CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. TỶ GIÁ VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI VÀNG VÀ NGUYÊN LIỆU CƠ BẢN.
I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện đại, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng khác nhau cả về hình thức lẫn giá trị và đều tham gia ngày càng tích cực vào đời sống kinh tế xã hội quốc tế theo trình độ phát triển và vị thế của quốc gia mình. Trong quá trình tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư, vay mượn và trao đổi quốc tế . các nước, các tổ chức , cá nhân, các đối tác phải thanh toán với nhau thông qua các đồng tiền của các bên được chuyển đổi, tính toán theo một tương quan tỷ lệ nhất định.
Vì vậy, tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu, xem xét mà tỷ giá hối đoái có thể được định nghĩa theo hai cách sau:
Định nghĩa 1: Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia.
Theo định nghĩa này, tỷ giá hối đoái được coi là giá cả của một loại hàng hoá đặc biệt- hàng hoá tiền tệ.
Ví dụ: 1 USD = 15.450 VND
Định nghĩa 2: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nước với nhau mà trong thời đại ngày nay sự so sánh đó là sự so sánh sức mua của các tiền tệ.
2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
2.1. Thuyết ngang giá vàng
Trong thời kỳ bản vị kim loại, nhất là bản vị vàng (và bạc), các đồng tiền quốc gia đều được so sánh, quy đổi với nhau trên cơ sở hàm lượng kim loại (vàng) chứa đựng trong đồng tiền của mình hay do đơn vị đồng tiền của mình đại diện. Trong giai đoạn này, đặc biệt từ năm 1870 đến thời kỳ đầu đại chiến thế giới lần thứ nhất, người ta xác định tỷ giá giữa các đồng tiền bằng cách so sánh hàm lượng vàng chứa trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng nước.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của một bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam và của một đô la Mỹ là 0,888671 gam. Do đó, tỷ giá hối đoái của GBP và USD là:
GBP/USD = 2,488281/0,888671 = 2,80
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái của một nước cũng như trên thế giới khá ổn định và thường chỉ biến động theo mức tăng giảm hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ.
Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đặc biệt là do những bất lợi của chế độ bản vị vàng (kiềm chế sự phát triển kinh tế và giao lưu kinh tế quốc tế .) nên phần lớn các nước đã từ bỏ chế độ bản vị vàng vào đầu những năm 30. Đến năm 1971, các nước hoàn toàn bãi bỏ chế độ bản vị vàng.
2.2. Thuyết ngang giá sức mua ( Purchasing Power Parity - PPP )
Khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm. Ngoài ra, người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu. Như vậy, cả hai lực lượng này tạo áp lực giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát cao.Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu mẫu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp và ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái .
Một trong những lý thuyết nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh cãi nhất trong tài chính quốc tế là thuyết ngang giá sức mua, tập trung vào mối liên hệ lạm phát – tỷ giá hối đoái.
Ý tưởng căn bản của thuyết ngang giá sức mua ban đầu được phát triển bởi nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo vào thế kỷ 19. Nhưng chính Gustar Cassel, một nhà kinh tế người Thụy Điển mới là người phổ biến rộng rãi PPP vào những năm 20 của thế kỷ XX. Trong những năm này, rất nhiều nước như Đức, Hungary, Nga phải trải qua thời kỳ lạm phát phi mã vì sức mua đồng tiền của các nước đó giảm rất mạnh, bị mất giá mạnh so với các đồng tiền ổn định như USD. Lúc này quan niệm về thuyết PPP trở nên phổ biến trước thực trạng lịch sử như vậy. Có nhiều hình thức khác nhau của thuyết PPP.
Theo hình thức tuyệt đối, thuyết PPP là sự phát triển của quy luật một giá. Nội dung cơ bản của quy luật một giá là: nếu hai nước cùng sản xuất một loại hàng hoá giống nhau thì giá cả của hai loại hàng hoá đó giống nhau trên toàn thế giới và không phụ thuộc vào nước nào sản xuất ra nó.
Như vậy, theo quy luật một giá thì nếu như thép của Mỹ được sản xuất với giá 100 USD/tấn, còn thép của Nhật được sản xuất ra với giá 10.000 JPY/tấn thì có nghĩa là 1 USD = 100 JPY, tỷ giá USD/JPY = 100.
Giả sử tỷ giá USD/JPY = 50 thì điều đó có nghĩa: thép của Nhật bị đắt tương đối so với thép của Mỹ. Khi đó cầu thép của Nhật sẽ giảm xuống cho đến khi giá thép của Nhật còn 5000 JPY/tấn hoặc tỷ giá phải nâng lên USD/JPY = 100 (tức là giảm giá đồng JPY). Tương tự khi tỷ giá là 150 JPY/USD thì xu hướng là cầu thép của Nhật tăng tới 15.000JPY/tấn hoặc tỷ giá phải giảm xuống đến 100 JPY/USD (tăng giá đồng JPY).
39 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10369 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về tỷ giá hối đoái, tỷ giá và mối liên hệ với vàng và nguyên liệu cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989. Chính phủ cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài chính – tiền tệ, trong đó vấn đề tỷ giá được coi là khâu đột phá, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách, chuyển đổi cơ chế và mở cửa kinh tế.
Tại Việt Nam, Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc điều chỉnh giảm giá mạnh nội tệ ( không khác gì thả nổi)
Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách tỷ giá linh hoạt hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường tự do sao cho mức chênh lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ giá được thu hẹp.
Kim ngạch xuất khẩu tăng. Năm 1990 tăng 18,8% ; 1991: 48,63%. Cùng đó Đồng Việt Nam liên tục bị mất giá so với Đô la Mỹ làm giá cả hàng nhập khẩu tăng nhanh. Chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất tăng lên là điều kiện thúc đẩy lạm phát. Tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng trở lại: từ 34,7% năm 1989 lên 67,5% trong hai năm 1990 và 1991.
3. Thời kỳ 1992-2/1999
Giai đoạn này, thị trường với các nước XHCN cũ bị thu hẹp một cách đáng kể. Về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng khó khăn. Bên cạnh hệ thống thanh toán đa biên đã bị tan rã, tất cả các nước CNXH đều đồng loại chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi (chủ yếu là USD). Việc chuyển đổi đồng tiền thanh toán có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam bằng ngoại tệ vì trước đó, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam đều bằng đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có một lượng nhỏ bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Điều đó đã dẫn đến cán cân vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt lớn, nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu. sự thiếu hụt trong cán cân thương mại được bù đắp bằng các khoản viện trợ, cho vay của các nước CNXH mà chủ yếu là Liên Xô.
Tỷ giá hối đoái giai đoạn này được chia thành hai khoảng thời gian chính là từ năm 1922-1994 và từ năm 1995-2/1999
a) Thời kỳ 1992-1994: tỷ giá chính thức hình thành trên cơ sở đấu thầu tại trung tâm giao dịch ngoại tệ.
Trong thời gian này, NHNN đề nghị với chính phủ thành lập Quỹ điều hòa ngoại tệ tại NHNN để có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Chính phủ ủy quyền cho Thống đốc được toàn quyền điều hành quỹ một cách linh hoạt. Có thể nói, việc thành lập quĩ ngoại tệ tại NHNN đã làm dịu những biến động thất thường của tỷ giá trên thị trường. NHNN đã sử dụng quỹ một cách rất linh hoạt và hiệu qua. Quỹ tạo cho NHNN một lực thực sự để can thiệp nhằm ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế về ngoại tệ.
Tháng 9/1991 ngân hàng nhà nước đã thành lập một trung tâm giao dịch ngoại tệ tại thành phố Hồ Chí Minh và tháng 11/1991, một trung tâm giao dịch thứ hai ở Hà Nội cũng ra đời. Đối tượng tham gia giao dịch trên các trung tâm này là các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ, các tổ chức XNK kinh doanh trực tiếp với nước ngoài và NHNN. Ngoài ra các ngân hàng được phép tập hợp các yêu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng không trực tiếp mua bán tại trung tâm. Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc ngược lại để đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá mua vào không được vượt quá 0.5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước. Việc thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự theo hướng thị trường. Thông qua hoạt động của hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường.
b) Thời kỳ 1995-1999: tỷ giá được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân hàng.
Thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (20/10/1994). Có qui mô lớn hơn, hoạt động linh hoạt hơn nên tỷ giá hối đoái ngày càng phản ánh đầy đủ hơn quan hệ cung cầu thị trường. Qua thị trường liên ngân hàng, ngân hàng nhà nước nắm bắt dấu hiệu thị trường về tỷ giá hối đoái, công bố tỷ giá chính thức hàng ngày và biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương mại.
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối rơi vào tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-1998, nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch giữa các ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.
Cuối giai đoạn, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính ở khu vực, tỷ giá tăng lên do điều chỉnh của chính phủ là để tăng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Việc tỷ giá của Việt Nam không tăng quá nhanh như của các nước khác trong khu vực có tác động tích cực vì không tạo tâm lý hoang mang cho người dân, không gây ra một sức ép lớn lên nợ nước ngoài và không gây thiệt hại cho nhập khẩu.
4. Giai đoạn 1999 đến nay: thả nổi có điều tiết
Trong giai đoạn này tỷ giá dần đi vào ổn định hơn. Tháng 2/1999, với sự ra đời của quyết định 64/QĐ-NHNN7, cơ chế tỷ giá Việt Nam đã có một bước cải cách triệt để hơn. Nhà nước không ấn định và công bố tỷ giá chính thức như trước nữa mà chỉ “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng.
Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không được vượt quá + 0.1% so với ỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Sau đó, từ ngày 1/7/2002, biên độ này được mở rộng lên (cộng trừ) 0.25%.
Năm 1999, Ngân hàng Nhà nước đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay vào đó là việc “ thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Xét về mặt lý thuyết, đây là bước cải cách có ý nghĩa rất lớn vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang một cơ chế tỷ giá xác định khách quan hơn theo quan hệ cung cầu, đó là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Từ tỷ giá đó, các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh:
TGKD = TGBQLNH +(-) 0,25%
Tuy nhiên tính cho tới nay thì “ tính linh hoạt” vẫn còn được đánh giá là chưa cao.
Đồng Euro đã xuất hiện 6 năm trên thị trường tiền tệ thế giới nhưng cho đến nay vẫn chưa được giao dịch với quy mô lớn ở Việt Nam do 3 nguyên nhân chính sau:
- Đồng tiền này còn chứa đựng nhiều rủi ro, tỷ giá giữa USD và EURO luôn biến động với biên độ lớn.
- Các hợp đồng thương mại , vay vốn nước ngoài, đầu tư tại Việt Nam đều sử dụng USD làm phương tiện thanh toán. Tỷ giá cũng được công bố dựa trên đồng USD.
- USD là đồng tiền quá phổ biến không chỉ ở nước ta mà trên toàn thế giới.
Trong thời gian gần đây, Mỹ sử dụng chính sách đồng đô la yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong khi đó giá trị đồng VND lại tương đối ổn định. Điều này có nghĩa là đồng VND đã lên giá tương đối so với đồng USD do chế độ tỷ giá ở Việt Nam được xây dưng trên cơ sở một ngoại tệ- đô la Mỹ.
Một đồng tiền khác khá quen thuộc với chúng ta là Nhân dân tệ bởi Trung Quốc là bạn hàng lâu năm, lại có nhiều điều kiện và bối cảnh kinh tế giống với Việt Nam. Trong năm 2005, đồng NDT lên giá 2%, liệu vấn đề này có ảnh hưởng gì tới Việt Nam? Phải khẳng định rằng NDT chưa phải ngoại tệ mạnh tự do chuyển đổi tại Việt Nam do cơ cấu thanh toán của đồng tiền này chưa cao. Cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam sẽ còn tăng trong những năm tới nhưng con số 2% không có ảnh hưởng gì lớn. Xét về mặt tỷ giá, vẫn có lợi cho Việt Nam và sự kiện này không có nghĩa NDT sẽ tiếp tục tăng giá.
Những ưu điểm nổi bật của cơ chế tỷ giá này là:
- Tạo quyền chủ động của NHTM trong việc quy định tỷ giá với các ngoại tệ khác.
- Tỷ giá được xác định một cách khách trên quan hệ cung cầu, các doanh nghiệp chủ động hơn đồng thời đảm bảo được vai trò kiểm soát của nhà nước.
- Những biến động có thể tạo ra khoảng cách giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM sẽ khó xảy ra.
- Giảm bớt tâm lý hoang mang dao động, giảm đầu cơ.
- Do được hình thành trên cơ sở thị trường nên tỷ giá linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế , góp phần tăng cường sự hòa nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới.
Những hạn chế của cơ chế tỷ giá này:
- Tỷ giá được xác định từ ngày hôm trước nên nó chưa là cơ sở vững chắc để tỷ giá chính thức thực sự có ý nghĩa kinh tế.
- Biên độ 0,25% còn là hẹp, nếu có đột biến cung cầu thì sẽ dẫn đến sai lệch tỷ giá là quá lớn, giao dịch ngày hôm đó có thể đình trệ hay đóng băng.
- Thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn kém phát triển, chưa hoàn hảo, dự trữ ngoại tệ hạn hẹp nên can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ chỉ trong một giới hạn nhất định mà thôi.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ TỚI GIÁ VÀNG VÀ CÁC HÀNG HÓA CƠ BẢN
1. Mối liên hệ giữa tỷ giá và vàng
Giá vàng hiện chủ yếu được yết bằng USD, do vậy biến động của chỉ số USD có ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Ngoài ảnh hưởng bởi tỷ giá quy đổi giữa vàng và USD thì ngay trong bản thân các yếu tố tác động đến sự tăng - giảm của chỉ số USD cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng theo từng thời điểm nhất định. Khi nhu cầu USD tăng, USD sẽ được định giá cao hơn bởi nhiều yếu tố kinh tế tác động, trong đó có một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp như: tăng lãi suất, các chỉ số sức mạnh của nền kinh tế Mỹ tăng bền vững và chính trị bình ổn, khi đó giá vàng sẽ được điều chỉnh lại thông qua quy đổi. Về mặt quy đổi trong mối tương quan của các cặp tiền tệ, chúng ta nhận thấy, khi USD tăng thì giá vàng được định giá bằng đồng USD sẽ trở nên đắt hơn so với các loại tiền tệ khác, ngay lập tức giá vàng sẽ được điều chỉnh giảm.
Để đồng USD trở nên mạnh hơn nhờ sự hỗ trợ bởi nhiều yếu tố, trong đó tình hình tăng trưởng ổn định của nền kinh tế Mỹ là quan trọng nhất. Khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng ổn định thì vàng sẽ không có nhiều sự hỗ trợ cho việc tăng giá. Một khi chỉ số USD được củng cố bởi các yếu tố, dẫn đầu là chính sách lãi suất, kinh tế tăng trưởng đều, chỉ số thu nhập và niềm tin tiêu dùng được củng cố thì các nhà đầu cơ, nhà đầu tư sẽ tăng cường giữ USD theo thời điểm hoặc dài hạn để kiếm lợi nhuận và là phương tiện thanh toán, chính điều này cũng là yếu tố không hỗ trợ cho giá vàng.
Các đồng tiền mạnh trong rổ tiền tệ khi tăng hoặc giảm thì có ảnh hưởng ít nhiều đến đến chỉ số USD, vì chỉ số USD được thiết lập bởi các đồng tiền EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF. Khi có sự thay đổi giá trị của các đơn vị tiền tệ này thì chỉ số USD sẽ bị ảnh hưởng. Do đó, chúng ta có thể hình dung rằng, giá trị thời điểm của các đơn vị tiền tệ này ảnh hưởng gián tiếp đến giá vàng. Và khi một đơn vị tiền tệ mạnh ngoài USD, như EUR, JPY hay GBP tăng hoặc giảm mạnh do yếu tố kinh tế, chính trị, thì dòng chảy đầu tư hoặc đầu cơ mua hoặc bán vào đồng tiền này tăng mạnh. Một số chỉ số cơ bản mà nhà đầu tư có thể theo dõi khi phân tích giá vàng: USD Index, EUR/USD, giá dầu thô, giá bạc và sự tăng giảm của chỉ số chứng khoán trên các TTCK lớn.
Trong năm 2008, thị trường quốc tế đã chứng kiến giá vàng lập mức giá kỷ lục mới. Với sự tụt dốc kéo dài của đồng Đô la Mỹ và "sức nóng" từ thị trường dầu mỏ tăng cao vượt mức 90USD/thùng, giá vàng quốc tế tăng mạnh, có thời điểm lên đến sát mức 840USD/oz. Bên cạnh đó, một số Ngân hàng Trung ương các nước Nga, Trung Quốc dự kiến thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối theo hướng tăng dần tỷ lệ dự trữ bằng vàng trong cơ cấu dự trữ quốc gia cũng là một nguyên nhân quan trọng đẩy giá vàng tăng cao. Tính đến thời điểm 27/12/2008, giá vàng trên thị trường quốc tế đã tăng 186,1USD/oz và hiện đang giao dịch ở mức 823,5/824,3 USD/oz. Phù hợp với diễn biến tăng giá trên thị trường vàng quốc tế, giá mua bán vàng SJC trong nước cũng tăng mạnh, mức tăng phổ biến từ khoảng 350-353 nghìn đồng/chỉ so với thời điểm đầu năm. Hiện giá mua - bán vàng đang giao dịch ở mức 1,584-1,590 triệu đồng/chỉ trên thị trường Hà Nội và 1,585-1,589 triệu đồng/chỉ trên thị trường TP Hồ Chí Minh.
Khi giá vàng tăng, nó kéo theo nhu cầu đầu cơ của các tổ chức đầu cơ và các quỹ đầu tư và cùng kéo giá vàng lên cao. Gần đây thông tin thông tin các nước OPEC đang xem xét việc từ bỏ định giá dầu bằng tiền USD sang một loại ngoại tệ khác,ví dụ như EUR cũng khiến các nhà đầu tư tin rằng đồng USD sẽ mất giá và tất yếu vàng sẽ tăng giá. Thực tế cho thấy, một lượng tiền lớn được Chính phủ Mỹ đổ ra để cứu nền kinh tế cũng tạo ra áp lực lớn khiến đồng USD hiện đang trượt giá so với một loạt ngoại tệ mạnh khác như đồng EUR, đồng Yên… Tuy nhiên, sẽ bất ngờ nếu như đà giảm giá của đồng USD bị chậm lại và đổi chiều. Khi này, các nhà đầu cơ vàng sẽ nhanh chóng bán vàng ra, khi đó giá vàng sẽ giảm và trở lại đúng giá trị cung - cầu.
2. Mối liên hệ giữa tỷ giá và một số nguyên, nhiên liệu
Việc nhu cầu hàng hóa toàn cầu gia tăng đã kéo thị trường hàng hóa và thị trường ngoại hối gần nhau hơn. Mọi nền kinh tế trên thế giới đều phải nhập khẩu một số hàng hóa để tiêu dùng. Để mua những hàng hóa này, những nhà nhập khẩu phải đổi đồng tiền của họ ra đồng tiền của nước mà họ muốn nhập khẩu hàng hóa. Giao dịch này sẽ khiến nhu cầu về đồng tiền của nước xuất khẩu cao hơn và tăng giá trị cho đồng tiền đó. Giao dịch này cũng sẽ khiến cung tiền của nước nhập khẩu cao hơn và làm giảm giá trị của đồng tiền đó. Việc để ý tới những gì sẽ diễn ra trong thị trường hàng hóa trong những năm tiếp theo sẽ giúp bạn có được lợi nhuận lớn trong thị trường ngoại hối. Nhu cầu từ toàn cầu gia tăng sẽ đẩy giá hàng hóa lên cao hơn trong những năm tiếp theo. Vì thế hãy chuẩn bị để kiếm lợi nhuận không chỉ từ những đồng tiền sẽ tăng giá khi giá hàng hóa tăng mà cả những đồng tiền sẽ yếu đi. Chúng ta hãy phân tích mối liên hệ giữa tỷ giá và giá nguyên liệu cơ bản để thấy rõ hơn về điều này:
Sữa bột
Tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn đến giá sữa trong nước vì 80% nguyên liệu sản xuất sữa bột là nhập khẩu. Tỉ giá tăng sẽ khiến chi phí đầu vào các doanh nghiệp ngành sữa lên cao. Tuy nhiên, các công ty sữa thường đẩy giá bán lẻ cao hơn mức tỷ giá điều chỉnh. Cuối tháng 8/2010, Bộ Tài chính ban hàng thông tư 112 yêu cầu doanh nghiệp phải đăng ký giá sữa pha chế theo công thức dạng bột dành cho trẻ em dưới 6 tuổi. Việc đăng ký giá bán được thực hiện trước khi các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh bán mặt hàng này ra thị trường lần đầu và trước mỗi đợt điều chỉnh giá bán. Các hãng sữa do vậy sẽ không được tùy tiện tăng giá.
Vật liệu xây dựng
Đối với các doanh nghiệp xi măng, do có số dư vay nợ bằng USD và EUR cao, nên việc điều chỉnh tỷ giá sẽ có tác động tiêu cực cho các công ty trong ngành do đánh giá lại các khoản vay bằng ngoại tệ cũng như chi phí lãi vay tăng cao.
Lặp lại diễn biến của đợt tăng tỷ giá vào tháng 2-2010, ba ngày sau khi NHNN tăng tỷ giá liên ngân hàng (18/8/2010), giá nhiều loại hàng hóa trên thị trường đã có “phản ứng”. Ngay khi tỉ giá đồng USD tăng, hàng loạt doanh nghiệp thép đã công bố mức giá mới. Trong đó, Tổng công ty Thép VN (VNSteel) đã tăng 300.000 đồng/tấn đối với thép cuộn và thép cây, đưa giá thép giao tại nhà máy trung bình 14,65-14,87 triệu đồng/tấn; Pomina cũng tăng 330.000 đồng/tấn, đưa giá hai loại thép cuộn và thép cây ở mức xấp xỉ 14,6 triệu đồng/tấn. Mặc dù trước đó, các chuyên gia tính toán, tháng 9 thị trường thép mới biến động nhưng nửa đầu tháng 8, thép tăng 300-500 đồng/kg so với tháng 7.
Dầu
Dầu là nguồn đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất. Bất cứ sự biến động của giá dầu mỏ cũng tác động dây chuyền lên toàn bộ nền kinh tế thế giới. Vì thế để giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, các nước có nền kinh tế lớn như Nga, Mỹ... có xu hướng xây dựng các kho dự trữ dầu mỏ và tăng cường dự trữ vàng. Bởi lẽ đây là hai loại hàng hóa không bị mất giá trị. Tuy nhiên, dầu mỏ dưới vai trò lớn hơn hàng hóa tích trữ, khi giá dầu mỏ tăng tất yếu dẫn đến hệ quả tiền USD giảm giá trị, và các nước càng có xu hướng nhập vàng về tích trữ, do đó nhu cầu vàng trên thế giới sẽ tăng và kéo theo sự tăng giá của vàng.
Trong năm 2008, thị trường tài chính thế giới bước vào khủng hoảng. Sự đổ vỡ của gần 70 Ngân hàng của Mỹ kéo theo sự u ám của nền kinh tế thế giới. Vậy là chính phủ các nước phát triển mà đứng đầu là Mỹ, EU, Nhật,.. liên tiếp tung các gói hỗ trợ kinh tế nhằm hà hơi” thổi ngạt nền kinh tế. Trước hết, các gói hỗ trợ kinh tế có mặt tốt là thúc đẩy sự thanh khoản của thị trường, cung ứng vốn cho các lính vực sản xuất quan trọng. Tuy nhiên, viêc tăng cung tiền khi nền kinh tế chưa “hấp thụ” được đã khiến đồng USD bị giảm giá mạnh so với các đồng tiền khác như đồng EUR, đồng Yên Nhật. Điều này dĩ nhiên gây nên mối lo ngại sâu sắc đối với các nước OPEC và những nước đang có lượng dự trữ bằng đồng USD lớn. Điều dễ hiểu là họ sẽ tìm cách phân tán bớt đồng USD đổi lấy ngoại tệ khác có ưu thế như đồng Euro. Một loạt các động thái xuất hiện tại các nước xuất khẩu dầu mỏ khi Tổng thống Nga V. Putin và Tổng thống Vênêzuêla Hugo Chavez đã thông báo họ đang cân nhắc định giá dầu bằng đồng Euro trong một tương lai gần. Thậm chí các nước Arập cũng thông báo họ sẽ định giá dầu cả bằng cả đồng Euro và đồng USD. Iran tuyên bố sẽ tiến hành mua sắm các thiết bị phục vụ ngành dầu khí bằng đồng Euro thay vì USD như trước kia.
Thêm vào đó, từ nay trở đi Chính phủ nước này sẽ hạch toán ngân sách bằng Euro. Ngân hàng Trung ương các Tiểu vương quốc Arập thống nhất (UAE) tuyên bố sẽ chuyển thêm 8% lượng dự trữ ngoại tệ trị giá 24,9% tỷ USD sang Euro. Quyết định của UAE có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền trong các nước xuất khẩu dầu mỏ giàu có của thế giới Arập. Những nước và vùng lãnh thổ khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan cũng tìm cách đa dạng hóa dự trữ ngoài đồng USD. Kết cục là đồng USD bị bán tháo và dĩ nhiên kéo theo sự tăng lên tương xứng đối với giá dầu và giá vàng.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP BÌNH ỔN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
I. Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu và những vấn đề rút ra
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu có những ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Trung Quốc và đòi hỏi chính phủ nước này có những phản ứng nhất định. Về chính sách tỷ giá hối đói, Trung Quốc có những thành công nhất định và khẳng định được sự phát triển mang tính đột phá trong việc đưa Trung Quốc trở thành nước có kim ngạch xuất khẩu hàng đầu thế giới. Chính sách tỷ giá hối đoái thể hiện quan điểm, nguyên tắc và các công cụ, biện pháp mà chính phủ một nước áp dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong một giai đoạn nhất định. Việc nghiên cứu chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển phương pháp luận sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam.
Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc được thực hiện có tính nhất quán gắn trực tiếp với lợi thế thương mại về hàng giá rẻ và khối lượng lớn, nó đã hỗ trợ hữu hiệu cho mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc. Các vấn đề được thực thi trong chính sách tỷ giá hối đoái này có nhiều khía cạnh khác nhau
Thứ nhất: Trung quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá thấp thực tế đồng nhân dân tệ so với các đồng ngoại tệ khác đặc biệt với đồng đôla Mỹ để tạo lợi thế ngắn hạn. Có thể thấy trong TMQT, nếu để lợi thế so sánh tự nó phát huy tác dụng theo đúng quy luật sẽ chậm hơn rất nhiều so với lợi thế có sự tác động của chính phủ để nhanh chóng tận dụng cơ hội thương mại thường xuyên xuất hiện và mất đi. Vào những năm 1980 tỷ giá đồng nhân dân tệ và đola Mỹ đứng ở tỷ lệ 1USD = 2 RMB, năm 1994, Trung Quốc đã phá giá mạnh đồng nhân dân tệ để đạt tỷ giá 1USD = 8.5 RMB và tỷ giá mới này được giữ gần như cố định trong giai đoạn 1995 – 2005. Một điều dễ nhận thấy là việc áp dụng tỷ giá hối đoái cố định thường đồng nghĩa với việc định giá thấp đồng tiền trong nước. Trong lĩnh vực tiền tệ, việc phá giá đồng tiền thường được gọi là chính sách của “ người thu lợi từ người khác” cho nên thường bị các nước phản đối song Trung Quốc vẫn áp dụng và thu được những ảnh hưởng quan trọng. Tiếp theo, đồng nhân dân tệ được điều chỉnh theo hướng định giá cao so với đồng đôla Mỹ. Vào tháng 7/2005, Trung Quốc tiến hành điều chỉnh tỷ giá theo hướng nâng giá đồng Nhân dân tệ và tỷ giá giữa đồng đola và nhân dân tệ là 1USD = 8.27RMB sau đó Ngân hàng trung ương tiến hành cải cách tỷ giá, cho phép thả nổi tỷ giá trong giới hạn biên độ 0.3% so với tỷ giá chính thức của NHTW. Đồng nhân dân tệ đã lên giá 3.12% kể từ khi cải cách tỷ giá. Việc nâng giá đồng nhân dân tệ gây bất lợi đối với hoạt động xuất khẩu và Trung Quốc đã tìm biện pháp để định giá danh nghĩa cao đồng nhân dân tệ song lại cố gắng để giảm giá thực tế đồng tiền này mà các đối tác thương mại khó có thể phản ứng thích hợp. Với việc định giá thấp còn tạo hàng rào bảo hộ thương mại đối với thị trường trong nước trước việc mở cửa thị trường theo các cam kết trong WTO của Trung Quốc, đồng thời góp phần bảo vệ việc làm cho lao động trong nước.
Để thực hiện được chế độ tỷ giá có sự khác biệt giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế, Trung Quốc đã có những biện pháp điều chỉnh và duy trì có hiệu quả rất cao.
Các phản ứng của Trung Quốc về tỷ giá hối đoái khá linh hoạt và gắn với từng mối quan hệ thương mại cụ thể với từng thời điểm cụ thể. Trong điều kiện đồng đola lên giá, Trung Quốc đã tìm cách để định giá đồng nhân dân tệ thấp. Điều này làm cho Trung Quốc có lợi thế thương mại lớn so với Mỹ đồng thời cũng có lợi thế hơn so với các đối tác thương mại khác của Trung Quốc thực thi chính sách neo giá đồng tiền nước đó với đồng dola Mỹ. Với cách này, Trung Quốc gần như đã khai thác triệt để lợi thế thương mại không chỉ với Hoa Kỳ mà còn với các đối tác thương mại khác. Trong điều kiện đồng dola Mỹ giảm giá vì Hoa Kỳ muốn cải thiện cán cân thương mại cũng như để giảm giá trị thực tế của lượng dự trữ đola của Trung Quốc, Trung Quốc thực hiện chính sách neo buộc chặt hay nói cách khác cố định tỷ giá đồng nhân dân tệ với đồng đola để tiếp tục làm giảm giá đồng nhân dân tệ nhằm tăng lợi thế thương mại và tiến hành chuyển đổi một phần đôla ra vàng để bảo hiểm giá trị của lượng dự trữ.
Thứ hai: Trung Quốc đã khéo léo vận dụng các điểm yếu của đối tác thương mại quan trọng cả song phương và đa phương thông qua chiến lược đàm phán hữu hiệu nhằm duy trì chính sách định giá thấp đồng tiền trong nước. Trong quan hệ với Hoa Kỳ - Đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, thặng dư thương mại của Trung Quốc đạt mức kỷ lục. Trước hết, Trung Quốc đã dùng chính sách buộc chặt với đồng đôla như đã đề cập. Khi đàm phán với Mỹ về vấn đề thâm hụt thương mại giữa hai nước, Trung Quốc đã lảng tránh vấn đề định giá thấp đồng nhân dân tệ mà tập trung xoáy sâu vào việc viện dẫn lý do thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ trong quan hệ với Trung Quốc là do Hoa Kỳ đã hạn chế việc xuất khẩu công nghệ cao sang Trung Quốc – một khía cạnh trong quan hệ thương mại mà Hoa Kỳ không muốn mở rộng vì sợ để lọt các sản phẩm công nghệ cao vào tay Trung Quốc. Điều đó làm yếu đi đáng kể yêu cầu của Hoa Kỳ trong việc nâng cao đồng nhân dân tệ.
Thứ ba: sẵn sàng chấp nhận sự chỉ trích của cac đối tác thương mại để bảo vệ được trạng thái định giá trị thấp của đồng nhân dân tệ. Đầu năm 2010, các đối tác thương mại với Trung Quốc đã thống nhất lên tiếng yêu cầu Trung Quốc phải nâng giá đồng nhân dân tệ song Trung Quốc vẫn cố tìm mọi cách thức để tránh phải đáp ứng yêu cầu của các đối tác thương mại này.
Thứ tư:, Trung Quốc luôn tìm mọi nỗ lực để đạt mục tiêu đưa đồng nhân dân tệ thành đồng tiền mạnh và chủ chốt trong nền kinh tế thế giới. Mặc dù trong năm 2009, các nước nhóm G20 đã đề cập đến đồng tiền chủ chốt thay thế đồng đôla Mỹ song cuối cùng đôla Mỹ vẫn giữ được vị trí đứng đầu của mình trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Trong quan hệ biên mậu với các nước như Việt Nam, Lào, Nga… Trung Quốc đã mạnh dạn yêu cầu các nước thanh toán bằng đồng nhân dân tệ để tạo những bước đi trung gian phục vụ cho việc đưa đồng nhân dân tệ trở thành ngoại tệ chuyển đổi tự do. Hay nói cách khác đây là quá trình chuyển đổi cục bộ mang tính chất thử nghiệm đồng nhân dân tệ. Mặc dù uy tín quốc tế của đồng nhân dân tệ chưa cao song về lâu dài, đây là đồng tài chính của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, việc định giá thấp đồng tiền có thể có những tác động ngược chiều đối với nền kinh tế Trung Quốc như làm giảm giá trị tương đối giá các loại tài sản trong nước hoặc gây tình trạng đầu cơ vàng, ngoại tệ hoặc các tài sản có khả năng sinh lợi cao như bất động sản…
Một số vấn đề rút ra đối với Việt Nam
Vị thế của nền kinh tế Trung Quốc khác với vị thế của nền kinh tế Việt nam trong nền kinh tế toàn cầu cho nên những kinh nghiệm của Trung Quốc khó có thể áp dụng đối với điều kiện Việt nam. Có thể nói, qua hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc thời gian qua chịu ảnh hưởng rất lớn của việc định giá thấp đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ mạnh khác. Đồng thời, chính sách tỷ giá hối đoái thường có tính nhạy cảm rất cao cho nên những điều chỉnh chính sách ngày càng có ảnh hưởng rất lớn đến các chính sách khác như chính sách thương mại, chính sách tiền tệ, tình trạng thất nghiệp và lạm phát cũng như tình trạng các khoản nợ và dự trữ quốc tế… Tuy nhiên, những điều chỉnh và phản ứng trong chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc có những thành công nhất định và Việt nam có thể sử dụng các kết quả đó làm bài học tham khảo, ít nhất là về mặt phương pháp luận, trong điều kiện chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang hồi phục sau khủng hoảng.
Trên thực tế, trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy giảm nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã có những điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt nam và đồng đôla Mỹ cũng như các ngoại tệ khác. Việc nới lỏng biên dộ dao động tỷ giá giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường đã được thực hiện. Đặc biệt là lần điều chỉnh tỷ giá theo hướng giảm nhẹ giá trị của đồng Việt Nam so với đôla Mỹ vào năm 2010 trong điều kiện thị trường có chiều hướng ổn định với mức 1USD = 19.100VND để tỷ giá chính thức sát hơn với tỷ giá thị trường 1USD = 19.420VND. Việc điều chỉnh này đã triệt tiêu dần khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá được hình thành tự do trên thị trường để hạn chế những biến động của tỷ giá hoặc nạn đầu cơ vào tỷ giá.
Từ kinh nghiệp của trung quốc, có thể rút ra các vấn đề đối với việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay.
- Cần có phản ứng chính sách linh hoạt về tỷ giá trong những tình huống cụ thể và cần có định hướng rõ ràng về tỷ giá trong dài hạn làm căn cứ cho các điều chỉnh ngắn hạn. Do đó, cần có cơ chế giám sát và theo dõi chặt chẽ sự biến động của tỷ giá giá cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài để nhận dạng xu hướng vận động của tỷ giá và toàn cầu như đồng Đôla, EUR… Các phản ứng chính sách của các đối tác thương mại lớn hoặc các trung tâm kinh tế thế giới là căn cứ để đưa ra các phản ứng chính sách của Việt Nam. Các kịch bản về các tình huống biến động tỷ giá hối đoái nên được xây dựng và có thể tiến hành mô phỏng chúng để lựa chọn kịch bản tối ưu nhất. Đây là việc tạo thế chủ động trong điều chỉnh tỷ giá hối đoái trước tính bất định của thị trường ngoại hối trong và ngoài nước
- Khai thác triệt để vai trò của các chính phủ thông qua các cơ quan chuyên trách về tiền tệ trong việc xây dựng một chế độ tỷ giá sát với tỷ giá thị trường. Bản thân giá trị thực của tỷ giá cũng rất khó xác định cụ thể mà phải thông qua các ước lượng cho nên vai trò của chính phủ trong việc thực hiện một chế độ tỷ giá mục tiêu là cần thiết. Chính phủ cần điều chỉnh vào thời điểm được coi là phù hợp nhằm tạo lợi thế thương mại tốt nhất cho doanh nghiệp.
- Cần tạo những khoảng cách nhất định giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế sao cho có lợi cho hoạt động xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với từng loại thị trường và từng loại mặt hàng trong từng giai đoạn. Việc triệt tiêu khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do có thể làm giảm lợi nhuận cục bộ của doanh nghiệp và có thể làm giảm tác động cần có của chính sách tỷ giá hối đoái. Những khác biệt về lợi thế thương mại ngắn hạn có thể mất đi hoặc hình thành dưới hình thức khác khi có sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Vai trò của chính phủ cần được thể hiện rõ nét trong việc đưa ra các chính sách tỷ giá phù hợp nhằm thay việc tự điều chỉnh các mất thăng bằng trong lợi thế thương mại bằng tín hiệu thị trường bằng việc khử tình trạng mất thăng bằng chính sách của chính phủ.
- Cần có chiến lược định vị đồng tiền Việt Nam trong hệ thống tiền tệ quốc tế trong một khoảng thời gian nhất định như định vị khả năng nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam vào thời điểm năm 2020 – thời điểm Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại nhằm tạo cơ sở cho các điều chỉnh cục bộ hoặc điều chỉnh ngắn hạn và cũng như hình thành được định hướng dài hạn của chính sách tỷ giá hối đoái. Cần chỉ rõ vị trí, vai trò và tác động của nền kinh tế Việt Nam trong các quan hệ thương mại hoặc trong hệ thống thương mại khu vực như trong khu vực ASEAN… trong dài hạn để định hướng vận hành chính sách điều chỉnh giá.
II. Các biện pháp bình ổn tỷ giá
1. Nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái
a. Tình hình cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba trạng thái sau: Cân bằng, thâm hụt hay thặng dư, ảnh hưởng trực tiếp hay nhạy bén đến tỷ giá. Do vậy, nếu cán cân thanh toán quốc tế dương thì tỷ giá hối đoái có chiều hướng giảm hoặc giữ vững. Ngược lại nếu cán cân thanh toán âm thì tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng.
Sự tồn tại của tỷ giá giữa đồng nội tệ của một nước với các ngọai tệ là tất yếu khi dân chúng và Chính phủ của nước đó cần giao dịch với thế giới bên ngòai. Giao dịch này được thể hiện thông qua cán cân thanh tóan quốc tế, các chỉ tiêu của cán cân được sử dụng phương pháp kế tóan kép “ Nợ, có “ để ghi chép các khỏan thu chi ngọai tệ của một nền kinh tế với thế giới bên ngoài Chính những khỏan thu chi này sẽ hình thành nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường và sự cân bằng cung cầu này hình thành nên TGHĐ.
b. Mức độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế
Mức độ tăng, giảm GDP thực tế của một nước so với nước khác, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, sẽ làm tăng hay giảm nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu sẽ tăng lên hay giảm xuống từ đó tác động đến cung cầu về ngoại tệ từ đó làm cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước so đồng tiền nước ngoài giảm đi hoặc tăng lên.
c. Sự chênh lệch lạm phát của đồng tiền quốc gia
Khi tỷ lệ lạm phát ở một quốc gia tăng lên hay giảm xuống sẽ làm giá trị của đồng tiền nước đó thay đổi dẫn tới tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó so với nước ngoài bị biến động. Nếu mức lạm phát của một nước này cao hơn mức lạm phát của nước khác thì sức mua của nội tệ sẽ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát cao càng kéo dài, đồng tiền càng mất giá, sức mua của nó càng giảm nhanh,sức mua của tiền trong nước giảm thì sức mua đối ngoại của nó cũng giảm làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên.
d. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước.
Lãi suất chính là giá cả của vốn, là yếu tố tác động đến thay đổi tình hình các giao dịch vốn. Nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá hoặc đồng nội tệ sẽ giảm giá.
e. Các nhân tố có khả năng tác động cung cầu ngoại tệ như: yếu tố chính trị, kinh tế xã hội, thiên tai chiến tranh… và hoạt động đầu cơ.Ví dụ:
- Nếu có sự đình công, biểu tình thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn làm cho ngoại tệ trở nên khan hiếm làm cho cung ngoại tệ giảm do vậy tỷ giá giảm.
- Hoạt động của những người đầu cơ ngoại tệ tác động mạnh đến tỷ giá hối đoái.
Khi nhà đầu cơ dự đoán giá của một loại ngoại tệ nào đó sẽ lên, họ sẽ dùng nội tệ để mua một số lượng lớn ngoại tệ, làm cho ngoại tệ này ở trên thị trường trở nên khan hiếm, cung sẽ nhỏ hơn cầu về ngoại tệ đó dẫn đến giá của loại ngoại tệ đó tăng do đó tỷ giá hối đoái tăng lên.
Nếu người sở hữu vốn giảm sự tin tưởng về một đồng tiền nào đó sẽ làm giảm cầu về đồng tiền đó và làm đồng tiền đó có xu hướng giảm giá trên thị trường và ảnh hưởng đến TGHĐ.
2. Các biện pháp bình ổn tỷ giá hối đoái
a. Chính sách lãi suất (Lãi suất tái chiết khấu)
Đây là biện pháp được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái có sự biến động bất lợi, vượt ra khỏi mức độ có thể chấp nhận được (thường là tăng). Thông qua NHTW, các chính phủ thực hiện điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu tăng(lãi suất cho vay tăng và lãi tiền gửi tăng. Kết quả là vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ chuyển dịch vào trong nước để thu lãi cao hơn từ đó cung về ngoại tệ sẽ tăng, nhu cầu về ngoại tệ giảm làm cho tỷ giá hối đoái không có cơ hội để tăng.
b. Chính sách hối đoái
* Cách thức thực hiện
Đây là biện pháp trực tiếp mà ngân hàng trung ương tác động đến tỷ giá hối đoái. Thông qua các tổ chức kinh doanh ngoại hối, nhà nước đã chủ động tác động vào cung cầu ngoại tệ bằng việc mua bán vàng và ngoại tệ để trực tiếp điều chỉnh tỷ giá. Khi tỷ giá ở mức cao (tức là đồng nội tệ giảm giá) tới mức làm ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế trong nước cũng như các hoạt động kinh tế đối ngoại, NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để thu nội tệ về. Khi đó do cung về ngoại tệ tăng tác động làm giảm tỷ giá, kéo tỷ giá xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống, ngân hàng trung ương sẽ mua ngoại tệ vào, tức là kích thích cầu ngoại hối khi cung chưa kịp biến động để nâng tỷ giá hối đoái lên tới mức hợp lý.
* Ảnh hưởng của chính sách hối đoái
Việc áp dụng chính sách hối đoái thường dẫn đến những phản ứng trái ngược nhau của các doanh nghiệp trong và ngoài nước bắt nguồn chủ yếu từ lợi ích kinh tế của nhau. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu. Nhà nhập khẩu muốn hạ thấp tỷ giá xuống, nhà xuất khẩu mong muốn nâng cao tỷ giá hối đoái. Giữa nhà xuất khẩu vốn muốn hạ thấp tỷ giá xuống với nhà nhập khẩu vốn muốn nâng cao tỷ giá hối đoái. Và mâu thuẫn này xảy ra giữa các nước với nhau vì tỷ giá của một nước nâng lên thì sẽ hạn chế xuất khẩu hàng của nước khác, nhưng lại khuyến khích việc xuất khẩu vốn của nước khác làm cho cán cân thương mại và cán cân thanh toán của nước ngoài với các nước thực hiện chính sách hối đoái này bị thiệt hại.
* Điều kiện thực hiện
Để có thể thực hiện có hiệu quả chính sách hối đoái, một trong những điều không thể thiếu được là đòi hỏi NHTW phải có dự trữ ngoại tệ thật dồi dào và đủ lớn để có thể can thiệp vào thị trường khi cần thiết tức là phải xây dựng quỹ bình ổn ngoại hối. Chính sách này chỉ có tác dụng tạm thời và hạn chế sự biến động của tỷ giá chứ không thể thay đổi được tình hình tỷ giá trong nước. Nếu tỷ giá giảm sút do cán cân thanh toán quốc tế hay bị lạm phát, NHTW áp dụng chính sách hối đoái là tung ngoại tệ ra bán thì sẽ làm cho dự trữ ngoại tệ càng căng thẳng, tình hình hao hụt ngày càng nghiêm trọng hơn do vậy tỷ giá hối đoái càng bị giảm sút.
c. Lập quỹ bình ổn hối đoái
Chính phủ lập ra quỹ riêng nhằm chủ động can thiệp kịp thời vào thị trường tiền tệ khi tỷ giá biến động vượt xa so với mức mà NHTW cho phép. Phương pháp lập quỹ: Quỹ này được hình thành bằng những cách dưới đây:
+ Phát hành trái phiếu kho bạc bằng đồng tiền quốc gia.
Khi ngoại tệ nhiều thì sử dụng quỹ này để mua ngoại tệ nhằm hạn chế mức độ mất giá của ngoại tệ. Ngược lại, trong trường hợp vốn vay chạy ra nước ngoài quỹ bình ổn tung ngoại tệ ra bán nhằm ngăn chặn sự tăng giá ngoại tệ.
+ Sử dụng vàng để lập quỹ
Khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, quỹ dự trữ hối đoái sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán. Trường hợp khi ngoại tệ vào nhiều, quỹ tung vàng ra bán để thu về đồng tiền quốc gia, mua ngoại tệ nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái.
d. Phá giá tiền tệ
Đây là biện pháp cuối cùng khi NHTW cảm thấy không thể duy trì việc can thiệp bằng các biện pháp kể trên. Là biện pháp hiện đại trong điều chỉnh tỷ giá. Phá giá tiền tệ là việc giảm thấp sức mua của đồng tiền quốc gia so với ngoại tệ. Kết quả của phá giá tiền tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự gia tăng của tỷ giá hối đoái. Phá giá tiền tệ được áp dụng trong điều kiện duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Phá giá tiền tệ là biện pháp mạnh, chỉ được sử dụng trong những trường hợp hết sức cần thiết.
III. Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ dùng để tác động vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá nhằm đạt được những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối đoái tập trung vào hai vấn đề:
Lựa chọn chế độ tỷ giá và Điều chỉnh tỷ giá hối đoái
1. Chế độ tỷ giá hối đoái
Khả năng cạnh tranh của xuất khẩu, trạng thái cán cân thương mại và thanh toán, dự trữ quốc gia, biến động cơ cấu sản xuất, niềm tin vào bản tệ, vào chính phủ, vào tương lai - nghĩa là các nhân tố chủ yếu đo lường sức khỏe và chi phối mạnh động lực phát triển nền kinh tế đất nước - đều phụ thuộc sâu sắc vào tỷ giá hối đoái chính thức.
- Tỷ giá ổn định không phải bao giờ cũng giúp ổn định kinh tế
Bảo đảm và duy trì sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô luôn là mục tiêu hàng đầu và tập trung của tổ hợp các chính sách kinh tế - xã hội của chính phủ, trong đó có chính sách tỷ giá. Có thể có ổn định và tăng trưởng kinh tế nhất định trong điều kiện tỷ giá không ổn định do sự chi phối của các nhân tố thị trường, do tương quan giá trị giữa các đồng tiền liên quan đến đồng bản tệ, do chính sách ưu tiên cho mục tiêu trước mắt nào đó của chính phủ...
Thực tiễn đã cho thấy ổn định tỷ giá không phải bao giờ cũng giúp ổn định kinh tế (đặc biệt là việc cố định tỷ giá một cách khiên cưỡng...), tỷ giá chịu tác động khách quan của các nhân tố thị trường luôn biến động vượt ra khỏi tầm kiểm soát, khống chế của các nhân tố chủ quan của các chính phủ, dù quốc gia đó có lực lượng dự trữ tài chính mạnh đến đâu và cơ chế điều tiết thị trường hoàn thiện nhường nào.
Đồng thời, thực tế cũng cho thấy, việc quy định tỷ giá chính thức thường có xu hướng thoát ly giá trị thực tế của đồng bản tệ bởi sự phản ứng chậm trễ về chính sách, cơ chế điều tiết, sự bảo thủ hoặc thiên lệch trong ưu tiên một vài mục tiêu kinh tế - xã hội trước mắt nào đó.
Chế đô tỷ giá cố định được một số nước áp dụng như Trung Quốc từ những năm 80 của thập niên 20. Đáng chú ý là Thái Lan với cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ tháng 7/1999 do áp dụng chế độ tỷ giá cố định quá lâu. Nước ta trước năm 1991 đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái này. Nói chung chế độ tỷ giá này chỉ phù hợp với một thời gian nào đó mà thôi. Hiện nay chế độ tỷ giá hối đoái này coi như không được áp dụng trên thế giới.
- Định giá cao đồng bản tệ: giảm sức cạnh tranh hàng xuất khẩu
Việc định giá quá cao và kéo dài đồng bản tệ sẽ làm triệt tiêu các động lực phát triển sản xuất trong nước, trước hết là sản xuất và kinh doanh xuất khẩu, làm tăng buôn lậu và tham nhũng, kích thích sử dụng lãng phí ngoại tệ, không coi trọng các nguồn lực trong nước, kích thích nền kinh tế “bong bóng” phát triển, làm gia tăng mức thâm hụt cán cân thương mại, cán cân thanh toán tài khoản vãng lai và hao hụt nhanh chóng nguồn dự trữ quốc gia để giữ giá bản tệ.
- Định giá thấp đồng bản tệ: tăng sức ép lạm phát
Ngược lại, khi định giá quá thấp đồng bản tệ (dù do sự chủ động của chính phủ với hy vọng kích thích xuất khẩu, hoặc do sự bị động gắn với việc buộc phải gia tăng phát hành bản tệ bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước hay để mua ngoại tệ trên thị trường nội địa cho nhu cầu trả nợ của chính phủ...) thì tác hại cũng không kém: sức ép lạm phát gia tăng, chi phí dịch vụ nợ bằng ngoại tệ tăng nhanh. Ngoài ra, giá hàng nhập khẩu cũng bị đẩy lên cùng chiều với tốc độ mất giá bản tệ, làm thu hẹp nguồn vốn chảy vào và bẻ ghi dòng vốn đầu tư chảy ra nước ngoài, làm tổn hại đời sống nhân dân... từ đó làm tăng nguy cơ phá sản các doanh nghiệp, làm tăng nạn thất nghiệp và sự bất ổn của xã hội.
- Tỷ giá thả nổi - dễ gây mất ổn định
Tỷ giá thả nổi là công cụ của nền kinh tế thị trường phát triển, tự nó là một nhân tố gây mất ổn định mạnh trong bối cảnh nền kinh tế chưa phát triển đầy đủ các quan hệ thị trường. Đây chính là tình cảnh “trên đe dưới búa” lưỡng nan của đa số các nước đang phát triển trong khi lựa chọn chính sách tỷ giá.
- Lựa chọn chính sách tỷ giá nào?
Không có một cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường hợp. Nhưng thực tế cho thấy, giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường xuyên sự cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Vì vậy, ngày càng có nhiều nước lựa chọn một chính sách tỷ giá có tính mềm dẻo, linh hoạt một cách thận trọng, thích ứng với những biến động dựa trên quan hệ cung cầu và có sự điều tiết tích cực của nhà nước. Có hai phương thức xác định xu hướng và mức vận động của tỷ giá danh nghĩa ổn định thường được dùng là:
+ Xác định một hoặc một số ngoại tệ mạnh mà tỷ giá bản tệ biến động gắn với chúng. Đó có thể là ngoại tệ thường dùng trong thanh toán quốc tế, hoặc đồng tiền của nước bạn hàng chính. Phương thức này đặt cược “số phận” bản tệ vào các nhân tố bên ngoài, và do đó dễ gây ra tình trạng “lạm phát hoặc thiểu phát nhập khẩu”, đột biến giá cả ngoài tầm quản lý của chính phủ, tăng tính bị động của chính sách vĩ mô.
+ Định kỳ điều chỉnh tỷ giá bản tệ. Ngân hàng Trung ương dự kiến trước mức điều chỉnh giá bản tệ trong khoảng thời gian xác định trên cơ sở cân nhắc và dự báo cung - cầu về ngoại tệ, tình hình kinh tế - xã hội cụ thể trong, ngoài nước và xu thế vận động của chúng.
2. Chính sách điều hành tỷ giá.
Việc xác định một chính sách tỷ giá phù hợp đối với từng giai đoạn phát triển của một quốc gia có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu tư bản và đến giá cả hàng hóa trong nước...
Trong thời gian qua chính sách tỷ giá hối đoái (TGHĐ) ở nước ta đã đóng góp những thành tựu đáng kể trong chính sách tài chính – tiền tệ như: hạn chế lạm phát, thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, tạo điều kiện ổn định ngân sách, ổn định tiền tệ. Tuy nhiên trong việc điều hành tỷ giá, Nhà nước vẫn còn thiếu những giải pháp hữu hiệu trong từng giai đoạn để sử dụng công cụ tỷ giá một cách phù hợp. Như vậy phải có mục tiêu và định hướng rõ ràng để có giải pháp thích hợp.
+ Mục tiêu và định hướng:
- Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
- Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ.
- Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi.
- Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá.
+ Để đạt được mục tiêu trên định hướng hoàn thiện chính sách TGHĐ như sau:
- Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước.
Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá.
- Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước.
- Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa.
+ Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách TGHĐ ở Việt Nam.
- Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn.
- Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam.
- Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình.
- Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
- Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam.
Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là +/- 0.25%). Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ đô la.
- Thực hiện chính sách đa ngoại tệ.
Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi.
Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa.
- Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam.
Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng …
- Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ.
- Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao.
Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Tuy nhiên, NVTTM nội tệ là công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm theo.
- Xem phá giá nhỏ như là một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại.
Trong điều kiện hiện nay, một chính sách giảm giá nhẹ đồng Việt Nam sẽ có thể tác động tích cực trong việc cải thiện đồng thời cả cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có, làm tăng việc làm, sản lượng và thu nhập của nền kinh tế, trong khi vẫn kềm chế được lạm phát ở mức thấp.
- Vận dụng dự báo tỷ giá để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Hoạt động dự báo có một tầm quan trọng rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro hoặc đầu cơ. NHTW có thể sử dụng các nhân tố cơ bản như thuyết PPP, hiệu ứng Fisher quốc tế để dự báo. Ngoài ra, NHTW cần theo dõi, phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế một cách có hệ thống để có những cơ sở vững chắc cho đánh giá, dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt.
Chính sách TGHĐ Việt Nam trong thời gian tới phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác mới đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu của chính sách đó Đảng, Chính phủ Việt Nam cần phải có những bước đi phù hợp. Hy vọng rằng trong thời gian tới việc quản lý ngoại hối ở Việt Nam sẽ có những bước cải tiến đáng kể đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lý luận chung về tỷ giá hối đoái Tỷ giá và mối liên hệ với vàng và nguyên liệu cơ bản.doc