LỜI NÓI ĐẦU
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liềnvới sự gia tăng đồng loạt của giá cả và sựmờt giá của tiũn tệ. Lạm phát mỗi lần xuất hiện mang theo một sức mạnh tàn phátiềm ẩn làm rối loạn nền kinh tế, làm phức tạp xãhội, làm giảm mức sống của ngời dân vàcó thểở một mức nàođó thì lạm phát gâyrối loạnchính trị xãhội.Tại nhiều nước phát triển, lạm phát được coi là vấn đề kinh tế xãhội rất nghiêm trọng. Khi một nền kinh tếcó lạm phát ở mức độ cao sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụp đổđầu tư, các nguồn vốn trong nước sẽ chảy ra nước ngoài. Ngoài ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn của quốc gia và cực điểm của nó tạo nên sự căng thẳng về chính trị xã hội.
Lạm phát là một phạm trù kinh tế vĩ mô, là căn bệnh tiềm ẩn đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng các dấu hiệu mất cân đối giữa cung - cầu về hàng hóa, mất cân đối cung - cầu tiền tệ Lạm phát là một vấn đề rất lớn, khó và phức tạp nên mỗi khi nó xuất hiện lại đòi hỏi nhiều tâm trí và sức lực của các nhà kinh tế và nhiều nhà khoa học, để nhằm tìm ra các phương pháp kiềm chế nóđể tránh hậu quả do nó gây ra.
Chính vì tầm quan trọng như vậy nên em chọn đề tài: “Lý luận về lạm phát tiền tệ, thực trạng lạm phát ở việt nam hiện nay và giải pháp khắc phục”để làm rõ phần nào bản chất của lạm phát vàđưa ra một số giải pháp. Với kiến thức còn hạn chế bài viết không tránh khỏi những sai sót nên mong được sự thông cảm của thầy cô và bạn đọc.
MỤCLỤC
Trang
Lời nói đầu
Chương1: Lý luận chung về lạm phát 2
1.Khái niệm về lạm phát 2
1.1Một số quan niệm về lạm phát 2
1.2.Đo lường 3
1.3.Phân loại 3
1.4.Nguyên nhân gây ra lạm phát 4
1.4.1.Lạm phát cầu kéo .4
1.4.2.Lạm phát chi phíđẩy 5
1.4.3.Lạm phát tiền tệ 5
1.5.ảnh hưởng và hậu quả của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế 5
1.5.1.ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế 5
1.5.2. Hậu quả của lạm phát 6
Chương 2: Thực trạng lạm phát tiền tệở Việt Nam 7
2.1. Tổng quan tình hình lạm phát Việt Nam qua các giai đoạn 7
2.1.1. Thời kìđổi mới( trước năm 1986) 7
2.1.2. Thời kì bắt đầu đổi mới (1986 - 1990) 8
2.1.3. Thời kì kinh tếđi vào ổn định (1991 - 1995) 8
2.1.4. Thời kì códấu hiệu trì trệ (1996 - 2000) 8
2.1.5. Thời kì nền kinh tế có bước phát triển mới (2001 - 2004) 9
2.1.6. Lạm phát từ năm 2004 đến hết năm 2006 9
2.1.7. Lạm phát từđầu năm 2007 đến đầu năm 2008 10
2.2. Nguyên nhân lạm phát 10
Chương 3:Chống lạm phát và giải pháp ở Việt Nam 12
3.1. Định hướng chiến lược chống lạm phát ở Việt Nam 12
3.2.Giải pháp ổn định lạm phát trong năm 2006 và các năm tiếp theo 15
3.2.1. Xây dựng cách tính lạm phát cơ bản, dự báo lạm phát 15
3.2.2. NHNN tăng cường phát triển các nghiệp vụ 16
3.2.3. Tăng cường quản lý và nâng cao dự trữ quốc tế, quốc gia 17
3.2.4. Sựphối hợp của cơ quan nhà nước 18
3.2.5. Chính sách thuế 18
3.2.6. Đối với Ngân sách Nhà nước 19
3.2.7. Các giải pháp trên lĩnh vực kinh tếđối ngoại 19
25 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5932 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận về lạm phát tiền tệ, thực trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liền với sự gia tăng đồng loạt của giá cả và sự mờt giá của tiũn tệ. Lạm phát mỗi lần xuất hiện mang theo một sức mạnh tàn phá tiềm ẩn làm rối loạn nền kinh tế, làm phức tạp xã hội, làm giảm mức sống của ngời dân và có thể ở một mức nào đó thì lạm phát gây rối loạn chính trị xã hội. Tại nhiều nước phát triển, lạm phát được coi là vấn đề kinh tế xã hội rất nghiêm trọng. Khi một nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các nguồn vốn trong nước sẽ chảy ra nước ngoài. Ngoài ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn của quốc gia và cực điểm của nó tạo nên sự căng thẳng về chính trị xã hội.
Lạm phát là một phạm trù kinh tế vĩ mô, là căn bệnh tiềm ẩn đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng các dấu hiệu mất cân đối giữa cung - cầu về hàng hóa, mất cân đối cung - cầu tiền tệ… Lạm phát là một vấn đề rất lớn, khó và phức tạp nên mỗi khi nó xuất hiện lại đòi hỏi nhiều tâm trí và sức lực của các nhà kinh tế và nhiều nhà khoa học, để nhằm tìm ra các phương pháp kiềm chế nó để tránh hậu quả do nó gây ra.
Chính vì tầm quan trọng như vậy nên em chọn đề tài: “Lý luận về lạm phát tiền tệ, thực trạng lạm phát ở việt nam hiện nay và giải pháp khắc phục” để làm rõ phần nào bản chất của lạm phát và đưa ra một số giải pháp. Với kiến thức còn hạn chế bài viết không tránh khỏi những sai sót nên mong được sự thông cảm của thầy cô và bạn đọc.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm về lạm phát
1.1. Một số quan điểm về lạm phát:
Lạm phát là vấn đề không mấy ai xa lạ đối với một nền kinh tế và hầu hết quần chúng đều có thể chứng kiến hay trải qua thời kì lạm phát tùy theo mức độ khác nhau. Nhưng để hiểu lạm phát là gì không phải dễ, ngay cả các nhà kinh tế học cũng có những quan điểm khác nhau về lạm phát. Dưới đây xem xét một vài quan điểm tiêu biểu cho từng trường phái khác nhau về lạm phát.
Theo MÁC trong toàn bộ tư bản: Lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản (CNTB) còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống.
Lý luận “lạm phát lưu thông tiền tệ” tiêu biểu cho quan điểm này là J.Bondin và M.Friedman cho rằng” Lạm phát trong mọi lúc mọi nơi đều là hiện tượng của lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên với nhịp độ nhanh hơn so với sản xuất”. Với quan điểm này lạm phát xuất hiện khi có khối lượng tiền tệ được bơm vào lưu thông hơn khối lượng cần thiết cho lưu thông của thị trường( đồng nội tệ bị mất giá). Một số quốc gia bơm tiền ra ngân hàng trung ương (NHTW) phải tái cấp vốn cho ngân hàng thương mại (NHTM) hoặc cho ngân sách vay để đáp ứng nhu cầu tăng tiêu dùng của Chính Phủ và xã hội. Do đó, ngoài thị trường thì cung tiền vượt quá cầu tiền tệ, và khan hiếm hàng hóa tăng lên kết quả lạm phát ngày càng tăng cao. ý kiến đó của ông được đa số các nhà kinh tế học thuộc trường phái tiền tệ và phái Keynes tán thành.
Luận thuyết ”Lạm phát cầu dư thừa tổng quát” của các tác giả giải thích: Lạm phát là cầu dư thừa thường xuyên do phát hành tiền quá mức đề ra, nguyên nhân chủ yếu của lạm phát là vi phạm quá trình tái sản xuất nằm trong lĩnh vực tiền tệ, vì lưu thông tiền tệ có ảnh hưởng mang tính quyết định tới sự phát triển tích cực của nền kinh tế. Sự suy giảm sức mua của đồng tiền, sức mua của đồng tiền được đo lường bằng sự biến đổi nghịch đảo của mức giá chung. J.M Keynes nói chỉ khi nào có toàn dụng, sử dụng hết công nhân hay năng lực sản xuất, mới tạo nên cầu dư thừa và giá cả hàng hóa tăng lên từ cầu cá biệt làm thay đổi cầu tổng quát và mức giá chung từ đó gây ra lạm phát. Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát biểu thị cho sự tăng lên của mức giá chung. Theo ông:” Lạm phát xảy ra khi mức giá chung của giá cả và chi phí tăng - giá lương thực dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng”.
Hiện nay, lạm phát được định nghĩa là sự tăng lên liên tục của mức giá chung hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá. Điều này không có nghĩa là giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cung một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Một nền kinh tế vẫn có thể trải qua lạm phát khi giá của một số hàng hóa giảm, nếu như giá của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
1.2 Đo lường:
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kì nhất định, các nhà thầu kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi mức giá chung. Thực tế, hầu hết các nước khi đánh giá lạm phát đều sử dụng chỉ số giá tiêu dùng(CPI) làm công cụ nền tảng, bởi CPI có những lợi thế riêng như: tính quảng bá tương đối rộng đối với xã hội, được công bố và tính toán thường xuyên. Nhưng bên cạnh đó, NHTW không hiếm khi đưa ra chỉ số giá cả khác mà nó chính là CPI hoặc CPI đã loại trừ một số yếu tố - chỉ số điều chỉnh này thường được gọi là chỉ số lạm phát cơ bản( core inflation).
Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số giá tiêu dùng CPI để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên, nếu mục tiêu xác định ảnh hưởng đến mức sống, thì rõ ràng chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra phức tạp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tính trên cơ sở CPI.
1.3. Phân loại:
+ Căn cứ vào cường độ của lạm phát:
- Lạm phát tiên tiến điều độ hay lạm phát vừa phải.
- Lạm phát phi mã.
- Lạm phát siêu phát.
+ Căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường:
-Lạm phát ngầm, lạm phát lành mạnh.
+ Lạm phát công khai, lạm phát thực sự.
+ Căn cứ biểu hiện bên ngoài của bản chất lạm phát:
-Lạm phát lưu thông tiền tệ.
-Lạm phát giá cả.
-Lạm phát sức mua.
-Lạm phát suy thoái.
+ Căn cứ vào nguyên nhân:
-Lạm phát cầu dư thừa tổng quát.
-Lạm phát cung.
-Lạm phát chi phí.
-Lạm phát cơ cấu.
-Lạm phát nhập khẩu.
-Lạm phát tài chính tín dụng.
+ Căn cứ phạm vi ảnh hưởng mặt không gian:
-Lạm phát quốc gia.
-Lạm phát thế giới.
+ Căn cứ tính lịch sử:
-Lạm phát cổ điển (gắn liền với chiến tranh.)
-Lạm phát hiện đại (gắn liền với hòa bình.)
1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
1.4.1. Lạm phát cầu kéo:
Tập hợp một số nhóm các nguyên nhân khiến cho số cầu tăng lên quá mức cần thiết làm cho số cung không đáp ứng kịp. Một trong những cú sốc lớn đối với lạm phát là sự thay đổi trong đầu tư, chi tiêu chính phủ hay xuất khẩu ròng có thể làm thay đổi tổng cầu và đẩy sản lượng vượt quá mức tiềm năng của nó. Lạm phát cầu kéo xảy ra khi nền kinh tế quá nóng, mức đầu tư tăng quá nhanh hoặc chính phủ làm tăng mức cung tiền quá lớn.
1.4.2. Lạm phát chi phí đẩy:
Xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài, tác động vào không gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Lạm phát xuất hiện khi giá nguyên vật liệu tăng, tiền công tăng cao hơn mức năng suất lao động bình quân, chi phí khấu hao lớn, máy móc thiết bị lạc hậu tốn nhiều nguyên liệu nhiên liệu. Trên đồ thị tổng cung - tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát điều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát chi phí đẩy hay lạm phát kem suy thoái.
1.4.3. Lạm phát tiền tệ:
Theo lý thuyết số lượng tiền tệ, lượng tiền tệ trong nền kinh tế quyết định giá trị của tiền và sự gia tăng khối lượng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu gây ra lam phát. Xét phương trình số lượng: M*V = P*Y sự gia tăng lượng tiền trong nền kinh tế phải biểu hiện ở một trong ba biến số khác: mức giá phải tăng, sản lượng phải tăng hoặc tốc độ lưu thông tiền tệ phải giảm. Do vậy, khi tăng cung ứng tiền tệ một cách nhanh chóng, thì kết quả là tỷ lệ lạm phát tăng cao. Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát chỉ có tăng tiền mới có thể tăng giá. Chính vì vậy, việc quản lý tốt hạn mức tín dụng và linh hoạt hóa vòng quay của tiền tệ cũng là một trong những biện pháp sử dụng đồng tiền có hiệu quả và góp phần kiềm chế lạm phát.
1.5. Ảnh hưởng và hậu quả của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế:
1.5.1.Ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế:
Có rất nhiều tranh luận xung quanh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế theo trường phái lập luận cho rằng chúng có mối liên hệ chặt chẽ tỷ lệ thuận, nếu có tăng trưởng kinh tế tất nhiên có lạm phát. Với lập luận này, ở một số nước đang phát triển, lạm phát được coi là yếu tố tích cực để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát làm tăng đầu tư và tiết kiệm do chuyển thu nhập từ người làm công ăn lương sang tăng thu nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu tăng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng khoản tiết kiệm từ lợi nhuận cao hơn tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương. Kết quả là đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế.
1.5.2. Hậu quả của lạm phát:
Lạm phát cao sẽ làm lệch cơ cấu giá cả, kéo theo là nguồn tài nguyên, vốn và nhân lực không được phân bố một cách hiệu quả làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại.Giá cả tăng khi có lạm phát làm đời sống kinh tế trở nên khó khăn hơn do số lượng tiền tệ gia tăng quá nhiều trong khi khối lượng hàng hóa sản xuất ra không tăng kịp. Vì giá cả tăng quá cao nên cần phải có khối lượng tiền tệ thật lớn mới mua được một món hàng có giá trị không cao lắm. Trật tự kinh tế bị đảo lộn do vật giá tăng lên tình trạng đầu tư tích trữ tràn lan. Hàng hóa khan hiếm người mua phải chấp nhập mua bằng mọi giá. Những người có thu nhập cố định như công nhân viên chức cán bộ hưu trí… nay nhận thấy rằng mức thu nhập thực tế của mình đã giảm xuống vì giá cả tăng sức mua của đồng tiền giảm mặc dù tiền lương tăng. Xu hướng người dân mua hàng hóa tích trữ thay vì gửi tiền vào ngân hàng hay đem đầu tư đã làm cầu tăng lên một cách giả tạo do vậy nguy cơ lạm phát bùng nổ càng cao.
Hoạt động tín dụng trở nên khó khăn hơn vì không ai muốn bỏ tiền ra cho vay sau đó thu về đồng tiền mất giá. Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn. Các nhà đầu tư không giám đầu tư dài hạn vì độ rủi ro quá cao. Vì vậy, nó ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội quốc gia: hoạt động kinh tế biến dạng, gây tâm lý xã hội phức tạp,lãng phí sản xuất. Định vị quốc gia suy yếu trên thế giới do mất giá đối nội và đối ngoại của đồng tiền, khiến cho tỷ giá hối đoái gia tăng, khuynh hướng chuyển chuyển dịch tài sản và ngoại tệ ra nước ngoài nhiều hơn ngoại tệ và tài sản ở nước ngoài vào. Kết quả khiến cho dự trữ vay và ngoại tệ giảm sút.
Xây dựng bị đình trệ do các bản hợp đồng không được kí hay bị bán rẻ, thà chịu lỗ chứ không đợi vật giá leo thang.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
2.1. Tổng quan tình hình lạm phát Việt Nam qua các giai đoạn:
H1. Biểu đồ lạm phát cho đến hết tháng 12 năm 2007
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là con đường đã được khẳng định trong nghị quyết đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam. Chính sách và cơ chế quản lý giá ở Việt Nam cần phải được hoàn thiện và đổi mới nhằm vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô: Đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, xây dựng ngân sách và cán cân thương mại lành mạnh, đảm bảo sự công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế phát triển toàn diện và có hiệu quả.
2.1.1. Thời kì trước đổi mới( trước năm 1986):
Nền kinh tế vân hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp nên vấn đế giá cả chưa chụi tác động của cơ chế thị trường và do đó lạm phát không xuất hiện. Tuy nhiên, giai đoạn 1976 - 1985 nền kinh tế có nhiều biểu hiên suy thoái khủng hoảng và lạm phát. Thời kì này, vay nợ nước ngoài chiếm 38,2% tổng số thu NSNN và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Bội chi ngân sách và năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% so với GDP. Hình thành hệ thống 2 giá: giá nhà nước quy định và giá thị trường tự do, chênh lệch nhau hàng chục lần. Chính sách tín dụng tùy tiện, giá bao cấp, bất chấp quy luật phát triển vốn và không cân nhắc đến yêu cầu chống lạm phát, là tác nhân quan trọng làm bùng nổ lạm phát trong 5 năm 1981 -1985. Quý IV - 1985 cuộc cải cách giá lương tiền đưa mặt bằng giá lên mức phản ánh được sức mua thực tế đồng tiền đã bị mất giá quá lớn năm 1981-1985 và chuyển đổi từ cơ chế 2 giá sang cơ chế 1 giá.
2.1.2. Thời kì kinh tế bắt đầu đổi mới(1986 - 1990):
Bước sang thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta vẫn là thời kì khủng hoảng kinh tế xã hội, kinh tế phát triển chậm và bất ổn định. Mức lạm phát kéo dài trong vòng 3 năm với tỷ lệ lạm phát trung bình đạt 463,9%/ năm( đạt mức đỉnh điểm là 774,7% vào năm 1986 và 398,8% vào năm 1988). Sự kiện hiếm có không những trong lịch sử Việt Nam mà cả đối với phần lớn các nền kinh tế trên thế giới. Sau đó giảm dần xuống lạm phát 2 chữ số nhưng vẫn còn ở mức cao( năm 1989 là 34.7% và năm 1990 là 67,1%).
2.1.3. Thời kì kinh tế đi vào ổn định(1991 - 1995):
Giai đoạn này tình hình kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng khá cao, liên tục và toàn diện. Tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 8,2% và lạm phát bắt đầu được đẩy lùi( chỉ số CPI từ 67,1% (1990) còn 12,7% (1995).
2.1.4. Thời kì có dấu hiệu trì trệ(1996 - 2000):
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực có tách động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế phải đối mặt với thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợi bên ngoài và thiên tai liên tiếp ở trong nước. Điểm đặc biệt của thời kì này là đi cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế có chiều hướng chững lại là việc giảm xuống của tỷ lệ lạm phát dưới mức kiểm soát và chuyển sang xu thế thiểu phát( tỷ lệ lạm phát năm 1996 là 4,5% xuống còn -0.6% năm 2000). Làm cho nhu cầu hàng hóa trên thế giới giảm, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa dịch vụ giảm xuống. Nhà nước đã áp dụng giải pháp hỗ trợ cán bộ công chức nhà nước như từng bước cải thiện cơ bản đời sống và từng bước tiền tệ hóa tiền lượng. Thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ với sự điều chỉnh kịp thời linh hoạt theo tín hiệu thị trường. Dùng nhiều biện pháp kích cầu nhà nước đã có hàng loạt giải pháp nhằm hỗ trợ cho người nghèo như: tăng bù lãi suất cho ngân hàng người nghèo và nâng mức cho vay đối với hộ gia đình. Kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu qua biên giới, trên biển và đất liền. Hỗ trợ tìm kiếm thị trường, tổ chức nguyên cứu và tìm kiếm thị trường hỗ trợ các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh.
2.1.5. Thời kì nền kinh tế có bước phát triển mới (2001 - 2004):
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và ổn định, trong bốn năm 2001 -2004 , nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu khả quan. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mọi mặt đời sống xã hội được cải thiện và phát triển: Tỉ lệ lạm phát tăng dần từ -0,6% năm 2000 lên 9,5% năm 2004( năm 2001, chỉ số giá ở mức 0,8%, năm 2002 là 4% và năm 2003 là 3%). Bên cạnh sự phát triển mạnh của nền kinh tế, năm 2004 chỉ số giá tiêu dùng 9,5% mức cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999, tỉ lệ lạm phát vượt ngững do quốc hội đề ra( 5%).
2.1.6. Lạm từ năm 2004 đến hết năm 2006:
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển trở lại sau một thời gian thiểu phát từ năm 1999 đến 2003 thì câu chuyện lạm phát lại trở lại. Chỉ với tháng 2 thì nó đã tăng vọt một cách không ngờ lên 4,2% sau hơn 10 yên ắng và tiếp tục tăng cho đến tháng cuối cùng của năm rồi dừng lại ở mức 9,5%. Bởi trong xu thế toàn cầu hóa thì sự hội nhập kinh tế cuả từng quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng. Tình hình giá cả thị trường trong nước tăng lên một phần do tác động giá của thị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí đối với các mặt hàng tăng lên. Mặt hàng thực phẩm có giá tăng cao do dịch cúm già xảy ra với quy mô lớn, trên thị trường diện rộng ở 57 tỉnh thành phố. Với số gia cầm bị chết bị tiêu hủy lên đến 44 triệu con( chiếm 17,3% so với tổng đàn) làm giảm khoảng 20 - 30% thị phần thực phẩm.Vì thế nhu cầu dồn lên các loại thực phẩm thay thế như thịt lợn, thịt bò…Giá thép tăng cao nguyên nhân chủ yếu do thị trường thế giới gia tăng, nguồn cung ứng vật liệu thô( quặng sắt, thép phế, coke) đang khan hiếm. Điều đáng chú ý là giá dầu thô thế giới lên cao tăng mức kỉ lục 41,56$/ thùng, giá xăng dầu thế giới cũng bị đẩy lên mức cao: xăng 92 giá 50 USD/ thùng. Nguyên nhân khách quan là do OPEC muốn hạn chế khai thác đã cắt giảm sản lượng nên gây ra hiệu ứng tăng giá trên thị trường thế giới.
Lý lẽ thứ 2 lạm phát bắt đầu từ tiền tệ, nghĩa là sự gia tăng cung tiền quá ngưỡng cho phép.Ở cách lý giải này, bất cứ trường hợp nào gây nên tăng giá đều bắt nguồn từ nguyên nhân tiền tệ. Bằng cả hai cách đo cơ bản bổ sung cho nhau là khối lượng tiền mạnh và khối lượng tiền tệ bơm ra cho nền kinh tế đều cho thấy tốc độ tăng hàng năm là khá cao và trong một thời gian dài. Trong năm 2005 Ngân hàng Nhà nước( NHNN) đã 3 lần tăng lãi suất chủ đạo, 2 lần tăng lãi suất cơ bản Đồng Việt Nam và giữ ở mức cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Thực tế các chỉ tiêu khối lượng tiền cung ứng ra lưu thông, dư nợ cho vay… của hệ thống ngân hàng thấp hơn cùng kì và cả năm 2004. Tổng phương tiện thanh toán đến hết tháng 11 -2005 tăng 16,4% so với 31- 12 -2004, dự báo cả năm sẽ tăng khoảng 18%, thấp hơn mức 30,39% của năm 2004. Bản thân NHTM cũng kiểm soát chặt chẽ cho vay và đẩy mạnh huy động vốn trong nền kinh tế. Về chính sách tài chính thu về ngân sách 210.400 tỷ đồng, vượt 15% so với kế hoạch. Bội chi vẫn nằm trong mức do Quốc hội cho phép. Sang năm 2006, lạm phát ở nước ta chững lại ở con số 6,6% đó là một thành quả đáng ghi nhận của nhà nước ta trong vấn đề chống lạm phát. mức tăng trưởng duy trì ở con số 8,2 – 8,5%, mức tăng của lương là 23%, vì vậy đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể, đất nước nước thoát được ra khỏi lạm phát cao năm 2004 - 2005.
2.1.7 Đầu năm 2007 – Đầu năm 2008
Lạm phát trong thời gian này đã có biến đổi hết sức lo ngại, mức lạm phát từ 12 - 15%. Năm 2007, tốc tỷ lệ lạm phát là 12,63% cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng 8,5-9%. Mới 3 tháng đầu năm CPI đã tăng 6% trong khi mục tiêu đặt ra là 8,5%, thị trường chứng khoán giảm mạnh, nhập siêu lớn, tốc độ tăng trưởng đã giảm đôi chút ( hiện tại 7,4%). Liệu những con số này có tiếp tục nữa không, nhiều nhà kinh tế cho rằng từ năm nay đến năm 2010 kinh tế Việt Nam sẽ suy thoái và 8 năm sau nữa mới hồi phục được, lạm phát sẽ vào khoảng 15%.
2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
- Mức cung tiền tệ: Ngân hàng nhà nước đã đưa quá nhiều tiền vào lưu thông so với dự trữ quốc gia. Năm 2007 thu nội địa là 190 nghìn tỉ, nhà nước đã chi 321 nghìn tỉ vì vậy lạm phát cao là điều khó tránh khỏi.
- Mức dư cầu: Từ năm 2004 đến nay Việt Nam luôn duy trì được con số tăng trường GDP ở 8%, nhưng trên thực tế có khá nhiều mặt hàng lương thực, thực phẩm lại bị giảm cung do thiên tai dịch bệnh, vì vậy giá cả tăng cao là điều tất nhiên.
- Giá xăng thế giới tăng, gần 100USD/thùng khiến mọi sản phẩm công nghiệp tăng dẫn đến giá cả hàng hóa chung tăng.
- Một phần lạm phát cũng là do tỉ giá hoán đổi VNĐ/USD tăng do nền kinh tế Mĩ suy thoái.
Việc quản lý thị trường và giá cả còn nhiều bất cập. Những hiện tượng chốn lậu thuế, gian lận thương mại, lợi dụng độc quyền và liên kết độc quyền đầu tư nâng giá chưa có giải pháp và chế tài kiểm soát có hiệu quả. Công tác thông tin còn nhiều yếu kém chưa có sự kết hợp tốt giữa tổ chức thông tin, tuyên truyền với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đánh giá cũng như dự báo các xu thế biến động giá cả. Mặt khác nhu cầu tăng trưởng cao đòi hỏi phải đưa vốn ra thị trường nên lạm phát tất yếu xảy ra.
CHƯƠNG 3: CHỐNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở những lý thuyết về ổn định hóa kinh tế vĩ mô và chính sách lạm phát ở các nước trên thế giới, chiến lược chống lạm phát cần phải dựa trên nền tảng tăng trưởng kinh tế và tình hình, đặc điểm cụ thể ở mỗi nước. Đối với Việt Nam nền kinh tế đang chuyển đổi và ngày càng tiếp cận với nền kinh tế thế giới, ngày càng chịu nhiều rủi ro từ các yếu tố bên ngoài, chúng ta cần phải sẵn sàng đối phó với những biến động của lạm phát. Muốn chủ động, sẵn sàng trong việc kiểm soát, điều chỉnh lạm phát trước hết chúng ta phải tập chung xây dựng và thực thi các chính sách chống lạm phát dựa trên định hướng nâng cao năng lực nền kinh tế đất nước. Có như vậy mới có khả năng kiềm chế được lạm phát và đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Như chúng ta đã biết, lạm phát là hệ quả của sự mất cân đối giữa tổng lượng hàng hóa và tổng khối lượng tiền tệ, chính sách chống lạm phát phải dựa trên việc điều hành song song tổng khối lượng tiền, hàng. Điều này chỉ có thể thành công khi có mối tương hỗ chặt chẽ của hai chính sách cơ bản nhất: chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Một mặt, NHTW thông qua khối lượng tiền cung ứng và các công cụ có thể ảnh hưởng đến chính sách hoạt động( chính sách huy động vốn và tín dụng) của các ngân hàng thương mại (NHTM), gây ảnh hưởng gián tiếp đến cung ứng tín dụng của các NHTM và nhu cầu tín dụng của các chủ thể kinh tế khác. Mặt khác, một chính sách tài khóa hợp lý sẽ thúc đẩy phát triển sản xuất và có thể góp phần điều hòa thị trường hàng hóa nội địa. Như vậy, một mặt vừa điều hòa lượng tiền, mặt khác điều hành cung ứng hàng hóa công cộng với quản lý tốt việc hình thành giá và có một chính sách thương mại hợp lý sẽ mang lại hiệu quả cao.
3.1. Định hướng chiến lược chống lạm phát ở Việt Nam:
NHTW tiến hành thông qua việc quản lý và sử dụng các công cụ và chính sách tiền tệ để tác động trực tiếp nhằm giảm lượng tiền trong lưu thông như: Về lãi suất cần phải được điều hành một cách linh hoạt và áp dụng chính sách lãi suất dương( lãi suất dương bằng khoảng 20% tỷ lệ lạm phát). Thắt chặt tiền tệ bằng cách nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu, hạn chế tín dụng, cung cấp cho các NHTM. Tập trung thanh tra và giám sát các hoạt động ngân hàng. Huy động tiền gửi dân chúng bằng cách nâng cao hiệu suất tiết kiệm, phát hành trái khoán công trái. Gây dựng lòng tin vào đồng nội tệ của các doanh nghiệp và dân chúng tạo sự vững chắc trong lưu thông tiền tệ. Đưa dự trữ vàng và ngoại tệ ra bán để thu hút bớt tiền thừa trong lưu thông. Hạn chế chi tiêu ngân sách như giảm chi phí quốc phòng, giảm biên chế công nhân viên nhà nước, kiểm soát và chống thấp thoát trong chi tiêu ngân sách, chống tham nhũng. Tăng thu ngân sách bằng cách chống thất thuế, vay nợ dân chúng… nhằm rút ngắn sự cách biệt giữa thu và chi dẫn đến cân bằng thu chi ngân sách. Sử dụng nguồn ngân sách công khai, minh bạch và tăng cường hệ thống sổ sách kế toán, kiểm toán. Đấu tranh với các thành phần kinh tế ngầm làm thất thoát một lượng vốn khổng lồ của Nhà nước( như: trốn thuế, rửa tiền, tham nhũng, chiếm hữu tài sản của nhà nước dưới hình thức tư nhân hóa), xói mòn nền tảng quốc gia, phá hủy sự hình thành một nền kinh tế thị trường văn minh.
Chính sách thuế không chỉ có nhiệm vụ tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn có chức năng rất quan trọng là khuyến khích sản xuất và điều tiết tiêu dùng, nâng cao tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tạo ra sự tăng trưởng và ổn định vững chắc cho tương lai. Tổng mức hàng hóa giảm và đưa đến sản xuất giảm xút, hậu quả là kinh tế chậm tăng trưởng và thiểu phát là điều tất yếu. Những bất cập yếu kém trong sản xuất làm phá vỡ cơ cấu và gây ra khủng hoảng cơ cấu. Xuất nhập khẩu được tăng lên mạnh mẽ, đặc biệt là xuất khẩu làm cho nền kinh tế lành mạnh tăng trưởng tốt đưa đến nền kinh tế ổn định và giúp cho tỷ lệ lạm phát ở mức chấp nhận được. Các nghành nghề và lĩnh vực của nền kinh tế cần được quan tâm đẩy mạnh phát triển. Trong đó cần chú trọng phát triển mạnh trên lĩnh vực lương thực thực phẩm, bởi lẽ trong chỉ số giá quyền số giá lương thực thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn(47,9%/ tổng số). Đầu tư có gắn khăng khít với lạm phát và tăng trưởng kinh tế nên cũng cần phải có chính sách phù hợp nhằm đạt được những mục tiêu chung đã đề ra. Chính vì vậy, chương I luật NHNN nhận định rằng:” Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhândân”. Nguồn gốc hình thành cơ chế điều hành CSTT không theo lối truyền thống( điều hành qua mục tiêu trung gian), tức là hướng trực tiếp từ mục tiêu hoạt động tới mục tiêu cuối cùng, không qua mục tiêu trung gian đó là sự nguy hại của lạm phát. Lạm phát bên cạnh việc bóp méo giá cả nó còn làm sói mòn tiết kiệm và không khuyến khích đầu tư hạn chế tăng trưởng, gây ra bất ổn về chính trị xã hội… Do vậy, Chính phủ các nước coi lạm phát như một căn bệnh nguy hiểm nên cố gắng chấm dứt nó bằng nhiều giải pháp CSTT. Mà điều hành CSTT theo cách tiếp cận mới là hướng tới mục tiêu lạm phát ổn định ở mức hợp lý để đối phó với khó khăn.
Một biện pháp chống lạm phát hàng đầu là huy động triệt để cơ sở vật chất và lao động hiện có, phục hồi quá trình đầu tư, tập trung vốn cho các dự án ưu tiên. Kinh nghiệm thế giới đã chứng minh rằng thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân sẽ có hiệu quả cao và ít rủi ro nhất, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ( tại các nước Tây Âu chiếm 50-55% GDP). Ngoài ra, Nhà nước cần chú trọng quản lý chặt chẽ việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài theo các kênh chính thức hoặc phi chính thức. Tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường nội địa theo hình thức đầu tư nước ngoài gián tiếp và trực tiếp. Tạo ra cơ cấu hạ tầng đồng bộ, môi trường kinh doanh thuận lợi, thuế lợi tức cần có sự điều chỉnh hợp lý tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Thông qua đầu tư của nước ngoài, các kỹ thuật kinh nghiệm, công nghệ mới, trình độ quản lý tiên tiến được chuyển giao ngày càng nhiều vào Việt Nam. Chính sách và giải pháp kinh tế đối ngoại đúng sẽ tạo ra yếu tố cần thiết và phát huy tác động tích cực chống, đẩy lùi, kiềm chế và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
Kiểm soát giá cả và điều chỉnh tiền lương là một cấu phần trong tổng thể chiến lược chống lạm phát. Thực tế trong nước và quốc tế đã chứng minh rằng khi nền kinh tế gặp “sốc”, việc điều chỉnh giá cả sẽ không đạt hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh không lành mạnh và sự xuống giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ do tình trạng xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng quá nhiều. Cần phải kiểm soát chặt chẽ trong việc hình thành giá cả( đặc biệt trong lĩnh vực độc quyền Nhà nước), chỉ nên hạn chế( hợp lý) tăng giá đối với một số mặt hàng có tính chiến lược và điều chỉnh tiền lương hợp lý, phù hợp với mức độ tăng trưởng sản xuất nội địa.
Việc mất đi hiệu lực, chức năng điều chỉnh quan hệ giữa các khu vực kinh tế và trách nhiệm chủ thể kinh tế của luật pháp là một trong những nguyên nhân phá vỡ tính ổn định nền kinh tế và dẫn đến tình trạng lạm phát. Để chuẩn hóa các hoạt động kinh doanh cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế giám sát và thực thi chúng. Hệ thống luật cần phải đảm bảo tính hợp lý, vững chắc, đồng bộ và chiếm được lòng tin của các doanh nghiệp và dân chúng.
3.2. Giải pháp ổn định lạm phát trong năm 2008 và các năm tiếp theo:
Lạm phát tiền tệ có thể được kiểm soát bằng một chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách thu chi ngân sách nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nếu theo đuổi chính sách này quá liều lượng thì mục tiêu tăng trưởng và việc làm sẽ khó đạt được. Đơn giản là bởi vì chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ hướng tới thu hẹp tín dụng trong nền kinh tế và làm cho giá trị đồng tiền trong nước cao hơn so với đồng tiền nước ngoài. Trong khi khống chế lạm phát thì đòi hỏi chính phủ phải tiết kiệm trong chi tiêu bằng các giải pháp tăng thuế thu nhập, giảm chi tiêu. Tăng thuế làm giảm nhiệt tình làm việc và giảm chi tiêu đầu tư khu vực doanh nghiệp. Giảm chi tiêu chính phủ sẽ có khả năng giảm chi tiêu phát triển và điều này làm chậm tăng trưởng.
Đầu năm 2008, diễn biến tình hình lạm phát phức tạp hơn. Chỉ 3 tháng đầu năm lạm phát đã tăng lên 6%. Đây là sự cảnh báo trước nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế. Chính phủ đã vào cuộc, quyết tâm chống lạm phát với chính sách ” hút bớt lượng tiện đã bơm vào lưu thông”. Câu hỏi đặt ra là bằng cách nào khi mà thị trường chứng khoán suy giảm tỉ lệ thuận với lượng tiền hút ra. Nhà nước đã phát hành 20 nghìn tỉ trái phiếu chính phủ. Liệu lạm phát có thể giảm được không khi mà chỉ tiêu đặt ra cho năm 2008 là 8,5%.
Việc kiểm soát lạm phát không phải vấn đề có thể giải quyết nhanh chóng, triệt để trong ngày một ngày hai được. Thực hiện mục tiêu chống lạm phát trong dài hạn và điều chỉnh trong ngắn hạn, Chính phủ, các Bộ, các ngành(Bộ Tài Chính, NHNN, Bộ thương mại, Bộ kế hoạch và đầu tư, tổng cục thống kê,…) không thể chỉ sử dụng một giải pháp đơn lẻ mà cần phải sử dụng thống nhất các nhóm giải pháp sau một cách hài hòa, hợp lý và đồng bộ.
3.2.1. Xây dựng cách tính lạm phát cơ bản, dự báo lạm phát:
NHNN và tổng cục thống kê cần phối hợp nghiên cứu, sớm đưa vào phương pháp tính toán lạm phát cơ bản, dự báo lạm phát làm cơ sở dự báo cho sự phát triển kinh tế vĩ mô, loại bỏ bớt các yếu tố gây sốc về giá cả thị trường, xác định rõ nguyên nhân để có những chính sách hợp lý. NHTW phải có những hiểu biết nhất định về kênh truyền dẫn giữa công cụ chính sách tiền tệ và lạm phát, qua đó mới biết được độ trễ thời gian giữa việc điều chỉnh các công cụ chính sách tiền tệ với ảnh hưởng của nó tới tỷ lệ lạm phát. Tạo thế chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ và nâng cao niềm tin vào các chủ thể kinh tế. Việc tính toán và công bố chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng CPI sẽ làm cơ sở cho việc dự báo sự phát triển kinh tế vĩ mô, tạo thế chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ và nâng cao niềm tin của chủ thể kinh tế. Việc làm này tập trung vào kiểm soát lạm phát chứng tỏ trong tương lai, NHTW hoàn toàn có khả năng thực thi cơ chế lạm phát mục tiêu trong điều kiện có được sự độc lập tương đối, một nền sản xuất nội địa vững chắc, lạm phát dao động ở mức hợp lý, cơ sở nguồn thu ngân sách được mở rộng và hệ thống tài chính ngân hàng được phát triển. Nhà kinh tế học F. Mishkin cho rằng:” Tập trung phát triển sức mạnh kinh tế sẽ đến sau khi thực hiện các phương pháp kiếm chế lạm phát, đối với các nước tiến hành kế hoạch hóa lạm phát… có thể đưa ra kết luận rằng lạm phát mục tiêu sẽ củng cố quá trình phát triển kinh tế và thêm vào đó là kiểm soát được lạm phát”.
3.2.2. NHNN tăng cường phát triển các nghiệp vụ:
NHNN cần nâng cấp thị trường tiền tệ, hoàn thành công cụ điều hành lãi suất( đặc biệt là lãi suất tái cấp vốn), linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ khác tương xứng với xu thế và tiến độ hội nhập. NHNN cần nâng cao hơn nữa tính thị trường của công cụ lãi suất để tạo cơ sở chuyển dần ”neo” bằng tỷ giá sang” neo” bằng lãi suất trong điều hành CSTT. Lãi suất tái cấp vốn cần được xác định dựa trên mức độ tăng trưởng GDP mong muốn, mức độ lạm phát dự báo và những mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tạo môi trường cho lãi suất của NHTW tác động thực sự đối với lãi suất trên thị trường. Phát triển thị trường tài chính đủ sâu về quy mô cũng như khối lượng giao dịch, tương xứng với nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế trong tương lai, đặc biệt là chú trọng đến thị trường chứng khoán. Tiếp tục củng cố hệ thống các tổ chức tín dụng( TCTD) một cách lành mạnh và hiệu quả, hoàn thành tiến độ cổ phần hóa các NHTM Nhà nước: nâng cao năng lực quản trị điều hành và hiện đại hóa công nghiệp của các TCTD. Nâng cao năng lực giám sát NHNN trên cơ sở tiến tới áp dụng căn bản các chuẩn mực quốc tế về giám sát, thanh tra ngân hàng.
Để đảm bảo đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tỷ lệ lạm phát vừa đòi hỏi phải có những giải pháp tiền tệ một cách thông minh.Tức là giảm vừa phải giảm lượng tiền trong lưu thông và thay thế những mặt hàng phải nhập khẩu bằng một mặt hàng ở trong nước để giảm bớt nhu cầu nhập khẩu và sự tốn kém ngoại tệ không cần thiết. Quản lý hạn mức tín dụng và làm linh hoạt hóa vòng quay của tiền tệ cũng là một trong những biện pháp sử dụng đồng bộ tiền có hiệu quả và góp phần kiềm chế lạm phát. Tăng huy động vốn và dư nợ cho vay nền kinh tế là hai mặt của một vấn đề, đảm bảo cân bằng tổng cung tiền tệ, giúp cho nền kinh tế có đủ vốn đầu tư có hiệu quả. Không để xảy ra tình trạng nợ đọng nợ khó đòi tăng lên cao là giải pháp quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao và phát triển ổn định.
Hơn nữa, ngân hàng phải áp dụng lãi suất thực dương. Tuy nhiên, không phải lãi suất thực dương nào cũng đem lại hiệu quả kinh tế cao và đồng thời chống được lạm phát. Lãi suất thực dương quá cao có thể chống được lạm phát nhưng hiệu quả kinh tế thấp vì dẫn đến làm giảm đầu tư phát triển và có nguy cơ rủi ro cao đối với an toàn hệ thống ngân hàng. Vì vậy, trong điều hành kinh tế vĩ mô với nhiệm vụ phải đạt đồng thời hai mục tiêu song song và bảo đảm nền kinh tế phát triển cao, ổn định với tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải thì phải áp dụng lãi suất tiết kiệm thực dương nhưng không quá cao. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì lãi suất thực dương chỉ nên ở mức tỷ lệ lãi suất thực dương với lãi suất bằng khoảng 20%. Tuy nhiên, để điều hành mức lãi suất này không bị sai lệch và lạc hậu khi tỷ lệ lạm phát thay đổi thì lãi suất danh nghĩa phải điều chỉnh linh hoạt, thường xuyên có khi một tháng một lần theo chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng.
3.2.3. Tăng cường quản lý và nâng cao dự trữ quốc tế, quốc gia:
Muốn vậy, cần tập trung quản lý chu chuyển nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu thông qua hệ thống NHTM. Điều đó sẽ giúp NHNN chủ động trong điều tiết cung cầu ngoại tệ, đảm bảo bình ổn tỷ giá. Việc tập trung quản lý ngoại tệ giúp hạn chế tối đa việc sử dụng dự trữ ngoại tệ quốc gia để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu. Bên cạnh công tác quản lý, NHTW và Bộ Tài Chính cần phối hợp nghiên cứu đưa ra chỉ tiêu mới để đo lường dự trữ ngoại tệ quốc gia( bao gồm nâng cao về lượng và đa dạng hóa về chủng loại ngoại tệ), trong đó bao quát tất cả các nhu cầu ngoại tệ quốc gia để đảm bảo cân bằng cán cân thương mại.
3.2.4. Sự phối hợp của các cơ quan Nhà nước:
Cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhất quán( giữa NHNN và Bộ Tài Chính) trong việc lập kế hoạch, điều chỉnh chính sách tài khóa cũng như chính sách tiền tệ. Tăng cường quyền hạn quản lý Nhà nước về tiền tệ cho NHNN trong khâu bơm hút tiền, cũng như nâng cao đủ mạnh tính độc lập của NHNN trong việc thực thi chính và xây dựng chính sách tiền tệ, nhằm đáp ứng phù hợp cung cầu tiền tệ với mục tiêu kiềm chế lạm phát. Ngoài ra, tăng cường công tác quản lý thị trường về giá cả, không để xảy ra hiện tượng lợi dụng việc điều chỉnh giá xăng đầu để tăng giá sản phẩm khác. Sự biến động giá cả thị trường trong nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố tách động của thị trường thế giới. Bởi trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa thì sự hội nhập kinh tế của từng quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng. Kiểm soát chặt chẽ việc định giá, chi phí giá thành đối với sản phẩm độc quyền và các nghành sản xuất cung ứng vật tư nguyên vật liệu quan trọng. Bổ sung hoàn thiện các qui chế pháp luật về quản lý thị trường giá cả.
3.2.5. Chính sách thuế:
Bộ Tài Chính phối hợp với các Bộ, nghành khác xem xét, đưa ra chính sách thuế ưu đãi đối với doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất mang tính chất hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ khoa học tiên tiến và phát triển các loại hình sản xuất mới. Tiến hành kiểm soát Nhà nước trong việc xây dựng biểu thuế đối với nghành, lĩnh vực độc quyền Nhà nước. Việc thay thế biểu thuế cần được lập kế hoạch và tính toán phù hợp với việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Nâng cao tính minh bạch của CSTT, NHTW cần phải công khai công bố những thay đổi của CSTT và giải thích rõ nguyên nhân của sự thay đổi đó. Tính công khai, minh bạch sẽ giúp NHTW nâng cao hiệu quả thực thi chính sách - tác động nhanh đến các chủ thể kinh tế, giảm bớt độ trễ của chính sách cũng như phản ứng tiêu cực từ phía thị trường.
3.2.6. Đối với Ngân sách nhà nước( NSNN):
Bộ Tài Chính cần phối hợp chặt chẽ với NHNN dựa trên cơ sở cân đối các chỉ số kinh tế vĩ mô tiến hành lập dự toán NSNN, xác định quy mô thâm hụt, nhu cầu tài trợ, cơ cấu các khoản tài trợ cho thâm hụt, thời gian dự kiến giải ngân các khoản chi tiêu của Chính phủ. NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát, nếu thâm hụt ngân sách quá lớn sẽ dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt ngân sách bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. Tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng sẽ kích thích đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi tiêu quá mức cho phép dẫn đến thâm hụt ngân sách. Bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ dẫn đến gánh nặng nợ. Việc thắt chặt chi tiêu NSNN quá mức sẽ dẫn đến thiểu phát và không giải quyết được vấn đề xã hội cần thiết. Do vậy, cần chi tiêu NSNN một cách hiệu quả phù hợp chứ không phải thắt chặt hoặc tăng cầu đơn thuần. Đòi hỏi chi tiêu NSNN ở mức cho phép tăng cầu, đẩy đầu tư phát triển tăng lên và tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát.
3.2.7. Các giải pháp trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại:
NHNN cùng Bộ Tài Chính kiểm soát chặt chẽ cao luồng vốn nước ngoài vào. Đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng gần 50% tổng mức vốn đầu tư hàng năm của nền kinh tế, đã tạo cho nền công nghiệp và dịch vụ có được bước tiến khá nhanh. Đồng thời sản phẩm đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy mạnh quan hệ thương mại của Việt Nam, đặc biệt là mở rộng thêm thị trường tiêu thụ mới. Đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy đầu tư trong nước. Sự tham gia của Việt Nam vào thị trường thế giới là tiền đề cơ bản cho thay đổi kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu có định hướng sẽ tránh được những khủng hoảng cơ cấu và lạm phát ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản và hết sức quan trọng mà mọi quốc gia điều phải quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát là hiện tượng kinh tế phức tạp xuất hiện khi nền kinh tế bị mất cân đối và thường xuyên gây ra hậu quả nghiêm trọng. Ngăn chặn lạm phát không phải là dễ dàng mà đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ và khôn ngoan. Lạm phát tiền tệ có tách động không nhỏ đến tình hình kinh tế của đất nước, nên việc thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đòi hỏi phải hợp lý cân bằng về mọi mặt.Tăng cường các biện pháp thực hiện đạt và vượt ngân sách nhà nước. Thanh tra giám sát xây dựng cơ bản, khắc phục tình trạng bội chi NSNN. Chính sách tiền tệ thận trọng đưa ra sử dụng các biện pháp tiền tệ hợp lý, xem xét lại tốc độ ban hành, điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu và hoạt động thị trường mở. Lạm phát là nhân tố vừa có tách động tích cực và tiêu cực, trong một nền kinh tế tăng trưởng luôn đi đôi với lạm phát. Vì vậy, việc sống chung cùng với lạm phát là điều tất nhiên của nền kinh tế đang tăng trưởng nên điều chỉnh lạm phát và giải pháp cần có những bước đi đúng đắn. Việt Nam đang tiến trình ra nhập WTO, chụi ảnh hưởng của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài đến tình hình kinh tế, nên đưa ra các đường lối đúng đắn cho sự phát triển tạo tiềm lực đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và khống chế đẩy lùi lạm phát.
Qua bài viết này em muốn gửi đến thầy cô và bạn đọc một chút hiểu biết của bản thân về vấn đề lý luận thực trạng lạm phát tiền tệ của Việt Nam. Bài viết có thể có những sai sót không thể tránh khỏi, em mong có sự góp ý của thầy cô và bạn đọc.
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Chương1: Lý luận chung về lạm phát 2
1.Khái niệm về lạm phát 2
1.1Một số quan niệm về lạm phát 2
1.2.Đo lường 3
1.3.Phân loại 3
1.4.Nguyên nhân gây ra lạm phát 4
1.4.1.Lạm phát cầu kéo ………………………………………….4
1.4.2.Lạm phát chi phí đẩy……………………………………… 5
1.4.3.Lạm phát tiền tệ …………………………………………… 5
1.5. ảnh hưởng và hậu quả của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế 5
1.5.1.ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế 5
1.5.2. Hậu quả của lạm phát 6
Chương 2: Thực trạng lạm phát tiền tệ ở Việt Nam 7
2.1. Tổng quan tình hình lạm phát Việt Nam qua các giai đoạn 7
2.1.1. Thời kì đổi mới( trước năm 1986) 7
2.1.2. Thời kì bắt đầu đổi mới (1986 - 1990) 8
2.1.3. Thời kì kinh tế đi vào ổn định (1991 - 1995) 8
2.1.4. Thời kì có dấu hiệu trì trệ (1996 - 2000) 8
2.1.5. Thời kì nền kinh tế có bước phát triển mới (2001 - 2004) 9
2.1.6. Lạm phát từ năm 2004 đến hết năm 2006 9
2.1.7. Lạm phát từ đầu năm 2007 đến đầu năm 2008 10
2.2. Nguyên nhân lạm phát 10
Chương 3:Chống lạm phát và giải pháp ở Việt Nam 12
3.1. Định hướng chiến lược chống lạm phát ở Việt Nam 12
3.2.Giải pháp ổn định lạm phát trong năm 2006 và các năm tiếp theo 15
3.2.1. Xây dựng cách tính lạm phát cơ bản, dự báo lạm phát 15
3.2.2. NHNN tăng cường phát triển các nghiệp vụ 16
3.2.3. Tăng cường quản lý và nâng cao dự trữ quốc tế, quốc gia 17
3.2.4. Sự phối hợp của cơ quan nhà nước 18
3.2.5. Chính sách thuế 18
3.2.6. Đối với Ngân sách Nhà nước 19
3.2.7. Các giải pháp trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - LêNin.
2, Giáo trình Kinh tế vĩ mô.
-Sách tham khảo
1, Lạm phát hành trình và giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam.
Tác giả: TS. Lê Quốc Quý
-Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 12.2006 và 12-2007
-Thời báo dan tri.com và Vnexpress.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lý luận về lạm phát tiền tệ, thực trạng lạm phát ở việt nam hiện nay và giải pháp khắc phục.docx