LỜI MỞ ĐẦU
Mỹ là một thị trường rộng lớn và dễ tính, có tiềm năng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào loại bậc nhất trên thế giới, hơn nữa, hiện nay những thị trường truyền thống của Việt Nam như châu Á, châu Âu, Nga . đã có xu hướng bão hoà với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nên đây là một thị trường mới mẻ, tiềm năng và tương đối ổn định ở châu Mỹ mà các doanh nghiệp Việt Nam muốn được hướng tới để làm ăn, đồng thời cũng là đối tác quan trọng có khả năng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu hội nhập kinh tế thế giới của mình. Đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại song phương được ký kết đã mở ra một viễn cảnh tươi sáng cho nền thương mại của hai nước.
Trong vài năm gần đây, cá basa và cá tra Việt Nam được nhập khẩu vào thị trường Mỹ dưới dạng philê đông lạnh đã góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cá của người dân Mỹ đồng thời thúc đẩy được nghề nuôi loại cá này ở Việt Nam, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động ngư trại và nhà máy chế biến thuỷ sản. Phát triển buôn bán cá basa, cá tra giữa Việt Nam và Mỹ là nhằm mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Nhưng thật đáng tiếc, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ đã sớm lo lắng cho sự xâm nhập của cá basa và cá tra vào thị trường của họ đến mức đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá các sản phẩm này vào thị trường Mỹ.
Như chúng ta đã biết, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang dần xoá bỏ những rào cản thuế quan giữa các thị trường nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch phát triển đặc biệt là ở các nước giầu mạnh. Thương trường Mỹ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng nó lại được điều chỉnh bằng một hệ thống luật pháp và các rào cản thương mại cực kỳ chặt chẽ. Luật thuế Chống bán phá giá hiện nay đang là một công cụ hữu hiệu được sử dụng phổ biến trên thị trường này nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào thị trường Mỹ đã cho thấy những rào cản đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải khi tiếp cận thị trường Mỹ. Nhưng không vì thế mà các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra bi quan và e ngại. Chúng ta đã tích cực hầu kiện và đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu.
Chính vì tầm quan trọng và tính thời sự của vấn đề, em xin mạnh dạn chọn đề tài “Luật chống bán phá giá của Mỹ và những Bài học rút ra từ vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa Việt Nam vào thị trường Mỹ” với mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc hơn diễn biến vụ kiện cũng như đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hạn chế ảnh hưởng của Luật thuế Chống bán phá giá của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này trong thời gian tới. Đề tài này được viết dựa trên các phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích tài liệu có liên quan và được chia làm 3 chương :
Chương I : Khái quát chung về Luật chống bán phá giá của Mỹ;
Chương II : Vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt Nam và Mỹ;
Chương III : Những bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ.
106 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6060 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật bán phá giá của Mỹ và những bài học rút ra từ vụ kiện bán phá giá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kết về quyền sở hữu trí tuệ sẽ gây thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế đất nước.
Sự trừng phạt sẽ không thấm vào đâu so với ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh
tế như lượng đầu tư sụt giảm do sự e ngại của các nhà sản xuất nước ngoài.
Khuyến khích các doanh nghiệp không xuất khẩu hàng hoá dưới
thương hiệu của nước ngoài, nhằm tránh việc cạnh tranh trực tiếp với các sản
phẩm tương tự của nước nhập khẩu. Trước khi vụ kiện này diễn ra, chúng ta
đã có được bài học khi Tổng thống Mỹ phê chuẩn đạo luật An ninh trang trại
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 79
và Phát triển nông thôn trong đó có điều khoản 10860 quy định cá da trơn của
Việt Nam không được xuất vào Mỹ dưới cái tên catfish và hậu quả là hàng
vạn ngư dân nuôi cá được một phen điêu đứng vì sản lượng xuất khẩu giảm.
Tích cực tuyên truyền về luật pháp các nước đối tác, cung cấp thông tin
đầy đủ cho các doanh nghiệp để họ am hiểu hơn về môi trường kinh doanh
quốc tế. Qua vụ kiện vừa rồi, khâu cuối cùng (cũng là khâu căn bản quyết
định sự thành công trong việc xuất khẩu) là những người nuôi trồng, chế biến
rất thiếu thông tin. Từ sự thiếu thông tin này có thể dẫn đến một số sơ xuất kỹ
thuật không đáng có, để phía bên nguyên đơn vịn cớ bắt bẻ mình.
Chính phủ nên quan tâm nhiều hơn nữa đến vấn đề “tư duy thị trường”
tức là phải tạo được sự gặp nhau giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Sản
xuất phải phát triển tương ứng với nhu cầu thị trường, mở thị trường ra đến
đâu hãy phát triển sản xuất ra đến đó. Đây là vấn đề khá bức xúc hiện nay, rõ
ràng người nông dân chỉ biết lợi trước mắt thì sản xuất mà sản xuất ồ ạt thì
cung vượt cầu, kéo giá xuống. Khi đó họ lại kêu ca, phàn nàn doanh nghiệp
mua phá giá, mà trên thực tế chính họ là người phá giá. Chính phủ cần phải
làm cho nông dân, cũng như các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rằng kinh
doanh trên thương trường Mỹ là phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt, cạnh
tranh bán phá giá là một biện pháp khốc liệt nhất, vũ khí này thường dùng cho
các “đại gia” có tiềm lực tài chính mạnh, nhằm loại bỏ những đối thủ không
công sức. Và việc các doanh nghiệp giảm giá các sản phẩm của mình (do
được lợi từ sự tự phá giá nguyên liệu của nông dân trong nước) nhằm thu
được lợi nhuận nhất thời trên thị trường Mỹ sẽ khiến các doanh nghiệp Việt
Nam mất đi cơ hội kinh doanh và tự loại bỏ chính mình. Mặt khác, đây cũng
là bài học về sự phát triển có tổ chức, tránh quan niệm cứ sản xuất ra bao
nhiêu, cơ quan có thẩm quyền lại yêu cầu doanh nghiệp chế biến phải tiêu thụ
hết bấy nhiêu.
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 80
Thúc đẩy việc thành lập các hiệp hội ngành nghề và tăng cường vai trò
của nó nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát triển xuất khẩu. Đây là
một bài học rất hữu ích từ sau vụ kiện này. Trước khi xảy ra vụ kiện vai trò
của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tỏ ra mờ
nhạt trong hoạt động kinh doanh chế biến cũng như xuất khẩu thuỷ sản của
các doanh nghiệp, VASEP đã thừa nhận rằng Việt Nam hiện có khoảng 20
đầu mối xuất khẩu thủy sản, mặc dù sinh hoạt chung ở hiệp hội VASEP
nhưng vẫn có tình trạng tranh mua tranh bán. Chỉ khi các doanh nghiệp đụng
chuyện thì mới thấy lợi ích của mình bị thiệt hại ra sao. Hai năm trước,
VASEP đã yêu cầu thống nhất giá mua, giá bán nhưng các doanh nghiệp chỉ
“ừ” mà không thực hiện. VASEP không thể ép buộc các doanh nghiệp vì đây
chỉ là một tổ chức tự nguyện. Trước tình hình này Chính phủ nên có biện
pháp như yêu cầu việc tham gia hiệp hội ngành nghề sẽ trở thành quy định bắt
buộc đối với các doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh hoặc cho các doanh
nghiệp tham gia các hiệp hội được hưởng nhiều ưu đãi hơn về thuế, dịch vụ
công cộng…để cho các doanh nghiệp thấy rằng vào hiệp hội không chỉ là để
bán được hàng mà phải cùng nhau lo sao cho sản phẩm có nhãn hiệu, có tiêu
chuẩn quốc tế, cùng nhau duy trì để phát triển nghề của mình. Đồng thời cũng
yêu cầu các hiệp hội cải tổ lại cách thức hoạt động sao cho có hiệu quả và hợp
lý hơn, giúp các doanh nghiệp bảo vệ tối đa lợi ích của họ.
Các hiệp hội nên do các doanh nghiệp dân doanh bầu ra và hoạt động
độc lập. Tất nhiên là họ phải có mối quan hệ tốt với chính phủ và hoàn toàn
minh bạch. Các hiệp hội có thể đứng ra mời luật sư đến bàn thảo về Luật
doanh nghiệp của nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước, việc thu
thập thông tin về hệ thống luật pháp, tìm hiểu về thị trường, mẫu mã, các quy
định về chất lượng hàng hoá… tốt nhất nên để các hiệp hội ngành nghề cung
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 81
cấp cho doanh nghiệp như vậy các thông tin mà doanh nghiệp nhận được sẽ
cụ thể và chi tiết hơn.
Chính phủ, mặt khác, cần xem xét xem chúng ta có gì chưa phù hợp để
kịp thời điều chỉnh cho phù hợp. Chúng ta cứ nghĩ là kinh tế thị trường là tự
do hoàn toàn, mạnh ai nấy làm nhưng thực tế đã chứng minh rằng không phải
như vậy. Trong nghề nuôi cá tra, cá basa, năng lực xuất khẩu của An Giang
chỉ được 60 000 tấn cá thành phẩm nhưng người nuôi đang có trong tay
khoảng 110 000 tấn và đa phần đứng ngoài các câu lạc bộ, các hội đoàn chế
biến xuất khẩu là những nơi luôn gắn với thị trường. Và hậu quả của việc
tranh mua tranh bán đã gây ra phiền toái và thiệt hại cho ngành công nghiệp
cá tra, cá basa của chúng ta.
Vụ kiện này đặt ra một câu hỏi là tại sao các doanh nghiệp xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam lại không bán hàng đúng giá vừa tăng lợi nhuận cho cả
nông dân và nhà xuất khẩu vừa tránh được phiền toái? Xưa nay chúng ta chỉ
tính toán đơn thuần: mua cá basa khoảng 15000 đồng/kg, xuất khẩu giá 3
USD (45000 đồng/kg), tức là đã có lãi, ta không bán phá giá, nhưng không
tìm hiểu xem đối tác của ta ở nước sở tại chi phí sản xuất của họ thế nào? bán
hàng với giá bao nhiêu? Nừu nghiên cứu kỹ, ta sẽ đưa ra được một mức giá
phù hợp, không gây mâu thuẫn về lợi ích với các doanh nghiệp Hoa Kỳ thì
chắc chắn không đời nào họ lại nhiệt tình làm cái việc tốn kém là kiện cáo.
Thật đáng tiếc chúng ta có cả Hiệp hội Thuỷ sản mà lại không đưa ra được
mức giá hợp lý, thậm chí từng doanh nghiệp trong hiệp hội cũng cạnh tranh
với nhau để giảm giá xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Hơn nữa, ngay cả trong khi tình
hình xuất khẩu có thuận lợi ta cũng nên san sẻ sang các thị trường khác, bởi
cứ gia tăng sản lượng xuất khẩu vào một thị trường sẽ bị doanh nghiệp nước
sở tại phản ứng một cách tiêu cực. Từ những thiếu sót trên chính phủ cần tìm
ra một giải pháp thích hợp như thành lập một tổ chức chuyên tính toán giá
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 82
xuất khẩu hợp lý trên từng thị trường, cho từng mặt hàng nhằm hỗ trợ doanh
nghiệp trong công tác xuất khẩu, hoặc đề ra các quy định xử phạt khi các
doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh nhau gây ra hậu quả giảm giá xuất khẩu
dẫn tới các vụ kiện cáo.
Chính phủ nên khuyến khích các hiệp hội như VASEP, VINATEX,
LEFASO… đặt văn phòng đại diện ở nước ngoài chuyên liên hệ vận động cho
lợi ích quốc gia mình. Trong vụ kiện này, phía CFA đã sử dụng cả phương
thức vận động hành lang (lobby) để ‘hạ gục” các doanh nghiệp Việt Nam.
Việt Nam cũng có thể sử dụng phương thức này để vận động các tổ chức, cá
nhân có chung quyền lợi với chúng ta là các nhà nhập khẩu cá tra, cá basa góp
tiền cùng chúng ta thuê các tổ chức lobby chuyên nghiệp. Chúng ta có thể
dùng lobby (một phương tiện dành cho mọi tổ chức kinh tế – xã hội để làm rõ
quan điểm và quyền lợi chính trị, kinh tế của mình đối với chính quyền và dư
luận. Lobby được coi là hoạt động hợp pháp và ở Mỹ người ta có cả một đạo
luật về vấn đề này: Lobby Dislosure Act 1995) không chỉ hướng tới chính
quyền mà còn hướng tới dư luận, những người tiêu dùng có lợi ích với hàng
nhập khẩu giá cạnh tranh, qua đó gây áp lực đối với chính quyền và cũng qua
lobby, chúng ta có thể thương thảo với người đi kiện, thoả thuận mức giá bán
và sản lượng xuất khẩu mà cả hai bên chấp nhận được, nhất là không làm cho
người đi kiện bị “mất mặt” thì sẽ loại trừ được những rủi ro, thiệt hại về kinh
tế do kiện cáo gây ra. Thêm nữa lobby vừa tránh được xung đột quyền lợi vừa
tạo ra được hình ảnh thân thiện của nhà xuất khẩu ở nước nhập khẩu.
Chính phủ cũng nên thành lập quỹ hỗ trợ tài chính cho các doanh
nghiệp, các nhà sản xuất khi có các vụ kiện xảy ra. Thực tế, khác với CFA có
quỹ tiền nhiều triệu USD và được tổ chức tốt, những người nông dân Việt
Nam chỉ là chủ của những bè cá nhỏ, manh mún dọc bờ sông Mêkông. Khi
theo kiện họ sẽ chịu những tốn phí không nhỏ. Nhà nước đến lúc đó không
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 83
thể hỗ trợ họ. Có chuyên gia đã cho rằng Việt Nam không thể đủ tiền theo
kiện thì làm sao mà thắng kiện được.
Cái giá của vụ kiện này không phải là đắt, qua đó Việt Nam phải học và
bảo hộ mậu dịch một cách tinh vi hơn, chỉ những ngành nào có lợi thì nên tự do
hoá thương mại còn với những ngành bất lợi thì sẽ sử dụng hàng rào pháp lý.
2. Bài học đối với các doanh nghiệp
Vụ tranh tụng này xảy ra là điều rất đáng tiếc đối với cả hai quốc gia.
Đây là việc nhỏ mà phải đưa đến Quốc hội, Chính Phủ, Bộ Ngoại Giao, Bộ
Thương mại hai nước giải quyết thì thật đáng tiếc. Trong bối cảnh Chính phủ
hai nước vừa thông qua Hiệp định Thương mại song phương, các doanh
nghiệp không nên để Chính phủ phải can thiệp vào những sự vụ cụ thể. Điều
đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích quốc gia.
Thực ra không riêng gì cá Basa, tất cả những gì mình kinh doanh, mình
sản xuất, từ hàng may mặc, giày da, lúa gạo…thì người Mỹ cũng đều làm.
Cho nên họ phải có biện pháp bảo vệ hàng hoá tự sản xuất ra. Tất cả doanh
nghiệp phải luôn luôn cảnh giác rằng không có cái gì mình làm mà họ lại
không làm cả và không có lĩnh vực nào là không có yếu tố cạnh tranh. Cá
basa cũng là mặt hàng được sản xuất nhiều tại Mỹ. Họ sợ con cá basa của ta
vào diệt họ, bóp chết thị trường trong nước mà họ đã phải đầu tư hàng tỷ
USD, họ kêu lên để tự vệ là điều dễ hiểu. Có một thực tế chúng ta cần phải
lưu ý, các nhà làm chính trị của Mỹ rất mị dân. Tại tiểu bang Mitinixi – tiểu
bang nuôi nhiều cá catfish, các vị dân biểu nghị sỹ ở đây sẽ đứng ra bảo vệ
quyền lợi cho người sản xuất của họ mặc dù nó có thể đi ngược với Hiệp định
Thương mại, không làm như vậy họ sẽ mất tín nhiệm, lần sau họ không được
bầu nữa. Cho nên cùng với việc tác động ngoại giao cực kỳ tế nhị của Chính
phủ Việt Nam để họ hiểu mình không làm mất quyền lợi của họ mà chỉ làm
lợi thêm cho họ thì các doanh nghiệp Việt Nam – những doanh nghiệp dù
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 84
không được Nhà nước trợ giúp dưới bất kỳ hình thức nào, dù phải bươn trải,
cạnh tranh thực sự cũng đừng quá tự tin vào tính minh bạch, vô tư hoàn toàn
của luật pháp nước mà mình xuất hàng vào mà phải truy tìm nguyên nhân
đích thực - cái nằm ở bên trong vụ việc.
Qua vụ kiện, các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ hơn rằng muốn đi vào
nền kinh tế thị trường thì cần phải biết luật chơi của nó, muốn chơi với Mỹ thì
phải biết luật Mỹ và chơi theo kiểu Mỹ. Cũng như vậy với các nước khác và
khi vào WTO ta phải biết luật chơi chung của thế giới. Đồng thời cũng phải
có giải pháp để đối phó khi bị chơi ép.
Điều đáng quan tâm trong vụ kiện này là các doanh nghiệp Việt Nam
hoàn toàn chưa có sự chuẩn bị về mặt pháp lý khi thâm nhập vào các thị
trường nhất là Mỹ - một thị trường rất phức tạp. Tình trạng bị động ở đây còn
ở chỗ ta không có sẵn trong tay một đội ngũ luật gia có kiến thức, kinh
nghiệm về luật pháp quốc tế đủ khả năng thụ lý những vụ kiện kiểu này. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp và các cơ quan chức năng của Việt Nam còn có
những hạn chế về kinh nghiệm trong các vụ kiện tụng, tranh chấp về thương
mại như vụ cá basa cũng như những hạn chế về hiểu biết luật pháp quốc tế và
ngoại ngữ đủ ứng đối trong những vụ kiện quốc tế đó. Đó là những điểm yếu
của ta cần được bổ sung.
Vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa Việt Nam vào thị trường
Mỹ cũng cho thấy một thực trạng: các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
chỉ mới chủ yếu chăm lo sản xuất, tìm bạn hàng, tìm thị trường mà chưa chú ý
đúng mức đến nghiên cứu luật lệ thương mại các nước, luật chống bán phá giá
và các thủ tục khác có liên quan đến xuất khẩu để có sự phòng ngừa ngay từ
đầu những tranh chấp đáng tiếc có thể xảy ra.
Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản, cơ sở nuôi cá cũng thu
được bài học về tinh thần đoàn kết, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 85
giới. Trong vụ kiện này, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
đã tập hợp được 14 doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ sản cá tra và cá
basa cùng nhau chia sẻ chi phí, kiên quyết theo đuổi vụ kiện đến cùng. Nếu
không có vai trò của Hiệp hội thì một doanh nghiệp riêng rẽ sẽ khó có đủ điều
kiện để theo đuổi vụ kiện.
Hơn nữa các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ cũng như các
doanh nghiệp đang làm ăn tại Mỹ của Việt Nam cũng có cơ hội để nhìn nhận
lại chính mình, để suy ngẫm xem tại sao có nhiều doanh nghiệp Việt Nam
chưa tới đất Mỹ đã chết yểu ngay tại thị trường trong nước. Tất cả là vì không
có tính cộng đồng, không nghĩ đến quyền lợi chung, mà chỉ nghĩ tới quyền lợi
riêng, cứ muốn chạy lên hàng đầu. Biết là ngồi lên tàu sẽ cùng đến đích một
lúc, nhưng ai cũng cố chen lên đầu tầu và cuối cùng tầu chìm, tất cả đều cùng
chết đuối. Trong thương mại cạnh tranh theo kiểu tự phá giá là hại chính
mình. Các nông dân nuôi cá muốn bán được nhiều cá đã tự giảm giá để rồi
đến khi xảy ra chuyện lại đổ lỗi cho các doanh nghiệp mua rẻ, còn các doanh
nghiệp muốn xuất khẩu được nhiều hàng cũng không tính toán đến mức giá
hợp lý và cuối cùng để bị kiện bán phá giá. Không riêng gì trong vụ kiện này
mà các doanh nghiệp Việt Nam đã tự hại lẫn nhau trong các lĩnh vực khác
nữa. Ví dụ như: nghề mộc thủ công mỹ nghệ, sản xuất bàn ghế của Việt kiều
tại miền Nam California là nghề hái ra tiền. Đáng lẽ các ông chủ Việt kiều
nên bảo nhau để giữ giá, bảo nhau cùng làm ăn, đằng này ai cũng muốn bán
được nhiều hàng, cứ tự hạ giá, đến lúc làm ăn thua lỗ phải phá sản cả nghành,
để lại thị trường cho người Tây Ban Nha chiếm lĩnh. Hay vụ việc hệ thống
chợ bán lẻ (đầu tiên thị trường này không có Hoa kiều tham gia) do cộng
đồng người Việt lập ra để buôn bán với nhau, làm ăn rất phát đạt. Nhưng cũng
chính những người Việt này đã cạnh tranh hạ giá đến độ sập tiệm. Khi đó Hoa
kiều vào mua lại, bảo nhau làm ăn và trở thành những người giầu có nhất.
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 86
Đặc biệt cần chú ý khi có tranh chấp phát sinh trong việc kinh doanh
trên thương trường Mỹ ta nên tiến hành đối thoại mà không nghênh chiến.
Phải đối thoại ngay thẳng trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Vậy đối thoại với
ai ? khi tranh chấp trên đất Mỹ, trước tiên tiến hành đối thoại với những nhà
chính trị có tiếng nói mạnh, sau đó đối thoại với hiệp hội nghề nghiệp của lĩnh
vực kinh doanh đang có tranh chấp. Hiểu rõ những bức xúc của họ, chúng ta
có giải pháp thoả đáng. Mục đích của họ là mua hàng, ta thì tìm lợi nhuận, tìm
thị trường. Nếu họ thông cảm thì mình phải ngồi xuống và thương lượng. Nếu
chúng ta đem luật lệ, lý lẽ của chúng ta để đối nhau thì họ lại đem luật của họ
ra để đối chọi lại, vừa tốn kém thời gian, tiền bạc chi phí cho kiện tụng, vừa
không có kết quả tốt đẹp mà còn ảnh hưởng đến mối quan hệ hai bên. Cụ thể
vụ kiện cá Basa không nên làm to chuyện đến cùng mà cần phải mềm mỏng
vì dù sao tiềm lực kinh tế của mình cũng khiêm tốn, họ lại là khách hàng của
mình, dung hoà, nhượng bộ một chút mình sẽ duy trì được mục tiêu chính là
xuất được cá, đó mới là điều quan trọng, mặt khác để chính phủ hai nước can
thiệp vào việc kinh doanh là điều không hay. Tuy nhiên cũng không nên để
tâm lý e ngại, dĩ hoà vi quý quá lấn lướt để họ có cơ hội đòi hỏi mình quá
đáng. Cần phải kết hợp nhu cương đúng lúc, lạt mềm buộc chặt để giải quyết
vấn đề một cách thoả đáng.
Mặt khác, các nhà sản xuất và chế biến cá basa của Việt Nam không
nên “bỏ trứng một rổ” mà hãy tìm kiếm các thị trường khác – một vùng nước
mới không có “cá mập” để không phụ thuộc nhiều vào Mỹ. Các doanh nghiệp
có thể liên hệ chặt chẽ với bạn hàng Mỹ, họ có thể giới thiệu sản phẩm của
Việt Nam ở nhiều thị trường khác. Cái gì cũng có hai mặt của nó và vụ kiện
cá basa cũng vậy, vụ kiện này đã gây tổn hại không nhỏ về mặt kinh tế cho
các hộ nuôi cá, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam nhưng nó cũng đã
làm cho cá basa của chúng ta nổi tiếng khắp thế giới. Sau vụ kiện, các doanh
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 87
nghiệp đã tích cực tìm kiếm, xây dựng thị trường ở Châu Âu, Nhật Bản, Hồng
Kông, các nước Trung Đông…và chính thức đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị
trường này. Sản lượng cá tra, cá basa xuất khẩu vào thị trường Châu Âu (vốn
rất khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm) đã tăng gấp hai lần trong năm
tháng đầu năm 2003 đạt doanh thu khoảng 100 triệu USD, các thị trường mới
như Đức, Pháp, Bỉ…đều rộng mở, đặc biệt tại thị trường Australia mức thuế
suất đánh vào hàng nhập khẩu thuỷ sản là 0%, và đây đang là lợi thế cần được
khai thác. Ở thị trường Nhật Bản, hiện nay Việt Nam đang đứng thứ 2 về tôm,
thứ 3 về mực và đứng thứ 10 trong tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của
Nhật Bản với mức khoảng 66.6 tỷ Yen (555 triệu USD). Cuộc hội thảo
chuyên đề về các basa và thuỷ sản do thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản tổ
chức ngày 17/7/2003 tại Tokyo đă thu hút được sự quan tâm chú ý của đại
diện gần 200 doanh nghiệp của đất nước hoa anh đào. Điều này chứng tỏ sự
quan tâm đặc biệt của người tiêu dùng Nhật Bản đối với sản phẩm cá tra và cá
basa của Việt Nam và Nhật Bản cũng hứa hẹn trở thành một thị trường nhập
khẩu tiềm năng đối với loại cá này của Việt Nam. Thêm vào đó, thị trường
các nước Hồi giáo cũng có thuận lợi lớn với việc hơn 50 sản phẩm chế biến từ
cá basa, cá tra của Việt Nam vừa được chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn sử
dụng thực phẩm của người theo đạo Hồi…Vụ việc này cũng khiến các doanh
nghiệp Việt Nam bừng tỉnh và quyết định xây dựng kế hoạch phát triển thị
trường nội địa như một chiến lược lâu dài.
Tóm lại, ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xây
dựng một cơ chế thống nhất. Trước hết, các doanh nghiệp phải đoàn kết, thực
hiện nghiêm chỉnh những quy định và tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, quy
trình và điều kiện sản xuất, an toàn, vệ sinh... (Cụ thể như việc VASEP đã đề
nghị Bộ Thương mại xem xét đưa cá basa vào chương trình xây dựng thương
hiệu quốc gia và bổ sung mặt hàng này vào danh sách được hưởng chính sách
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 88
hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, xây dựng lại quy hoạch vùng sản xuất cá tra, cá
basa nguyên liệu ở đồng bằng sông Cửu Long). Ngoài ra, các doanh nghiệp
cũng phải nhanh chóng đăng ký thương hiệu tại các thị trường nước ngoài mà
mình dự kiến thâm nhập, nhất là với những thị trường mà các vụ kiện xảy ra
như “cơm bữa” như Mỹ, EU. Doanh nghiệp cần lưu trữ đầy đủ các bằng
chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại để khi gặp tình trạng
tranh chấp thương hiệu thì có thể sử dụng để giành quyền về mình. Thực tế đã
khẳng định rằng, có không ít các vụ kiện giữa các doanh nghiệp trong và
ngoài nước đều xuất phát từ tranh chấp về thương hiệu và vụ kiện cá basa
không phải là một ngoại lệ.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU THUỶ SẢN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO
THỊ TRƯỜNG MỸ
Đứng trước xu hướng ngày càng gia tăng các vụ kiện chống bán phá
giá của Mỹ đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, Chính phủ cũng như các
doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần phải nghiên cứu và tìm ra các giải
pháp nhằm hạn chế tác động của Luật chống bán phá giá của Mỹ đối với hàng
xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ trên cơ sở quy trình của một
“cuộc tổng tấn công” bằng đòn chống bán phá giá của Mỹ mà chúng ra đã
phát hiện ra:
Bài xích
Vận
động
Quốc
hội
Cuộc
chiến
thương
hiệu
Kiện bán
phá giá
Cuối 2000 9/2/2001 5/10/2002 28/6/2002 4/2003
Quá trình một vụ kiện
chống bán phá giá tại Mỹ
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 89
Những rào cản thương mại kiểu như rào cản chống bán phá giá ở Mỹ là
rất minh bạch và phổ biến. Điều quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam
cần phải chủ động nhận biết và vượt qua rào cản đó. Thật đáng sợ là trong
trường hợp nếu chúng ra không nắm rõ quy trình như thế nào thì không thể
xác định được quy mô rào cản thương mại này lớn đến đâu và hậu quả của nó
đối với nền kinh tế của chúng ta sẽ nặng nề như thế nào.
1. Các giải pháp mang tính định hướng chung để đối phó với một vụ kiện
chống bán phá giá.
Chính phủ cần tích cực triển khai việc đàm phán song phương, đa phương
để tranh thủ nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước thực hiện kinh tế thị
trường, từ đó yêu cầu Mỹ trao cho quy chế nước có nền kinh tế thị trường,
được như vậy thì khi bị Mỹ kiện bán phá giá chúng ta sẽ ít bị thiệt thòi hơn về
mức thuế suất. Bên cạnh đó cũng cần đẩy mạnh tiến trình đàm phán gia nhập
WTO, sử dụng các quy tắc của WTO để hạn chế tác động tiêu cực của Luật
chống bán phá giá Hoa Kỳ;
Phải biết kết hợp sức mạnh quốc tế với sức mạnh dân tộc để đối phó với
các vụ kiện. Rõ ràng trong vụ kiện này Việt Nam đã nhận được nhiều sự ủng
hộ của cộng đồng quốc tế, của chính những người tiêu dùng Mỹ. Điều này
không chỉ buộc các cơ quan xét xử của Mỹ không xử ép Việt Nam một cách
quá sai lầm và hạn chế được thiệt hại về kinh tế cho Việt Nam khi bị áp thuế
chống bán phá giá mà còn dành được sự yêu mến của cộng đồng người tiêu
dùng thế giới đối với các sản phẩm cá của Việt Nam;
Phát huy vai trò của các Hiệp hội chuyên ngành, tăng cường sự phối hợp
của các doanh nghiệp để làm mạnh thêm năng lực kháng kiện của các doanh
nghiệp. Quá trình điều tra càng sâu bao nhiêu thì các doanh nghiệp càng phải
phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ với nhau;
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 90
Các doanh nghiệp của Việt Nam nên có tinh thần tích cực theo đuổi các
vụ kiện khi bị kiện bán phá giá, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ từ phía Chính
phủ. Theo quy tắc của WTO trong giải quyết bán phá giá, doanh nghiệp đóng
vai trò chính còn Chính phủ của doanh nghiệp bị khởi kiện chỉ đóng vai trò
phụ. Nếu doanh nghiệp từ bỏ quyền lợi kháng kiện, cho dù là bị oan, thì
Chính phủ cũng không có cách nào làm thay để cứu vãn. Đặc biệt khi các vụ
kiện xảy ra, không nên lẩn tránh hoặc ngại ngùng mà cần nhanh chóng hợp
tác chặt chẽ với đối tác và cơ quan chức năng của Chính phủ, xem đó như là
một phần của công việc kinh doanh bởi có những vụ tranh chấp lớn, không
vào cuộc dễ dẫn đến sự thiệt hại lớn về kinh tế thậm chí còn mất cả thị
trường;
Chính phủ nên phổ biến rộng rãi kiến thức về Tổ chức Thương mại thế
giới và Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ cho các doanh nghiệp
xuất khẩu, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia giỏi, hình thành những tổ chức
chuyên phục vụ việc ứng phó với các tranh chấp về ngoại thương có khả năng
tư vấn cho doanh nghiệp và hỗ trợ chính phủ khi có các vụ kiện xảy ra. Hiện
nay, Bộ Thương mại mới thành lập Ban Quản lý cạnh tranh nhưng sự hoạt
động của ban này chưa lan toả mạnh, còn ở các bộ ngành khác, vai trò của bộ
phận pháp chế còn rất yếu so với yêu cầu;
Bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chú
trọng vào việc làm thế nào để có lợi nhuận lớn nhất chứ chưa chú ý đến việc
làm thế nào để chiến thắng khi bị kiện tụng. Ở hầu hết các doanh nghiệp, vai
trò của các luật sư cố vấn là mờ nhạt thậm chí là không có, và khi xảy ra các
vụ kiện cáo đặc biệt là các vụ kiện mang tính quốc tế thì ta luôn ở thế bị động,
lúc đó các doanh nghiệp mới đi mời luật sư hoặc đến tư vấn ở các văn phòng
luật. Việc này có một hạn chế lớn là các luật sư hoặc các cơ quan tư vấn luật
lại không phải là người trong cuộc, không nắm rõ tình hình hoạt động của
doanh nghiệp, nghiệp vụ kinh tế hạn chế, nên không thể chủ động tìm ra
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 91
những điểm thắng thế của doanh nghiệp trong một thời gian ngắn để cho vụ
kiện phải kéo dài, gây rất nhiều tốn kém. Do vậy mà Chính phủ nên thành lập
cơ quan chuyên trách hầu kiện. Tổ chức này là rất cần thiết, bao gồm các luật
sư, kế toán, các nhà kinh tế chuyên nghiên cứu các diễn biến xu hướng kinh tế
quốc tế và các chuyên gia chuyên nghiệp có liên quan có năng lực làm việc
cao; nhằm hỗ trợ chính phủ cũng như các doanh nghiệp giải quyết các tranh
chấp thương mại phát sinh qua các vụ kiện một cách chuyên nghiệp và kinh
nghiệm hơn, từ đó hạn chế được tổn thất cho nền kinh tế trong nước nói
chung và cho ngành công nghiệp có liên quan nói riêng. Đây có thể là một cơ
quan nhà nước hoặc hoạt động như các tổ chức phi chính phủ khác như
VASEP…;
Khi bị kiện tụng các doanh nghiệp nên tích cực hoàn thành các hồ sơ thẩm
vấn. Đây là bảng cầu hỏi hoặc bảng yêu cầu mà Cơ quan tiến hành điều tra
chống bán phá giá đại diện cho bên nguyên cung cấp. Các doanh nghiệp cần
đưa ra đầy đủ các tư liệu, chứng cứ, phần nào thuộc tài liệu cơ mật của doanh
nghiệp thì phải yêu cầu đối phương bảo quản không được tiết lộ. Việc này sẽ
thể hiện tinh thần hợp tác của bị đơn cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình điều tra chống bán phá giá được tiến hành một cách nhanh chóng, tránh
tốn kém về tiền bạc và thời gian cho cả hai phía
Các doanh nghiệp cũng cần tích cực chuẩn bị tài liệu và ý kiến bảo vệ,
biện hộ. Đặc biệt các doanh nghiệp cần phải chú ý những vấn đề sau:
- Tính đại biểu và tư cách của bên khiếu kiện, theo quy định của WTO, phải
là doanh nghiệp cùng ngành hàng nước nhập khẩu, họ và những người ủng hộ
họ có tổng sản phẩm không được ít hơn 50% sản phẩm toàn quốc, nếu không
họ sẽ không được khiếu kiện.
- Bản thân mình có hành vi bán phá giá hay không, biên độ bán phá giá là
bao nhiêu, đã bán phá giá bao nhiêu lần và đã đình chỉ hay chưa.
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 92
- Hành vi phá giá gây thiệt hại cho doanh nghiệp cùng ngành hàng nước
nhập khẩu như thế nào, có tồn tại quan hệ nhân quả hay không?
- Sự phán xét bán phá giá có dựa vào các tiêu chuẩn, căn cứ hợp lý hay
không?
Các doanh nghiệp bị kiện nên đưa ra lời hứa giá cả. Nếu xét thấy đúng là
mình đã có hành vi phá giá gây thiệt hại cho doanh nghiệp cùng ngành hàng
nước nhập khẩu thì nên chủ động thương lượng với Chính phủ nước khởi kiện
về cam kết giá cả và thời gian thực hiện. Việc này sẽ tránh bị trừng phạt nặng
nề và dành được sự cảm thông của phía đối phương;
Các doanh nghiệp cũng có thể yêu cầu cơ quan tư pháp nước nhập khẩu
can thiệp. Nếu không chấp nhận kết luận của Chính phủ nước khởi kiện, có
thể kháng án lên cơ quan tư pháp của nước nhập khẩu. Ở Mỹ là Toà án
Thương mại quốc tế ITC và cao hơn nữa là Toà án liên bang;
Đề nghị Chính phủ can thiệp. Nếu có đủ chứng cứ chứng minh hành vi
kiện bán phá giá chỉ là chuyện nước nhập khẩu muốn bảo hộ mậu dịch, gây
thiệt hại cho doanh nghiệp thì bị đơn có thể đề nghị Chính phủ can thiệp đến
tận WTO (khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này);
Kịp thời đề nghị phúc thẩm. Trong thời gian 5 năm kể từ ngày nộp thuế
chống bán phá giá, nếu bên bị đơn đã chấm dứt hành vi bán phá giá thì cần
kịp thời đề nghị Chính phủ nước khởi kiện bán phá giá phúc thẩm, để huỷ bỏ
các hình thức xử phạt trước đây. Điều này là rất cần thiết để tránh những thiệt
hại kinh tế không đáng có đối với hàng hoá bị áp thuế chống bán phá giá;
Hình thành cơ chế thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh nhất trong
các doanh nghiệp. Điều này không những giúp các doanh nghiệp luôn nắm
được diễn biến của thị trường quốc tế mà còn chủ động hơn trong các vụ kiện
khi đã hiểu rõ phần nào đối phương của mình.
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 93
2. Các giải pháp cụ thể.
Đối sách đầu tiên và cũng là đối sách hàng đầu trong việc hạn chế ảnh
hưởng Luật chống bán phá giá của Mỹ đối với hàng xuất khẩu Việt Nam
chính là phải biết biến bất lợi thành lợi thế. Phải tập quen dần với cuộc chơi.
Đứng trước một vụ kiện chống bán phá giá, để thành công Việt Nam cần phải
chủ động chuẩn bị thật tốt hai yếu tố: kỹ thuật và pháp lý. Về kỹ thuật, cần
phải nhanh chóng hoàn chỉnh ngay từ khâu nguyên liệu đến nuôi trồng, chế
biến…Chúng ta cần phải có những hồ sơ trình bày kỹ thuật thật hoàn chỉnh để
đối phương không thể bắt bẻ mình. Về mặt pháp lý, việc đầu tiên là chúng ta
không chỉ biết lo liệu cho mình mà còn phải thu thập thông tin đầy đủ về đối
phương ví dụ như việc họ sẽ nhờ công ty luật nào, lobby ra sao, quan hệ của
họ cũng như mẫu thuẫn giữa họ với các nhà nhập khẩu… Hay phải xác định
được rằng giá cả cá nheo cũng như của nhiều mặt hàng thủy sản khác của Mỹ
tăng cao là do hậu quả của một loạt những yếu tố như: sự hợp nhất giữa các
công ty cá nheo, một nền kinh tế suy thoái chưa có dấu hiệu phục hồi và sự
kiện ngày 11/9… chứ không phải nguyên nhân giá cá tra, cá basa rẻ hơn là do
Việt Nam bán phá giá. Điều này có lẽ sẽ rất cần thiết khi sắp tới đây Mỹ sẽ
kiện Việt Nam bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ. Lần này Mỹ sẽ phải đối
đầu với 16 nước, trong đó Việt Nam đã dày dạn kinh nghiệm và chủ động
hơn;
Về phía các cơ quan chức năng cần phải tăng cường hơn công tác quản lý
xuất nhập khẩu và việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Việt Nam nhằm
kiểm soát được chính xác số liệu hàng xuất khẩu của Việt Nam đồng thời hạn
chế tối đa việc C/O bị làm giả hoặc bị lợi dụng. Đây là vấn đề hết sức quan
trọng bởi qua thực tế các vụ kiện chống bán phá giá vừa qua giữa Việt Nam
và các nước khởi kiện thường có sự khác biệt lớn về số liệu thống kê hàng
xuất khẩu có xuất xứ từ Việt Nam;
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 94
Thêm nữa, Chính phủ cũng nên giúp doanh nghiệp tổ chức các hội chợ
thương mại nhằm giới thiệu sản phẩm cá tra và cá basa trên đất Mỹ để quảng
bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm và chiếm được lòng tin của người tiêu
dùng Mỹ;
Về phía các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược marketing ở Mỹ.
Trước tiên để thâm nhập một thị trường lớn phải tìm những khách hàng mua
lớn. Đây chính là kinh nghiệm thành công của Hồng Kông, Đài Loan, Hàn
Quốc…Các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý đến những nhà bán lẻ trên toàn
nước Mỹ. Nên mời họ đến Việt Nam, xây dựng mối quan hệ với họ, sau đó sẽ
mời họ đặt hàng. Đây là những khách hàng lớn, đồng thời sẽ giúp các doanh
nghiệp Việt Nam phát triển. Họ sẽ nhận hàng của Việt Nam tại một điểm và
phân phối khắp nước Mỹ. Trước mắt là như vậy, về lâu dài thì các doanh
nghiệp Việt Nam cũng phải xây dựng một hệ thống phân phối của mình. Từ
đó có thể kiểm soát được mức giá bán chung và tránh được việc các doanh
nghiệp tự mình phá giá để cạnh tranh với nhau;
Liên kết với các nhà nhập khẩu Mỹ để có thể sản xuất cá tra và cá basa
ngay trên đất Mỹ. Việc đó không những giảm được chi phí vận chuyển khi
xuất khẩu mà còn giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về cách kinh doanh trên
thương trường Mỹ, tạo được sự ủng hộ của chính người dân Mỹ. Nhằm thực
hiện giải pháp này, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang có kế hoạch
triển khai mô hình nuôi cá tra và cá basa trên đất Mỹ và ngược lại sẽ nuôi cá
nheo Mỹ tại Việt Nam. Đây là chương trình hợp tác thương mại song phương
đồng thời kết quả của nó sẽ là minh chứng cụ thể nhất khẳng định giá thành
cá tra và cá basa thấp và Việt Nam không bán phá giá loại cá này vào thị
trường Mỹ;
Đẩy mạnh việc quảng bá thương hiệu và nâng cao chất lượng sản phẩm
thông qua các hội chợ thương mại, các chiến dịch quảng cáo. Để làm được
việc này trước tiên các doanh nghiệp cần tự “tổng kiểm tra sức khoẻ” của
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 95
chính mình, phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ), và
xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, đổi mới công nghệ sản xuất, và cải
thiện cơ chế thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh nhất. Bên cạnh đó các
doanh nghiệp cũng không nên quên rằng cần phải tập trung khắc phục điểm
yếu lớn nhất của mình đó là năng lực sản xuất còn hạn chế - đây chính là yếu
tố cản trở nguồn cung xuất khẩu vào Mỹ;
Đổi mới cách tiếp cận thị trường Mỹ, nên chăng các doanh nghiệp Việt
Nam cần điều chỉnh cách sản xuất của mình để đạt hiệu quả hơn khi xuất
khẩu thủy sản vào Mỹ? Chúng ta có thể thực hiện chen mùa vụ, nuôi trồng
thuỷ sản, người Mỹ nuôi trồng theo mùa vụ, mùa đông tại Mỹ quá lạnh, cá,
tôm không phát triển nên họ nghỉ, ta nên tự điều chỉnh chen mùa vụ, mùa sản
xuất chính của họ ta nên xuất ít, đến vụ nghỉ đông của họ ta nên xuất nhiều.
Hoặc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nếu họ hay bán cá tươi tại chợ, thì ta
không nên làm giống họ mà chế biến thành cá nướng hoặc các thành phẩm
khá và điều chỉnh về giá cho phù hợp với thị trường Mỹ; Một điều thuận lợi
nữa là hiện nay Mỹ chỉ đánh thuế chống bán phá giá cá philê còn các sản
phẩm chế biến từ cá basa thì không. Các doanh nghiệp Việt Nam nên cố gắng
khai thác lợi thế này;
Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh ở Mỹ để tránh xung đột quyền lợi đến
mức kiện tụng lên toà án. Chúng ta sẽ còn gặp nhiều bất lợi ở thị trường Mỹ
nếu không có chiến lược sống chung với các đối thủ mạnh có thế lực ở ngay
xứ sở của họ; Các doanh nghiệp cần phải biết rằng khi một nước xuất khẩu
đến một nước khác những sản phẩm có nhiều ưu thế hơn về chất lượng, giá cả
thì chắc chắn dù ít hay nhiều cũng sẽ đụng phải phản ứng của những nhà sản
xuất cùng sản phẩm trong nước đó. Đây có thể là phản ứng không công bằng
nhưng thực tế vẫn thường xảy ra và ta phải chấp nhận nó như một quy luật
của thương trường. Vấn đề mấu chốt là chúng ta phải dự báo và định lượng
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 96
được mức độ phản ứng đó ngay cả lúc trước khi đem hàng qua bán để đề ra
được những sách lược đối phó thích hợp;
Nắm chắc thể chế, chính sách hiện hành của Mỹ đối với hàng nhập khẩu,
Luật Thương mạiệợà Luật Khống bán phá giá. Đồng thời, Việt Nam cũng nên
chú ý nghiên cứu thật kỹ Luật Thương mại quốc tế và các Quy định điều ước
quốc tế đa biên để không bị các cường quốc kinh tế như Mỹ lấn át. Cũng như
nhanh chóng hoàn thiện Pháp lệnh về Chống bán phá giá đối với hàng hoá
nhập khẩu vào Việt Nam. Công cụ này không chỉ được sử dụng một cách hữu
hiệu để bảo vệ thị trường trong nước mà còn có thể dùng như một biện pháp
để “trả đũa” trong các cuộc tranh chấp thương mại quốc tế mà Mỹ hay làm.
Tuy nhiên Việt Nam cũng cần biết rõ rằng Hiệp định Chống bán phá giá của
WTO thừa nhận các biện pháp chống bán phá giá là một công cụ hỗ trợ các
ngành sản xuất trong nước khi có hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu và
hành vi gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong
nước nhưng cũng không nên quá lạm dụng Luật chống bán phá giá để tạo ra
lợi thế thương mại không bình đẳng cho mình và tạo nên tiền lệ xấu cho chủ
nghĩa bảo hộ phát triển;
Đẩy mạnh việc sản xuất cá theo mô hình khép kín. Từ đó chủ động được
vấn đề cung cấp nguyên liệu sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Tiết kiệm được
khoản chi phí khá lớn do cắt giảm chi phí vận chuyển, tận dụng được nguồn
chất thải công nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn
HACCP từ khâu nuôi trồng đến khâu sản xuất chế biến, giảm thiểu được
lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường xung quan. Mục đích của việc này là
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu và tính cạnh tranh của sản
phẩm Việt Nam trên thị trường Mỹ. Một trong những yếu tố quan trọng nữa
nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho hàng xuất khẩu sang Mỹ là
chúng ta cần xây dựng một hệ thống phương tiện, máy móc kỹ thuật hiện đại.
Cụ thể là EU vừa qua gặp vụ việc thịt gà, sữa nhập khẩu có hàm lượng dioxin
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 97
cao, họ có đủ phương tiện kiểm tra nhanh, chính xác hàm lượng này, trong
khi Việt Nam chỉ có một nơi duy nhất nhưng lại cho kết quả chỉ mang tính
tham khảo chứ không phải là kết luận có độ chính xác cao. Hàng thuỷ sản
cũng vậy, muốn kiểm tra dư lượng cloramphenicol cần xây dựng được những
trung tâm hiện đại với vốn đầu tư vài ba triệu USD. Trong khi chúng ta đang
ngần ngại với số vốn trên thì nguy cơ mất hàng chục triệu USD kim ngạch
xuất khẩu cũng như sự sụt giảm về thị trường xuất khẩu có lẽ ít ai nghĩ đến.
Như vậy trước mắt dù các sản phẩm cá tra và cá basa của Việt Nam có
bị đánh thuế chống bán phá giá cao đi chăng nữa thì với một sản phẩm có chất
lượng và đảm bảo vệ sinh như vậy thì chúng ta vẫn có thể trụ vững trên thị
trường Mỹ, vẫn giữ được thị phần của mình.;
Tìm đối tác trung gian giúp mình xuất khẩu cá để giữ thị phần cá tra và cá
basa trên thị trường Mỹ. Ví dụ các doanh nghiệp Việt Nam có thể đặt văn
phòng đại diện tại Panama. Đây là một nước nhỏ chỉ có 2,8 triệu dân nên nếu
xuất khẩu vào nước này cho dân họ tiêu thụ thì sản lượng ít nhưng quan trọng
là ở Panama có khu mậu dịch tự do, diện tích khoảng 400 ha và có đến 2000
doanh nghiệp của hơn 30 nước tập trung tại đây để tạm nhập tái xuất riêng
Việt Nam chưa có văn phòng đại diện nào. Ở khu này thuế tạm nhập tái xuất
là 0% hơn nữa một số doanh nghiệp của Panama đang hỏi về cá tra và cá basa
của Việt Nam để bán sang thị trường Mỹ và các nước khác;
Một điều tối quan trọng mà Chính phủ Việt Nam cũng như các doanh
nghiệp không thể bỏ qua đó là cần phải có giải pháp bảo vệ thương hiệu cá tra
và cá basa trên thị trường Mỹ. Bởi lẽ phán quyết cuối cùng của Mỹ còn có
nguy cơ làm mất thương hiệu cá tra và cá basa trên thị trường Mỹ khi một số
doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài lợi dụng mức thuế suất 0% mà Mỹ đã
“vung tay ban phát”, để mua cá từ thị trường Việt Nam về đóng nhãn mác
mới rồi xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp cần phải nhanh
chóng đăng ký thương hiệu cho các sản phẩm cá của mình không chỉ trên thị
Chương III: Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E 98
trường Mỹ (chi phí đăng ký khoảng 5000USD) mà còn ở các thị trường tiềm
năng khác (ví dụ như thị trường Nhật Bản với chi phí là 8000USD)…
Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ đã mở ra một viễn cảnh tươi
sáng cho nền thương mại hai nước và đem lại nhiều cơ hội kinh doanh cho
các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các thương nhân Mỹ. Đứng trước một
thị trường Mỹ đầy tiềm năng và thách thức các doanh nghiệp Việt Nam nên tự
tin vào chính mình, chủ động tiếp cận và vượt qua các rào cản thương mại
trên thị trường Mỹ một cách khôn khéo và nhất định sẽ thu được nhiều thành
công bởi không có chiến thắng vẻ vang nào mà lại dễ dàng đạt được. Điều
này cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác đã từng có tranh chấp
thương mại với Mỹ, tuy nhiên sau đó họ đều đã thành công trong việc tiếp cận
thị trường này.
Khoá luận tốt nghiệp
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E
KẾT LUẬN
Vụ kiện cá basa coi như đã kết thúc hoặc có thể chưa kết thúc nếu các
doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục kiện lên Toà án Liên bang của Mỹ. Nhưng
ngay từ bây giờ chúng ta có thể hiểu một cách rõ ràng rằng thị trường thế giới
trong đó lớn nhất là thị trường Mỹ không hề minh bạch và sòng phẳng như ta
tưởng. Đó là một cái chợ, nơi kẻ giàu ăn hiếp người nghèo, kẻ mạnh áp đặt
“luật chơi” lên người yếu, mọi quan hệ kinh tế nhiều khi chịu thua những “trò
chơi chính trị”. Bước vào cái chợ đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần rất bình
tĩnh, và cách tốt nhất là kiên trì, không mệt mỏi phát huy tối đa nội lực của
mình. Mặt khác, thị trường Mỹ không chỉ đơn giản mang tính chất quốc gia,
khu vực mà đây còn là thị trường quốc tế. Nếu chúng ta có thể “dằn mặt” Mỹ
trong trận chiến này cũng có nghĩa ta đã làm bao đối thủ khác phải khiếp sợ,
buộc họ phải xem xét lại nếu có ý đồ tấn công nước ta bằng các đòn cạnh
tranh bất bình đẳng về kinh tế.
Từ vụ kiện trên có thể thấy, để hội nhập và phát triển, Việt Nam còn
phải đối mặt khốc liệt hơn với sức ép cạnh tranh thiếu công bằng của các nhà
sản xuất, kinh doanh thuỷ sản các nước nhập khẩu trong đó có Mỹ. Nhận thức
được điều này sẽ giúp Việt Nam điều chỉnh chính sách hội nhập kinh tế của
mình cho phù hợp.
Sự thành công của chiến lược phát triển quốc gia;
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm quốc gia trên trường quốc tế;
Sự hoàn chỉnh của các quy ước quốc tế;
Sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và khu vực.
Là 4 điều kiện, trong đó 2 điều kiện đầu được coi là điều kiện cần, 2 điều kiện
sau là điều kiện đủ để một quốc gia đang và kém phát triển như Việt Nam có
thế thắng thế trong môi trường cạnh tranh quốc tế không bình đẳng.
Khoá luận tốt nghiệp
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật chống bán phá giá của Mỹ (United States – Anti-Dumping Act
of 1916);
Báo Thương Mại các số 25,29,10 năm 2003;
Kỷ yếu hội nghị khoa học sinh viên 2002, Trường Đại học Ngoại
Thương;
Báo Kinh tế Sài Gòn số 28/2003 (625) ngày 3/7/2003;
Báo Thương Mại Thuỷ sản, tháng 5-6/2003, tháng 8/2003 (Bộ Thuỷ
sản);
Báo Kinh tế Việt Nam số 32 ngày 12/8/2003;
Báo Doanh nghiệp Thương mại số 179 ngày 1/5/2003;
Tin Kinh tế số 119 TTX ngày 28/5/2003;
Báo Đầu tư số 90 ngày 28/7/2003;
Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 65 tháng 11/2002;
Dự thảo 4 Pháp lệnh về chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu
vào Việt Nam số 4/2003/PL-UBTVQH11 ngày 11/10/2003;
Báo Vnexpress trang www.
www.atimes.com/atimes/Front-page/DK29Aa01.html;
Sách trắng do VASEP công bố về vụ kiện cá tra và cá basa của Việt
Nam vào thị trường Mỹ;
Những thông tin thu thập thực tế từ Ban Quản lý cạnh tranh, Bộ
Thương mại (31 Tràng Tiền, Hà Nội); Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu
Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) và Phòng Thông tin, Bộ Thuỷ sản (20
Nguyễn Công Hoan, Hà Nội); Ban Pháp chế Phòng Công nghiệp Việt
Nam (số 9 Đào Duy Anh, Hà Nội); Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư (20 Hoàng Văn Thụ, Hà Nội).
Khoá luận tốt nghiệp
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ .......1
I. Giới thiệu chung.......................................................................................... 1
1. Lịch sử phát triển Luật chống bán phá giá của Mỹ ................................... 1
2. Các cơ quan có thẩm quyền thi hành......................................................... 2
II. Nội dung Luật chống bán phá giá của Mỹ.............................................. 3
1. Phạm vi điều chỉnh .................................................................................... 3
2. Điều kiện để khởi xuất một vụ kiện bán phá giá ....................................... 4
3. Các giai đoạn chính của một cuộc điều tra chống bán phá giá tại Mỹ ...... 4
4. Bắt đầu điều tra .......................................................................................... 5
5. Chứng cứ để kết luận hàng hoá có bán phá giá hay không ....................... 7
5.1. Bảng câu hỏi ........................................................................................ 7
5.2. Các dữ kiện thực tế sẵn có (Những thông tin tốt nhất sẵn có) .......... 10
5.3. Thẩm tra............................................................................................. 10
5.4. Xử lý thông tin.................................................................................... 11
5.5. Sản phẩm tương tự và các Quyết định về phạm vi ............................ 11
6. Xác định việc bán phá giá........................................................................ 13
6.1. Giá trị chuẩn ...................................................................................... 14
6.2. Giá xuất khẩu ..................................................................................... 21
6.3. Tính toán các biên độ phá giá ........................................................... 25
6.4. Phân tích thiệt hại của ITC................................................................ 27
7. Xem xét lại ............................................................................................... 34
7.1. Xem xét lại theo thủ tục hành chính................................................... 34
7.2. Xem xét lại nhà Xuất khẩu mới .......................................................... 35
7.4. Xem xét lại “Hoàng hôn” 5 năm ....................................................... 37
7.5 Xem xét lại theo thủ tục tư pháp ......................................................... 38
8. Những vấn đề thủ tục khác ...................................................................... 39
8.1. Đình chỉ các cuộc điều tra ................................................................. 39
8.2. Tình trạng khẩn cấp ........................................................................... 39
8.3. Chấm dứt điều tra .............................................................................. 40
8.4 Việc chống âm mưu bán phá giá......................................................... 41
8.5. Huỷ bỏ lệnh thuế chống bán phá giá ................................................. 42
Khoá luận tốt nghiệp
Phan Thị Tuyết - Pháp 2 - K38E
8.6. Điều khoản chống lẩn tránh (Anti-circumvention)............................ 43
CHƯƠNG II VỤ KIỆN BÁN PHÁ GIÁ CÁ TRA VÀ CÁ BASA GIỮA VIỆT NAM
VÀ HOA KỲ............................................................................................................................42
I. Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ ...................................................................................... 42
1. Nguyên nhân ............................................................................................ 42
2. Danh sách các bên trong vụ kiện ............................................................. 44
2.1 Bên Nguyên đơn:................................................................................. 44
2.2 Bên bị đơn:.......................................................................................... 44
II. Diễn biến vụ kiện..................................................................................... 45
1. Diễn biến.................................................................................................. 45
2. Phân tích lợi thế của phía Việt Nam trong vụ kiện ................................. 55
3. Phân tích những cáo buộc phi lý của Mỹ ................................................ 59
4. Kết quả vụ kiện ........................................................................................ 64
5. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng của vụ kiện đối với cả hai phía............... 65
5.1. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Mỹ ................................... 65
5.2. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Việt Nam ......................... 68
5.3. Phân tích phản ứng của hai phía trước kết quả này ......................... 69
CHƯƠNG III NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
CÁ TRA VÀ CÁ BASA VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ .............................................................75
I. Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ .................................................................................. 77
1. Bài học đối với Chính phủ Việt Nam ...................................................... 77
2. Bài học đối với các doanh nghiệp............................................................ 83
II. Một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng của Luật chống bán phá giá của
Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt
Nam vào thị trường Mỹ ......................................................................... 88
1. Các giải pháp mang tính định hướng chung để đối phó với một vụ
kiện chống bán phá giá.......................................................................... 89
2. Các giải pháp cụ thể................................................................................. 93
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luật bán phá giá của Mỹ và những bài học rút ra từ vụ kiện bán phá giá.pdf