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp với một nguồn lực tài chính mạnh dễ dàng đáp ứng với đơn
đặt hàng của khách hàng còn đối với những doanh nghiệp có nguồn vốn nhỏ và
phân tán thường gặp khó khăn khi cạnh tranh đẻ nhận được đơn đặt hàng. Tài
chính tác động trực tiếp và toàn bộ tới quá trình sản xuất của các doanh nghiệp.
12
IV. Sự cần thiết phải tăng cường hoạt động xuất khẩu giầy dép của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Thâm nhập vào thị trường EU hiện là muc tiêu ưu tiên đối với nền kinh tế
quốc dân nói chung và toàn nghành sản xuất giầy dép nói riêng. Do vậy, càng
phải nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường thúc đẩy xuất khẩu hàng giầy dép
Việt Nam sang EU, biểu hiện bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, EU không những là một thị trường lớn, là một trong ba trung
tâm kinh tế lớn nhất trên thế giới, mà đây còn là thị trường nhập khẩu lớn nhất
đối với hàng giầy dép Việt Nam. Đây còn là thị trường có mức độ tieu dùng
giầy dép tương đối cao ( 6-7 đôi/người/năm) và là thị trường lý tưởng cho bất
kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Thứ hai, EU là thị trường rất khó tính với các rào cản kỹ thuật tương đối
cao, thị hiếu người tiêu dùng EU lại tương đối cao, nhu cầu giầy dép đi lại ít
mà làm đẹp thì nhiều. Do vậy nếu vượt qua được các rào cản kỹ thuật, đáp
ứng được thị hiếu người tiêu dùng thì không những chúng ta có thể chiếm
được thị phần trên thị trường EU mà còn có thể thâm nhập dễ dàng các thị
trường khác trên thế giới. Đây là phương pháp đi vòng mà Nhật Bản đã áp
dụng từ những thập kỉ trước.
Thứ ba, xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU hiện nay đang đóng
góp một nguồn thu đáng kể vào ngân sách quốc gia. Nếu như năm 1995, kim
nghạch xuất khẩu giầy dép chỉ đúng thứ 6 trong số 10 mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam thì nay đã vươn lên đứng hàng thứ 3, chỉ sau có dầu khí và dệt may.
Thứ tư, cùng với việc tăng cường xuất khẩu sang thị trường EU, chúng ta
có thể tận dụng được sự chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp hiện
đại của EU nay không còn ưu thế về đất đai, lao động, muốn chuyển giao các
công nghệ đó cho các nước kém phát triển hơn. Do vậy, nó sẽ đảm bảo cho
hàng giầy dép Việt Nam có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật của EU.
13
Thứ năm, ngành giầy dép là ngành sử dụng nhiều lao động, việc tăng
cường xuất khẩu vào EU đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ sử dụng thêm nhiều
lao động, giải quyết thêm công ăn việc làm cho người dân.
Thứ sáu, hàng giầy dép Việt Nam sở dĩ cạnh tranh được với hàng của các
nước khác trên thị trường EU, nguyên nhân chính là chúng ta đang được
hưởng mức htuế quan ưu đãi GSP mà EU dành cho Việt Nam. Nhưng đến năm
2005, khi mà Trung Quốc đạt được thoả thuận với EU và cũng được hưởng
GSP thì khi đó hàng giầy dép Việt Nam sẽ gặp phải những khó khăn về cạnh
tranh về giá rất lớn. Để tranh đi nguy cơ này, buộc các doanh nghiệp giầy dép
Việt Nam phải tìm cách giảm chi phí để giảm giá thành sản phẩm. Một trong
những nguyên nhân chính đẩy giá thành sản phẩm giầy dép của ta lên cao đó
chính là việc chúng ta đã phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Một giải
pháp đưa ra là chúng ta sẽ phát triển các đàn bò và xây dựng các nhà máy
thuộc da để cung cấp nguyên liệu với giá thành rẻ hơn cho các doanh nghiệp
sản xuất giầy dép.
14
Chương II:
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG GIẦY DÉP VIỆT NAM VÀO THỊ
TRƯỜNG EU
I. Khái quát về thị trường EU.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu.
Lịch sử hình thành Liên minh châu Âu (Eropean Union - EU): được
đánh dấu từ ngày 18/4/1951 khi 6 nước: Pháp, Bỉ, CHLB Đức, Italia, Hà Lan,
Lucxămbua đã đi tới ký hiệp ước thiết lập cộng đồng than thép châu Âu
(CECA). Mục tiêu của CECA là đảm bảo việc sản xuất và tiêu thụ than của các
nước thành viên trong những điều kiện thống nhất, đẩy mạnh tiến bộ khoa học
kỹ thuật trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ và nâng cao năng suất lao động.
Trên cơ sở những kết quả mà CECA mang lại về mặt kinh tế cũng như chính
trị, Chính phủ các nước thành viên thấy cần thiết phải tiếp tục con đường đã
chọn để sớm đạt được “thực thể châu Âu mới”. Ngày 25/3/1957, hiệp ước thiết
lập cộng đồng kinh tế châu Âu (Eropean Economic Community-EEC) và cộng
đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (CEEA) đã được ký kết tại Roma. Trong
đó, CEEA chỉ điều chỉnh một lĩnh vực của công nghiệp và kinh tế, nhiệm vụ
của nó chỉ là đẩy mạnh việc sáng tạo và phát triển công nghiệp nguyên tử và
đảm bảo việc cung cấp nguyên liệu, bảo vệ môi trường EEC bao trùm lĩnh vực
kinh tế chung, bảo đảm hoà nhập kinh tế, tiến tới một thị trường thống nhất,
tạo ra tự do lưu thông hàng hoá và con người trong toàn khối. Năm 1967,
CECA, CEEA,EEC chính thức hợp nhất thành một tổ chức chung gọi là “Cộng
đồng châu Âu” (Eropean Community-EC).
15
2. Đặc điểm của thị trường EU.
2.1. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng của thị trường EU.
EU là một thị trường rộng lớn, với 377,3 triệu người tiêu dùng. Thị
trường EU thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá, dịch
vụ và vốn giữa các nước thành viên. Thị trường này còn mở rộng sang các
nước thuộc Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (Eropean Free Trade
Association-EFTA) tạo thành một thị trường rộng lớn trên 380 triệu người tiêu
dùng. (Theo nguồn: Tạp chí Nghiên cứu châu Âu )
EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới, sở thích và nhu cầu
của họ cũng cao, họ có thu nhập, mức sống cao, khá đồng đều và yêu cầu rất
khắt khe về độ an toàn của sản phẩm nói chung. Yếu tố trước tiên quyết định
tiêu dùng của người châu Âu là chất lượng và thời trang của hàng hoá sau đó
mới đến giá cả của đại đa số mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này.
Hàng năm EU nhập khẩu một lượng lớn hàng hoá chủ yếu là hàng tiêu
dùng từ các nước đang phát triển như thuỷ sản, dệt may, giầy dép... Nhu cầu
nhập khẩu một số sản phẩm tiêu dùng chính của EU từ 1995 đến 1999 được
thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Nhu cầu nhập khẩu một số sản phẩm tiêu dùng chính của EU từ
các nước đang phát triển.
Đơn vị : triệu USD.
Mặt hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
1. Thuỷ sản 326 404 501 623 702 812 895
2. Dệt may 130.63
8
132.981 134.489 135.834 138.551 139.145 141.452
3. Giầy dép 1.949 2.667 4.364 3.231 4.462 4.225 4.576
16
* Nguồn: Thống kê hải quan,Vụ xuất nhập khẩu, Bộ thương mại.
Niêm giám thống kê, Tổng cục thống kê (2000)& Tổng cục hải quan.
Số liệu từ bảng 1 cho thấy EU là một thị trường nhập khẩu hàng tiêu
dùng rất lớn. Song để vào được thị trường EU, hàng tiêu dùng của các nước
đang phát triển phải thoả mãn những điều kiện khá ngặt nghèo.
Đối với hàng giầy dép, thị hiếu của người tiêu dùng trong thị trường EU
được đánh giá là khá khó tính và chọn lọc. Yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng
hàng hoá thay đổi nhanh, đặc biệt đối với những hàng thời trang (giầy dép,
quần áo...).
2.2. Nhu cầu nhập khẩu hàng giày dép.
EU là một thị trường rộng lớn với hơn 375 triệu dân, nhu cầu tiêu dùng
hàng giầy dép rất lớn, vào hàng thứ hai thế giới (sau Mỹ). Thị trường EU có
tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép đứng hàng đầu thế giới. Đồng
thời, các nước EU cũng đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng giầy dép. Ở thị
trường EU, người ta có thể thấy đủ các mặt hàng giầy dép từ khắp các quốc gia
trên thế giới như Mỹ, Trung quốc, Singapore...
2.3. Hệ thống phân phối của hàng giầy dép trên thị trường EU.
Trong nền thương mại châu Âu , hệ thống phân phối là yếu tố quan
trọng trong khâu lưu thông và xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Hệ
thống phân phối EU chủ yếu bao gồm các hình thức sau: các trung tâm thu
mua, các đơn vị chế biến, dây truyền phân phối, các nhà bán buôn, bán lẻ và
người tiêu dùng.
Trong xu hướng hiện nay, nhập khẩu trực tiếp hàng giầy dép vào EU
tăng lên do yêu cầu về cạnh tranh trong khâu bán lẻ. Hệ thống bán lẻ ngày
càng chiếm ưu thế trong hệ thống phân phối hàng giầy dép vào thị trường EU.
17
Hàng giầy dép tại các nước EU cơ bản được phân phối qua hệ thống bán
lẻ như: Các dây chuyền chuyên doanh hàng giầy dép, các cửa hàng chuyên
doanh hàng giầy dép liên nhánh, các trung tâm bán hàng qua bưu điện, các siêu
thị, các công ty bán lẻ độc lập, các kênh tiêu thụ khác.
Với các thị trường khác nhau trong EU, hệ thống phân phối hàng giầy
dép lại có sự khác biệt. Nếu như ở Anh, các công ty bán lẻ độc lập chiếm thị
phần nhỏ thì kênh phân phối này lại khá phổ biến với các nước phía Nam EU
như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia.
Trong các năm tới, hình thức kinh doanh bán lẻ có thể có nhiều thay đổi,
đó là sự giảm đi thị phần của các công ty bán lẻ độc lập và tăng lên các loại
hình bán lẻ khác. Đồng thời, các nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển
châu Á, trong đó có Việt Nam sẽ phải đương đầu với sức ép cạnh tranh của các
nước Đông Âu và Trung Đông do các nước này có ưu thế hơn hẳn trong khả
năng tiếp cận hệ thống bán lẻ của các nước EU.
2.4. Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU.
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu
dùng rất được bảo vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để
đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm
ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên,
đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua các
quy định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản
phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu. Các
tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế
định chuẩn quốc gia hoặc châu Âu.
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, EU tích cực tham gia chống
nạn hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản
quyền.
18
Ngoài việc ban hành và thực hiện quy chế trên, EU còn đưa ra các Chỉ
thị kiểm soát từng nhóm hàng cụ thể về chất lượng và an toàn đối với người
tiêu dùng.
19
2.5. Chính sách thương mại.
EU được coi là một đại quốc gia của châu Âu. Bởi vậy, chính sách
thương mại của EU giống như chính sách thương mại của một quốc gia. Nó
bao gồm chính sách thương mại nội khối và chính sách ngoại thương.
Chính sách thương mại nội khối: chính sách nội khối tập trung vào việc
xây dựng và vận hành thị trường chung châu Âu, xoá bỏ việc kiểm soát biên
giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan( xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi
thuế quan ) để tự do lưu thông vốn, hàng hoá, dịch vụ và vốn, điều hoà các
chính sách kinh tế - xã hội của các nước thành viên.
Chính sách ngoại thương: gồm chính sách thương mại tự trị và chính
sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định được xây dựng trên những nguyên
tắc sau: không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và đối xử công bằng.
Các biện pháp bảo hộ chủ yếu được áp dụng phổ biến trong chính sách này là
thuế quan, hạn chế về số lượng, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại
thương chung đối với các nước ngoài khối. Uỷ ban châu Âu (EC) là người đại
diện duy nhất cho Liên minh trong việc đàm phán, ký kết các Hiệp định
thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này.
3. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của EU dành cho các nước đang phát
triển.
Hàng hoá từ các nước đang phát triển nếu thoả mãn nhưng quy định của
EU sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Một trong những nguyên
tắc cơ bản của tổ chức thương mại thế giới (WTO) là không phân biệt đối xử
và đối ứng. Nguyên tắc này thể hiện qua việc các nước đối xử tối hụê quốc(
Most Favour Nation – MFN). Nhưng do trình độ phát triển kinh tế của các
nước thành viên WTO rất khác nhau nên việc tôn trọng nguyên tắc không phân
biệt đối xử sẽ làm cho hàng hoá của các nước đang phát triển và đặc biệt là các
20
nước chậm phát triển ( dưới đây gọi chung là các nước đang phát triển ) không
có khả năng cạnh tranh với hàng hoá của các nước phát triển. Do vậy cần phải
có biện pháp nới lỏng nguyên tắc trên cho các nước đang phát triển, chiếm đa
số trong WTO.
II. Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu giày dép của các
doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU
1. Thuận lợi
Thứ nhất, với các quy định của EU đối với hàng giầy dép xuất khẩu trên,
hàng giầy dép Việt Nam có những thuận lợi hơn so với hai nước cạnh tranh
trực tiếp trên thị trường EU là Trung Quốc và Indonexia. Về thuận lợi, trong
khi hàng giầy dép Việt Nam vẫn được hưởng GSP (mức cao nhất là 11,9%) thì
hàng giầy dép của Indonexia đang phải chịu mức thuế chống phá giá của EU
(17%).
Thứ hai, các doanh nghiệp VN có lợi thế cạnh tranh là có nguồn nhân
lực trẻ, chi phí nhân công thấp. Mặt khác, với một bản chất cần cù siêng năng,
nhân công VN có khả năng chịu được những áp lực tốt trong công việc.
Thứ ba, các chính sách mới được dưa ra nhằm khuyến khích xuất khẩu
của Nhà nước cùng với nền kinh tế mở và hội nhập là điều kiện tốt cho các
doanh nhiệp xuất khẩu.
Thứ tư, vì đang là một trong ba ngành xuất khẩu mũi nhọn nên các
doanh nghiệp giầy dép được sự hỗ trợ từ phía chính phủ bằng các chính sách
ưu đãi như: chính sách thuế, mặt bằng sản xuất...
Thứ năm, với một nền kinh tế tương đối ổn định, VN là môi trường tốt
cho kinh doanh, điều kiện tốt cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư, yên tâm sản
xuất.
Thứ sáu, đồng thời đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, Đảng và Nha nước liên tục đổi mới phương cách quản lý kinh tế phù
21
hợp và thích ứng với quá trình hội nhập kinh tế; tạo điều kiện tốt cho các
DNXK thi thố tài năng.
Một vài thuận lợi khác mà Việt nam có được như: vị trí địa lý thuận lợi
cho lưu thông(Gần biển) và thuộc khu vực đang có sự phát triển nhanh, tham
gia AFTA...Sẽ là những điều kiện thuận cho các doanh nghiệp VN nói chung
và giày dép nói riêng.
2.Khó khăn
Thứ nhất, vừa qua Trung Quốc đã đạt được việc gia nhập tổ chức WTO,
như vậy hàng giầy dép của Trung Quốc vào EU sẽ không phải chịu mức thuế
chống phá giá nữa. Mặt khác các doanh nghiệp sản xuất giầu dép xuất khẩu
của Trung Quốc và Indonexia có khả năng thiết kế mẫu mã và thâm nhập thị
trường EU tốt hơn các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, các DNVN có đến 80% là DN vừa và nhỏ, hầu gết các DN gặp
khó khăn về nguồn vốn.
Thứ ba, các doanh nghiệp VN phải đương đầu với các bộ luật như: luật
chống phá giá, luật bảo vệ người tiêu dùng, luật bản quyền kiểu dáng mẫu mã.
Những nhân tố này còn rất mới và gây bỡ ngỡ cho các doanh nghiệp VN khi
tham gia hoạt động xuất khẩu. Để tránh bị theo đuổi kiện tụng do luật bảo vệ
nguòi tiêu dùng, các doanh nghiệp xuất khẩu VN cần tuân thủ và chấp hành
đúng theo yêu cầu bên đối tác đưa ra.
Thứ tư, sự khác biệt ngôn ngữ cũng là một khó khăn đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu VN. Phần lớn các quốc gia thuộc cộng đồng EU dùng tiếng
Anh là ngôn ngữ giao tiếp. Các hợp đồng đựoc viết bằng tiếng Anh. Chính vì
vậy đòi hỏi các nhà quản lý DNVN có một trình độ ngoại ngữ giao tiếp tốt.
Thứ năm, hệ thống ngân hàng của VN còn chưa mạnh biểu hiện là khả
năng thanh toán và khả năng về vốn cho vay còn chậm và thấp, chưa đủ uy tín
22
để làm trung gian giao dịch, điều đó cản trở sự thanh toán nhanh trong giao
dịch XNK.
Thứ sáu, hệ thống thông tin và các trung tâm phân tích thông tin về sự
biến động của thị trường ở VN rất yếu và gần như không có. Các doanh nghiệp
XK sẽ luôn bị động trước những biến động của thị trường,điều đó thật sự nguy
hiểm cho các doanh nghiệp xuất khẩu VN.
Thứ bẩy, thủ tục hải quan VN bị đánh giá là quá phức tạp và yếu kém
trong bộ máy quản lý với rất nhiều giấy tờ và thủ tục. Các doanh nghiệp xuất
khẩu nói chung và với các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép nói riêng luôn
phải chờ đợi tốn nhiều thời gian. Mặt khác còn phải trả cho những chi phí lưu
kho và bảo quản, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ khó khăn trong việc thực hiện
điều kiên đúng thời hạn trong hợp đồng và nhiều rủi ro khác.
Thứ tám, phương tiên vận tải dung cho hoạt động XNK của VN rất ít và
thấp kém về kĩ thuật cũng như khả năng chuyên chở. Các doanh nghiệp xuất
khẩu thường phải thuê phương tiện nước ngoài với chi phí cao. Họ luôn bị
động về tìm kiếm phương cách vận chuyển.
Thứ chín, các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép VN phải nhập nguyên
liệu từ nước ngoài mà trong nước chưa có nguồn nguyên liệu thay thế. Điều đó
đồng nghĩa với việc các DN giày dép VN chỉ tập trung chủ yếu là làm gia công
cho đối tác. Lợi nhuận thu về từ gia công nhỏ hơn rất nhiều so với tự sản xuất.
III. Thực trạng hoạt động XK hàng giày dép VN vào EU thời gian qua
1. Kết quả xuất khẩu giầy dép Việt Nam vào thị trường EU.
1.1. Kim ngạch xuất khẩu
Biến động chính trị ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu năm 1991 đã
làm cho các doanh nghiệp sản xuất hàng giầy dép của Việt Nam mất đi thị
trường truyền thống, ổn định trong nhiều năm trước đó. Điều đó tạo ra những
khó khăn nhất thời nhưng mặt khác nó cũng thúc đẩy các doanh nghiệp sản
23
xuất giầy dép Việt Nam tự vươn lên bằng nội lực để khẳng định mình. Trong
giai đoạn từ 1992 đến nay, các doanh nghiệp sản xuất giầy dép Việt Nam đã có
những tiến bộ vượt bậc. Từ giai đoạn 1992-1994 tuy Việt Nam chưa ký Hiệp
định thương mại với EU song hàng giầy dép Việt Nam đã xuất khẩu được một
lượng khá lớn vào thị trường châu Âu.
Nhìn vào bảng 4 (Trang sau) ta có thể thấy kim ngạch xuất khẩu hàng
giầy dép Việt Nam vào thị trường EU từ khi nước ta mở của đến nay ngày
càng tăng (tuy có hơi giảm vào những năm gần đây). Năm 1992, khi nước ta
mới mở cửa, kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào EU mới chỉ đạt
26 triệu USD thì chỉ một năm sau, con số đấy đã là 119 triệu USD, tăng
357,7%. Và đến năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đã đạt tới con số 481,1 triệu
USD, tăng 18,5 lần so với năm 1992.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang thị
trường châu Âu.
STT
Năm
Giá trị xuất khẩu
(Tr.USD)
Tốc độ tăng
(%)
1 1992 26
2 1993 119 3.577
3 1994 271 1.277
4 1995 481,3 0.776
5 1996 664,6 0.381
6 1997 1032,3 0.553
7 1998 1043,1 0.01
8 1999 1310,5 0.256
9 2000 1153,7 -0.12
10 2001 1072,4 -0.07
Nguồn: số liệu tổng hợp từ Xuất khẩu nước-Mặt hàng chủ yếu
-Tổng cục hải quan-
24
Những năm gần đây (2000-2001), tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng
giầy dép Việt Nam vào EU tăng trưởng âm (năm 2000 tốc độ tăng trưởng là -
12% so với năm 1999 và năm 2001 tốc độ tăng trưởng là -7% so với năm
2000), nguyên nhân chủ yếu là do sự quan trở lại của các nước châu Á vốn
trước đây bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra ở châu Á.
Những nước này vốn đã có công nghệ sản xuất giầy dép tốt hơn Việt Nam, nay
giá công nhân trong nước lại giảm nên họ có lợi thế về giá. Ngoài ra còn một
nguyên nhân quan trọng nữa là việc Trung Quốc mới gia nhập WTO. Thông
26
119
271
481.3
664.6
1032.31043.1
1310.5
1153.7
1072.4
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
T
r.
U
SD
19
92
19
93
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
BiÓu 1:Kim ng¹ch xuÊt khÈu hµng gi©y dÐp Viªt
Nam sang EU
Gi¸ trÞ
25
thường khi một quốc gia chuẩn bị gia nhập WTO thì quốc gia đó sẽ thúc đẩy
các hoạt động xuất khẩu của mình để tạo
Nếu như thời kỳ 1991-1993, xuất khẩu giầy dép đứng hàng thứ 10 trong
số các mặt hàng xuất khẩu thì đến năm 1994 giầy dép đã vươn lên hàng thứ 6
và hiện nay giầy dép đứng hàng thứ 3 trong số những mặt hàng xuất khẩu chỉ
sau dầu khí và dệt may.
1.2. Các nước nhập khẩu chính hàng giầy dép của Việt Nam trong EU.
Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan có định mức
thuế quan chung cho tất cả các nước thành viên. EU được đánh giá là thị
trường khá tương đồng về nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng.. Với hơn 377,3 triệu
dân, thị trường EU thực sự là thị trường lý tưởng cho sản phẩm tiêu dùng nói
chung và sản phẩm giầy dép nói riêng.
`Bảng 5: Các nước nhập khẩu hàng giầy dép Việt Nam trong EU.
Đơn vị: USD
STT Nước 1999 2000 2001
1 Ailen 12.577.122 11.662.069 9.899.703
2 Anh 279.064.573 254.485.338 254.201.518
3 Áo 4.942.624 2.619.052 5.837.782
4 Bỉ 161.452.626 146.440.850 158.386.498
5 Đan Mạch 9.956.453 9.868.052 11.095.097
6 Đức 230.969.295 192.302.583 214.019.716
7 Hà Lan 174.068.328 125.567.143 157.364.056
8 Hi Lạp 6.387.468 1.782.383 9.610.457
9 Lúcxămbua 6.5267 66.783 22.061
10 Italia 7.307.041 8.453.525 4.498.491
11 Phần Lan 8.746.482 7.433.322 6.916.388
12 Pháp 190.567.362 132.718.615 166.343.582
13 Tây Ba Nha 80.345.422 76.882.504 44.652.055
14 Thuỵ Điển 38.345.345 36.560.315 21.900.965
15 Thuỵ sĩ 7.734.573 6.373.243 7.677.178
Tổng 1.310.529.981 1.153.215.777 1.072.425.547
26
Nguồn: Xuất khẩu nước-Mặt hàng chính-Tổng cục hải quan.
Từ số liệu bảng 2 cho thấy các nước Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan, Pháp là
những quốc gia trong EU nhập khẩu một lượng lớn hàng giầy dép của các
doanh nghiệp Việt Nam. Trong đó Anh luôn là nước đứng đầu trong các nước
EU về nhập khẩu hàng giầy dép của các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2000,
kim ngạch nhập khẩu của Anh là 194.48 triệu USD thì đến năm 2001 là 234.2
triệu USD, tăng 30.7% tiếp theo là các nước Đức, Pháp, Hà Lan. Như vậy,
hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU thực chất là chỉ mới thâm nhập chủ
yếu vào các nước lớn. Nguyên nhân một phần là do tập quán thị hiếu của
người dân, một phần do có mối quan hệ hợp tác hữu nghị từ lâu. Đối với Đức,
trước đây Đông Đức đã từng biết tới sản phẩm giầy dép Việt Nam với hàng
ngàn người Việt Nam đang làm việc hiện nay tại Đức đã thúc đẩy mạnh mẽ
quan hệ thương mại giữa hai nước. Đối với Pháp, Việt Nam là thành viên của
cộng đồng Pháp ngữ nên có nhiều hiểu biết về văn hoá cũng như thị hiếu tiêu
dùng của nhau.
Biểu 3: Tỷ trọng các nước nhập khẩu giầy dép Việt Nam trong EU.
(Minh hoạ bảng trên)
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Nếu trong giai đoạn 1986-1991, hình thức xuất khẩu chủ yếu của các
doanh nghiệp Việt Nam là hình thức xuất khẩu để thực hiện nghị định thư về
Anh
24% BØ
14%
§øc
20%Hµ Lan
12%
Ph¸p
15%
C¸c níc kh¸c
15%
27
400
600
800
1000
T
ri
Öu
U
SD
XuÊt khÈu trùc tiÕp
Gia c«ng xuÊt khÈu
trao đổi hàng hoá và trả nợ các nước hay gia công mũ giầy cho Liên Xô (cũ)
và các nước Đông Âu thì từ năm 1992 đến nay, hình thức xuất khẩu chủ yếu là
gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp. Các đối tác của hình thức gia công
xuất khẩu là Hàn Quốc, Đài Loan. Hàng giầy dép được sản xuất ở Việt Nam
sau đó được xuất sang các nước này để đóng nhãn mác, từ đó đi vào các thị
trường tiêu dùng trong EU. Đối với hình thức xuất khẩu trực tiếp, hình thức
này được thực hiên dựa trên các đơn đặt hàng của các nước thuộc Liên minh
châu Âu như : Đức, Anh, Pháp, Italia... Trong những năm gần đây, các doanh
nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu Việt Nam đã có cố gắng trong vệc tìm
kiếm và mở rộng thị trường EU để thúc đẩy xuất khẩu bằng hình thức trực tiếp.
Bởi hình thức xuất khẩu trực tiếp không chỉ nâng cao giá trị hàng xuất khẩu
của doanh nghiệp so với gia công mà còn tạo điều kiện tiếp cận nhu cầu thị
trường, thị hiếu của người tiêu dùng EU.
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam
vào thị trường EU theo hình thức xuất khẩu.
Đơn vị:Nghìn USD
Hình thức
xuất khẩu
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Gia công
xuất khẩu
360.975 485.158 745.320 752.075 942.249 819.127 754.969
Xuất khẩu
trực tiếp
120.325 179.442 286.979 291.024 368.250 334.573 317.434
Tổng 481.300 664.600 1.032.299 1.043.099 1.310.499 1.280.573 1.072.403
Nguồn: số liệu tổng hợp từ các báo cáo về Xuất khẩu nước-Mặt hàng chủ yếu
qua các năm-Tổng cục Hải quan.
Biểu đồ 1: Hình thức xuất khẩu vào thị trường EU
( Minh họa số liệu bảng trên)
28
Số liệu từ bảng 2 và biểu đồ cho thấy, kim nghạch xuất khẩu trực tiếp
của các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu ngày càng tăng. Tuy giai
đoạn 2000-2001 có giảm xuống một chút, nhưng so bình quân cả thời kỳ thì
vẫn tăng. Nếu năm 1995 chỉ đạt 120.325 Tr.USD thì đến năm 2001 là
317.4304 Tr.USD tăng 197.1054. Trong khi đó hình thức gia công vẫn chiếm
tỷ trọng lớn ( Trên 70% ) trong kim ngạch xuất khẩu giầy dép của các doanh
nghiệp Việt Nam vào thị trường EU.
3. Cơ cấu mặt hàng giầy dép xuất khẩu sang EU.
Hàng giầy dép xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường
EU chủ yếu là: giầy vải, giầy thể thao, giầy dép nữ cao cấp, giầy da trong đó
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch là giầy vải.
Bảng 7: cơ cấu hàng giầy dép xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU.
Đơn vị : 1000 đôi
Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu 1999 2000 2001
Giầy vảI 40645 40092 26684
Giầy nữ 3547 5415 6745
Giầy thể thao 6315 9853 11724
29
Dép đi trong nhà 2341 2474 2395
Giầy da 1024 1909 2336
Nguồn: Báo cáo của Bộ thương mại.
30
Bảng 8: Giá xuất khẩu trung bình giầy dép Việt Nam sang EU.
đơn vị: USD/đôi FOB
1994 1997 2001
Giầy thể thao 6.8 7.8 8.25
Giầy nữ 4.0 4.5 4.72
Giầy vải 2.7 3.5 3.8
Nguồn : Trung tâm thương mại thông tin-Bộ thương mại.
Số liệu từ bảng trên cho thấy, năm 1997 giá hàng giầy dép Việt Nam
xuất khẩu sang EU có tốc dộ tăng trưởng khá cao trong đó tốc độ tăng giá cao
nhất là giầy vải , đạt 9.14%/năm; giầy thể thao 4.77%, giầy nữ 4.9%; so với
năm 1994. Nhưng đến năm 2001, xu hướng dùng giầy vải đang giảm xuống
giầy vải tăng 9,01%, giầy thể thao và giầy nữ cao cấp tăng (Giầy thể thao:
5,7%; giầy nữ: 5,2% Nhưng sản phẩm giầy vải có giá trị xuất khẩu thấp hơn
so với giầy nữ và giầy thể thao. Điều đó chứng tỏ thị trường EU đã bão hoà với
sản phẩm giầy vải, sản phẩm được ưu chuộng trên thị trương EU là giầy thể
thao, giầy da, giầy nữ cao cấp.
III. Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam
vào thị trường EU trong thời gian qua.
1. Thành tựu.
Hoạt động tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu của các doanh
nghiệp sản xuất hàng giầy dép Việt Nam xuất khẩu trong thời gian qua đã có
nhiều tiến bộ so với trước. Các doanh nghiệp sản xuất giầy dép đã chủ động
tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế về hàng tiêu dùng được tổ chức hàng
năm ở các nước EU để tiếp cận với người tiêu dùng, giới thiệu sản phẩm và
tìm đối tác kinh doanh. Các doanh nghiệp cũng rất tích cực tham gia các đoàn
31
khảo sát thị trường EU do nhà nước hoặc thành phố tổ nơi doanh nghiệp đặt trụ
sở tổ chức, đặc biệt là ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua các
tham tán thương mại Việt Nam tại các nước trong Liên minh châu Âu để tìm
kiếm thị trường xuất khẩu, tìm hiểu đối tác...
Cơ cấu sản phẩm giầy dép xuất khẩu đã khá đa dạng. Bên cạnh sản
phẩm giầy vải truyền thống, các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu
cũng đã có sự đầu tư vào thiết bị công nghệ sản xuất các chủng loại giầy dép
mới như: giầy thể thao, giầy nữ xuất khẩu, giầy da và các sản phẩm khác... Tuy
nhiên, tỷ trọng các sản phẩm này trong sản phẩm giầy dép xuất khẩu còn thấp
so với giầy vải. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp đã từ bước đa dạng hoá
sản phẩm xuất khẩu của mình để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thị trường EU,
khai khác triệt để nguồn nguyên liệu trong nước. Nguyên nhân chủ yếu là các
doanh nghiệp sản xuất giầy dép đã thấy nhu cầu tiêu thụ của thị trường EU đối
với sản phẩm : giày thể thao, giầy nữ, giầy dự án... ngày càng tăng không
những thế giá nhập khẩu còn cao hơn sản phẩm giầy vải. Ngoài ra sản phẩm
giầy thể thao và giầy nữu xuất khẩu có thời gian chuyển vụ dài hơn tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp có thể sản xuất liên tục.
Hình thức xuất khẩu chủ yếu mà các doanh nghiệp sản xuất giầy dép
Việt Nam đang áp dụng là hình thức gia công xuất khẩu. Tuy hình thức này có
những hạn chế nhất định nhưng lại là phương thức phù hợp với giai đoạn đầu
của quá trình hình thành và phát triển của ngành công nghiệp giầy dép mà
nhiều nước đang phát triển đã áp dụng thành công. Bởi vì hầu hết các doanh
nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu hiện nay đang trong tình trạng hạn chế về
vốn, về sáng tác phát triển mẫu mốt và về quản lý để thâm nhập trực tiếp vào
thị trường nhập khẩu. Hình thức gia công xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh
nghiệp nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, học hỏi kinh nghiệm
quản lý, từng bước tiếp cận với thị trường nước ngoài.
32
2. Tồn tại.
Có thể nói, bên cạnh những ưu điểm trên, công tác mở rộng thị trường
còn hạn chế, trên nhiều thị trường, mối quan hệ với bạn hàng còn lỏng lẻo,
hoạt động xuất khẩu nhiều lúc còn mang tính bị động, thiếu định hướng, nhiều
khi khách hàng tìm đến các doanh nghiệp chứ không phải các doanh nghiệp
tìm đến khách hàng. Một số thị trường mặc dù đã thâm nhập được nhưng còn
nhiều bấp bênh. Trong một thời gian dài , việc mở rộng thị trường chưa được
đề cao một cách đúng mức. Hoạt động nghiên cứu thị trường diễn ra lẻ tẻ, chưa
cập nhật đầy đủ thông tin về sự biến động của thị trường thế giới, có những
biến động lớn thì vẫn chậm đưa ra những giải pháp đối phó.
Ngoài ra sức cạnh tranh của hàng giầy dép còn yếu trên thị trường quốc
tế. Mới chỉ có một số doanh nghiệp được đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại
(công ty giày Thăng Long, Giầy Phú Lâm...) còn rất nhiều doanh nghiệp vẫn
còn sử dụng các trang thiết bị lạc hậu, cũ kỹ do đó chất lượng, mẫu mã sản
phẩm còn thua kém nhiều so với một số hàng giầy dép của một số nước khác
như Thái Lan, Trung Quốc...
3. Nguyên nhân của các tồn tại.
3.1. Nguyên nhân chủ quan.
Thứ nhất là: Mặc dù sản phẩm giầy dép là một trong những mặt hàng
xuất khẩu chủ lực và đạt doanh thu lớn, song các doanh nghiệp sản xuất giầy
dép xuất khẩu lại chưa chú ý đúng mức đến vai trò của công tác nghiên cứu và
dự đoán thị trường. Chưa xác định đúng vai trò và chức năng của hoạt động
nghiên cứu thị trường. Từ đó việc tổ chức, xác định mục tiêu nghiên cứu cho
hoạt động này chưa phù hợp, chưa đem lại thông tin cần thiết cho việc hoạch
định các chiến lược và các chính sách phát triển của các doanh nghiệp . Kinh
phí cho hoạt động này còn eo hẹp, vì vậy các thông tin thu thập được về thị
33
trường chưa nhiều, chưa có độ tin cậy cao để đáp ứng cho việc hoạch định
chiến lược và các chính sách phát triển thị trường.
Thứ hai là: Các doanh nghiệp chưa xây dựng được một chiến lược mở
rộng thị trường cụ thể và hợp lý, các hoạt động xuất khẩu còn nhiều bị động,
việc so sánh và lựa chọn thị trường nước ngoài chưa tốt, các thông tin thu thập
được còn thiếu chính xác. Do vậy chưa đưa ra được các chính sách mở rộng và
thâm nhập thị trường hợp lý.
Thứ ba là: Chưa tạo lập được một mạng lưới phân phối tốt trên các thị
trường nước ngoài. Việc lập các cửa hàng đại lý và văn phòng đại diện ở nước
ngoài còn rất hạn chế. Việc xuất khẩu chủ yếu là thông qua đơn đặt hàng của
các đối tác nước ngoài.
Thứ tư là: Các doanh nghiệp chủ yếu làm gia công cho phía nước ngoài
nên giá thành xuất khẩu bị giảm nhiều, thị trường xuất khẩu không ổn định, bị
ép giá, không trực tiếp tiếp xúc với thị trường. Nhiều doanh nghiệp vẫn cho
rằng làm gia công thì an toàn, ít rủi ro, không sợ bị phá sản, do đó chưa chủ
động chuyển sang các hoạt động xuất khẩu mang tính thương mại. Thị trường
xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào Quota và hạn ngạch được cấp từ phía Nhà
nước.
Thứ năm là: Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam chưa
tạo lập được một hệ thống nhãn mác có uy tín trên thị trường thế giới. Nhãn
mác các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu được gắn nhãn các hãng nổi tiếng nước
ngoài như NIKE, ADIDAS do vậy thực tế hàng giầy dép Việt Nam không
được người tiêu dùng quốc tế biết đến. Điều này cũng một phần là do hàng của
ta chủ yếu làm theo hình thức gia công hoặc xuất sang các nước khác được gắn
mác mới rồi mới được tái xuất khẩu đi. Mặt khác, cũng còn nhiều doanh
nghiệp chưa tự tin, mạnh dạn trong việc sử dụng nhãn mác riêng cho sản phẩm
của mình mặc dù chất lượng không thua kém hàng ngoại.
34
3.2. Nguyên nhân khách quan.
Thứ nhất: Bảo hộ mậu dịch của các nước và các khu vực thị trường đối
với sản phẩm giầy dép rất mạnh. Các yêu cầu về xuất xứ hàng hoá để được
hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập rất khắt khe. Mặt khác, hàng Việt Nam
phải chịu sự cạnh trang rất khốc liệt từ các đối thủ cạnh tranh khác, như Trung
Quốc, Thái Lan...
Thứ hai: Việc nhà nước áp dụng một lúc ba loại thuế mới: thuế giá trị
gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu từ năm 1999 đã gây
không ít biến đổi trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là
vấn đề khấu trừ thuế đối với hàng xuất khẩu gặp phải nhiều thủ tục rườm rà,
gây chậm trễ ứ đọng vốn không đáng có, làm hiệu quả kinh doanh chung bị
suy giảm.
Thứ ba: Môi trường pháp lý và thủ tục hành chính của nước ta rườm rà,
thiếu linh hoạt, trong đó thủ tục hải quan là một trong những khâu còn nhiều
vướng mắc, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động mở rộng thị trường của các
doanh nghiệp. Những tồn tại về hải quan chủ yếu xoay quanh việc áp giá, áp
mã để tính thuế và thủ tục thông quan, giải phóng hàng hoá. Từ sau cuộc tiếp
xúc của Thủ tướng Chính phủ với các giám đốc doanh nghiệp đầu năm 1998,
những vướng mắc này đang được tháo gỡ và bước đầu đã có kết quả tốt trong
việc là thủ tục thông quan hàng hoá, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản
xuất giầy dép giao hàng nhanh chóng và đúng hạn- một trong những yêu cầu
chặt chẽ của đối tác nước ngoài.
Thứ tư: Tình trạng thiếu nguyên liệu trong nước phục vụ cho sản xuất
giầy dép. Trong nhưng năm qua, chúng ta mới chỉ chú trọng đến việc đầu tư
vào việc phát triển cơ sở sản xuất giầy dép chứ chưa chú trọng đến việc đầu tư
vào các cơ sơ sản xuất nguyên, phụ liệu. Do vậy cúng ta bị lệ thuộc quá nhiều
vào việc cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu, phụ tùng, thiết bị máy móc từ
nước ngoài.
35
Thứ năm Do nước ta mới mở của, do vậy mức tiếp cận với các thị
trường nước ngoài còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thị trường EU. Nhiều doanh
nghiệp còn thiếu kinh nghiệp trong việc mở rộng và thâm nhập thị trường nước
ngoài. Do đó tốc độ mở rộng thị trường còn chậm và kém hiệu quả.
Thứ sáu : Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công ty trong toàn
ngành nhằm tranh thủ năng lực thiết bị của nhau, đặc biệt là giữa các công ty
thuộc Tổng công ty giầu dép Việt Nam. Vẫn còn tình trạng cạnh tranh nội bộ,
thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích cá nhân. mặt khác, các doanh nghiệp chưa
chủ động trong việc tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất, đa số nguồn nguyên
liệu vẫn phải nhập.
Thứ bảy: Thị trường EU rất phức tạp bởi vì đây là một thị trường hỗn
hợp gồm rất nhiều quốc gia với những đặc điểm riêng biệt. Sự phức tạp trong
nghiên cứu thị hiếu và sở thích, nền văn hoá riêng sẽ cản trở các doanh nghiệp
muốn thâm nhập thị trường này. Mặt khác, thị trường EU với một rào cản kĩ
thuật và chất lượng cao cùng với thị hiếu thay đổi nhanh sẽ là nguyên nhân gây
khó khăn chính đối với các doanh nghiệp xuất khẩu VN.
36
Chương III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ VIỆT NAM
VÀO THỊ TRƯỜNG EU
I. Định hướng và những quan điểm xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam
vào thị trường EU.
Trong chiến lược phát triển đến năm 2010, ngành giầy dép đã xác định
mục tiêu “hướng ra xuất khẩu” để thu hút ngoại tệ, tự cân đối các điều kiện để
sản xuất và phát triển. Với mục tiêu đó, ngành giầy dép đã có những quan
điểm của mình trong việc tăng cường khả năng xuất khẩu sang EU trong
những năm tới như sau:
Quan điểm hướng ra xuất khẩu và chuyển từ gia công sang mua nguyên vật
liệu, bán thành phẩm nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả, tăng nhanh tích uỹ,
nâng cao chất lượng và đa dạng hoá những mặt hàng xuất khẩu.
Ưu tiên phát triển những cơ sở sản xuất nguyên liệu phụ, hoá chất phục vụ
cho ngành nhằm tiết kiệm ngoại tệ, hạn chế sự phụ thuộc và tạo thế chủ động
trong sản xuất kinh doanh.
Coi trọng thị trường nội địa, khai thác tối đa năng lực để nhằm khai thác
nhu cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế.
Chú trọng khâu thiết kế và triển khai những mẫu mã đẹp,mới đáp ững yêu
cầu ngày càng tăng của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành
nghề để đảm bảo sự tiếp thu nhanh chóng chuyển giao công nghệ, phấn đấu
làm chủ trong sản xuất và không phụ thuộc vào đối tác nước ngoài.
Chú trọng đầu tư chiều sâu để đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, bổ sung
các thiết bị lẻ, thay thế những thiết bị lạc hậu, đổi mới công nghệ làm tăng sản
37
lượng, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và
hạn chế ô nhiễm môi trường.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG
GIẦY DÉP VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU.
1. Giải pháp về phía nhà nước.
1.1 Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường thương mại.
a) Chính sách đầu tư.
Đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết,
hợp tác và khai khác tốt hơn năng lực thiết bị. Khuyến khích đầu tư nước
ngoài, nhất là cho việc sản xuất các sản phẩm giầy dép cao cấp đòi hỏi vốn đầu
tư lớn.
Nâng cao và cải thiện môi trường đầu tư. Xoá bỏ sự phân biệt giữa đầu tư
trong nước và nước ngoài đồng thời giảm bớt thủ tục nhanh chóng cấp giấy
phép đầu tư. Khuyến khích đầu tư công nghệ cao và công nghệ sạch.
Cải thiện môi trương thương mại phải bắt đầu từ cải cách các thủ tục
hành chính, nhất là các thủ tục hải quan, áp dụng công nghệ thông tin vào kê
khai và tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu. Đồng thời, nâng cấp cơ sở hạ tầng
cũng là biện pháp thu hút vốn đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
xuất nhập khẩu. Cải thiện môi trường thương mại là giải pháp hết sức cơ bản
nhưng lại mang tính tổng hợp cao độ. Vì vậy cần có sự phối hợp của Chính
phủ, các Bộ, ngành chức năng và các định chế xã hội, văn hoá.
b) chính sách thuế:
Với vai trò là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của đất nước
cùng với những đặc điểm riêng của ngành như nghành phải nhập khẩu phần
lớn nguyên liệu phụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, chủ yếu là gia công hàng
giầy dép xuất khẩu chính phủ nên có những chính sách ưu đãi về thuế:
38
Áp dụng thuế suất 0% đối với nguyên liệu chính nhập khẩu như da thuộc và
áp dụng thuế suất ưu đãi cho các nguyên liệu phụ khác.
Xây dựng mức thuế nhập khẩu chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu.
Xoá bỏ tình trạng một loại nguyên liệu với các thông số kỹ thuật khác nhau,
định mức tiêu hao cùng nhiều chức năng khác nhau được áp dụng cho cùng
một thuế suất. điều này gây nhiều thiệt thòi cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp giầy dép sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn thuế lợi
tức với phần đầu tư đó.
1.2 Tổ chức tốt hệ thống thông tin.
Thông tin là yếu tố vô cùng quan trọng, đặc biệt với hoạt động xuất
khẩu. Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh hàng giầy dép Việt Nam vào thị
trường EU không thể không quan tâm đến vấn đề thông tin.
Thông tin phải đảm bảo các nguyên tắc:
- Chính xác, rõ ràng.
- Thường xuyên, đầy đủ và thống nhất về tiêu chí.
- Phù hợp thông lệ quốc tế.
Phải tổ chức trung tâm thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất
khẩu của các doanh nghiệp giầy dép để có các biện pháp kịp thời như điều
chỉnh cơ cấu, cân đối giữa các mặt hàng, giữa các yếu tố sản xuất, để tạo nên
sự đồng bộ trong sản xuất kinh doanh và tận dụng tối đa khả năng sản xuất và
những cơ hội có được.
Về nội dung thông tin:
39
Để đảm bảo tính đầy đủ và chính xác, thông tin cần nêu lên được các vấn
đề: Thông tin về thị trường thể hiện qua nhu cầu của thị trường (tập quán, thị
hiếu tiêu dùng), khả năng sản xuất , khả năng tiêu thụ của thị trường , các đòi
hỏi về chất lượng , tập quán thương mại quốc tế của thị trường.
- Thông tin về sản xuất trong nước.
- Thông tin về tình hình xuất khẩu và khả năng xuất khẩu của từng doanh
nghiệp và của toàn ngành.
- Thông tin về các đối thủ cạnh tranh.
- Thông tin về các yếu tó ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu hàng giầy
dép thế giới như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, sự tăng
trưởng giảm tỷ giá hối đoái.
Chính phủ nên nhanh chóng thành lập cục xúc tiến thương mại, nơi
chuyên cung cấp thông tin về thị trường thế giới, trong đó có thị trường EU.
Cơ quan này sẽ đóng vai trò cung cấp thông tin môi giới thương mại cho cả hai
bên.
1.3 Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU.
Hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang EU là công việc chính của doanh
nghiệp, nhưng tại thời điểm này là do có những hạn chế nhất định nên rất cần
sự trợ giúp của Nhà nước.
Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp và hàng giầy dép Việt Nam thâm nhập
dẽ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU, nhà nước nên thực hiện
một số hoạt động trợ giúp sau:
- Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc
đàm phán, ký kết các Hiệp định, thoả thuận thương mại song phương, đa
phương nhằm tạo ra các tiền đề, hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất
khẩu.
40
- Nhà nước Việt Nam cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia
hộ chợ, triển lãm hoặc hội thảo chuyên đề thị trường, giúp các doanh nghiệp
trực tiếp tiếp cận thị trường, trực tiếp tiếp cận thị trường, trực tiếp tìm hiểu nhu
cầu thị hiếu của thị trường và trực tiếp giao dịch với các nhà nhập khẩu chính
của thị trường EU.
1.4. Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng giầy dép của
Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả
xuất khẩu không cao; vì thế để đẩy mạnh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu
quả xuất khẩu sang thị trường này, nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp
về vốn thông qua hệ thống ngân hàng.
2. Giải pháp về phía doanh nghiệp.
2.1 Đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất
khẩu sang thị trường EU.
Để làm chủ nguồn nguyên liệu, chủ động trong sản xuất kinh doanh,
từng bước chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp, các doanh
nghiệp giầy dép Việt Nam phải chú trọng đến đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị
công nghệ, thay thế các máy móc thiết bị lạc hậu để nâng cao năng lực sản
xuất và chất lượng sản phẩm.
2.2 Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào các kênh
phân phối trên thị trường EU.
Có rất nhiều phương thức để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm
nhập vào thị trường EU, như : xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu trực tiếp,
liên doanh, đầu tư trực tiếp. Mỗi phương thức thâm nhập thị trường trên đây có
những ưu thế và hạn chế riêng.
Xuất khẩu qua khâu trung gian là con đường mà phần lớn các doanh
nghiệp Việt Nam đã áp dụng để thâm nhập thị trường EU ở thời kỳ ban đầu,
41
mới khai phá thị trường này. khi đó, thị trường EU còn rất mới mẻ và bỡ ngỡ
đối với các doanh nghiệp Việt Nam, hơn nữa lại thiếu kinh nghiệm về thương
trường nên không thiết lập được quan hệ bạn hàng trực tiêp với các nước EU.
Do vậy, các doanh nghiệp đã xuất khẩu sang EU qua các bạn hàng trung gian
mà chủ yếu là qua các nước Châu á.
2.3 Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU (thúc đẩy
hoạt động marketing).
Việt Nam chỉ mới chiếm một thị phần nhỏ trên thị trường này. hàng giầy
dép Việt Nam cho đến nay vẫn chưa thâm nhập trực tiếp được nhiều vào thị
trường này, ngoài nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh của hàng Việt Nam
chưa cao phải kể đến nguyên nhân quan trọng là công tác xúc tiến xuất khẩu
của ta còn yếu, chưa hỗ trợ được nhiều cho việc đưa hàng hoá thâm nhập và
chiếm lĩnh thị trường EU.
Do vậy ngoài việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành snr phẩm, các
doanh nghiệp giầy dép cần phải chú ý đến năng lực tiếp thị , tích cực mở rộng
hoạt động xúc tiến sang thị trường EU:
- chủ động tìm kiếm đối tác chào hàng thông qua cac Hội chợ, triển lãm và
các hội thảo chuyên đề.
- Tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU trực tiếp hoặc thông qua phòng
thương mại Eu tại Việt Nam, phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam,
Cục xúc tiến thương mại-Bộ thương mại, Tham tán thương mại tại các nước
EU để biết được các chính sách kinh tế thương mại của EU, nhu cầu và thj
hiếu tiêu dùng của thị trường, biến động cung cầu của thị trường…
- Các doanh nghiệp Việt Nam phải ứng dụng các nghiệp vụ Marketing để
phát hiện những biến đổi về thị hiếu nhu cầu tiêu dùng, tăng cường đầu tư cho
các mặt hàng đem lại lợi nhuận cao. Tổ chức tốt các dịch vụ trước và sau khi
42
bán hàng để duy trì và củng cổ uy tín của hàng giầy dép Việt Nam với người
tiêu dùng trong Liên minh.
43
2.4 Bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực.
Trong ngành giầy dép yếu tố lao động đóng góp quan trọng vào giá trị
sản phẩm. Do đó việc đào tạo nâng cao năng lực cán bộ công nhân là việc làm
rất cần thiết. Công tác đào tạo đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa nhà nước và
doanh nghiệp. nâng cao năng lực cán bộ công nhân phải bắt đầu tư nâng cao
năng lực chuyên môn:
- Đào tạo đội ngũ công nhân thông thạo về kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm
nâng cao năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật để tạo ra được những
sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng tốt thị hiếu của người tiêu dùng. Đồng
thời nâng cao năng lực của cán bộ thương mại để đưa sản phẩm đến với người
tiêu dùng EU.
- Đào tạo đội ngũ chuyên về thiết kế, tạo mẫu thời trang cho phù hợp với
thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của EU, đồng thời tạo nét đặc sắc riêng cho hàng
giầy dép Việt Nam để từ đó hàng giầy dép Việt Nam tìm được chỗ đứng cho
mình trên thị trường EU.
- Tổ chức lớp huấn luyện, đào tạo nhằm nâng cao kiến thức kinh doanh
và trình độ quản lý cho các cán bộ quản lý và chỉ đạo kinh doanh của doanh
nghiệp. Mở các lớp thuyết trình các thông tin mới nhất về chính sách, chế độ,
các thể lệ kinh doanh thương mại cũng như các nghiệp vụ xuất nhập khẩu như
Marketing, vận tải, bao bì thanh toán ... tổ chức các buổi hội thảo để trao đổi
học hỏi kinh nghiệp đối với các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam với nhau và
với giới kinh doanh EU.
2.5 Đẩy mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn ISO để đáp ứng được các tiêu
chuẩn kỹ thuật của EU.
Đối với mỗi tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng ISO
9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
44
khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển ISO 9000 do tổ chức
tiêu chuẩn quốc tế đặt ra nhằm giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản
lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng xuất và chất lượng sản phẩm, giảm
lãng phí và tỷ lệ phế phẩm để duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng
đồng nhất phù hợp với giá thành. Do đó đối với doanh nghiệp áp dụng hệ
thông quản lý chất lượng ISO 9000, người tiêu dùng có thể yên tâm hơn với
chất lượng sản phẩm. Nói cách khác ISO 9000 có thể coi như một “ngôn ngữ”
để xác định chữ tín giữa người sản xuất với người tiêu dùng, giữa các nghề với
nhau, là con đường hội nhập khi các nhà sản xuất thâm nhập vào các khu vực
mậu dịch và là sự khẳng định của nhà sản xuất cung ứng các sản phẩm có chất
lượng tin cậy. Thực tế cho thấy ở các nước Châu á và Việt Nam, hàng của các
doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập thị trường EU dễ dàng
hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này.
KẾT LUẬN
Ngành công nghiệp giầy dép được khẳng định là một thế mạnh trong sự
phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt với những nước đang phátn triển
và đang ở giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá như Việt Nam. Ngành
giầy dép Việt Nam trong những năm qua luôn đóng góp một phần đáng kể
trong kim ngạch xuất khẩu và là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam là nhiệm vụ qun trọng để
thực hiện chiến lược CNH-HĐH hướng về xuất khẩu của đất nước. Xu huớng
phát triển hàng giầy dép thế giới đã mở ra nhiều cơ hội cho ngành giầy dép
Việt Nam . Tuy nhiên, trong quá trình thâm nhập và tiếp cận thị trường thế
giới, đặc biệt là thị trường EU, ngành giầy dép Việt Nam đã và đang gặp phải
không ít khó khăn chủ quan và khách quan cản trỏ kim ngạch đạt tới mức tiềm
năng của ngành.
45
Trong giai đoạn tới, với những nỗ lực đẩy mạnh hoạt động sản xuất và
xuất khẩu của mình,ngành giầy dép Việt Nam nhất định sẽ tìm ra những giải
pháp tốt nhất để vượt qua mọi khó khăn thủ thách và đạt được mục tiêu pát
triển của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình thương mại quốc tế-Trường Đại học Kinh tế quốc dân-PGS.Ts
Nguyễn Duy Bột chủ biên.
2. Thời báo Kinh tế Việt Nam, thương mại, Thương nghiệp thị trường.
3. Tạp chí Nghiên cứu châu Âu các số năm 2000-2001.
4. Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu- Bộ Thương mại.
5. Một số bài viết về Tổng công ty Da-Giầy Việt Nam trong trang Wed của
thời báo kinh tế Việt Nam:
ệtNam/doanh_nghiep/nganh/da_giay 6.
Tạp chí Công nghiệp Da-Giầy Việt Nam (Hiệp hội - Da giầy Việt Nam ) năm
1999,2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61917_275.pdf