Khẩn trương xây dựng và ban hành Luật về XKLĐ để thống nhất các chế
tài điều chỉnh hoạt động XKLĐ. Các chế tài trong Luật phải đảm bảo được sự
nghiêm minh của pháp luật, đủ sức mạnh để răn đe, giáo dục các đối tượng vi phạm
pháp luật về hoạt động XKLĐ, nhưng cũng phải bảo đảm được quyền lợi của các
chủ thể tham gia, khuyến khích được doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và
người lao động tham gia hoạt động XKLĐ.
113 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3725 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chính trị về xuất khẩu lao động
và chuyên gia đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh đào tạo nghề, nhất là về kỹ thuật công nghệ
cao, ngoại ngữ, giáo dục ý thức kỷ luật và pháp luật cho lao động, đào tạo bồi
dưỡng nâng cao chất lượng bộ máy, cán bộ quản lý xuất khẩu lao động và chuyên
gia". Mục tiêu đào tạo nghề cho LĐXK là: đến năm 2010, nâng tỷ lệ LĐXK có
nghề lên tối thiểu 75%, trong đó lao động có trình độ trung cấp nghề trở lên chiếm
tỷ lệ tối thiểu 40%. Từ năm 2015, Việt Nam chủ yếu XKLĐ có nghề, lao động có
trình độ chuyên môn cao và chuyên gia; 100% LĐXK được đào tạo ngoại ngữ, giáo
dục định hướng về pháp luật, phong tục tập quán của nước tiếp nhận lao động, ý
thức kỷ luật, tôn trọng và bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc.
82
Để thực hiện được các chủ trương, của Đảng và Nhà nước cũng như mục
tiêu đã đặt ra, đồng thời để giải quyết những hạn chế khó khăn về nguồn LĐXK và
chất lượng LĐXK trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á
như đã phân tích ở chương 2, thì việc đầu tư cho giáo dục hướng nghiệp và đào tạo
dạy nghề cho người lao động là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay. Giải
quyết vấn đề này không những tạo ra được nguồn lao động dồi dào, có chất lượng
phục vụ cho XKLĐ, mà còn hình thành được một lực lượng lao động đủ điều kiện
đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ CNH-HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế. Các giải pháp về đào tạo, chuẩn bị nguồn LĐXK sang thị trường
khu vực Đông Bắc á là:
- Nhà nước cần tăng cường đầu tư tài chính hơn nữa cho công tác giáo dục
đào tạo, nhất là đào tạo nghề. Đưa công tác đào tạo LĐXK vào kế hoạch đào tạo
nghề của từng Bộ, Ngành, tỉnh, thành phố. Đầu tư xây dựng các trường, trung tâm giáo
dục hướng nghiệp, đào tạo dạy nghề, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, nông thôn,
miền núi. Đầu tư nâng cấp, trang bị các phương tiện kỹ thuật, thiết bị phục vụ việc
đào tạo dạy nghề cho người lao động phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế, KHCN
trong nước và quốc tế, phù hợp với nhu cầu sử dụng LĐNN của các nước NKLĐ,
khắc phục tình trạng thiếu các phương tiện kỹ thuật phục vụ giảng dạy, thí nghiệm
thực hành hoặc các phương tiện kỹ thuật lạc hậu không phù hợp với sự tiến bộ của
xã hội.
Nguồn vốn đầu tư được lấy từ ngân sách nhà nước dành cho giáo dục đào
tạo, từ Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động, vốn viện trợ và
ngân sách từ các chương trình, dự án về việc làm khác. Khuyến khích phát triển các
chương trình hoặc quỹ cộng đồng địa phương để hỗ trợ chi phí học nghề cho người
lao động đi XKLĐ.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo dạy nghề
Tập trung đầu tư, xây dựng các cơ sở chuyên đào tạo LĐXK hoặc thành lập
các bộ phận đào tạo LĐXK chuyên biệt ở các trường, trung tâm dạy nghề hiện nay
83
để phục vụ cho XKLĐ. Các trung tâm, cơ sở này phải trực thuộc sự quản lý và điều
hành của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để có điều kiện phối hợp thực hiện
các nhiệm vụ, chương trình, dự án khác về việc làm, xóa đói giảm nghèo,... đồng thời
cũng thống nhất với các văn bản pháp luật hiện hành. Nguồn vốn đầu tư trích một phần
kinh phí thích đáng từ nguồn thu nhập của người lao động đóng góp cho nhà nước, cho
doanh nghiệp và từ các nguồn vốn khác như ODA, vốn viện trợ của các tổ chức quốc
tế… Hệ thống các cơ sở được giao nhiệm vụ đào tạo LĐXK cần có phương án đầu
tư toàn diện để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn LĐXK phù hợp với nhu cầu sử dụng
LĐNN của các nước trong khu vực Đông Bắc á. Qua đó đảm bảo luôn có đủ nguồn lao
động có tay nghề cao sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của thị trường cũng như đối phó kịp
thời với những thay đổi về chính sách tiếp nhận LĐNN của các NKLĐ ở khu vực.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo,
các Bộ ngành hữu quan xây dựng các chương trình, kế hoạch đào tạo, giáo dục
hướng nghiệp của các cơ sở đào tạo LĐXK để thống nhất về nội dung giảng dạy,
chất lượng đào tạo và số lượng người được đào tạo theo nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia cũng như nhu cầu LĐNN của các nước NKLĐ khu vực Đông Bắc á.
Xây dựng và ban hành quy chế chặt chẽ về đào tạo, các quy chuẩn về chất lượng đào
tạo đối với các cơ sở đào tạo LĐXK, đồng thời thực hiện kiểm tra thường xuyên chất
lượng đào tạo của các cơ sở này để đảm bảo chất lượng nguồn LĐXK. Việc chuẩn
hóa chương trình giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề theo hướng đảm bảo cho
người lao động có đủ khả năng thích ứng nhanh được với công việc, tiếp cận được
với các tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với yêu cầu ở nước NKLĐ, giúp người lao
động dễ dàng được thừa nhận khi lao động ở nước ngoài, trong đó có các nước ở
khu vực Đông Bắc á.
Nghiên cứu tách chức năng đào tạo ra khỏi hoạt động kinh doanh XKLĐ. Chỉ
duy trì cơ sở đào tạo LĐXK đối với những doanh nghiệp XKLĐ có đủ điều kiện về
tài chính, cơ sở vật chất và nhân lực. Các cơ sở đào tạo của doanh nghiệp này sẽ do
doanh nghiệp trực tiếp quản lý về cơ sở vật chất, con người nhưng nội dung chương
trình giảng dạy, chất lượng đào tạo nghề và giáo dục hướng nghiệp phải tuân thủ
84
theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Nghiên cứu xem xét bỏ
quy định "phải có cơ sở đào tạo dạy nghề" đối với các doanh nghiệp XKLĐ không
có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính, đặc biệt là giáo viên giảng dạy, nhất ở
đối với các doanh nghiệp không chuyên doanh XKLĐ, tách việc đào tạo khỏi chức
năng của các doanh nghiệp này để họ tập trung vào chức năng kinh doanh XKLĐ
thuần túy như tìm kiếm đối tác, nghiên cứu và mở rộng thị trường, quản lý người
lao động… Quy định các doanh nghiệp XKLĐ này phải liên kết với chính quyền
các địa phương, các cơ sở chuyên đào tạo LĐXK để tuyển chọn, đào tạo LĐXK cho
phù hợp với nhu cầu của thị trường, đồng thời phải có trách nhiệm hỗ trợ kinh phí
cho cho chính quyền các địa phương và các cơ sở đào tạo đó.
- Đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và
đào tạo nghề cho người lao động đi XKLĐ.
Hệ thống giáo dục kỹ thuật dạy nghề cần đẩy mạnh đào tạo nghề chủ lực như
xây dựng, cơ khí, điện tử, may, dệt, nông nghiệp, y tế, thuyền viên, thủy thủ, chế
biến hải sản,… để đáp ứng những nhu cầu lao động hiện nay của các nước NKLĐ.
Trang bị cho LĐXK những kiến thức cần thiết như ngoại ngữ, phong tục tập quán,
hệ thống luật pháp của nước sở tại và các thông lệ quốc tế; giáo dục tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động, rèn luyện ý thức bảo hộ, an toàn lao động… nhằm nâng
cao chất lượng nguồn LĐXK, đáp ứng nhu cầu tuyển dụng ở Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan.
Đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo dục hướng nghiệp cho LĐXK theo
hướng: tăng thời lượng học ngoại ngữ, tìm hiểu về pháp luật, phong tục tập quán ở
nước NKLĐ, tăng thời gian thực hành, kể cả đi thực tế ở các cơ sở, doanh nghiệp
đang hoạt động trên cơ sở từng ngành nghề cụ thể, theo từng thị trường. Đặc biệt
chú trọng giáo dục nâng cao nhận thức của người LĐXK về ý nghĩa, vai trò của hoạt
động XKLĐ và trách nhiệm của họ đối với quê hương, đất nước, gia đình và doanh
nghiệp. Đào tạo đội ngũ cán bộ nắm vững chuyên môn, chính sách của Nhà nước trong
lĩnh vực XKLĐ, am hiểu luật pháp và thông lệ quốc tế để đảm nhiệm công tác đào tạo
85
LĐXK, đảm bảo cho người LĐXK có đủ khả năng để làm việc ở nước ngoài và tự bảo
vệ mình. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài không những để phát triển thị trường
XKLĐ mà còn để nâng cao uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động
khu vực và quốc tế.
Nâng cao trình độ văn hóa cho lực lượng lao động, phổ cập giáo dục phổ
thông cơ sở và phổ thông trung học đối với người lao động, nhất là lao động ở
những vùng có điều kiện khó khăn nhằm, tạo thuận lợi cho người lao động tiếp thu
các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật, các kiến thức xã hội và ngoại ngữ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phải có biện pháp phổ cập và nâng cao chất lượng đào tạo
ngoại ngữ cho học sinh phổ thông, tạo nền tảng thuận lợi cho việc nâng cao khả
năng ngoại ngữ của LĐXK.
- Thực hiện đào tạo nghề dài hạn và đào tạo bổ túc ngắn hạn cho lực lượng
lao động tham gia XKLĐ.
+ Đào tạo nghề dài hạn là giải pháp mang tầm chiến lược để tăng chất
lượng LĐXK, là nội dung rất quan trọng, có tính chất quyết định để giữ vững và
phát triển thị trường XKLĐ. Mục tiêu của đào tạo nghề dài hạn nhằm xây dựng một
lực lượng LĐXK làm việc có năng suất cao, có ý thức kỷ luật, hiểu biết về lịch sử,
văn hóa phong tục tập quán của nước sở tại, có khả năng thích ứng nhanh với sự
thay đổi của nhu cầu sử dụng lao động trên thế giới, đặc biệt người lao động có đủ
trình độ để có thể tiếp thu và ứng dụng nhanh chóng công nghệ và phương tiện kỹ
thuật mới. Trong đào tạo nghề dài hạn, chú trọng đào tạo trình độ lành nghề và trình
độ cao cho người lao động để tăng nguồn nhân lực kỹ thuật; trang bị các kiến thức
và kỹ năng nghề diện rộng hoặc chuyên sâu để người lao động có khả năng đảm
nhận những công việc phức tạp; trang bị các kỹ năng nghề thành thạo và kiến thức
chuyên môn cần thiết dựa trên nền học vấn trung học phổ thông hoặc trung học
chuyên nghiệp của người lao động để họ có khả năng vận hành các thiết bị hiện đại
và xử lý được các tình huống phức tạp, đa dạng trong các dây chuyền sản xuất tự
86
động, công nghệ hiện đại. Tiến hành giảng dạy xen ghép ngoại ngữ và các kiến thức
xã hội cần thiết khác cho người lao động.
+ Đào tạo bổ túc ngắn hạn áp dụng đối với người lao động đã qua đào tạo
nghề, được tuyển dụng từ các nhà máy, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội. Đây
là quá trình bổ túc nghề, đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng với các nội dung
như pháp luật, lịch sử văn hóa, phong tục tập quán và điều kiện làm việc của nước
NKLĐ.
Hợp tác quốc tế về đào tạo lao động xuất khẩu. Trên cơ sở yêu cầu về số
lượng, cơ cấu lao động và trình độ tay nghề chuyên môn kỹ thuật của chủ sử dụng
lao động ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, các cơ quan chức năng Việt Nam,
chính quyền các địa phương cũng như các doanh nghiệp XKLĐ nghiên cứu xây
dựng các phương án liên kết, phối hợp với tổ chức, cơ quan hữu quan của các nước
này trong công tác đào tạo và tuyển dụng LĐXK của Việt Nam như cung cấp tài
liệu, giáo trình giảng dạy, cử các giáo viên sang Việt Nam đào tạo ngoại ngữ và
phong tục tập quán của nước sở tại và tiến hành kiểm tra tay nghề, tuyển chọn lao
động đi làm việc ở các nước này. Đặc biệt là phối hợp đào tạo LĐXK để đáp ứng
nhu cầu lao động ở các ngành công nghệ mũi nhọn, các ngành cần lao động kỹ thuật
chất lượng cao.
- Đổi mới công tác tuyển chọn lao động xuất khẩu.
Đẩy mạnh việc tuyển chọn LĐXK trên cơ sở gắn kết trách nhiệm của doanh
nghiệp XKLĐ với các đơn vị sản xuất kinh doanh (đối với lao động đang làm việc)
và với chính quyền các địa phương, gia đình LĐXK (đối với lao động tự do). Một
mặt, nhằm tạo ra được chuyển động về nhận thức của các ngành, các cấp, các đoàn
thể chính trị cũng như người lao động ở các địa phương trong việc đẩy mạnh hoạt
động XKLĐ, tạo ra sự xã hội hóa hoạt động XKLĐ; mặt khác, để tăng cường vai trò
và trách nhiệm của các tổ chức chính trị, chính quyền các cấp cơ sở đối với việc
tuyển chọn và nâng cao chất lượng nguồn LĐXK. Việc tuyển chọn LĐXK phải
được tiến hành kỹ lưỡng, người trúng tuyển phải đúng với nhu cầu công việc của
87
người sử dụng ở nước ngoài, đúng với nguyện vọng của bản thân người lao động,
trình độ người lao động phù hợp với công việc và mức lương phải tương xứng với
công việc.
Tuyển dụng lại những người lao động đã đi XKLĐ nếu được phía sử dụng
nước ngoài tiếp nhận để giảm chi phí đào tạo đi XKLĐ và phát huy được khả năng
lao động của đội ngũ này, tăng giá trị XKLĐ. Triển khai thực hiện phương án cho
phép học sinh các trường nghề, sinh viên các trường đại học, cao đẳng được tham
gia XKLĐ bằng cách cho phép họ bảo lưu kết quả học tập và tiếp tục học lại khi
hoàn thành hợp đồng XKLĐ. Thực hiện các biện pháp khuyến khích sinh viên tốt
nghiệp các trường đại học cao đẳng đi XKLĐ nhằm đáp ứng nhu cầu lao động chất
lượng cao của nước ngoài, như hỗ trợ tiền đặt cọc, chi phí học nghề bằng cách cho
vay với lãi suất thấp, tạm ứng trước và trả dần bằng lương khi làm việc ở nước
ngoài...
3.3.3. Chú trọng hơn công tác thị trường xuất khẩu lao động khu vực
Đông Bắc á
Một vấn đề quan trọng trong hoạt động XKLĐ là phải nghiên cứu, phân
tích, dự báo diễn biến thị trường XKLĐ để xác định rõ nhu cầu tuyển dụng LĐNN
của các nước NKLĐ như về số lượng, chủng loại, lĩnh vực ngành nghề, chất lượng
lao động... Trên cơ sở đó, xây dựng các kế hoạch XKLĐ cho phù hợp với khả năng
cung ứng lao động ở trong nước, mở rộng và phát triển thị trường XKLĐ. Việc
nghiên cứu, đánh giá dự báo thị trường XKLĐ còn giúp các doanh nghiệp tìm hiểu
được khả năng của đối tác, tình trạng hoạt động của các chủ sử dụng lao động nhằm
hạn chế các khả năng rủi ro, tiêu cực phát sinh từ phía người sử dụng lao động, bảo
vệ LĐXK và góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động XKLĐ.
Đông Bắc á là một khu vực có nhu cầu LĐNN lớn nhưng khu vực này cũng
tồn tại những vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng tới việc tuyển dụng
LĐNN của các chủ sử dụng lao động, làm phát sinh các rủi ro trong hoạt động
XKLĐ. Chính vì vậy, công tác nghiên cứu, đánh giá và dự báo về thị trường XKLĐ
88
của các nước trong khu vực Đông Bắc á là rất cần thiết. Các giải pháp cần chú trọng
đối với công tác này là:
- Nhà nước đầu tư về tài chính và nhân lực cho các bộ phận, ban quản lý lao
động Việt Nam trực thuộc các cơ quan đại diện ngoại giao tại Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan để quản lý, hỗ trợ và bảo vệ LĐXK; giải quyết kịp thời các vấn đề phát
sinh liên quan đến LĐXK Việt Nam ở nước sở tại; tiến hành thu thập thông tin,
nghiên cứu thị trường, hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm đối tác, thẩm định các hợp
đồng, phát triển thị trường XKLĐ; tham mưu cho Nhà nước trong việc ký kết các
hiệp định, thỏa thuận hợp tác lao động ở các lĩnh vực mà Việt Nam có khả năng cung
ứng lao động với chính quyền nước sở tại, mở đường cho các doanh nghiệp XKLĐ
Việt Nam ký kết và thực hiện các hợp đồng cung ứng lao động cụ thể với người sử
dụng lao động ở các nước này.
- Các doanh nghiệp XKLĐ tăng cường đầu tư tài chính và nhân lực để lập
các đại diện của doanh nghiệp ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan để quản lý lao
động và làm công tác thị trường XKLĐ. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm đại diện có đủ
phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, nhất là về ngoại ngữ và luật pháp nước sở tại
và quốc tế để phối hợp với cơ quan đại diện ngoại của Việt Nam ở các nước này để
quản lý và giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi của LĐXK Việt Nam.
- Các doanh nghiệp XKLĐ trực tiếp cử cán bộ có đủ năng lực đi điều tra,
khảo sát về điều kiện lao động, mức lương thực tế, phí môi giới, kiểm tra tư cách
pháp nhân, năng lực tài chính, uy tín… của người tuyển dụng lao động ở Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan; đồng thời, kiểm tra chặt chẽ và thẩm định kỹ các điều
khoản cơ bản như tiền lương, điều kiện và môi trường làm việc khi ký hợp đồng
cung ứng lao động cho phía nước ngoài.
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ cùng các doanh nghiệp XKLĐ hợp tác
với các cơ quan nghiên cứu kinh tế - xã hội trong nước và nước ngoài để đánh giá,
dự báo về những yếu tố có tác động làm thay đổi xu hướng và chính sách sử dụng
LĐNN ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Trên cơ sở đó, xây dựng các kế hoạch
89
XKLĐ phù hợp với tình hình thực tế ở từng nước; hạn chế việc tập trung toàn bộ
nguồn lực vào quan hệ với một vài đối tác để tránh những thiệt hại rủi ro trong hoạt
động XKLĐ khi có sự biến động về thị trường, tình hình chính trị, sự thay đổi chính
sách của chính phủ ở các nước sở tại. Tranh thủ quan hệ với đại sứ quán các nước,
các tổ chức phi chính phủ, các văn phòng đại diện và các công ty nước ngoài tại
Việt Nam để tác động phía nước ngoài tăng số lượng LĐXK cho Việt Nam, khai
thác, mở rộng thị trường XKLĐ.
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ phối hợp với các cơ quan ngoại giao,
thương mại, các bộ chuyên ngành cũng như các doanh nghiệp XKLĐ tổ chức các
diễn đàn, hội thảo ở trong và ngoài nước về tiềm năng của lao động Việt Nam, về
hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nhu cầu LĐNN của các
chủ sử dụng ở các nước NKLĐ, tạo điều kiện cho việc tìm kiếm đối tác và ký kết
hợp đồng XKLĐ. Bên cạnh đó, tăng cường tổ chức các đoàn công tác liên ngành để
khảo sát thị trường và kiểm tra thực tiễn LĐXK Việt Nam ở nước ngoài.
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ xây dựng phương án và chỉ đạo các
doanh nghiệp XKLĐ nghiên cứu đàm phán với các đối tác nước ngoài để giảm các
chi phí môi giới XKLĐ đến mức thấp nhất; từng bước giảm bớt việc ký kết hợp
đồng XKLĐ qua các công ty môi giới nước ngoài, tiến tới ký hợp đồng XKLĐ trực
tiếp với người sử dụng lao động theo luật pháp của nước sở tại nhằm giảm các chi
phí đi XKLĐ cho lao động Việt Nam.
- Đàm phán với các cơ quan chức năng nước NKLĐ về việc quy định mức
tiền lương tối thiểu cho LĐXK Việt Nam. Trên cơ sở đó, căn cứ vào trình độ
chuyên môn, tay nghề của từng loại lao động, xác định các mức lương khác nhau
đối với LĐXK của Việt Nam để đảm bảo quyền lợi chính đang của LĐXK Việt
Nam, giảm sự chênh lệch về tiền lương giữa LĐXK Việt Nam với LĐXK các nước
khác và lao động bản địa.
3.3.4. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu
lao động
90
Thực tế hoạt động XKLĐ đòi hỏi phải thực hiện chặt chẽ công tác quản lý
nhà nước đối với các mặt có liên quan đến hoạt động này. Sau đây là những mặt chủ
yếu cần tăng cường vai trò quản lý về mặt nhà nước:
- Thực hiện cải cách và sắp xếp lại các doanh nghiệp XKLĐ theo tinh thần
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước, phù hợp với các văn bản pháp luật về XKLĐ hiện hành và trên cơ sở hiệu quả
hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp đã được cấp phép hoạt động kinh doanh
XKLĐ.
Tiến hành sắp xếp lại, giải thể các doanh nghiệp nhà nước chuyên doanh
XKLĐ hoạt động không có hiệu quả, vi phạm pháp luật về XKLĐ, kinh doanh
không lành mạnh làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người LĐXK và lợi ích của
quốc gia. Thiết lập các điều kiện và quy trình thẩm định việc cấp phép kinh doanh
XKLĐ mới theo hướng vừa chặt chẽ, thống nhất trong cả nước và đối với các thành
phần kinh tế, đồng thời vừa tạo điều kiện thuận lợi tối đa, khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia hoạt động XKLĐ. Nhà nước chỉ nên giữ lại các doanh nghiệp
XKLĐ hoạt động có hiệu quả, có đủ tiềm lực về vốn, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ
có khả năng quản lý, khai thác mở rộng thị trường, có đủ tiềm lực để nâng cao khả
năng cạnh tranh trong hoạt động XKLĐ ở khu vực Đông Bắc á và các khu vực
khác.
Nhà nước đã có chủ trương phát triển 20 doanh nghiệp XKLĐ mạnh để
đảm nhận việc cung ứng nhân lực và cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế,
nhưng thiết nghĩ trong số đó cần có doanh nghiệp XKLĐ của các thành phần kinh tế
khác để tạo động lực cạnh tranh và một môi trường kinh doanh bình đẳng, phát huy
được các lợi thế và tiềm năng của các thành phần kinh tế trong xã hội đối với công
tác XKLĐ của Việt Nam nói chung và sang khu vực Đông Bắc á nói riêng. Các
doanh nghiệp này cần được phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa, tiến tới xây
dựng, hình thành các tập đoàn cung ứng nhân lực Việt Nam có khả năng đảm nhận
được toàn bộ các quy trình XKLĐ, từ tuyển chọn, đào tạo nguồn LĐXK đến quản
91
lý lao động ở nước ngoài, giải quyết vấn đề liên quan đến tài chính và việc làm cho
người lao động khi về nước.
- Chính phủ ban hành, bổ sung các chính sách, biện pháp khuyến khích các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tham gia hơn nữa vào hoạt động
XKLĐ, như: thực hiện ưu đãi thuế đầu tư thúc đẩy XKLĐ, miễn thuế cho các doanh
nghiệp XKLĐ trong các năm đầu mới thành lập và giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp trong một số năm tiếp theo, hỗ trợ các doanh nghiệp XKLĐ mới thành lập
tiếp cận thông tin về thị trường, đối tác...
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ thường xuyên kiểm tra giám sát các
doanh nghiệp XKLĐ trong việc ký kết và thực hiện các điều khoản trong hợp đồng
cung ứng lao động cho các đối tác nước ngoài để đảm bảo đúng các quy định của
pháp luật và thỏa thuận hợp tác lao động của nước ta với các nước NKLĐ. Kiểm
tra, giám sát các hoạt động môi giới, tuyển dụng đưa người ra nước ngoài làm việc
của các đơn vị XKLĐ nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro trong hoạt động XKLĐ,
tránh các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật, nhất là trong hoạt động thu phí môi
giới, tuyển dụng, đào tạo LĐXK,...
- Hiệp hội XKLĐ Việt Nam phát huy vai trò và nâng cao trách nhiệm trong
hoạt động để tạo ra sự bình đẳng, thống nhất và ổn định trong hoạt động của các
doanh nghiệp XKLĐ; chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gian lận
trong hoạt động XKLĐ như giảm giá LĐXK, tăng phí môi giới để dành đối tác, thu
phí đi XKLĐ sai quy định,...
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ định kỳ đánh giá, tổng kết về công tác
XKLĐ, các mô hình XKLĐ hiệu quả để rút kinh nghiệm, đưa ra các biện pháp quản
lý, điều tiết phù hợp với những biến động của tình hình thực tế, tạo sự thống nhất
cho các doanh nghiệp về cơ chế hoạt động và sự thuận lợi trong quá trình giải quyết
các tiêu cực phát sinh trong hoạt động XKLĐ.
- Thực hiện phân cấp, phân công rõ ràng và thống nhất, quy trách nhiệm cụ
thể đối với các cơ quan chức năng, doanh nghiệp XKLĐ trong việc quản lý, giám
92
sát người lao động đang lao động, tu nghiệp ở nước ngoài. Các doanh nghiệp
XKLĐ có trách nhiệm quản lý lao động do doanh nghiệp đưa sang Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan làm việc, như: về số lượng, địa điểm lao động, điều kiện làm
việc và sinh hoạt và thực hiện các nghĩa vụ khác theo pháp luật hiện hành. Phối hợp
chặt chẽ với phía sử dụng lao động và người lao động thực hiện đầy đủ và đúng các
điều khoản trong các hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp với phía tiếp nhận,
giữa người lao động với chủ sử dụng lao động để đảm bảo quyền lợi của các bên
tham gia. Cơ quan chức năng và đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài có
trách nhiệm bảo vệ người lao động theo luật pháp Việt Nam, luật pháp nước sở tại
và theo các công ước quốc tế, đồng thời phải có biện pháp để luôn theo sát quyền
lợi và nghĩa vụ của người lao động ngay cả khi họ đã thuộc quyền quản lý của
người sử dụng nước ngoài; hỗ trợ việc tìm kiếm đối tác, xúc tiến mở rộng thị trường
XKLĐ, tác động phía nước ngoài tăng chỉ tiêu LĐXK cho Việt Nam.
- Tăng cường công tác hỗ trợ, bảo vệ LĐXK ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan. Thiết lập các văn phòng quản lý lao động ở các khu vực có đông lao động
Việt Nam làm việc sinh sống để giám sát, giải quyết kịp thời các vướng mắc và
tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền lợi của LĐXK, nắm bắt tâm tư nguyện vọng và
tạo niềm tin cho họ. Đối với những khu vực có ít lao động Việt Nam làm việc và
sinh sống, đàm phán và phối hợp với phía nước ngoài, nhất là các cơ sở tuyển dụng,
tổ chức định kỳ các buổi gặp mặt, trao đổi thông tin để nắm tình hình về LĐXK
Việt Nam; thiết lập đường dây trao đổi thông tin giữa bộ phận quản lý lao động với
người sử dụng LĐXK Việt Nam để cùng giải quyết các vướng mắc, tranh chấp phát
sinh liên quan đến quyền lợi của LĐXK Việt Nam.
- Hỗ trợ về tài chính, giảm các thủ tục xuất nhập cảnh,... cho các doanh
nghiệp XKLĐ cử đại diện sang nước NKLĐ, nhất là tại các khu vực có đông lao
động Việt Nam do doanh nghiệp đưa đi. Trên cơ sở pháp luật của nước sở tại, thành
lập các tổ, hội, cơ sở Đảng, Đoàn để người lao động tham gia sinh hoạt. Thông qua
đó, một mặt nắm được tâm tư, nguyện vọng, những vấn đề vướng mắc trong sinh
hoạt, quan hệ chủ thợ của người lao động để có biện pháp xử lý phù hợp và kịp
93
thời; mặt khác đây là biện pháp để theo dõi, quản lý, giám sát người lao động ở
nước sở tại.
3.3.5. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động xuất khẩu
lao động
Công bố công khai, rõ ràng các thông tin về hoạt động XKLĐ là biện pháp
hạn chế các rủi ro phát sinh trong hoạt động XKLĐ. Người lao động trên cơ sở các
thông tin có sẵn sẽ xác định mục tiêu, định hướng đúng đắn khi tham gia XKLĐ,
hạn chế được hiện tượng lừa đảo, bỏ trốn,... Chỉ khi người lao động định hướng
được nghề nghiệp, tự chuẩn bị cho bản thân các kiến thức, tay nghề tối thiểu và tự
bản thân tự nguyện tham gia, chấp nhận những điều kiện làm việc mới thì họ mới
có ý thức, trách nhiệm với công việc, có ý thức bảo vệ quyền lợi của chính mình
cũng như lợi ích của cộng đồng, đất nước trong hoạt động XKLĐ. Vì thế hoạt động
thông tin, tuyên truyền không chỉ góp phần nâng cao nhận thức của người lao động
về hoạt động XKLĐ mà còn góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh
XKLĐ cũng như đảm bảo cho hoạt động XKLĐ ổn định và bền vững. Các giải
pháp thực hiện là:
- Nhà nước và các cơ quan, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ
cần tăng cường đầu tư tài chính và nhân lực để thông tin, tuyên truyền, định hướng
tới mọi gia đình, mọi tổ chức về bản chất của hoạt động XKLĐ trong cơ chế thị
trường, chủ trương chính sách về XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với các
vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, miền núi, những khu vực còn gặp nhiều khó
khăn hạn chế về điều kiện giáo dục, đào tạo và cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc.
- Kết hợp tuyên truyền về các gương điển hình tốt, mô hình hiệu quả trong
hoạt động XKLĐ với việc khuyến khích người lao động tham gia phát hiện, tố giác
và ngăn chặn các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật trong hoạt động XKLĐ, nhất
là hành vi lừa đảo dưới danh nghĩa XKLĐ của các tổ chức, cá nhân không có chức
năng XKLĐ.
94
- Công bố công khai, thường xuyên, đầy đủ trên các phương tiện thông tin
đại chúng về chương trình XKLĐ của nhà nước, các văn bản pháp lý, các quy định,
những thay đổi trong chủ trương chính sách về XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhất là
ở các khu vực có đông lao động tham gia XKLĐ, các vùng sâu, vùng xa, nông thôn,
miền núi. Công bố đầy đủ các thông tin về cơ hội việc làm ở nước ngoài, đối tượng
tuyển dụng, điều kiện làm việc, thu nhập, điều kiện sinh hoạt, đặc biệt là các thủ tục
đi XKLĐ và các khoản tài chính phải nộp… để người lao động định hướng được
nghề nghiệp tương ứng với khả năng của họ.
- Tuyên truyền, vận động và khuyến khích người lao động sau khi về nước
sử dụng thu nhập từ nước ngoài đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tạo mở việc làm
cho bản thân và cho những người khác như hỗ trợ cho vay thêm vốn ưu đãi, miễn
giảm thuế đầu tư sản xuất kinh doanh... Xây dựng và công bố đầy đủ về chính sách
định hướng việc làm, các biện pháp hỗ trợ tái hội nhập cộng đồng cho LĐXK sau
khi hết hợp đồng trở về nước.
- Đẩy mạnh việc quảng bá, tuyên truyền ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan về lao động Việt Nam để giúp chủ sử dụng ở các nước này hiểu và nắm rõ về
tiềm năng LĐXK Việt Nam, tạo điều kiện cho việc xúc tiến tìm kiếm đối tác, mở
rộng và phát triển thị trường XKLĐ ở khu vực này.
3.3.6. Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt
động xuất khẩu lao động nói chung và xuất khẩu lao động sang khu vực Đông
Bắc á nói riêng.
Một trong những nguyên nhân hạn chế hoạt động XKLĐ của nước ta trong
thời gian qua là do thiếu một hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ để điều chỉnh hành
vi của các chủ thể tham gia hoạt động XKLĐ, các chế tài xử lý các vi phạm pháp
luật về XKLĐ hiện hành còn nhẹ và thiếu, chưa tạo ra được ý thức kỷ luật, trách
nhiệm đối với các chủ thể tham gia hoạt động XKLĐ. Điều này không chỉ dẫn đến
hiện tượng các doanh nghiệp không thống nhất về cơ chế hoạt động, gặp khó khăn,
lúng túng khi xử lý các vấn đề tiêu cực phát sinh trong hoạt động XKLĐ mà còn tạo
95
kẽ hở, môi trường cho các hoạt động bất hợp pháp tồn tại. Vì vậy, bên cạnh việc
định hướng và gắn kết kế hoạch XKLĐ với các chương trình mục tiêu và chiến lược
phát triển kinh tế xã hội khác, xây dựng đồng bộ và hoàn thiện các quy định, văn
bản pháp quy về hoạt động XKLĐ nhằm tạo ra một hệ thống pháp lý thống nhất, tạo
cơ sở cho các chủ thể tham gia mạnh mẽ hơn vào hoạt động này là một trong những
vấn đề quan trọng, đảm bảo sự lành mạnh và ổn định trong hoạt động XKLĐ của
nước ta. Các giải pháp thực hiện là:
- Khẩn trương xây dựng và ban hành Luật về XKLĐ để thống nhất các chế
tài điều chỉnh hoạt động XKLĐ. Các chế tài trong Luật phải đảm bảo được sự
nghiêm minh của pháp luật, đủ sức mạnh để răn đe, giáo dục các đối tượng vi phạm
pháp luật về hoạt động XKLĐ, nhưng cũng phải bảo đảm được quyền lợi của các
chủ thể tham gia, khuyến khích được doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và
người lao động tham gia hoạt động XKLĐ.
Trong khi chưa ban hành được Luật về XKLĐ, ban hành bổ sung nghị định
hoặc pháp lệnh về XKLĐ trong đó có các chế tài xử lý nghiêm khắc như phạt tiền,
tịch thu tài sản hoặc phạt tù, lao động công ích tại địa phương... đối với các hành vi
vi phạm trong hoạt động XKLĐ, nhất là đối với các hành vi: lợi dụng danh nghĩa
XKLĐ để lừa đảo; tổ chức đưa người trốn ra nước ngoài; tuyển chọn lao động, đào
tạo, thu tiền và đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trái quy định của
pháp luật; lao động Việt Nam ở nước ngoài có hành vi lôi kéo, dụ dỗ người khác bỏ
trốn; giả mạo giấy tờ hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn chứng nhận sai giấy tờ để đi
làm việc ở nước ngoài; lao động Việt Nam vi phạm pháp luật ở nước sở tại làm ảnh
hưởng đến quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước.
- Tăng cường các hoạt động hợp tác và tương trợ tư pháp với Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan để có cơ sở giải quyết vấn đề LĐXK Việt Nam tự ý phá hợp
đồng, bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp ở nước sở tại. Phối hợp với các cơ quan chức năng
của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan thực hiện các biện pháp đấu tranh ngăn chặn, xử
lý kịp thời và triệt để các hành vi lợi dụng hoạt động XKLĐ của một số cá nhân, tổ
96
chức ở các nước này nhằm thực hiện các mưu đồ chống phá các chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta, có các hành vi dụ dỗ, lôi kéo người LĐXK Việt
Nam bỏ trốn, vi phạm pháp luật tại nước sở tại,...
- Đàm phán với các nước xuất khẩu nhiều lao động vào thị trường khu vực
Đông Bắc á để thống nhất các đối sách nhằm bảo vệ quyền và quyền lợi của LĐXK.
Nghiên cứu phương án đàm phán với các nước trong khu vực ASEAN thành lập
Hiệp hội XKLĐ khu vực để tăng cường vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực XKLĐ
và hạn chế được các hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ các nước XKLĐ khác,
đảm bảo được lợi ích quốc gia trong hoạt động XKLĐ vào thị trường khu vực Đông
Bắc á.
97
Kết Luận
XKLĐ là một bộ phận của chương trình mục tiêu giải quyết việc làm - một
trong những chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm của quốc gia. Đây là hoạt
động mang tính chất kinh tế - xã hội sâu sắc thông qua việc phát triển nguồn nhân
lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao
động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Bên cạnh đó, là một bộ phận của hoạt
động kinh tế đối ngoại, hoạt động XKLĐ góp phần củng cố và thắt chặt mối quan
hệ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước tiếp nhận lao động. Đây cũng là một
hoạt động mang tính chất đặc thù và nhạy cảm.
Vận dụng lý luận của C. Mác về hàng hóa sức lao động, luận văn đã phân
tích được bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ; phân tích và
đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á, cụ
thể là sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong giai đoạn 1992 - 2004. Kết quả
của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á đã góp phần đáng kể
vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội như giải quyết việc làm,
tăng thu nhập và cải thiện đời sống người lao động, tạo nguồn thu cho quốc gia,...
Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động XKLĐ thời gian qua do cả chủ quan và
khách quan, cả Việt Nam và các nước NKLĐ. Trong đó nguyên nhân chủ yếu là
còn thiếu một chiến lược tổng thể về XKLĐ, bao gồm từ khâu tạo nguồn LĐXK
đến quản lý lao động ở nước ngoài và giải quyết những vấn đề sau khi LĐXK về
nước.
Những giải pháp đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực
Đông Bắc á được dựa trên những phân tích về nguyên nhân của những hạn chế, khó
khăn trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan
trong hơn 10 năm qua. Quan trọng và có tính quyết định là phải xây dựng một kế
hoạch XKLĐ phù hợp với chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta, gắn liền với giải pháp về đào tạo nguồn LĐXK theo hướng: đa dạng về
98
ngành nghề, tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông thạo ngoại
ngữ, có tác phong công nghiệp và am hiểu về luật pháp của nước sở tại. Bên cạnh
đó, luận văn cũng đưa ra một số giải pháp hỗ trợ khác liên quan đến toàn bộ quy
trình hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á như về công tác thị trường, quản
lý lao động, thông tin, tuyên truyền, xây dựng chính sách pháp luật... Hơn nữa,
trong quá trình thực hiện cần phải có sự phối hợp tích cực của tất cả các bên tham
gia, trong đó sự nhận thức đúng đắn và tham gia một cách tích cực của người lao
động vào hoạt động XKLĐ có vai trò quan trọng, quyết định đối với hiệu quả cũng
như đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và phát triển bền vững của hoạt động này.
Khu vực Đông Bắc á với các thị trường XKLĐ Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan vẫn là thị trường quan trọng, chủ yếu của Việt Nam trong định hướng phát
triển hoạt động XKLĐ trong những năm tới. Ngoài những yếu tố tích cực từ phía
các nước tiếp nhận LĐXK của Việt Nam ở khu vực Đông Bắc á, để đảm bảo được
mục tiêu đặt ra các cơ quan chức năng và doanh nghiệp XKLĐ cần phải phối hợp
thực hiện các giải pháp căn bản nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn đang tồn
tại, đồng thời tranh thủ và tận dụng những thay đổi có tính chất cơ hội để đẩy mạnh
hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này. Các giải pháp đưa ra trong luận
văn có tính chất tham khảo cho các chủ thể tham gia hoạt động XKLĐ nói chung và
hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nói riêng
với mong muốn được các chủ thể này vận dụng vào thực tế nhằm góp phần đẩy
mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường XKLĐ khu vực Đông Bắc á
trong thời gian tới.
99
những công trình liên quan đến luận văn
đã được công bố
1. Lưu Văn Hưng (2004), "Giải pháp hạn chế rủi ro trong xuất khẩu lao động hiện
nay", Nông nghiệp và phát triển nông thôn, (8), tr. 1018-1020.
2. Lưu Văn Hưng (2004), "Xuất khẩu lao động - một hướng đi góp phần giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn", Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, (10), tr. 1319-1322.
3. Lưu Văn Hưng (2005), "Một số biện pháp nâng cao chất lượng lao động xuất
khẩu Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á", Kinh tế và phát
triển, (98), tr. 41-44.
4. Lưu Văn Hưng (2005), "Một số vấn đề trong chính sách tuyển dụng lao động
nước ngoài của Nhật Bản, Hàn Quốc thời gian gần đây", Những vấn đề
kinh tế thế giới, 7(111), tr. 48-60.
5. Lưu Văn Hưng (2005), "Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động của
Việt Nam sang Hàn Quốc", Nông nghiệp và phát triển nông thôn, (16), tr.
13-15.
6. Lưu Văn Hưng (2005), "Một số vấn đề trong chính sách tuyển dụng lao động
nước ngoài của Nhật Bản hiện nay", Kinh tế châu á - Thái Bình Dương,
33(77), tr. 23-25.
7. Lưu Văn Hưng (2005), "Di chuyển lao động tạm thời trong điều kiện tự do hóa
thương mại đối với các nước đang phát triển", Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, (10), tr. 76-79.
100
DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo
1. Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân (2003), Một số vấn đề về
phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội.
2. Ban Chỉ đạo điều tra lao động - việc làm Trung ương (2004), Báo cáo kết quả
điều tra lao động - việc làm, ngày 01/7, Hà Nội.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo về tình hình xuất khẩu lao
động và chuyên gia 2001-2003 và phương hướng đến năm 2005, Hà Nội.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo tổng kết và triển khai
Nghị định 81/2003/NĐ-CP của Chính phủ về xuất khẩu lao động và chuyên
gia, Hà Nội.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo tình hình và biện pháp tăng
cường quản lý tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản, Hà Nội.
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Thông tư hướng dẫn số
22/2003/TT-BLĐTB&XH ngày 13/10 về thực hiện một số điều của Nghị
định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Bộ Luật lao động về người lao động Việt Nam
làm việc ở nước ngoài, Hà Nội.
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Đánh giá thực trạng và các giải pháp
đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ thuộc lĩnh vực lao động - thương binh và xã
hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hà Nội.
8. Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Thông tư liên
tịch số 107/2003/TTLT-BTC-BLĐTB&XH ngày 07/11 hướng dẫn thực
hiện chế độ tài chính đối với người lao động và doanh nghiệp đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo
101
quy định tại Nghị định 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 của Chính phủ,
Hà Nội.
9. Chính phủ (1999), Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9 của Chính phủ quy
định về việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài, Hà Nội.
10. Chính phủ (2003), Nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động về người lao động
Việt Nam làm việc ở nước ngoài, Hà Nội.
11. "Cơn lốc y tá ngoại đến Anh" (2004), Việc làm ngoài nước, (3), tr.12.
12. Cục Quản lý lao động ngoài nước - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(2005), Thông báo về tình hình hoạt động xuất khẩu lao động 2004 và
phương hướng nhiệm vụ 2005, Hà Nội.
13. Nguyễn Duy Dũng (2004), "Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở Nhật Bản
những năm gần đây", Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, 5(53), tr. 3-
10.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 41-CT/TƯ ngày 22/9 của Bộ Chính
trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đào Công Hải (2004), "Một số nét mới về thị trường lao động Hàn Quốc và
triển vọng đối với lao động Việt Nam", Lao động và xã hội, 242, tr. 5-7,
15.
102
19. Trần Văn Hằng (1995), Các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu
lao động ở Việt Nam trong giai đoạn 1995 - 2010, Luận án tiến sĩ kinh tế,
Viện Kinh tế học - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà
Nội.
20. Trần Văn Hằng (2002), "Đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ thuật
cho công tác xuất khẩu lao động", Việc làm ngoài nước, (2), tr.3-6.
21. Dương Phú Hiệp - Vũ Văn Hà (2004), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
trong bối cảnh quốc tế mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định số 370/HĐBT ngày 9/11 của Hội đồng
Bộ trường ban hành quy chế về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài, Hà Nội.
23. Nguyễn Mạnh Hùng (2004), "Tác động của di cư quốc tế và an ninh kinh tế
quốc gia", Những vấn đề kinh tế thế giới, 2(94), tr. 3-10.
24. Nguyễn Liên Hương (2002), "Bước đầu tìm hiểu về lĩnh vực hợp tác lao động
giữa Việt Nam và Đài Loan", Nghiên cứu Trung Quốc, 6(46), tr. 57-64.
25. Nguyễn Phúc Khanh (2004), Xuất khẩu sức lao động với Chương trình quốc gia
vè việc làm - Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
26. Phạm Thị Khanh (2004), "Phát triển thị trường xuất khẩu lao động của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế", Website Đảng Cộng sản
Việt Nam ngày 02/5/2005.
27. Trần Thúy Lâm, Trần Minh Tiến (2004), Hướng dẫn các điều của Bộ luật lao
động, Nxb Lao động, Hà Nội.
28. Trần Đức Lân (2002), "Sớm đổi mới và tăng cường các biện pháp quản lý công
tác đào tạo, giáo dục định hướng cho lao động xuất khẩu", Việc làm ngoài
nước, (4), tr. 23-25.
103
29. "Lao động Việt Nam đang mất dần thế cạnh tranh" (2005), Thời báo kinh tế Việt
Nam, ngày 02/6.
30. Nguyễn Gia Liêm (2002), "Xuất khẩu lao động của Trung Quốc", Việc làm
ngoài nước, (3), tr. 24, 26.
31. Nguyễn Thị Phương Linh (2003), "Tạo nguồn lao động xuất khẩu trên cơ sở nâng
cao chất lượng đào tạo nghề", Việc làm ngoài nước, (6), tr. 17-20.
32. Hoàng Vĩnh Long (2004), Kinh tế quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.
33. Đặng Như Lợi (2003), "Thực trạng công tác xuất khẩu lao động và những kiến
nghị", Việc làm ngoài nước, (5), tr. 3-7, 11.
34. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Sự thật - Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
35. Nakorn Silpa-Archa (2003), "Lao động Thái Lan ở nước ngoài", Việc làm ngoài
nước, (4), tr. 21-22, 24.
36. Ngân hàng Thế giới (2004), Di chuyển con người để cung cấp dịch vụ, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
37. Nguyễn Bá Ngọc - Trần Văn Hoan (2002), Toàn cầu hóa: cơ hội và thách thức đối
với lao động Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
38. Trịnh Thị Kim Ngọc (2003), Một số vấn đề trong giao lưu văn hóa Việt Nam -
Hàn Quốc, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện, Viện Nghiên cứu con
người - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.
39. Trịnh Thị Kim Ngọc (2004), "Lao động phổ thông Việt Nam tại các doanh
nghiệp Hàn Quốc", Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, 4(52),
tr. 65-74.
40. "Quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài: cần những chế tài đủ mạnh" (2005),
Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 01/8.
104
41. Nguyễn Vinh Quang (2003), "Nhiệm vụ, mục tiêu và những giải pháp cho hoạt
động xuất khẩu lao động đến năm 2005", Việc làm ngoài nước, (6), tr.2-7.
42. Cao Văn Sâm (2004), "Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động", Việc
làm ngoài nước, (4), tr. 14-15.
43. Vũ Thu Thủy (2002), "Lao động nước ngoài có tay nghề và chính sách nhập lao
động nước ngoài ở Đài Loan", Việc làm ngoài nước, (6), tr. 23-24.
44. Nguyễn Văn Tiến (2002), Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩu lao
động - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Nguyễn Lương Trào (1993), Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa lao động
đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
46. Nguyễn Lương Trào (2004), "Xuất khẩu lao động và chuyên gia, kinh nghiệm
bước đầu, mục tiêu và giải pháp tới", Lao động và xã hội, (230+231+232),
tr. 8-9, 15-16.
47. Phạm Công Trứ (2003), "Một số vấn đề xung quanh thuật ngữ xuất khẩu lao
động", Nhà nước và pháp luật, (8), tr. 53-60.
48. "Vai trò của xuất khẩu lao động Philippine" (2002), Báo Quốc tế điện tử,
16(483),
49. Viện Nghiên cứu Nhật Bản (2001), Lao động và vấn đề xuất khẩu lao động Việt
Nam sang Nhật Bản - thực trạng và những giải pháp, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Viện, Hà Nội.
50. "Xuất khẩu lao động: động lực quan trọng của nền kinh tế Philippine" (2004),
Việc làm ngoài nước, (4), tr. 18-20.
Tiếng ANH
105
51. Cabinet Office, Government of Japan (2004), Annual Report on the Japanese
Economy and Public Finance 2003 - 2004,
52. Ames Gross and Rachel Weitraub (2004), 2004 Human Resources Trends in
Japan,
53. Soo Kyeong Hwang (2005), Korea’s Labor Market: Recent Trends and Outlook
for 2005. Korea Labor Institute, e-Labor News No39,
54. Manolo I. Abella (2004), Labour Migration in East Asian Economies.
International Labour Organization (ILO).
55. Pacific Bridge Inc. (2003), Human Resource Issue in Asia (Presentation),
56. Yoo Kil - Sang (2004), "Migrant Workers’ Labor Market in Korea", Korea
Labor Institute,
106
Phụ Lục
Phụ lục 1
Nguồn lao động nước ngoài tại Đài Loan
Đơn vị: người
Năm Thái Lan Indonesia Philippine Việt Nam Tổng số
1998 133.367 22.058 114.255 0 269.680
1999 139.526 41.224 113.928 131 294.809
2000 142.665 77.830 98.161 7.746 326.402
2001 127.732 91.132 72.779 12.916 304.559
2002 111.538 93.212 69.426 29.473 303.649
Tổng 654.828 325.456 468.549 50.266 1.499.099
Nguồn: Điều tra về việc sử dụng và quản lý LĐNN tại Đài Loan - ủy ban lao động Đài
Loan.
Phụ lục 2
Số lượng tu nghiệp sinh nước ngoài vào Nhật Bản thông qua JITCO
Đơn vị: người
1999 2000 2001 2002 2003
1999-
2003
1992-
2003
Trung Quốc 16.314 21.036 26.837 30.253 33.527 127.967 200.189
Indonesia 3.959 4.686 4.155 3.653 3.923 20.376 37.493
Việt Nam 1.432 1.672 1.820 1.953 1.928 8.805 12.929
Philippine 1.627 2.015 2.090 1.860 2.317 9.909 20.337
Thái Lan 1.111 1.114 1.135 1.113 1.196 5.669 14.393
Peru 0 1 6 3 2 12 80
107
Lào 0 4 2 4 9 19 25
Sri Lanka 175 186 269 186 73 889 1.457
ấn Độ 7 145 99 60 17 328 897
Myanmar 35 17 11 5 16 84 254
Mông Cổ 32 123 143 98 86 482 527
Uzbekistan 0 6 0 3 6 15 17
Campuchia 0 4 2 3 13 22 27
Nepal 2 1 3 0 1 7 29
Các nước
khác
937 888 851 530 343 3.549 19.293
Tổng 25.631 31.898 37.423 39.724 43457 178.133 307.947
Nguồn: Japan International Training Cooperation Organization (JITCO)
Phụ lục 3
Lao động nước ngoài ở Hàn Quốc theo tình trạng cư trú
Đơn vị: người, %
Năm
Tổng số
(100%)
Có visa
lao động
Có visa tu nghiệp sinh (TNS)
Bất hợp pháp TNS trong các
công ty ĐTNN
TNS công
nghiệp
1994 81.824 5.265 (6,4) 9.512 (11,6) 18.816 (23,0) 48.231 (58,9)
1995 128.906 8.228 (6,4) 1.5238 (11,8) 23.574 (18,3) 81.866 (63,5)
1996 210.494 13.420 (6,4) 29.724 (14,1) 38.396 (18,2) 129.054 (61,3)
1997 245.399 15.900 (6,5) 32.656 (13,3) 48.795 (19,9) 148.048 (60,3)
1998 157.689 11.143 (7,1) 15.936 (10,1) 31.073 (19,7) 99.537 (63,1)
1999 217.384 12.592 (5,8) 20.017 (9,2) 49.437 (22,7) 135.338 (62,3)
108
2000 285.506 19.063 (6,7) 18.504 (6,5) 58.944 (20,6) 188.995 (66,2)
2001 329.555 27.614 (8,4) 13.505 (4,1) 33.230 (10,1) 255.206 (77,4)
2002 362.597 33.697 (9,2) 14.035 (3,9) 25.626 (7,1) 289.239 (79,8)
2003 388.816
200.039
(51,5)
11.826 (3,0) 38.895 (1,0) 138.056 (35,5)
Nguồn: Bộ Tư pháp Hàn Quốc (con số trong ngoặc đơn là tỷ lệ tương ứng).
109
Phụ lục 4
Các nước tham gia Chương trình tu nghiệp sinh (TNS) của Hàn Quốc*
Đơn vị: người, %
Các nước
Chỉ tiêu
do KFSB
phân bổ
Tỷ lệ /
chỉ tiêu
(%)
Số
công ty
tham
gia
Tổng số
lượt TNS đã
nhập cảnh
Số TNS,
lao động
làm việc
Tỷ lệ TNS,
lao động bỏ
trốn (%)
Trung
Quốc
30.790 23,75 9 44.086 27.456 52,10
Indonesia 22.480 17,34 8 44.881 19.022 24,80
Việt Nam 18.770 14,48 8 30.109 17.457 59,25
Philippine 13.310 10,27 6 21.611 11.050 49,80
Banglades
h
6.990 5,39 4 13.533 8.583 78,60
Sri Lanka 4.470 3,45 2 4.898 2.713 51,50
Pakistan 4.370 3,37 2 5.419 3.310 56,10
Thái Lan 5.380 4,15 2 6.658 3.262 29,10
Iran 510 0,39 1 733 186 44,30
Myanmar 2.180 1,68 1 2.268 1.029 72,90
Nepal 4.880 3,76 2 5.059 2.999 30,40
Uzbekistan 6.830 5,27 2 8.819 4.003 27,40
Kazastan 4.480 3,46 2 2.857 1.200 36,90
Mongolia 3.200 2,47 1 983 672 55,90
110
Cambodia 1.000 0,77 1 - - -
Tổng 129.640 100,00 51 191914 102.942
* Thông qua Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc; tính đến tháng 10/2003.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, số 4(52) 8-2004.
111
Phụ lục 5
Thống kê tổng hợp hồ sơ thẩm định số lượng lao động Việt Nam vào Đài Loan từ
tháng 11/1999 đến tháng 6/2002
Tổng cộng 11-12/1999 01-12/2000 01-12/2001 01-06/2002
Hồ sơ (bộ) 16.533 533 4.737 5.728 5.535
Lao động (người) 37.989 1.572 12.667 12.274 11.476
- Nam 12.443 364 3.846 3.891 4.342
- Nữ 25.546 1.208 8.821 8.383 7.134
HL & GVGĐ* 13.350 553 3.800 4.707 4.310
Điện tử 5.880 315 2.353 2.294 910
Dệt may 4.925 247 1.928 1.373 1.377
Cơ khí 11.863 465 3.943 3.491 3.964
Xây dựng 737 0 484 233 20
Thuyền viên 1.225 12 158 174 881
* Hộ lý và giúp việc gia đình.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 6(46)-2002.
Phụ lục 6
Tình hình tu nghiệp sinh, lao động Việt Nam tại Hàn Quốc
(tính đến tháng 10/2003)
TT
Công ty
phái cử
Chỉ tiêu
(người)
%
trong
tổng
chỉ tiêu
Tổng số
nhập cảnh
vào HQ
(người)
Số TNS, lao
động đang ở
Hàn Quốc
(người)
Số TNS, lao
động bỏ
trốn còn ở
HQ (người)
Tỷ lệ
bỏ trốn
(%)
112
1 Vinaconex 3.230 17,0 5.927 3.077 1.547 48,50
2 Sovilaco 2.890 15,4 5.077 2.760 1.990 68,70
3 Lod 3.080 16,4 5.608 2.973 1.914 46,30
4 Suleco 2.550 13,6 4.328 2.279 1.407 47,00
5 Tracimexc
o
1.380 7,4 1.642 1.337 1.078 74,00
6 Oleco 2.250 12,0 3.314 2.116 1.409 67,00
7 Tracodi 1.850 9,9 2.810 1.685 1.292 70,00
8 Ims 1.540 8,2 1.403 1.230 645 50,50
Tổng 18.770 100 30.109 17.457 11.282
Nguồn: Tạp chí Việc làm ngoài nước, số 5/2003.
113
Phụ lục 7
Số lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á
và các nước khác (từ 1992 đến 2004)
Đơn vị: người
Năm Tổng số Đài Loan Nhật Hàn Malaysia Nước
1992 810 0 0 210 0 600
1993 3.960 0 164 3.318 0 478
1994 10.150 0 382 4.781 0 4.987
1995 7.187 0 286 5.270 0 1.631
1996 12.959 0 1.046 7.826 0 4.087
1997 18.470 191 2.227 4.880 0 11.172
1998 12.240 1.697 1.896 1.500 7 7.140
1999 21.810 558 1.856 4.518 1 14.877
2000 31.500 8.099 1.497 7.316 239 14.349
2001 36.168 7.782 3.249 3.910 23 21.204
2002 46.122 13.191 2.202 1.190 19.965 9.574
2003 75.000 29.069 2.256 4.336 38.227 1.112
2004 67.447 37.144 2.752 4.779 14.567 8.205
Tổng số 343.823 97.731 19.813 53.834 73.029 99.416
Nguồn: Phòng Quản lý lao động - Cục quản lý lao động ngoài nước - Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp (2).pdf