Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - Những chặng đường vẻ vang

Mặt trận Tổ quốc đã thường xuyên tổng hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân để kiến nghị với Quốc hội với nhiều chủ trương và biện pháp thực tiễn đúng đắn. Mặt trận đã tích cực thực hiện nhiệm vụ hiệp thương để đề cử ứng cử viên vào các cơ quan dân cử. Đoàn kết dân tộc được củng cố. Tự do tín ngưỡng được đảm bảo. Các tôn giáo với tâm niệm “tốt đời, đẹp đạo” đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự đoàn kết rộng rãi của toàn dân, Mặt trận đã củng cố sự đoàn kết gắn bó giữa Mặt trận với Nhà nước và chính quyền các cấp, làm cho uy tín Mặt trận càng được nâng cao. Đời sống các tầng lớp nhân dân, các vùng dân tộc ít người, vùng đồng bào tôn giáo được cải thiện. Nhờ đường lối đúng đắn và sự hy sinh chiến đấu không tiếc xương máu trong những thập kỷ vừa qua, Đảng đã được nhân dân ủy thác trách nhiệm cầm quyền. Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Với trách nhiệm cao cả ấy, Đảng đã tự nguyện và chân thành xác định rằng: Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Cách mạng nước ta, kể từ sau chiến thắng vĩ đại năm 1975, đã bước vào một giai đoạn mới: giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mới củng cố vững chắc sự nghiệp độc lập dân tộc, mới đưa Tổ quốc ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu mà không đi vào con đường chủ nghĩa tư bản, mới tiếp tục giải phóng cho công nông và nhân dân lao động từng bước thoát khỏi áp bức bóc lột, mới bồi dưỡng và phát huy được tài năng đội ngũ trí thức, để nước ta sánh vai cùng nhân loại tiến bước với thời đại mới. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp dân tộc cao quý, phải nhiệt tình phấn đấu không mệt mỏi, vượt qua nhiều thử thách. Sự nghiệp mới đó đòi hỏi “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” cao hơn và vững chắc hơn. Nhưng muốn có đoàn kết thì phải bảo đảm sự đồng thuận cả trong nội bộ Đảng và cả trong các tầng lớp nhân dân. Muốn đồng thuận thì phải thực hành dân chủ. Chúng ta có “quy chế dân chủ” nhưng điều kiện cụ thể để thực hiện quy chế đó chưa rõ ràng, có nơi, có lúc còn hình thức (điều này không chỉ trong dân mà cả trong Đảng). Quy chế dân chủ ở cơ sở quy định “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là rất hay. Nhưng Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể các cấp đó có cơ chế nào để công khai cho dân biết, dân bàn? Khi đã không có điều kiện để biết, để bàn thì làm sao có thể kiểm tra và kiểm tra cái gì? Bởi vậy mà nhiều nơi, hỏi về quy chế dân chủ, dân nói: Trong 4 quy chế đó chúng tôi chỉ được thực hiện một điều là “dân làm”. Chúng ta nói chính quyền của ta là “của dân, do dân và vì dân”. Rõ ràng chính quyền của ta là do dân bầu trong các cuộc phổ thông đầu phiếu. Nhưng có người vừa được dân bầu ra đó vì lợi ích riêng, lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm mà làm những việc đi ngược lại quyền lợi của dân. Họ được dân bầu lên nhưng khi đã có quyền lực rồi thì lại xa dân, thậm chí đứng ngoài dân, đứng trên dân, hách dịch, ức hiếp nhân dân.

doc5 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2850 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - Những chặng đường vẻ vang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại đoàn kết dân tộc - Một sức mạnh vô địch 22:12 | 11/11/2010 (ĐCSVN) - Tại Hội thảo Khoa học “Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - Những chặng đường vẻ vang” do UBTWMTTQ Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức ngày 10-11, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu có bài tham luận khẳng định vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam trước đây, nay là MTTQ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh vô địch đưa đất nước ta, nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc toàn văn tham luận trên. Thưa các vị trong Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thưa các đồng chí, các vị nhân sĩ, trí thức, các vị chức sắc các tôn giáo, Nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2010), Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc có sáng kiến tổ chức hội thảo “Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - những chặng đường vẻ vang”. Diễn ra trong lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sôi nổi tham gia gúp ý kiến vào Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI, cuộc hội thảo này là một việc làm có ý nghĩa lớn trong đợt sinh hoạt chính trị toàn dân bàn việc Đảng, toàn Đảng bàn việc nước, cả nước cùng nắm tay nhau đại đoàn kết tiếp tục tiến bước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chặng đường này được thực hiện trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thời cơ lớn nhưng thách thức khó khăn không nhỏ. Với lòng yêu nước thương dân nồng nàn, các vị sẽ có nhiều ý kiến sâu sắc trong cuộc hội thảo này. Riêng tôi, tôi xin phát biểu đôi điều suy nghĩ, mong được góp một phần nhỏ vào sự nghiệp chung của Mặt trận đối với dân tộc 80 năm qua. Nhờ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc mà chỉ với 5000 đảng viên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta giành được chính quyền về tay nhân dân trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, giành được thắng lợi lịch sử trong chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, giải phóng một nửa nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc mà trong hoàn cảnh khó khăn và ác liệt, phải đánh bại hơn nửa triệu quân xâm lược Mỹ và hơn nửa triệu quân tay sai, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi vĩ đại mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất Tổ quốc, thực hiện người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong một tình hình cực kỳ phức tạp đầy éo le, một lần nữa, Đảng ta lại phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, từng bước giải quyết hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược gây ra, đánh bại âm mưu xâm lấn của Pôn Pốt, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh dân tộc, giải quyết thắng lợi vấn đề Campuchia bằng giải pháp chính trị và lập lại quan hệ hòa hiếu với Trung Quốc, thực hiện mong ước của Bác Hồ: Các Đảng anh em sẽ phải đoàn kết lại. Được sự đồng lòng góp sức của nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo công cuộc đổi mới để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới mô hình kinh tế mà vẫn giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa, đến năm 1996, vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài gần 20 năm, hoàn thành chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Tiếp tục đi tới trên con đường đã lựa chọn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra mục tiêu của chặng đường thứ hai, từ 1996 đến 2020, xây dựng nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đúng với định hướng xã hội chủ nghĩa. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiến bước trên chặng thứ hai đó. Dựa vào lòng yêu nước và các nhân tố xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã cơ bản vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ và trên những tổng quát đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta tự hào về 54 dân tộc anh em trong cả nước, về nhân dân ta, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, dựa trên nền tảng liên minh công nông trí thức, nhân tố cực kỳ quan trọng đã góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, suốt 80 năm nay. Chúng ta tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đúng đắn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã dẫn dắt dân tộc ta vững bước đi trên con đường của thời đại. Thưa các vị, Hiến pháp nước ta đã quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.” Với sứ mệnh nặng nề ấy, Mặt trận Tổ quốc đã góp phần quan trọng làm nên những chiến thắng lịch sử và đặc biệt còn góp phần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng vững mạnh. Mặt trận Tổ quốc đã thường xuyên tổng hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân để kiến nghị với Quốc hội với nhiều chủ trương và biện pháp thực tiễn đúng đắn. Mặt trận đã tích cực thực hiện nhiệm vụ hiệp thương để đề cử ứng cử viên vào các cơ quan dân cử. Đoàn kết dân tộc được củng cố. Tự do tín ngưỡng được đảm bảo. Các tôn giáo với tâm niệm “tốt đời, đẹp đạo” đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự đoàn kết rộng rãi của toàn dân, Mặt trận đã củng cố sự đoàn kết gắn bó giữa Mặt trận với Nhà nước và chính quyền các cấp, làm cho uy tín Mặt trận càng được nâng cao. Đời sống các tầng lớp nhân dân, các vùng dân tộc ít người, vùng đồng bào tôn giáo được cải thiện. Nhờ đường lối đúng đắn và sự hy sinh chiến đấu không tiếc xương máu trong những thập kỷ vừa qua, Đảng đã được nhân dân ủy thác trách nhiệm cầm quyền. Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Với trách nhiệm cao cả ấy, Đảng đã tự nguyện và chân thành xác định rằng: Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Cách mạng nước ta, kể từ sau chiến thắng vĩ đại năm 1975, đã bước vào một giai đoạn mới: giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mới củng cố vững chắc sự nghiệp độc lập dân tộc, mới đưa Tổ quốc ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu mà không đi vào con đường chủ nghĩa tư bản, mới tiếp tục giải phóng cho công nông và nhân dân lao động từng bước thoát khỏi áp bức bóc lột, mới bồi dưỡng và phát huy được tài năng đội ngũ trí thức, để nước ta sánh vai cùng nhân loại tiến bước với thời đại mới. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp dân tộc cao quý, phải nhiệt tình phấn đấu không mệt mỏi, vượt qua nhiều thử thách. Sự nghiệp mới đó đòi hỏi “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” cao hơn và vững chắc hơn. Nhưng muốn có đoàn kết thì phải bảo đảm sự đồng thuận cả trong nội bộ Đảng và cả trong các tầng lớp nhân dân. Muốn đồng thuận thì phải thực hành dân chủ. Chúng ta có “quy chế dân chủ” nhưng điều kiện cụ thể để thực hiện quy chế đó chưa rõ ràng, có nơi, có lúc còn hình thức (điều này không chỉ trong dân mà cả trong Đảng). Quy chế dân chủ ở cơ sở quy định “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là rất hay. Nhưng Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể các cấp đó có cơ chế nào để công khai cho dân biết, dân bàn? Khi đã không có điều kiện để biết, để bàn thì làm sao có thể kiểm tra và kiểm tra cái gì? Bởi vậy mà nhiều nơi, hỏi về quy chế dân chủ, dân nói: Trong 4 quy chế đó chúng tôi chỉ được thực hiện một điều là “dân làm”. Chúng ta nói chính quyền của ta là “của dân, do dân và vì dân”. Rõ ràng chính quyền của ta là do dân bầu trong các cuộc phổ thông đầu phiếu. Nhưng có người vừa được dân bầu ra đó vì lợi ích riêng, lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm mà làm những việc đi ngược lại quyền lợi của dân. Họ được dân bầu lên nhưng khi đã có quyền lực rồi thì lại xa dân, thậm chí đứng ngoài dân, đứng trên dân, hách dịch, ức hiếp nhân dân. Những năm gần đây có tình trạng khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp… đó là một sự báo động về tình hình mất dân chủ, nhất là ở cấp cơ sở. Chúng ta có hệ thống kiểm tra, thanh tra nhũng nhiễu, tham nhũng, ức hiếp dân nhưng tình trạng này không giảm vì quan liêu. Một ví dụ: Đoàn kiểm tra đi kiểm tra ở một xã, một cơ sở có dấu hiệu tiêu cực thì chỉ làm việc và nghe cán bộ báo cáo. Nhiều lắm thì cũng chỉ nghe một số đại biểu nhân dân. Có nơi những đại biểu đó đã được lựa chọn trước. Kết quả là đoàn kiểm tra chỉ nghe được ý kiến một chiều và kết luận “Không có vấn đề gì, tố cáo sai”. Hay những cuộc tiếp xúc cử tri trước các cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo kiểu cách mà dân nói đùa là “dân chủ đại diện”. Thực chất những người được đến dự các cuộc tiếp xúc đó đã được lựa chọn trước, thậm chí “duyệt” trước những ý kiến phát biểu. Hình thức này thậm chí cũng được áp dụng khi địa phương đón những đoàn cấp cao xuống nắm tình hình cơ sở. Kết quả là tỉnh, huyện và cả Trung ương luôn được nghe ý kiến một chiều, tâm tư, nguyện vọng thật của người dân chân chính khó đến được với cấp trên. Bởi vậy, không ít địa phương mỗi lần tổ chức tiếp xúc cử tri, dân rất thờ ơ, hỏi ra thì họ nói: “Đã có mấy cử tri “chuyên nghiệp” rồi, chúng tôi không được nói”. Hậu quả của tình trạng quan liêu là nguyện vọng dân một đường, chính quyền làm một nẻo. Chính quyền của dân, cán bộ là người đầy tớ của dân nhưng trở thành những ông chủ hách dịch, cửa quyền. Nói chăm lo đời sống cho dân tức là trước hết chăm lo đời sống của nông dân, công nhân, của đồng bào vùng dân tộc ít người. Nhưng lại chưa thấu hiểu cuộc sống thật của người dân. Thu nhập của người nông dân sau hai vụ sản xuất (chưa kể thiên tai) đó đủ sống chưa? Trong khi giá vật tư, phân bón ngày một lên cao. Vì sao ở vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long dân vẫn còn bán lúa non, còn bán đất để trở thành người làm thuê. Công nhân ở các khu công nghiệp có nơi lương chỉ có hơn một triệu đồng một tháng, với đồng lương đó nuôi bản thân mình cũng chưa đủ thì lấy gì cho con cái, gia đình. Thành quả sự nghiệp đổi mới của đất nước không ai phủ nhận. Nhưng phải nói, người lao động, kể cả nông dân, công nhân và đồng bào dân tộc ít người được hưởng thành quả đó là chưa nhiều. Xây dựng nông thôn mới là xây dựng nông thôn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì sao việc đầu tư xây dựng nông thôn quá độ lên chủ nghĩa xã hội về lực lượng sản xuất và về quan hệ sản xuất không được chỉ đạo sít sao, nói nhiều mà làm ít? Đó là mấy câu hỏi về dân chủ, công bằng mà các cấp ủy Đảng, Chính phủ và Mặt trận phải trả lời. Chúng ta đã hoàn thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mấy chục năm, dân ta đã đổ nhiều xương máu cho thắng lợi huy hoàng của đất nước. Vậy hiện nay chúng ta đối xử với những người có công trong thắng lợi huy hoàng đó như thế nào? Vì sao còn để những bà mẹ có công với nước bị mất đất, chiếm nhà một cách vô lý? Vì sao một việc làm sai chính sách ưu đãi với người có công ở một huyện trong khi tỉnh không đồng ý, Tòa án tối cao không đồng ý mà huyện vẫn “phán”. Mọi cấp chính quyền phải tôn trọng luật pháp. Ở đây còn là sự vô cảm của một số cán bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp đối với nhân dân, những người tạo nên sức mạnh làm nên thắng lợi của cách mạng. Bệnh quan liêu, xa dân, hách dịch, cửa quyền đó là tồi tệ thì bệnh vô cảm trước những đau khổ, oan ức của nhân dân càng tồi tệ hơn bởi đó là tình cảm, là đạo đức của người cộng sản, những người yêu nước thương nòi. Ngay chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng vậy. Chủ trương thì rất đúng, rất cần. Nhưng quy chế phản biện như thế nào? Làm thế nào để những ý kiến phản biện đúng đắn, được tổng hợp chính xác đến được với Đảng bộ, chính quyền các cấp, đến được với Trung ương Đảng và Chính phủ. Chúng ta đang xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Dân giàu, trước hết là đời sống công nhân và nông dân phải được nâng cao, nhân dân vùng dân tộc ít người phải thực sự từng bước tiến kịp miền xuôi, là phải có kế hoạch chiến lược để bảo vệ các vùng thường xuyên bị lũ lụt và biến đổi khí hậu tàn phá. Dân giàu, trước hết là công nông và trí thức phải từng bước giàu có thì nước mới mạnh. Đất nước ta đang phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong quá trình phát triển, một bộ phận nhân dân, nhất là vùng cao, vùng các tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo còn nghèo. Trách nhiệm của Đảng và Chính phủ là phải có những chính sách cụ thể để giảm dần độ chênh mức sống giữa các vùng, miền trong cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa vẫn dặn lại trong di chúc: Sau ngày toàn thắng thực hiện miễn thuế nông nghiệp cho nông dân. Đó là tinh thần vì dân, bồi dưỡng sức dân. Trong lúc chúng ta huy động sức dân cũng cần có những chính sách cụ thể để bồi dưỡng sức dân. Theo tôi, bồi dưỡng sức dân không chỉ các đợt cứu trợ sau thiên tai. Điều đó là tốt và rất cần thiết và vừa qua chúng ta đó làm tốt. Nhưng để giải quyết cơ bản và lâu dài thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần khảo sát, điều tra, lắng nghe ý kiến của dân để kiến nghị với Nhà nước có những bước đầu tư cơ sở hạ tầng hợp lý giúp dân cùng nhau hợp tác làm ăn để kinh tế các vùng (nhất là các vùng thường bị thiên tai, vùng sâu, vùng dân tộc, tôn giáo) có bước phát triển đồng đều, có điều kiện “sống chung với thiên tai”. Thưa các vị, Mặt trận là người đứng ra hiệp thương, giới thiệu danh sách các ứng cử viên vào các cơ quan dân cử. Vì vậy, Mặt trận cũng có trách nhiệm và quyền hạn đặt vấn đề về việc bàn bạc, hiệp thương, về việc bãi nhiệm những người được dân bầu ra nhưng không hoàn thành nhiệm vụ hoặc đi ngược lại quyền lợi của nhân dân để các cơ quan lập pháp và tư pháp xem xét. Vai trò của Mặt trận, tổ chức được dân coi là “cầu nối giữa Đảng với dân” không chỉ có ở các cuộc hiệp thương, bầu cử HĐND và Quốc hội. Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là một thành viên của Mặt trận đồng thời là người lãnh đạo Mặt trận phải tôn trọng Mặt trận, cùng với hệ thống Đảng và thông qua Mặt trận để nắm được lòng dân. Nhưng khi xem xét, lắng nghe những ý kiến này từ Mặt trận có nơi vẫn còn hình thức, nghe chiếu lệ, tiếp thu chiếu lệ và quan trọng, là không được tiếp thu, sửa chữa một cách nghiêm túc với tinh thần “thực sự cầu thị”. Về phía Mặt trận thì cũng thiếu bám sát những ý kiến của dân mà mình đã tập hợp để xem Đảng, chính quyền đã tiếp thu như thế nào để kiến nghị tiếp những giải pháp bổ sung vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong tình hình mới, đất nước càng phát triển, càng hội nhập sâu với kinh tế thế giới thì những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển càng phức tạp. Đất nước cần những người có đức, có tài, có tâm để đáp ứng với tình hình mới. Với một Đảng cầm quyền như Đảng Cộng sản Việt Nam thì đó là những người đó được tiến cử vào cương vị lãnh đạo chủ chốt các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Vai trò của Mặt trận lúc này càng nặng nề. Phải dám nói thẳng, nói thật, nói hết ý của dân, là một kênh giúp Trung ương đánh giá, lựa chọn cán bộ. Mặt trận cũng cần có tiếng nói thực sự, tiếng nói độc lập trong công tác nhân sự của Đảng và chính quyền các cấp. Khi dân có ý kiến đối với những cán bộ tham ô, tham nhũng, cửa quyền, không kiên định về chính trị… thì Mặt trận cũng sớm xác minh theo kênh của mình để phản ánh sớm với Trung ương. Đó chính là vai trò của Mặt trận Tổ quốc, người đại diện cho nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong tình hình mới. Kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam là lúc chúng ta ôn lại những chặng đường vẻ vang, sự cống hiến to lớn của tổ chức Mặt trận qua các thời kỳ đó làm nên chiến thắng vĩ đại của cả dân tộc. Chúng ta đinh ninh lời dạy và quyết tâm cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện bằng được mong muốn của Bác Hồ kính yêu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Xin cảm ơn! Lê Khả Phiêu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBCTV1128.doc
Luận văn liên quan