Lý luận về nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thời trung cổ, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng thời kì này không có mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền vì sự thống trị của thần quyền. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng vẫn có những mầm mống về nhà nước pháp quyền trong chính các nhà thần học.Tư tưởng về nhà nước pháp quyền là tư tưởng tiến bộ hướng đến bình đẳng, công bằng, dân chủ. Đó là nguyện vọng, khát khao của con người, dù trong hoàn cảnh nào, trong xã hội nào, các thế lực thống trị có làm gì đi chăng nữa thì những tư tưởng đó vẫn tồn tại dưới hình thức này, hình thức khác. Tư tưởng pháp quyền trung cổ gắn liền với Saint Augustin (357 - 430) và Saint Thomas D'Aquin (1225 - 1247). Saint- Augustin cho rằng quyền lực nhà nước phải được thực hiện như một thứ quyền lực phục vụ. Đó là công cụ để thực hiện tình yêu và sự công bằng. Saint Thomas D'Aquin cho rằng trật tự pháp lý đem đến cho con người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt đến sự dồi dào về vật chất, tinh thần; xã hội công dân sẽ thay thế xã hội thần dân. Ông chia ra bốn loại pháp luật: luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, nhân luật và thần luật.

doc22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12860 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận về nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Nhà nước là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất”(() V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 39, Nxb Tiến bộ, M.1979, tr.75. ), nhưng lại “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị”(( ). Sđd, tr. 76. ). Vì thế, ngay từ khi nhà nước ra đời, con người đã không ngừng đi vào tìm hiểu bản chất của hiện tượng phức tạp này. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các quan điểm này chưa xác định đúng nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước,... C.Mác và Ph.Ăngghen, đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, là những người đầu tiên đề xướng học thuyết khoa học về nhà nước. Học thuyết này sau này được V.I.Lênin phát triển ngày càng hoàn bị hơn. Học thuyết Mác - Lênin đã tìm ra đúng nguồn gốc vật chất của nhà nước và bản chất giai cấp của nhà nước. Học thuyết về nhà nước của hai ông đã thể hiện lợi ích của giai cấp vô sản, phục vụ sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đồng thời đây là cơ sở khoa học để giai cấp công nhân và nhân dân lao động xây dựng nhà nước mới của mình - nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Do vậy, để xây dựng và ngày càng hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, chúng ta phải quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của đất nước. Do vậy, thấy rõ sự cần thiết, nội dung và những vấn đề có tính nguyên tắc là những bảo đảm quan trọng để chúng ta thực sự xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. NỘI DUNG I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC 1. Một số quan niệm ngoài mác xít về nguồn gốc, bản chất nhà nước Vấn đề nguồn gốc, bản chất của nhà nước luôn là đối tượng của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất. Đồng thời đây cũng là một trong những vấn đề khó nhất đã trở thành trung tâm của mọi vấn đề chính trị và mọi tranh luận chính trị. Từ thời cổ, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và đưa ra những quan niệm khác nhau về nguồn gốc, bản chất nhà nước. Thuyết thần học cho rằng: Thượng đế sáng tạo ra nhà nước để bảo vệ trật tự chung, do vậy nhà nước là lực lượng siêu nhiên, quyền lực nhà nước là vĩnh cữu và sự phục tùng quyền lực nhà nước cần thiết và tất yếu. Trong khi đó, Thuyết gia trưởng lại tìm cách chứng minh rằng nhà nước là sản phẩm phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người. Như vậy, nhà nước có trong mọi xã hội, về bản chất quyền lực nhà nước cơ bản như quyền lực của người đứng đầu gia đình. Đến thời kỳ cận đại đã xuất hiện hàng loạt quan niệm mới về nhà nước của các học giả tư sản nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của nhà nước phong kiến. Đa số các học giả tư sản tán thành quan điểm cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước được ký kết trước hết giữa những người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Do đó, nhà nước phản ánh lợi ích của cách thành viên trong xã hội và phục vụ và bảo vệ lợi ích của các thành viên. Thuyết khế ước là tiền đề cho thuyết dân chủ cách mạng và là cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật đổ ách thống trị phong kiến. Tuy vây, thuyết này vẫn còn những hạn chế căn bản là giải thích nguồn gốc, bản chất nhà nước trên lập trường duy tâm, coi sự ra đời của nhà nước là do ý chí của các bên tham gia khế ước, không giải thích được nguồn gốc vật chất và bản chất xã hội của nhà nước. Tiêu biểu cho Thuyết khế ước xã hội là các nhà tư như: J.Bôđin (1530 - 1596), T.Hốpben (1588 - 1679), J.Lốccơ (1632 - 1704), Môngtéckiuơ(1689 - 1775),... Ngoài các quan niệm trên, còn có nhiều học thuyết khác luận giải về bản chất và nguồn gốc của nhà nước như: Thuyết bạo lực cho rằng nhà nước ra đời là kết quả của việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác, thị tộc giành chiến thắng tổ chức ra nhà nước để thực hiện việc thống trị của mình; Thuyết tâm lý lại cho rằng nhà nước ra đời do tâm lý của người nguyên thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào thủ lĩnh của mình... Tóm lại, do nhiều nguyên nhân khác nhau, lập trường duy tâm, lập trường giai cấp, điều kiện lịch sử,..., những học thuyết trên chưa giải thích đúng đắn nguồn gốc, bản chất của nhà nước. 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước * Nguồn gốc, bản chất nhà nước Với quan niệm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước không phải là một hiện tượng xã hội vĩnh cữu và bất biến. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà nước luôn vận động, phát triển và sẽ “tự tiêu vong” khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó không còn nữa. Nhà nước không phải là một hiện tượng vĩnh viễn, bất biến, mà là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm của sự phát triển nội tại của xã hội. Nhà nước xuất hiện khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”.((1). C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Tập 6, Nxb. Sự thật, H.1984, tr.260. ) Nhà nước ra đời dưới sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có hai tiền đề quan trọng nhất: tiền đề kinh tế - chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và tiền đề xã hội - sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng không thể điều hòa được. Sự phát triển của lực lượng sản xuất cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, trước hết là công cụ lao động, đã cho phép tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo nhóm nhỏ hay đơn vị gia đình. Lực lượng sản xuất phát triển cũng đưa đến sự dư thừa của cải tương đối trong xã hội, điều này đưa đến sự thèm khát chiếm đoạt ở những người đứng đầu bộ tộc, và như vậy, trong xã hội có sự phân hoá giàu nghèo và giai cấp xuất hiện, sự đối kháng giai cấp bắt đầu. Cùng với điều đó, chiến tranh ăn cướp giữa các bộ tộc làm cho quyền lực của thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cũng từ lúc này, cơ quan thị tộc, bộ tộc, ra đời từ chỗ gắn bó với nhân dân, dần tách khỏi nhân dân và quay trở lại thống trị nhân dân, áp bức nhân dân. Tất cả những điều kiện này làm cho mâu thuẫn trong xã hội ngày càng thêm sâu sắc, do đó giai cấp thống trị tổ chức ra một cơ quan để duy trì những mâu thuẫn đó trong vòng “trật tự” - nhà nước ra đời. Sự ra đời của nhà nước cụ thể ở các nơi trên thế giới cũng không hề giống nhau, do những đặc điểm về giai cấp, địa lý, kinh tế, truyền thống, tập quán, dân tộc,... khác nhau. Như vậy, sự ra đời của nhà nước không phải là cơ quan điều hoà mâu thuẫn giai cấp. Ngược lại, nó ra đời do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hòa được. Đề cập đến vấn đề này, V.I. Lênin đã viết: “ Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”.( (1)V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nxb. Tiến bộ, M.1976, tr.9. ) Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trước hết, nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì xã hội trong vòng trật tự. Sự thống trị của giai cấp này đối với các giai cấp khác thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị và quyền lực tư tưởng. Trong ba loại quyền lực này, quyền lực kinh tế đóng vai trò quyết định, là cơ sở bảo đảm cho sự thống trị giai cấp. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột mà phải thông qua quyền lực chính trị, với tổ chức đặc biệt của nó là nhà nước, để củng cố, tăng cường quyền lực của giai cấp thống trị. Và như vậy, nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp cầm quyền đối với các giai cấp khác. Để khái quát hoá bản chất của nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra nhiều luận điểm. Các luận điểm này đều khẳng định nhà nước là một bộ máy để thực hiện sự thống trị giai cấp. V.I.Lênin cho rằng nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Người giải thích rõ thêm: “Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác”.(() V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nxb. Tiến bộ, M.1976, tr.110. ) Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định bản chất và ý nghĩa xã hội của nhà nước. Nhà nước trước hết là bộ máy đặc biệt tách khỏi xã hội để thực hiện quyền lực mang tính cưỡng chế. Xét về mặt bản chất, nhà nước là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Cần phải thấy rằng, tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Nhưng bên cạnh đó, nhà nước còn thể hiện tính xã hội. Bởi lẽ, nhà nước mặt chủ yếu là bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, nhưng đồng thời còn phải chú ý (dù ít hay nhiều) đến lợi ích của toàn xã hội. Như vậy, từ những kiến giải trên, có thể hiểu nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy trấn áp của giai cấp thống trị nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp. * Đặc trưng và chức năng của nhà nước Theo Ph.Ăngghen, bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đây là đặc trưng cơ bản của mọi nhà nước. Nhà nước đã lấy sự phân chia lãnh thổ làm điểm xuất phát và để cho công dân “thực hiện những quyền và nghĩa vụ của họ theo nơi cư trú, không kể họ thuộc thị tộc, bộ lạc nào”.(() C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Tập 6, Nxb. Sự thật, H.1984, tr.261. ) Thứ hai, nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm bộ máy quản lý hành chính và các lực lượng vũ trang đặc biệt mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Đây là đặc trưng thể hiện quyền lực công cộng đặc biệt của nhà nước, không còn hoà nhập với dân cư nữa, mang tính chính trị và giai cấp. Để thực hiện quyền lực này nhà nước thiết lập một bộ máy cưỡng chế chuyên làm nhiệm vụ quản lý và “tựa hồ” như đứng trên giai cấp. Bộ máy này bao gồm quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù,... Thứ ba, nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để nuôi dưỡng bộ máy của mình. Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước cũng chỉ ra những chức năng cơ bản của nhà nước Chức năng của nhà nước được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau như chức năng đối nội, đối ngoại, chính trị, kinh tế, tư tưởng. Khi xem xét dưới góc độ tính chất của quyền lực nhà nước, nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Trong hai chức năng này, chức năng thống trị chính trị của giai cấp đóng vai trò quyết định. Khi xem xét dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại. Để thực hiện các chức năng của mình, nhà nước áp dụng nhiều hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau. Có ba hình thức hoạt động chính là: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước sử dụng hai phương pháp chủ yếu để thực hiện chức năng của mình là: giáo dục - thuyết phục và cưỡng chế. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 1. Khái lược lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.(() . Bộ GD và ĐT, Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên triết), Nxb Chính trị - hành chính, H. 2010, tr.497. ) Nhà nước pháp quyền có bốn tiêu chí chung như sau: Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật quy định; Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng phái, tổ chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật); Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân. Nhà nước pháp quyền chỉ ra đời khi nhà nước tư sản ra đời, nhưng những tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử tư tưởng triết học và luật học. Từ thời cổ đại, mầm mống về tư tưởng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở cả phương Đông và ở phương Tây. Ở phương Đông, là tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng pháp gia như: Quản Trọng, Hàn Phi Tử,... Hàn Phi Tử coi “pháp” là chuẩn mực cao nhất của việc cai trị đất nước, khi thi hành pháp luật thì không kể đến tình cảm riêng, không câu nệ chuyện thân sơ, sang hèn, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Theo ông, "pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tránh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu".(( ). Doãn Chính - Nguyễn Văn Trịnh, Pháp gia với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội. 2007, tr.73. ) Ở phương Tây, mầm mống tư tưởng pháp quyền ra đời chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của chế độ nông nô và phong kiến, bạo lực, lộng quyền và hỗn loạn là cái tương phản với công bằng, pháp luật, cần phải xoá bỏ. Các nhà tư tưởng pháp quyền thời kì này tiêu biểu là Sôlông (638 -559, TCN), Hêraclít (530 - 470, TCN), Xôcrát (469 - 399, TCN), Platôn (427 - 347, TCN), Arixtốt (384 - 322, TCN),... Xôcrát là người ủng hộ triệt để về nguyên tắc tư tưởng pháp chế. Ông cho rằng: công lý ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện hành; sự công minh và sự hợp pháp đều là một; nếu không tuân thủ thì cũng không thể có nhà nước và trật tự pháp luật; nếu như các công dân của nhà nước nào tuân thủ pháp luật thì nhà nước đó sẽ vững mạnh và phồn vinh. Luận điểm của Platôn : "Ta nhìn thấy sự diệt vong của nhà nước, mà trong đó pháp luật không có sức mạnh và ở dưới quyền lực của ai đấy"(() . Platôn, Toàn tập, Tập 3, Phần 2, Nxb Tư tưởng, Matxcơva. 1972, tr.188. ) đã được khẳng định một cách đúng đắn trên thực tế của thế kỷ XX bằng sự sụp đổ của một loạt nhà nước cực quyền kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Arixtốt cho rằng yếu tố cấu thành cơ bản trong luật là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền. Nếu không tuân theo pháp luật mà còn chà đạp lên pháp luật, nếu mưu toan thống trị bằng bạo lực dĩ nhiên là mâu thuẫn với tư tưởng pháp quyền. Thời trung cổ, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng thời kì này không có mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền vì sự thống trị của thần quyền. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng vẫn có những mầm mống về nhà nước pháp quyền trong chính các nhà thần học.Tư tưởng về nhà nước pháp quyền là tư tưởng tiến bộ hướng đến bình đẳng, công bằng, dân chủ... Đó là nguyện vọng, khát khao của con người, dù trong hoàn cảnh nào, trong xã hội nào, các thế lực thống trị có làm gì đi chăng nữa thì những tư tưởng đó vẫn tồn tại dưới hình thức này, hình thức khác. Tư tưởng pháp quyền trung cổ gắn liền với Saint Augustin (357 - 430) và Saint Thomas D'Aquin (1225 - 1247). Saint- Augustin cho rằng quyền lực nhà nước phải được thực hiện như một thứ quyền lực phục vụ. Đó là công cụ để thực hiện tình yêu và sự công bằng... Saint Thomas D'Aquin cho rằng trật tự pháp lý đem đến cho con người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt đến sự dồi dào về vật chất, tinh thần; xã hội công dân sẽ thay thế xã hội thần dân. Ông chia ra bốn loại pháp luật: luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, nhân luật và thần luật... Thời kỳ cận đại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền thực sự có bước phát triển mới. Nó đã trở thành một học thuyết và đã trở thành hiện thực, được vận dụng ở một số quốc gia phương Tây. Sự phát triển lý luận học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản chịu ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng: Một là, sự khẳng định ngày càng cao những quan điểm mới về tự do của con người, thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật - pháp luật tự nhiên. Hai là, xác lập mối tương quan giữa quyền lực chính trị mới giữa giai cấp tư sản đang lên và chế độ phong kiến đã lỗi thời. Thời kì này, học thuyết nhà nước pháp quyền được bổ sung, hoàn thiện, phát triển qua các giai đoan lịch sử khác nhau. Đó là lý thuyết về pháp quyền tự nhiên của các nhà triết học Hà Lan thế kỷ XVI - XVII với các đại diện: B.Spinôda (1632-1677), H.Grôtius (1583-1645); lý thuyết về tự do của các nhà duy vật Anh thế kỷ XVII với các đại diện như : J.Lốccơ (1632-1704), T.Hốpben (1588-1679), J.S.Mill (1806-1873); lý thuyết về phân quyền, chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội của các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII với các đại diện: Môngtéckiuơ - người đưa ra học thuyết phân quyền được các nước tư sản sau này áp dụng dưới các hình thức khác nhau, Rốtxô (1712-1788) - người đưa ra lý thuyết về chủ quyền nhân dân và "khế ước xã hội"; lý thuyết về pháp quyền của các nhà triết học cổ điển Đức với các đại diện như: I.Cantơ (1724-1804), Hêghen (1770-1831)... "Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng các học thuyết này đều mang những nội dung cơ bản và chung nhất sau: Sự hiện diện của chủ nghĩa lập hiến và coi đó là bằng chứng hữu hình về sự đồng thuận của người dân; nhà nước phải tự đặt dưới pháp luật không hành động độc đoán; nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người và quyền công dân; quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giao cho ba cơ quan nhà nước tương ứng theo nguyên tắc quyền lực giám sát kiềm chế quyền lực".((). Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và họat động của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 2007, tr.142. ) Như vậy, đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền theo các học giả phương Tây là sự hiện diện của một chế độ dân chủ, trong đó nhà nước điều chỉnh các quan hệ quyền lực trong một hệ thống các chế định của nhà nước. Đồng thời với nhấn mạnh cơ chế chống lạm quyền, phải bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và pháp luật. Nhà nước thiết lập các cơ quan của mình trên cơ sở bầu cử dân chủ theo luật... Nhà nước pháp quyền tư sản hiện nay, xét về bản chất cũng chỉ là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản mà thôi. Học thuyết nhà nước pháp quyền không phải là tài sản riêng của các triết gia tư sản mà còn có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù không chính thức đề cập đến nhà nước pháp quyền như là một trong những nội dung chính yếu trong học thuyết của mình nhưng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn quan tâm đến nhà nước và cách mạng, nhà nước và pháp luật. Trong các bài viết, bài nói các ông ít nhiều đã thể hiện tư tưởng về pháp quyền. Đó là những tư tưởng đầu tiên về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen được thể hiện trong các tác phẩm như: "Sự khốn cùng của triết học", "Phê phán triết học pháp quyền Hêghen"... C.Mác chỉ ra cơ sở xã hội như nền tảng vật chất của pháp luật, xã hội không lấy pháp luật làm cơ sở, đó chỉ là những ảo tưởng của những nhà triết học tư sản. Ngược lại, pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do một phương thức sản xuất vật chất nhất định sản sinh ra, mà không phải do ý muốn tuỳ tiện của một cá nhân. Ông cho rằng trong chế độ dân chủ không phải con người tồn tại vì luật pháp mà luật pháp tồn tại vì con người... “Thực tế, với việc trình bày luật pháp, quyền lực của luật pháp trong tương quan với sở hữu, sự phát triển, sự phát triển công, thương nghiệp với mỗi giai cấp, quan điểm của các ông là về tính giai cấp của pháp luật, pháp quyền nói riêng và nhà nước nói chung".(() . Lê Tuấn Huy, Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb. Tổng Hợp TpHCM, HCM. 2006, tr.161, 162. ) C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người, là sự phát triển toàn diện của con người. Có thể nói, vì con người và giải phóng con người là mục tiêu của một nhà nước pháp quyền kiểu mới. Hai ông chủ trương xác lập một chế độ dân chủ triệt để, do nhân dân tự quy định. Trong xã hội mới sẽ tạo ra nhiều điều kiện để giải phóng cá nhân, rằng xã hội sẽ không giải phóng cho mình được nếu không giải phóng mỗi một cá nhân riêng biệt và xã hội đó phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật. Ph.Ăngghen viết: "đối với chúng ta... điều bất di bất dịch là quan hệ giữa người cầm quyền và người bị lãnh đạo phải được thiết lập trên cơ sở pháp luật”.((). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật, Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, Tập1I, Nxb. Lí luận chính trị, tr.118,119. ) Tiếp thu và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đưa học thuyết về nhà nước ngày càng hoàn bị hơn. Trong tư tưởng về nhà nước và cách mạng, về xây dựng xã hội mới của V.I.Lênin cũng chứa nhiều yếu tố pháp quyền. V.I.Lênin hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi, giải phóng con người và phát triển toàn diện con người. Ông cho rằng nếu không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, người ta tức khắc có thể làm việc cho chủ nghĩa xã hội mà không cần phải có một tiêu chuẩn pháp quyền nào cả. Trong quá trình lãnh đạo, tổ chức xây dựng nhà nước Xô viết, V.I.Lênin đã nhiều lần đòi hỏi bộ máy chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao động, phải thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật để đấu tranh chống sự lề mề, quan liêu, hối lộ (tức là phải sử dụng pháp luật, đưa pháp luật lên trên hết)... Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin dù không trực tiếp bàn về nhà nước pháp quyền, nhưng trong toàn bộ học thuyết vĩ đại ấy vẫn có những yếu tố pháp quyền, góp phần làm phong phú các tư tưởng về nhà nước pháp quyền và đặt nên nền mống về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2. Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong khi đó, pháp luật bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc; do đó, sẽ không có mô hình chung, những tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền cho tất cả các nước khác nhau. Bản chất của mỗi nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào bản chất chế độ xã hội, hệ thống quan điểm, mục đích, nhiệm vụ , điều kiện cụ thể của mỗi nước. Trong lịch sử đã tồn tại hai loại hình nhà nước pháp quyền cơ bản. Đó là nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do có sự khác nhau về bản chất xã hội, nên hai loại nhà nước này khác nhau về chất. Sự khác nhau đó thể hiện ở chỗ. Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền, chúng ta có thể nhận thấy tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền tư sản. Thứ nhất, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản đều thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Sự khác biệt này thể hiện trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Toà án, Toà án Hiến pháp, v.v... Pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ...) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán Chính phủ... Thứ hai, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trái lại, trong nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, lợi ích của một bộ phận nhân dân, đó là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động - những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản. Thứ ba, nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan có chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền này. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, và phát huy hiệu lực cao nhất. Thứ tư, hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau về tính giai cấp, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và thủ tục nhất định; trong khi đó, nhà nước pháp quyền tư sản thường coi "án lệ" hoặc "tập quán" như một loại quy phạm pháp luật "bất thành văn". III. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 1.Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn 60 năm với nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế. 2. Một số vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay Thứ nhất, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là nhà nước bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đây là nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong phương hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta xác định: "Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp".((). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr. 126. ) Thứ hai, Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của đất nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo,... Các quyền và sự tự do đó là điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân. Nguyên tắc này đã được xác định là một trong những đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật”.((). Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương, chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết đại hội X của Đảng (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb. CTQG, Hà Nội. 2006, tr.112. ) Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự thống nhất đó là ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện cho nhân dân. Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Thứ ba, quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".((). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 48. ) Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật. Nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Đảng ta xác định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử để nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội. Tổ chức lại một số uỷ ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao của Quốc hội”.((). Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương, chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết đại hội X của Đảng (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb. CTQG, Hà Nội. 2006, tr.116. ) Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn là vấn đề đáng bàn đến hiện nay. Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công bằng, về sự độc lập của toà án khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý, tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng của Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới, những đòi hỏi và những nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó. Thứ tư, Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương. Sự phân công, phân cấp ấy phải nhằm khuyến khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc phân công và phân cấp giữa trung ương và địa phương phải dựa trên nền tảng của một hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao và đủ sức giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây đang là một khâu yếu. Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), Đảng ta chỉ rõ: “Hiệu lực quản lý, điều hành của nhà nước còn yếu và chưa thông suốt. Tính chủ động, ý thức trách nhiệm của từng địa phương chưa được phát huy đầy đủ”.(() . ĐCS Việt Nam, BCHTW, Tiểu ban tổng kết, bổ sung và phát triển cương lĩnh năm 1991, Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), Nxb. CTQG, Hà Nội. 2010, tr.131. ) Thứ năm, đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Thư sáu, thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn. Thứ bảy, nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng. Trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; với phương thức tổ chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương. Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta chứng minh và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 80 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hoá hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp uỷ các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp. Hoàn thiện những cơ sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm thay hay can thiệp không đúng nguyên tắc của cấp uỷ và cán bộ Đảng vào công việc chính quyền mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của của Đảng, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, mở rộng dân chủ; phát huy tối đa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai trò phản biện và trong giám sát hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất, cơ bản nhất và có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLý luận về nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam.doc
Luận văn liên quan