Cụng trỡnh nghiờn cứu “ Mụ hỡnh Temasek Holdings trong thực tiễn xõy dựng Tổng
cụng ty SCIC Việt Nam” của chỳng tụi gồm cỏc nội dung chớnh sau đây:
1. Lời núi đầu
Nờu lờn tớnh cấp thiết của đề tài trong nền kinh tế Việt Nam. Đối tượng nghiờn cứu là
Tập đoàn Temasek Holdings trong khoảng thời gian từ 1974 đến 2007 và Tổng cụng ty SCIC từ
khi thành lập năm 2005 đến nay. Phương phỏp nghiờn cứu và kết quả nghiờn cứu cũng được đề
cập trong phần này.
2. Nội dung bao gồm 3 chương chớnh sau:
Chương I: Tập đoàn Temasek Holdings (Cụng ty vốn đầu tư Nhà nước) của Singapore
Chương này bao gồm: tỡm hiểu về Tập đoàn Temasek Holdings; đánh giỏ hoạt động của Tập
đoàn Temasek Holdings và từ Temasek Holdings tới kinh nghiệm xõy dựng một mụ hỡnh cụng
ty đầu tư vốn Nhà nước hiệu quả.
Chương I: Tập đoàn SCIC (Tồng cụng ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước) của Việt
Nam
Chương này bao gồm: tỡm hiểu về Tập đoàn SCIC; đánh giỏ hoạt động của Tổng cụng ty SCIC
Chương III: Một số bài học kinh nghiệm từ Temasek Holdings nhằm thỳc đẩy hoạt
động của SCIC trong thời gian tới.
Chương này bao gồm: mối liờn hệ giữa Tập đoàn Temasek Holdings và Tổng cụng ty SCIC; bài
học kinh nghiệm từ Temasek Holdings nhằm khắc phục nhược điểm của SCIC.
3. Kết luận
Tổng kết lại cỏc vấn đề đó đề cập và giải quyết trong phần nội dung. Nờu ý nghĩa đóng
gúp của Cụng trỡnh đối với thực tiễn. Mở rộng vấn đề đối với hướng đi của cỏc Danh nghiệp
Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 58 trang
58 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2939 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mô hình Temasek Holdings của Singapore trong thực tiễn xây dựng Tổng công ty SCIC Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ích chấn chỉnh tình trạng 
trên. Trước đây vốn Nhà nước có quá nhiều “ông chủ” là các cơ quan chủ quản thuộc 
nhiều cấp, nhiều ngành, mỗi nơi lại sử dụng một phương pháp quản lý thống kê khác 
nhau. Độ trung thực, chính xác của các báo cáo do đó cũng khác nhau và không có 
chuẩn mực kê khai hay cơ chế giám sát hữu hiệu... Khi tất cả những khoản vốn đó được 
tập trung thống kê tại SCIC, Nhà nước đã biết chính xác mình có bao nhiêu tiền, tiền 
đang nằm ở những đâu, được quản lý, kinh doanh theo phương pháp nào và cơ hội sinh 
lời cũng như nguy cơ rủi ro ra sao. Từ đó mới có thể tính đến giải pháp kinh doanh cho 
hiệu quả. Một trong các hình thức hoạt động của SCIC là thoái vốn. Tức là tại những 
ngành nghề, doanh nghiệp nhất định, đồng vốn khó quản lý, khó sinh lời hay không phù 
hợp với qui mô lớn thì sẽ rút vốn ra. Như vậy Nhà nước không chỉ có thêm cơ hội tăng 
lợi nhuận mà còn giảm thiểu nguy cơ thiệt hại vốn. 
Cái lợi nữa là khi mệnh lệnh hành chính, những chỉ thị, tờ trình, đơn xin... được 
tách khỏi hoạt động kinh doanh thì cũng là một bước tiến dài trong cải cách thủ tục hành 
chính - hẳn nhiên sẽ tạo rất nhiều thuận lợi trong hoạt động của các doanh nghiệp, bởi 
trước nay hành chính vốn bị coi là một trong những trở lực lớn trong công việc kinh 
doanh ở nước ta. SCIC không có quyền ra lệnh đối với các DNNN, mà chỉ chi phối các 
doanh nghiệp này thông qua phần vốn chủ sở hữu mà nó đại diện. Phân tách rạch ròi 
quản lý Nhà nước ra khỏi quản lý kinh doanh là ý nghĩa đầu tiên và quan trọng nhất 
trong việc thành lập SCIC. Điều này khác biệt với việc trước đây các Bộ, UBND chỉ đạo 
các DNNN theo cơ chế hành chính mệnh lệnh khi mà Bộ chủ quản, cơ quan chủ quản, 
vừa đá bóng (kinh doanh), vừa thổi còi (quản lý Nhà nước). Nhà nước lúc này giống như 
một cổ đông bình đẳng và minh bạch với tất cả “đối tác” khác trong kinh doanh. Doanh 
nghiệp lúc này đã được trả lại quyền tự chủ và được tăng thêm tiềm lực. Nhà nước quản 
lý được vốn và tăng nguồn lợi từ đây. 
28 
 28 
Sự đóng góp thiết thực cho nền kinh tế được thể hiện qua các mặt sau: 
 Vốn 
Trước đây, tại các doanh nghiệp cổ phần hóa, Nhà nước, thực chất là cơ quan chủ 
quản, cử đại diện của mình xuống doanh nghiệp trong vai các ủy viên Hội đồng quản trị. 
Các đại diện này thường là cán bộ kiêm nhiệm, kỹ năng quản trị, kinh doanh yếu. Mặt 
khác họ không bị ràng buộc trách nhiệm về đồng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Các 
ủy viên này dù năng lực có kém đi chăng nữa thì vẫn mặc nhiên tồn tại vì nhiệm vụ của 
họ, chủ yếu là thay mặt cơ quan chủ quản ra lệnh và nhận cổ tức cũng như những khoản 
đóng góp khác của doanh nghiệp. Do vậy, đồng vốn dưới bàn tay thờ ơ của những cán 
bộ với trách nhiệm nửa vời không những không sinh lời hiệu quả, lại có nguy cơ lãng phí 
và chảy vào túi một bộ phận cá nhân. 
Đó là chưa kể việc định giá tài sản doanh nghiệp khi cổ phần hóa do thiếu phương 
pháp tổ chức và công cụ giám sát nên Nhà nước và người lao động (cổ đông) đã mất mát 
rất nhiều tài sản. Không quá khó hiểu khi có những nhận định rằng nếu việc cổ phần hoá 
không được chỉnh đốn và tiến hành nghiêm túc thì tài sản Nhà nước hoàn toàn có khả 
năng rơi vào tay một số bộ phận cơ hội với cái giá rẻ mạt giống như kịch bản nước Nga 
hồi những năm đầu cải cách. Nhưng nay Nhà nước hiện diện trong vai người đại diện 
SCIC, với hi vọng một cơ quan chuyên quản lí vốn sẽ giảm thiểu tình trạng chắp vá lộn 
xộn, đồng thời tập trung được phần vốn phân tán rải rác trước đây. Đại diện này hoàn 
toàn tuân thủ theo Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty. Tổng công ty bị ràng buộc 
trách nhiệm với đồng vốn của Nhà nước như chính đồng tiền của họ bỏ ra. Việc thất 
thoát vốn, lãi của Nhà nước trong doanh nghiệp sẽ không thể diễn ra như trước đây. 
Với mục đích mang lợi nhuận về cho Nhà nước, SCIC chủ trương xác định giá trị 
thật của doanh nghiệp. Để tính được phần vốn của Nhà nước ở đây, SCIC áp dụng 
những công cụ định giá theo khoa học quản trị thông dụng quốc tế, có độ chính xác và 
tiệm cận nhất với giá thị trường. Cơ quan chủ quản cũ, đại diện ngành tài chính và doanh 
nghiệp cùng tham gia công việc này. SCIC thống kê toàn bộ tài sản và phân loại doanh 
nghiệp làm ba nhóm lớn A, B, C tùy theo qui mô, tỉ trọng vốn Nhà nước và ngành nghề 
để có phương án đầu tư quản lí vốn thích hợp với từng nhóm. 
29 
 29 
 Cơ chế người đại diện 
Toàn bộ những người đại diện phần vốn Nhà nước cũ được rà soát lại, ai phù hợp với 
cơ chế mới thì trưng dụng, tách chức năng quản lý của Nhà nước ra khỏi chức năng kinh 
doanh. Trước đây các Bộ, các UBND, các cơ quan công quyền quản lý nguồn vốn thì 
nay giao cho một đơn vị độc lập, ứng dụng được các chuẩn mực mới về quản trị doanh 
nghiệp vào các doanh nghiệp thành viên, qua đó nâng cao được hiệu quả của nguồn vốn 
Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Từ cuối năm 2006 khi SCIC đi vào hoạt động ổn 
định, cơ chế bộ chủ quản cấp tỉnh coi như không còn nữa. Thay vào đó, cơ chế người đại 
diện được kì vọng là sẽ chấm dứt tình trạng “bình mới rượu cũ” trong đa số các doanh 
nghiệp có phần vốn Nhà nước đã cổ phần hoá (bộ máy nhân sự cũ vẫn tiếp tục giữ vai 
trò điều hành, người đại diện phần vốn Nhà nước là các giám đốc doanh nghiệp – cũng 
đồng thời là chủ tịch Hội đồng quản trị, tất yếu dẫn đến tư duy điều hành không có gì 
khác trước). Quan trọng nhất hiện nay là nâng cao được hiệu quả nguồn vốn đầu tư của 
Nhà nước và xác định rõ được trách nhiệm sử dụng nguồn vốn đó, mà tiền đề là phải 
phân định trách nhiệm rõ ràng, hạn chế sử dụng cán bộ kiêm nhiệm. 
Theo quy chế của SCIC, "người đại diện" là người được cấp có thẩm quyền cử, uỷ 
quyền hoặc thuê làm đại diện phần vốn góp của Tổng công ty tại các doanh nghiệp. 
Người đại diện thay mặt Tổng công ty quản lí phần vốn đầu tư tại những doanh nghiệp 
này. Tuỳ theo qui mô vốn, đặc điểm, hình thức kinh doanh của doanh nghiệp, năng lực 
của cán bộ mà Tổng công ty cử người đại diện theo những nguyên tắc sau: 
- Cử trực tiếp nhân viên thuộc Tổng công ty; 
- Uỷ quyền cho cán bộ hoặc lãnh đạo đang làm việc tại doanh nghiệp; 
- Thuê người đại diện; 
- Uỷ quyền cho lãnh đạo doanh nghiệp thay mặt Tổng công ty thực hiện một số 
nhiệm vụ; 
Có thể thấy, trong trường hợp cần thiết, SCIC sẵn sàng thuê người đại diện mới, hoặc 
cử cán bộ xuống chuyên trách. Qui chế người đại diện được soạn thảo tỉ mỉ, khoa học, 
(với các điều khoản về chế độ báo cáo của người đại diện lên Tổng công ty, đánh giá 
người đại diện, thay thế người đại diện nếu năng lực không đáp ứng yêu cầu…), phần 
30 
 30 
nào giúp minh bạch hoá giữa chức năng quản lí và chức năng hành chính, khiến các 
doanh nghiệp có vốn Nhà nước bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác, tránh sự 
cẩu thả tuỳ tiện trong các quyết định kinh doanh. Tùy từng loại hình doanh nghiệp, 
người đại diện sẽ có thẩm quyền khác nhau trong việc thay mặt SCIC thực hiện tái cơ 
cấu, xây dựng chiến lược hoạt động rõ ràng. Quan hệ giữa Tổng công ty và người đại 
diện cũng linh hoạt thay đổi, tuỳ theo đó là Công ty TNHH một thành viên, hai thành 
viên, hay Công ty cổ phần. 
 Thiết lập quan hệ kinh doanh với nhiều đối tác quốc tế 
Các lớp bồi dưỡng, tập huấn về quản trị, kinh doanh được tổ chức rộng khắp cho lãnh 
đạo doanh nghiệp. Với vị thế là Tổng công ty quản lí và đầu tư vốn của Nhà nước, SCIC 
thiết lập quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước; hợp tác với các tổ chức tài chính 
lớn như WB, ADB, Tập đoàn đầu tư Temasek (Singapore), Tập đoàn Merrill Lynch 
(Mỹ), Công ty Đầu tư và chứng khoán Hàn Quốc... để thụ hưởng những mô hình quản trị 
tiên tiến của quốc tế, trong đó có những công ty tương tự về mô hình - một lợi thế mà 
những công ty qui mô nhỏ không thể có được. Hơn 20 tổ chức tài chính, quĩ đầu tư đã ký 
biên bản ghi nhớ với SCIC, mở ra nhiều cơ hội mới để phát triển đồng vốn Nhà nước. 
2.1.2. Hỗ trợ Nhà nước kiểm soát tốt hơn nền kinh tế 
 Với ưu thế nổi bật là số vốn lớn, có thể hi vọng SCIC sẽ dùng nguồn vốn này để 
đầu tư vào một số lĩnh vực trọng yếu cần nhiều vốn hoặc trước mắt chưa có lãi, mục đích 
là để thu hút các thành phần kinh tế khác cùng tham gia. SCIC đã tập trung các DNNN 
lại để giải quyết tình trạng trì trệ trong hoạt động của các công ty này đồng thời tập trung 
vốn đầu tư và tăng khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nước ngoài đang tràn 
vào Việt Nam ngày càng nhiều. Chẳng hạn, theo dự kiến SCIC sẽ thu xếp để cùng Tổng 
công ty Điện lực Việt Nam thành lập một công ty cổ phần mới xây dựng nhà máy điện 
thay vì phải đi vay vốn nước ngoài để làm như hiện nay. Cách làm tương tự sẽ được áp 
dụng đối với các ngành khác như xi măng, xây dựng cảng biển...dựa trên tiêu chí hiệu 
quả, trong tình trạng hiện tại có nhiều dự án lớn mà ngay cả việc kéo các nhà đầu tư tư 
nhân vào cũng không dễ dàng. Tuy nhiên cách làm này cũng sẽ tạo ra một loạt các công 
ty cổ phần mà cổ đông chỉ gồm các DNNN, giống như Pacific Airlines hay Pjico. Cần 
31 
 31 
phải cẩn trọng bởi gianh giới giữa việc giúp Nhà nước kiểm soát DNNN và việc trở 
thành công cụ để can thiệp sâu vào thị trường đôi khi rất mong manh, như chúng tôi đã 
phân tích ở trên. 
2.2 Những vấn đề tồn tại chƣa đƣợc giải quyết 
2.2.1. Chưa có những đóng góp tương xứng so với vai trò trong nền kinh tế 
2.2.1.1.Trở ngại lớn nhất của SCIC hiện nay là phần vốn Nhà nước trong các doanh 
nghiệp đang được đầu tư quá dàn trải trong một thời gian dài. Nguyên nhân của việc bố 
trí vốn dàn trải là do nhu cầu đầu tư phát triển của các bộ, ngành và địa phương là rất lớn 
trong khi khả năng tăng đầu tư từ vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển lại có 
hạn, chỉ đáp ứng được từ 40 - 50% nhu cầu dẫn đến tình trạng các địa phương đều muốn 
kéo vốn về ngành mình, địa phương mình, thậm chí ngay cả khi chưa có dự án. Ngoài ra, 
trong bố trí kế hoạch vốn đầu tư, còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn vốn bổ sung của 
ngân sách Trung ương. Đây là một mâu thuẫn thường gặp ở các nước đang phát triển, 
song đối với nước ta, nó lại càng trở nên gay gắt, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện 
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Chính vì vậy, để sử dụng và quản lý nguồn vốn này hiệu quả hơn, trước mắt cũng 
như lâu dài, cần bán bớt hoặc bán hết phần vốn Nhà nước đầu tư ở các công ty, theo tinh 
thần chỉ đạo của Thủ tướng. Số tiền thu được sẽ dùng để đầu tư vào các dự án có hiệu 
quả. 
2.2.1.2. Có một điều không rõ ràng là SCIC đã cố gắng thâm nhập được đến đâu 
trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà nó đã tham gia đầu tư, và liệu nó 
có cho phép ban lãnh đạo một khoảng thời gian đủ để thực hiện trách nhiệm của mình, 
hoặc liệu nó đã cố gắng thực thi có hiệu quả quyền chủ sở hữu vốn Nhà nước của mình 
hay chưa. Đã ba năm kể từ khi thành lập, vẫn còn những băn khoăn về hiệu quả thực sự 
của mô hình đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước này. Số liệu thống kê các chỉ số kinh 
doanh của SCIC chủ yếu lưu hành trong nội bộ doanh nghiệp, không cho phép sự tiếp 
cận từ bên ngoài nên rất khó để có nhận định chính xác và cụ thể về nỗ lực của Tổng 
công ty. Một khi kết quả kinh doanh không được công bố công khai thì những thắc mắc 
32 
 32 
như trên ắt hẳn sẽ còn tồn tại, và những nghi ngờ về tính hiệu quả mà SCIC đạt được sẽ 
còn tiếp tục trong đánh giá của dư luận cũng như của các chuyên gia. 
2.2.1.3. Gánh nặng là những trì níu của cơ chế cũ. Cơ chế chủ quản với hệ thống 
chế tài lỏng lẻo, lạc hậu đã làm phương hại đồng vốn Nhà nước nhưng lại là mảnh đất 
màu mỡ cho nhiều tổ chức, cá nhân liên quan. Do là mô hình mới và lại đứng ra quản lý 
vốn đầu tư của hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước nên SCIC đụng chạm lớn đến quyền 
lợi của nhiều bộ, ngành, địa phương, những cơ quan trước đây là chủ sở hữu, quản lý 
doanh nghiệp. Lực lượng này gồm lãnh đạo cơ quan chủ quản và lãnh đạo doanh nghiệp 
thuộc diện chuyển giao. Với cơ quan chủ quản, phần lớn lãnh đạo tìm cách từ chối, né 
tránh hợp tác với SCIC trong việc định giá doanh nghiệp hoặc tự đặt các điều kiện về 
quyền lợi cục bộ và đòi hỏi SCIC đáp ứng. Một số bộ, ngành, địa phương buông lỏng 
quản lý doanh nghiệp trước khi chuyển giao phần vốn Nhà nước về SCIC, dẫn đến bộ 
máy doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả; nội bộ doanh nghiệp mất đoàn kết kéo dài, 
người đại diện không tuân thủ các quy định pháp luật. Bộ máy còn thiếu nhân lực của 
SCIC đã phải mất rất nhiều thời gian cơ cấu lại các doanh nghiệp này trong vai trò là cổ 
đông lớn nhất. 
Ngay cả trong Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà 
nước thành công ty cổ phần, mới được ban hành ngày 26/6/2007, vẫn có quy định yêu 
cầu khi cử người đại diện trong công ty cổ phần phải lấy ý kiến UBND ở địa phương. Đó 
cũng là quy định “khó hiểu” và gây khó khăn không nhỏ cho tiến trình tách bạch quyền 
sở hữu doanh nghiệp với cơ quan chủ quản. UBND các địa phương không có liên quan 
gì đến quyền sở hữu DNNN để có thể cho ý kiến về các chức danh lãnh đạo doanh 
nghiệp. Nhiều DNNN lớn vẫn án binh bất động nằm im trong sự chủ quản của các bộ 
ngành. Rõ ràng, những khó khăn mà SCIC đang đương đầu không chỉ đến từ một phía. 
Ở đây có hai nguyên nhân: thứ nhất, một số cán bộ do giữ quan điểm cũ là Nhà 
nước phải quản chặt doanh nghiệp. Thậm chí một lãnh đạo cấp bộ còn tuyên bố: 
“Chuyển giao vốn thì được nhưng về nhân sự thì vẫn phải để lại cho bộ quyết định!”. 
Nguyên nhân thứ hai vì quyền lợi cục bộ, cá nhân nên họ đã dùng nhiều cách thức đối 
phó. Ví dụ: cố tính trì hoãn và từng bước bán hết phần vốn Nhà nước ra ngoài. Tất nhiên 
33 
 33 
cái giá họ bán thường cực kỳ rẻ mạt để giá trị chênh lệch chảy vào túi cá nhân. Một số 
nơi ráo riết sáp nhập doanh nghiệp sắp bị bán vào các tổng công ty để mong thoát khỏi 
danh sách chuyển giao...Nếu những điều nêu trên không sớm được cải thiện thì đây sẽ là 
rào cản khiến SCIC còn vấp phải nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động của mình. 
2.2.1.4. Việc các doanh nghiệp cùng về dưới mái nhà SCIC sẽ tạo thuận lợi cho 
việc điều hành và giúp Nhà nước có thêm một công cụ hữu hiệu để can thiệp khi xảy ra 
cạnh tranh không lành mạnh, giúp kiểm soát khi có quá nhiều doanh nghiệp đầu tư vốn 
quá lớn vào cùng một lĩnh vực. Tuy nhiên, theo điều lệ được duyệt, SCIC sẽ làm chủ 
quản các công ty TNHH một thành viên, thực chất là các DNNN đã được đổi tên. Điều 
này gây ra tâm lí lo ngại cho rằng các DNNN độc lập ở các Bộ bấy lâu là đối thủ cạnh 
tranh của nhau, nay về dưới “mái nhà chung” sẽ làm triệt tiêu khả năng cạnh tranh của 
từng doanh nghiệp nói riêng và thành phần kinh tế Nhà nước nói chung. 
2.2.2 Phụ thuộc quá nhiều vào Nhà nước trong việc ra quyết định dẫn đến những 
quyết định lệch lạc 
 Do SCIC là một tổ chức kinh tế đặc biệt trực thuộc Chính phủ nên khả năng bị 
phụ thuộc (thậm chí là bị chi phối) trong việc ra quyết định là rất lớn. Điều này đã được 
chứng minh trong những quyết định mà SCIC đưa ra trong thời gian vừa qua. Việc lệch 
lạc ở đây không hẳn là những quyết định có sự ảnh hưởng của Chính phủ là sai lầm mà 
nó còn là sự lệch lạc khỏi những ý định ban đầu. Từ đó những hoạt động của công ty 
cũng có thể bị ảnh hưởng. Như đã chứng minh ở phần 1.2, việc SCIC cứu chứng khoán 
là một ví dụ cho điều này. Uy tín của công ty đã suy giảm một phần khi nó làm việc mà 
đáng ra phận sự của nó không nằm ở đó. 
 Theo cơ chế hiện hành, SCIC trực thuộc Chính phủ, lại hành động theo quyết 
định của Thủ tướng trong những trường hợp đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ vĩ mô, do 
vậy nếu không cải cách từ ngay trong chính quy chế, điều lệ của bản thân công ty thì đòi 
hỏi việc độc lập hoàn toàn với Nhà nước trong kinh doanh là điều không khả thi. Trong 
bối cảnh hiện tại, có thể khẳng định chắc chắn SCIC vẫn chưa tách hẳn khỏi áp lực của 
Nhà nước trong hoạt động của mình, mà nhiều khi lý do là Tổng công ty được xác định - 
34 
 34 
và nó cũng tự cho mình, quyền hạn có thể dùng nguồn vốn dồi dào can thiệp vào những 
bất ổn của thị trường. 
2.2.3. Bộ máy quản lý chưa chuyên nghiệp 
 Bộ máy quản lý hiện nay của SCIC hầu như là các quan chức của bộ ngành liên 
quan và chủ doanh nghiệp của các doanh nghiệp thành viên cũ. Một vấn đề đặt ra liệu 
kiến thức chuyên môn của các quan chức này có phù hợp với vị trí mà họ đảm nhiệm 
cũng như là năng lực thật sự của họ có đảm bảo cho hoạt động trơn tru của một guồng 
máy khổng lồ như SCIC. Đây là mối quan ngại đối với bất kì ai khi nhìn vào bộ máy 
quản lý của SCIC. Hầu hết các quan chức chủ chốt đều lấy từ Bộ Tài chính hoặc một số 
bộ ngành khác. Việc quản lý các Bộ khác với việc quản lý một doanh nghiệp và làm tốt 
công việc ở Bộ chưa hẳn chứng minh rằng sẽ làm tốt điều đó trong việc quản lý SCIC. 
Hơn nữa quan chức ở các Bộ thường có óc phán xét thiên về chủ quan không bắt kịp với 
thực tế thương trường. Một quan chức của Bộ Tài chính cũng thừa nhận: “Chúng tôi có 
kinh nghiệm quản lí, nhưng việc ra quyết định đầu tư theo tín hiệu thị trường sẽ khó 
khăn, không phải cứ quản lý tốt là kinh doanh tốt” ( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam - 
số ra ngày 15/07/2005). Mặt khác, mối liên hệ trước kia của các lãnh đạo sẽ làm cho 
việc độc lập hoá trong hoạt động của SCIC trở nên khó khăn hơn. 
35 
 35 
CHƢƠNG III 
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 
 TỪ TEMASEK HOLDINGS NHẰM THÚC ĐẨY 
HOẠT ĐỘNG CỦA SCIC TRONG THỜI GIAN TỚI 
I. Mối liên hệ giữa Temasek Holdings và SCIC 
 Từ những phân tích trên và cũng từ sự thể hiện của SCIC trong ba năm vừa qua 
chúng ta đã thấy được những bất cập đang tồn tại trong lòng Tổng công ty này. Nếu cứ 
để sự việc này tiếp diễn, có khả năng SCIC sẽ trở thành một trong những dự án thất bại 
của Chính phủ xuất phát từ ý tưởng vô cùng tốt đẹp ban đầu. Nếu điều này xảy ra, nó sẽ 
36 
 36 
có những tác động rất xấu tới nền kinh tế đang phát triển và dễ bị tổn thương như Việt 
Nam. Để truy nguyên cho những bước đi sai lầm, một trong những cách tốt nhất là SCIC 
cần nhìn lại bản thân và những người đi trước, nhìn nhận cả thành công lẫn thất bại của 
họ để làm bài học kinh nghiệm cho mình. Chúng tôi thiết nghĩ, SCIC là tập đoàn thành 
lập dựa trên mô hình Temasek Holdings và có nhiều nét tương đồng. Temasek Holdings 
đã thành công, nhưng tại sao SCIC vẫn chưa thể khẳng định mình như Temasek đã làm? 
Thậm chí, chỉ trong vài năm đầu sau khi thành lập, SCIC đã vấp phải những vướng mắc 
không nhỏ. Vậy liệu chúng ta có nên xem xét lại những điều mà SCIC vận dụng từ 
Temasek Holdings? Liệu việc học tập của chúng ta có cần sự cải tiến thay đổi? Và cơ sở 
cho sự học hỏi đó là gì? 
1.1. Do sự tương đồng giữa SCIC với Temasek Holdings về mục tiêu, cách xây 
dựng và quản lý 
 Việc lấy vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước (cụ thể là Bộ Tài chính) và từ các 
doanh nghiệp thành viên đã làm cho SCIC có những đặc điểm gần giống với Temasek 
Holdings. Hơn nữa, cả Temasek Holdings và SCIC đều thành lập dựa trên ý tưởng của 
Nhà nước với mục đích kiểm soát nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, làm cho chúng có 
hiệu quả cao hơn. Về cơ cấu công ty, cả hai đều có những nét tương đồng trong thành 
phần tổ chức, ban quản lý lẫn các danh mục đầu tư. Chính phủ có sự kiểm soát nhất định 
đối với các hoạt động của công ty thông qua quyền cổ đông. Điều này cũng dễ hiểu khi ý 
tưởng thành lập SCIC được lấy từ Temasek. Trong quá trình hoạt động 2 năm qua của 
SCIC, Temasek cũng đã giúp đỡ rất nhiều về chiến lược hành động. Đây chính là mối 
liên hệ căn bản giữa 2 Công ty này. 
1.2. Do hiệu quả của mô hình Temasek Holdings đã được chứng minh tại 
Singapore và ở một số quốc gia như Trung Quốc, Indonexia... 
 Chúng ta đã thấy rõ những thành công của Temasek Holdings như ở Chương I 
chúng tôi đã phân tích. Điều này cũng được cả thế giới hoặc chí ít là các quốc gia có ý 
định thành lập loại hình công ty này công nhận. Riêng tại Singapore người ta xem 
Temasek như là một trong những trụ cột của nền kinh tế bởi sự đóng góp vào GDP hàng 
37 
 37 
năm cho quốc gia là khá cao cộng với những ảnh hưởng nhìn chung là tích cực cho toàn 
nền kinh tế. Không chỉ được công nhận trong biên giới quốc gia mà Temasek còn được 
các tổ chức danh tiếng đánh giá rất cao. Hiện nay cái tên Temasek đã được nhìn nhận 
như một hình mẫu của công ty đầu tư vốn Nhà nước hiệu quả. Các nước như Trung 
Quốc và Indonexia cũng học tập theo mô hình này để kiểm soát tốt hơn các công ty đầu 
tư vốn Nhà nước của mình. SCIC Việt Nam cũng là một trong những người đi sau 
Temasek, vậy nên việc học hỏi lại càng cần thiết hơn. 
1.3. Do yêu cầu cấp thiết về một SCIC hiệu quả đối với nền kinh tế 
 Chúng ta đã thấy được thực trạng cấp thiết cho vấn đề SCIC đang gặp phải. Kinh 
tế Việt Nam đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, rất cần một SCIC xứng đáng để dẫn 
dắt và vực dậy những "anh cả" công ty Nhà nước vốn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh 
tế nhưng đến nay đã để mất phần lớn uy tín. Việc cải thiện vị thế quả thật không hề dễ 
dàng, nhất là khi các công ty Nhà nước thường gắn với hình ảnh trì trệ từ thời bao cấp. 
Cũng cần nói thêm, SCIC được coi là một giải pháp dung hoà cho câu hỏi là liệu nền 
kinh tế “định hướng xã hội chủ nghĩa” (DNNN giữ vai trò chủ đạo) và nền kinh tế thị 
trường (kinh tế tư nhân là động lực cho sự phát triển), có thể cùng sánh vai song hành - 
thường bị một số người coi là nghịch lý. Trong con mắt không chỉ của những người sáng 
lập mà còn là của Chính phủ và người dân, SCIC với nhiệm vụ to lớn nêu trên thực sự là 
niềm hi vọng. Nhưng phải bắt đầu từ đâu? Tiến trình xây dựng một SCIC mang tầm vóc 
quốc gia như thế nào? Làm thế nào để dự đoán và phòng tránh những thiếu sót, sai lầm 
trong quá trình hoạt động của tổ chức này? Rõ ràng đây là những câu hỏi mà việc đi tìm 
câu trả lời thoả đáng không hề đơn giản. Do vậy, cũng dễ hiểu khi chúng ta nhìn sang 
một mô hình đã thành công trong điều kiện tương tự và lấy đó làm mục tiêu hướng tới. 
Nhận thức được điều này, các nhà hoạch định ngay từ ban đầu đã có ý định lấy Temasek 
làm chuẩn mực để xây dựng SCIC như một Temasek Holdings của Việt Nam. 
1.4. Một đặc điểm chung giữa Singapore và Việt Nam: Doanh nghiệp Nhà nước 
đóng vai trò đáng kể trong nền kinh tế 
38 
 38 
 Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển và cơ hội kinh doanh mở ra cho rất nhiều 
người miễn là họ có vốn và khả năng quản lý. Dù vậy, thành phần tư nhân cũng chỉ 
chiếm một vị trí rất khiêm tốn. Trong khi đó thành phần kinh tế Nhà nước vẫn được ưu 
ái hơn rất nhiều. Khác với đa số các nước phát triển khác như Nhật Bản hay Hàn Quốc 
với sự kiểm soát thị trường thuộc về tư nhân, ở Singapore thành phần kinh tế Nhà nước 
có tiếng nói chủ đạo. Chính phủ Singapore sở hữu 25% GDP - hơn một trăm công ty, tất 
cả bất động sản và khả năng tiếp cận những nguồn tiết kiệm khổng lồ của tư nhân. Các 
quan chức Chính phủ có nhiệm vụ phân bổ hầu hết lượng vốn đầu tư. Ngoài đất đai và 
khoảng 85% lượng nhà cho thuê, Chính phủ Singapore còn kiểm soát chừng 20% GDP. 
Thêm vào đó, hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế đều có cổ phần của Chính phủ. Quá 
trình tư nhân hoá ở Singapore diễn ra với mức độ và phạm vi thấp hơn nhiều so với 
những nước có cùng trình độ phát triển. Điểm tương đồng này với Việt Nam chứng tỏ 
rằng những định hướng chính sách hay chế độ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư 
vốn Nhà nước của hai quốc gia có những điểm giống nhau. Đây là một yếu tố khách 
quan giúp cho SCIC có cơ hội thuận lợi hơn để áp dụng mô hình Temasek vào thực tiễn 
của mình. 
II. Từ Temasek Holdings tới những khuyến nghị đối với SCIC Việt 
Nam 
Với những khó khăn mà SCIC đang đương đầu, như chúng tôi đã phân tích, nếu 
không thực hiện các biện pháp cứng rắn và mạnh tay ngay lập tức, SCIC sẽ từ sự kỳ 
vọng trở thành một thất bại không thể cứu vãn nổi. Vấn đề ở đây không phải là hướng đi 
hay mục tiêu mà chính là sự lựa chọn hoạt động thiết thực hay những cam kết sẽ hành 
động cho những lời hứa đã đưa ra chứ không phải việc để cho những lời hứa đó tô điểm 
cho những kế hoạch tốt đẹp nhưng không có tính khả thi. Dựa trên những ghi nhận về 
tính hiệu quả của Temasek Holdings đã nói ở trên, dưới đây chúng tôi xin đề xuất một số 
biện pháp hi vọng có thể tháo gỡ bài toán mà SCIC đang mắc phải. 
2.1. Phân định rõ chức năng Quản lý hành chính - kinh tế với chức năng Chủ 
39 
 39 
sở hữu vốn của Nhà nƣớc 
 Cải thiện hơn nữa sự phân chia cổ tức ở các doanh nghiệp mà SCIC góp vốn đầu 
tư, đặc biệt là các DNNN. Cho đến nay, SCIC và Bộ Tài chính vẫn đang bế tắc trong 
cuộc đàm phán để tìm ra cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm thu tiền từ các DNNN. Xét 
cho cùng các công ty cổ phần lớn có xu hướng giữ tiền và không muốn nộp trực tiếp cho 
Kho bạc Nhà nước. Điều quan trọng là SCIC và Bộ Tài chính phải đạt được một sự nhất 
trí về việc làm thế nào để giám sát tốt hệ thống kế toán của các doanh nghiệp mà mình 
đầu tư, đặc biệt là các DNNN nơi tập trung phần lớn lượng vốn SCIC, để đảm bảo doanh 
thu tập trung hơn. Để siêu Tổng công ty trở thành giải pháp tối ưu cho việc quản lý và sử 
dụng vốn thì trước hết cần tách bạch hoàn toàn với chức năng chủ sở hữu vốn của doanh 
nghiệp. 
2.1.1. Xóa bỏ cơ chế cấp phát và bao cấp vốn của Nhà nước đối với hoạt động 
đầu tư của doanh nghiệp 
SCIC cần hội đủ các đặc tính kỷ luật thương trường và tính chuyên nghiệp của 
Temasek. Bắt đầu là những kiểm toán quốc tế nhằm đánh giá mức độ kỷ luật tài chính 
của SCIC, những lượng giá độc lập về tính “ăn chắc mặc bền” của các dự án đầu tư cũng 
như xem có xung đột lợi ích hay không để tránh thất thoát vốn Nhà nước. Và do 15.000 
tỉ đồng (xấp xỉ 1 tỉ đôla Mỹ) vốn điều lệ của SCIC là vốn của Nhà nước, tức từ tiền thuế 
của người dân, nên cần phải sớm cáo bạch với Quốc hội, người cấp vốn ban đầu cho 
SCIC. Nếu cơ chế cấp phát và bao cấp vốn vẫn còn tiếp tục thì rất có thể việc SCIC 
giành lại quyền sở hữu một khối lượng lớn cổ phiếu sẽ đảo ngược quá trình cổ phần hóa 
mà mục tiêu là đưa đồng vốn đến các doanh nghiệp năng động. Điều này có thể sẽ khó 
khăn, gây ra một sự hụt hẫng về tài chính ban đầu cho doanh nghiệp và mất một thời 
gian dài để thực hiện, nhưng cần phải dũng cảm gạt bỏ ngay cơ chế bao cấp, bởi thực tế 
đã chứng minh đây là cái nôi dung dưỡng cho sự ù lì thụ động trong sản xuất kinh 
doanh. 
2.1.2. SCIC sẽ là người quản lý số vốn của Nhà nước khi đầu tư vào các doanh 
nghiệp thành viên 
Để quản lí vốn Nhà nước hiệu quả hơn, SCIC cũng đang nghiên cứu xây dựng hoàn 
40 
 40 
thiện cơ chế nhằm tự chủ hơn nữa trong việc quản lí và sử dụng vốn nhưng vẫn phải tuân 
theo quy định của pháp luật hiện hành. Hiện SCIC đang kiến nghị làm thế nào để thoái 
vốn một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất thông qua việc mở rộng các hình thức bán 
vốn. Có nghĩa là, ngoài hình thức bán cổ phần Nhà nước qua đấu giá như hiện nay, cần 
mở thêm một số hình thức như: bán thỏa thuận, căn cứ vào giá niêm yết trên thị trường 
chứng khoán để đàm phán bán vốn cho các nhà đầu tư khác. Bên cạnh đó, vấn đề quản lý 
vốn Nhà nước ở các công ty sau cổ phần hóa cũng là vấn đề đáng phải quan tâm. Để việc 
quản lý có hiệu quả, SCIC phải thực sự là một cổ đông được thực hiện quyền và nghĩa 
vụ của cổ đông đúng theo Luật Doanh nghiệp và theo quy định điều lệ của các công ty 
này. Khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp này 
cũng sẽ tăng trưởng theo. 
2.2 Xây dựng cơ chế đầu tƣ hiệu quả, công khai minh bạch đối với các dự án 
đầu tƣ 
2.2.1. Công khai các dự án đầu tư 
Cải cách hiệu quả và tính minh bạch của cơ chế quản lí vốn Nhà nước là rất quan 
trọng. Việc thành lập SCIC là cơ quan duy nhất nắm quyền sở hữu vốn Nhà nước của 
các DNNN được cổ phần hoá, đánh giá và giải thể những doanh nghiệp kém hiệu quả 
nằm trong cơ cấu thể chế mới nhằm cải thiện quản lý vốn. Việc chuyển quyền sở hữu ra 
khỏi các bộ ngành và cơ quan Chính phủ sẽ loại bỏ các xung đột về quyền lợi giữa sở 
hữu và ra quyết định, nhưng đồng thời có nguy cơ nảy sinh các giao dịch không minh 
bạch vì liên quan đến những khoản tiền khổng lồ. Để kiểm soát và hạn chế nguy cơ này, 
tiền đề cần thiết là phải công khai minh bạch các quyết định đầu tư cũng như những chỉ 
số kinh doanh của nó. 
2.2.2. Nên công bố các báo cáo tài chính hàng năm của Tập đoàn và Công ty 
thành viên 
Còn nhớ hoạt động gây nhiều tranh cãi nhất của SCIC gần đây là việc đầu tư vào trị 
trường chứng khoán khi thị trường này đảo chiều và có nguy cơ chạm đáy. Động thái 
này đã gây ra nhiều tranh cãi ngược chiều từ phía công chúng cũng như các chuyên gia. 
Nhưng điều đáng nói hơn là việc không công khai số liệu mua vào bao nhiêu, phương 
41 
 41 
thức thế nào, lỗ lãi cũng như kết quả thương vụ này ra sao…vẫn còn là một ẩn số, đã tạo 
ra dư luận tiêu cực, gây bất lợi cho chính bản thân SCIC. Điều này là dễ hiểu. Trong khi 
chúng ta đang khuyến khích công khai minh bạch hoá các số liệu tài chính, bất cứ một 
hành vi nào có vẻ đi ngược lại xu thế chung này đều ít nhiều gây nên những nhận định 
ảnh hưởng tới hình ảnh cũng như uy tín của công ty. Hơn nữa, việc hạch toán kinh doanh 
vẫn còn thiếu minh bạch và chưa tuân theo các tiêu chuẩn kế toán khiến các cơ chế được 
sử dụng rất hiệu quả của nền kinh tế thị trường vẫn khó có thể áp dụng thành công vào 
việc xác định giá trị thực của SCIC cùng những công ty thành viên của nó. 
2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng, tạo 
cơ sở pháp lý phù hợp để công ty hoạt động 
2.3.1. Tách biệt giữa quản lí công và sở hữu công 
Thông qua SCIC, tổ chức đóng vai trò thực chất là nhà đầu tư trong các DNNN, 
Chính phủ trung ương có thể đạt được sự kiểm soát tốt hơn về quản lí công ty thông qua 
sự tập trung hoá có hiệu quả hơn quyền ra quyết định. SCIC chịu trách nhiệm chính 
trong việc giám sát và quản lí tài sản của Nhà nước thông qua các cơ chế khác nhau: bổ 
nhiệm hay cách chức cũng như đề xuất kế hoạch hoạt động cho những người chịu trách 
nhiệm về các doanh nghiệp đầu tư, chịu trách nhiệm về tái cơ cấu và tái tổ chức các 
doanh nghiệp cũng như việc phân chia, sáp nhập, giải thể hay tuyên bố phá sản của các 
doanh nghiệp và sự tăng vốn trái phiếu doanh nghiệp, quyết định việc chuyển giao cổ 
phần thuộc sở hữu Nhà nước, chịu trách nhiệm bảo tồn và làm tăng giá trị thuộc sở hữu 
Nhà nước. SCIC cần phải nâng cao vai trò của mình bằng việc chấm dứt tình trạng bộ 
ngành và các đơn vị hành chính khác của Chính phủ đều có tiếng nói trong hoạt động 
thường nhật của các DNNN, cũng như cố gắng minh bạch hoá và đơn giản hoá hệ thống 
quản lí tài sản Nhà nước. Về mặt lí thuyết, hoạt động của SCIC đã cải thiện một phần 
hoặc tổng thể hệ thống quản trị của các doanh nghiệp mà nó có vốn góp thông qua cơ 
chế người đại diện thực hiện tốt chức năng và mở ra một đợt cổ phần hoá mới, tăng cơ 
hội kinh doanh cho các nhà đầu tư và cơ hội đa dạng hoá nguồn vốn cho chính bản thân 
doanh nghiệp. Tuy nhiên, để điều này hoàn toàn trở thành hiện thực thì có lẽ SCIC còn 
phải cố gắng rất nhiều nếu xét đến những gì nó đã thể hiện thời gian qua. 
42 
 42 
2.3.2. Làm rõ chính sách quyền sở hữu hiện nay 
Việc xác định quyền sở hữu Nhà nước có xu hướng mập mờ, SCIC đang đứng giữa 
ranh giới sở hữu tập thể và sở hữu Nhà nước. Điều quan trọng là phải làm rõ cơ cấu 
quyền sở hữu của các doanh nghiệp, để việc quản lí tài sản Nhà nước ngày một minh 
bạch hơn, tạo thuận lợi cho việc giám sát chính bản thân SCIC. Một trong những điều 
kiện để bộ máy SCIC vận hành trơn tru là phải kiến tạo được sự minh bạch trong hoạt 
động cũng như cơ cấu vốn, tổ chức…của những công ty mà nó có phần vốn góp, càng rõ 
ràng càng tốt. Một số chính sách như “Giữ lại các công ty lớn, bỏ các công ty nhỏ” theo 
mô hình Trung Quốc được kì vọng là sẽ tinh giản những DNNN làm ăn kém hiệu quả, 
khiến việc quản lí giám sát trở nên dễ dàng hơn (tuy nhiên quá trình tái cơ cấu này cần 
được diễn ra dần dần để các doanh nghiệp giải thể không phải chịu thiệt thòi quá lớn và 
tránh dẫn đến những nguy cơ căng thẳng trong xã hội và ngành nghề). Cũng theo cách 
này, các nhiệm vụ của SCIC có khả năng sẽ được thực thi tốt hơn. 
2.3.3. Cố gắng tối thiểu hoá xung đột về lợi ích với Chính phủ 
Trong hầu hết các chính sách kinh tế hiện nay, các Bộ của Chính phủ có xu hướng 
chồng chéo trong chức năng của mình và cố gắng tranh giành để có tiếng nói và quyền 
lực trong các quyết định cải cách doanh nghiệp. Để khắc phục thực trạng này, điều quan 
trọng là phải có một khung khổ pháp lí gắn kết hơn nhờ đó chức năng của các Bộ được 
xác định rõ ràng và không làm ảnh hưởng đến quá trình tham gia đầu tư kinh doanh của 
SCIC. Các quyền lợi cục bộ có khả năng làm trì trệ việc thực hiện kế hoạch hợp tác và 
điều phối các doanh nghiệp vốn trực thuộc các Bộ ngành địa phương. Như các phần trên 
đã trình bày, từ quan điểm về chức năng và thực tế bộ máy lãnh đạo SCIC hiện nay chủ 
yếu là những quan chức cấp cao trong các Bộ ngành Nhà nước, lo ngại về sự mâu thuẫn 
lợi ích và thậm chí là thói cơ hội trong đầu tư không phải là không có cơ sở. Cần phải 
tách Bộ Tài chính ra khỏi hoạt động kinh doanh của SCIC, điều này chỉ khả thi khi cắt 
được tâm lí muốn duy trì quyền lực Nhà nước trong tổ chức này. Trong bối cảnh hiện 
nay khi đã có chủ trương mà tiến trình thực hiện vẫn cứ chậm, dường như chỉ dừng lại ở 
lời hô hào kêu gọi hơn là thúc đẩy giải quyết triệt để vấn đề, chỉ chứng tỏ một điều đơn 
giản: bộ máy Nhà nước chưa đủ quyết tâm, chưa đủ mạnh để chiến thắng sự lũng đoạn 
43 
 43 
lợi ích của các quan chức bộ ngành. 
2.3.4. Giải quyết vướng mắc từ sự lẫn lộn hành vi của một nhà đầu tư 
Hành vi ứng xử của SCIC trong các quyết định đầu tư thường gây tranh cãi do 
không có được một sự giải thích rõ ràng trong cơ chế hoạt động của nó (điều này do đặc 
thù riêng của mô hình Tổng công ty Nhà nước SCIC qui định ngay trong điều khoản 
quyền và nghĩa vụ sử dụng vốn, ngoài việc tự lựa chọn ra quyết định đầu tư còn phải 
tuân thủ theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ khi cần thiết trong một vài trường hợp 
đặc biệt): vừa là một công cụ điều tiết thị trường, vừa là một nhà đầu tư thực thụ đúng 
nghĩa “đầu tư và kinh doanh vốn”. Sự nhập nhằng trong phân định thực ra không phải là 
một vấn đề mới mà đã được đề cập khá lâu trước đây, nhưng để tiến tới việc tách bạch 
hoàn toàn giữa các quyết định đầu tư mang tính mệnh lệnh hành chính từ cấp trên và 
việc đầu tư với tư cách một nhà kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận thực sự không dễ dàng 
với đa số các DNNN Việt Nam nói chung và SCIC nói riêng. Về giải pháp, chúng ta hay 
nói nhiều đến quyết tâm, nhưng rõ ràng quyết tâm không đi kèm với việc mạnh dạn thay 
đổi những điều lệ cứng nhắc ràng buộc SCIC phụ thuộc vào mệnh lệnh hành chính thì 
không đủ. 
2.3.5. Xác định rõ phạm vi và qui mô khu vực kinh tế Nhà nước 
Chủ trương tập trung quản trị vốn vào một đầu mối nhằm giảm thiểu tình trạng 
chồng chéo và cục bộ là hướng đi đúng, nhưng vấn đề cốt lõi vẫn là phạm vi và qui mô 
khu vực kinh tế Nhà nước cần duy trì để các DNNN kinh doanh đạt hiệu năng và phát 
triển cân đối với các thành phần kinh tế khác. Đây là vấn đề vĩ mô nhưng tác động trực 
tiếp đến việc hoạch định chiến lược, mục tiêu, cũng như đường hướng hoạt động của 
SCIC, nếu sai lầm trong việc xác định này sẽ dễ dàng dẫn đến việc bành trướng hay thu 
hẹp quá mức thành phần vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp thành viên. Theo nhận 
định của nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, Chính phủ Việt Nam vẫn còn 
khá lúng túng trong việc xác định rõ phạm vi nên mở rộng khu vực Nhà nước đến đâu. 
Trong khi xu hướng của nhiều nước trên thế giới là thu hẹp tỉ trọng của khu vực Nhà 
nước, thì ở Việt Nam, tuy số lượng các DNNN có giảm nhưng vị thế thống trị nền kinh 
tế không hề bị ảnh hưởng, bởi hầu hết những ngành, lĩnh vực trọng yếu đều do các 
44 
 44 
doanh nghiệp này nắm giữ. Thành phần kinh tế Nhà nước trước nay vốn được hưởng rất 
nhiều ưu đãi. Vào năm 1991, tổng số DNNN lên đến 12.000. Con số này giảm xuống 
còn phân nửa năm 1994, với khoảng 3000 doanh nghiệp bị giải thể và 2000 sáp nhập 
thành công ty Nhà nước khác. Đến năm 2005, tổng số DNNN chỉ còn khoảng 3200. 
Chương trình cổ phần hoá khởi đầu năm 1992, nhưng chỉ thực sự được đẩy mạnh từ năm 
2000 với khoảng 2600 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa. Tuy nhiên, vì tuyệt đại đa số 
các DNNN bị thanh lý, sáp nhập và cổ phần hóa có qui mô nhỏ, đồng thời số lượng các 
DNNN qui mô lớn ngày một tăng, vai trò chi phối của các doanh nghiệp này không hề 
suy giảm, thể hiện qua tỷ phần sản lượng của các DNNN trên tổng sản lượng nội địa hầu 
như không thay đổi. 
Sự kém hiệu quả của việc duy trì một loạt những DNNN cồng kềnh được thể hiện ở 
bảng sau: 
 Bảng 5: Bảng cơ cấu đầu tƣ theo thành phần kinh tế và tỉ trọng của từng khu vực 
vào GDP 
Đơn vị tính: Tỷ VND 
 Cơ cấu đầu tư Cơ cấu GDP 
Năm 1995 2000 2003 1995 2000 2003 
Khu vực Nhà nước 42 57.5 56.5 40.2 38.5 38.3 
Ngân sách NN 18.7 23.8 21.6 
Tín dụng đầu tư 
23.3 
18.5 17.2 
DNNN 15.2 17.7 
Khu vực ngoài quốc 
doanh 
27.6 23.8 26.7 53.5 48.2 47.8 
Khu vực có vốn đầu 
tư nước ngoài 
30.4 18.7 16.8 6.3 11.4 14.0 
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2004 - Báo cáo chất lượng tăng trưởng kinh tế - Nguyễn Thị 
Tuệ Anh, Lê Xuân Bá 
Từ bảng có thể thấy, đầu tư của Nhà nước không những chiếm tỉ trọng cao mà còn 
tăng tương đối so với các thành phần kinh tế khác. Trái với xu hướng đầu tư, đóng góp 
45 
 45 
vào GDP của khu vực này lại giảm đi. Năm 1995, 1% đóng góp của khu vực Nhà nước 
vào GDP tương ứng với 1,04% đóng góp của đầu tư thì năm 2000 tương ứng với 1,49% 
và năm 2003 cần 1,48%. Nhìn chung, 1% GDP do khu vực Nhà nước tạo ra ngày càng 
cần mức đầu tư cao hơn. Khu vực tư nhân có tỷ trọng đầu tư thấp nhất nhưng lại đóng 
góp nhiều nhất vào giá trị gia tăng, trái ngược hẳn với khu vực Nhà nước. 
Rõ ràng, Chính phủ nên nhìn nhận lại việc hoạch định phạm vi của khu vực Nhà 
nước, bởi nếu có quá nhiều DNNN thành viên nhỏ lẻ, manh mún, làm ăn không hiệu quả 
như hiện nay thì SCIC sẽ khó lòng thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý của mình. Phạm vi ở 
đây không chỉ có nghĩa số lượng các doanh nghiệp, đó còn là qui mô vốn mà Nhà nước 
nắm giữ trong từng doanh nghiệp: doanh nghiệp nào nên giữ 100% vốn, doanh nghiệp 
nào 50%, doanh nghiệp nào thì cho cổ phần hoá hoàn toàn...Nhà nước chỉ nên duy trì 
những doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả để SCIC kiến tạo được bộ máy quản lí gọn nhẹ 
và vận hành tốt. 
2.4. Tổ chức đƣợc bộ máy quản lý hiệu quả 
2.4.1. Nhà quản lý phải có năng lực thực sự và phù hợp với vị trí đảm nhiệm 
Temasek có một bộ khung kỷ luật toàn diện liên quan đến lãnh đạo tốt và kỷ luật 
tài chính. Một Uỷ ban Đầu tư sẽ tỉ mỉ lượng giá mọi đề xuất đầu tư. Nếu ai đó có khả 
năng xung đột lợi ích hay chưa đủ năng lực phù hợp với từng thương vụ kinh doanh sẽ bị 
đưa ra khỏi các thảo luận và quyết định. Temasek cũng không ngừng xem xét hoạt động 
tài chính của chính mình qua những đánh giá của các cơ quan lượng giá quốc tế và kiểm 
toán độc lập quốc tế...Kinh nghiệm của Singapore cho thấy, loại doanh nghiệp đặc biệt 
này phải được vận hành bởi những người có đầu óc kinh doanh tốt, được đào tạo có bài 
bản và nhìn thấy được cơ hội đầu tư ở trong và ngoài nước. Theo nhận định của chúng 
tôi, SCIC, cũng như các DNNN khác, nếu muốn đẩy nhanh quá trình cải cách và hướng 
tới những tiêu chuẩn toàn cầu như trong mục tiêu đã đề ra, thì cần phải thông qua đội 
ngũ quản lý quốc tế lớn hơn bao gồm những người điều hành có kĩ năng kinh nghiệm và 
độc lập trong việc đưa ra quyết định. 
Để SCIC có thể thành công được như Temasek thì ngay từ đầu chúng ta phải tổ 
46 
 46 
chức được một bộ máy quản lý hiệu quả và thủ lĩnh phải là người có năng lực thực sự. 
Nếu không đảm bảo được điều này thì vô hình chung Tổng công ty lại trở thành một cấp 
quản lý nữa của DNNN. 
2.4.2. Quyền ra quyết định độc lập đối với hoạt động của Tổng công ty 
Temasek và SCIC có điểm tương đồng trên mô hình nhưng trong quá trình hoạt 
động lại có một số điểm khác. Sự khác nhau chính yếu nằm ở chỗ Temasek độc lập với 
Chính phủ trong các quyết định đầu tư. SCIC thì không hẳn như thế. Thông tin chính 
thức trên trang nhà của Temasek viết rằng, trong khuôn khổ luật pháp qui định, công ty 
hoạt động hoàn toàn dựa trên nguyên tắc thương mại và linh hoạt dưới sự chỉ đạo duy 
nhất của Hội đồng quản trị. Trên thực tế, thành viên Hội đồng quản trị cũng như Tổng 
Giám đốc Temasek phải được sự chuẩn thuận của Tổng thống Singapore, nhưng các 
quyết định đầu tư, làm ăn, giao dịch là trách nhiệm của Hội đồng quản trị và Ban điều 
hành. Không một ai, kể cả Tổng thống hay Chính phủ Singapore được quyền tham dự 
vào việc chỉ đạo, dẫn hướng các quyết định làm ăn của Temasek. Ho Ching, giám đốc 
hiện tại của Temasek, đã điều hành Temasek rất chặt chẽ và độc lập. Bà cho biết việc 
công ty thuộc quyền sở hữu của Chính phủ không có nghĩa họ phải đáp ứng các yêu cầu 
của Chính phủ, mà sẽ hoạt động như một doanh nghiệp, với các ban điều hành độc lập. 
Còn SCIC thì hoạt động ra sao? Trên website chính thức của Tổng công ty cho thấy 
cơ cấu Ban lãnh đạo bao gồm: Ông Vũ Văn Ninh - Bộ trưởng Bộ tài chính, là chủ tịch 
Hội đồng Quản trị; ông Cao Viết Sinh - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng ông 
Đỗ Hữu Hào - Thứ trưởng Bộ Công thương, là uỷ viên Hội đồng Quản trị. Những thông 
tin trên cho phép đặt ra câu hỏi liệu có hay không sự can thiệp vươn dài cánh tay Nhà 
nước, hay thậm chí là việc “đá lấn sân” sang những lĩnh vực ngoài phạm vi qui định? 
Cũng theo thông tin chính thức trên trang nhà công ty có đoạn viết, rằng trong “trường 
hợp thực hiện các nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao, nếu không có hiệu quả thì 
được thực hiện các chính sách ưu đãi thích hợp và Nhà nước hỗ trợ về tài chính”. Sự độc 
lập với chính quyền trong các quyết định kinh doanh có thể được xem là yếu tố cực kỳ 
quan trọng để đánh giá sự tồn tại và hiệu quả của một công ty. SCIC, theo chức năng 
được qui định, vừa là công ty đầu tư làm ăn, vừa là công cụ của Nhà nước trong các 
47 
 47 
chính sách kinh tế, để ngỏ khả năng lệ thuộc chính trị của Tổng công ty. SCIC là một 
DNNN nên mọi sự can thiệp đều có thể dẫn đến nghi ngại là sự can thiệp của Nhà nước - 
điều mà các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài băn khoăn vì không phù hợp 
với cơ chế thị trường. Chính những mâu thuẫn trong trách nhiệm của công ty sẽ đặt ra 
nhiều câu hỏi về hiệu quả, nhất là trong các hoạt động mang tính công cụ của Chính phủ. 
Điều gì sẽ xảy ra nếu đầu tư của SCIC bị lỗ và được ngân sách bù lỗ? Trong trường hợp 
đó, có hay không có sự tách biệt rạch ròi với hoạt động đầu tư thực sự của SCIC? Bởi 
phía sau câu hỏi này, có thể có những khoản lỗ “ngoài vùng phủ sóng” rất nhạy cảm. 
2.4.3. Không nên dùng quá nhiều lãnh đạo cấp cao xuất thân từ các bộ ngành của 
Nhà nước để tránh tình trạng tham nhũng và sức ỳ quá lớn 
Sự thành công của Temasek Singapore, một quốc gia có chế độ chính trị không 
khác mấy so với Việt Nam, là một mô thức đáng để học hỏi. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý 
rằng Singapore là một trong những nước có tỉ lệ tham nhũng thấp nhất trên thế giới, so 
sánh với Việt Nam đang xếp ngang hàng với Belarus và Zimbabwe trong 1/3 phần cuối 
bảng xếp hạng tham nhũng của 159 quốc gia, (theo tường trình của tổ chức Transparence 
International) làm dấy lên mối lo ngại liệu nguồn vốn Nhà nước, dưới điều kiện còn 
nhiều kẽ hở trong quản lí như hiện nay, có bị lạm dụng cho những mục đích sai trái? 
Như phần 2 Chương II đã chứng minh, việc sử dụng những người không có kiến thức 
chuyên môn trong việc điều hành một tổ chức tài chính lớn và đòi hỏi nhiều kĩ năng như 
SCIC đã chứng tỏ sự không hiệu quả. Thực tế cũng cho thấy, việc các công chức Nhà 
nước có tiếng nói lấn át hay tác động quá sâu vào các tổ chức kinh tế sẽ dễ dàng dẫn đến 
tham nhũng hay tình trạng sức ỳ quá lớn. Ở đây thiết nghĩ cũng nên nói tới vấn đề quan 
niệm. Một trong những ảo tưởng tai hại mà nhiều nước thuộc thế giới thứ ba đang nuôi 
dưỡng là quan niệm cho rằng các nhà chính trị và các quan chức có thể đảm nhận thành 
công các vai trò kinh doanh. Cho dù có phải đứng trước thực tế ngược lại hoàn toàn thì 
càng lạ lùng là người ta vẫn cứ tin vào ảo tưởng đó. Thương trường không có chỗ cho 
“mệnh lệnh cách” vốn tự thân đã là duy ý chí. Khi mang những phẩm chất của thương 
gia chứ không phải “máu quan chức”, người ta sẽ không có xu hướng ra luật lệ hay 
khuôn khổ theo ý mình, mà là tôn trọng luật chơi. Một khi sự can thiệp của các quan 
48 
 48 
chức Chính phủ trong việc ra quyết định giảm đi, năng suất của các DNNN sẽ tăng lên, 
chúng tôi tin rằng điều này cũng đúng với SCIC. Cần gắn chế độ, quyền lợi và trách 
nhiệm của người đứng đầu bộ máy với kết quả kinh doanh là điều hiển nhiên đúng đối 
với bất cứ doanh nghiệp nào, nhất là với một DNNN đặc biệt như SCIC. Tương tự, khi 
hệ thống quản trị công ty trở nên minh bạch hơn, trách nhiệm pháp lí trong việc bảo tồn 
và làm gia tăng giá trị các tài sản Nhà nước sẽ dễ dàng hơn và tất nhiên hợp pháp hơn rất 
nhiều. 
49 
 49 
KẾT LUẬN 
 Cho tới nay, mô hình DNNN hiệu quả vẫn còn là một bài toán chưa có lời giải đối 
với các nhà kinh tế và các nhà phân tích. Những câu hỏi vẫn được tiếp tục đặt ra và các 
mối quan ngại xung quanh mô hình này vẫn chưa được giải toả thoả đáng. Trong cách 
doanh nghiệp vốn đầu tư Nhà nước nổi lên trên toàn thế giới cho đến thời điểm hiện nay 
duy nhất chỉ có Temasek Holdings là một thành công đáng học hỏi. SCIC của Việt Nam 
là một trong những công ty đi theo mô hình của Temasek Holdings nhưng cho đến thời 
điểm hiện nay nó dường như đã trở thành một thất bại đáng phê phán và nghiêm túc nhìn 
nhận từ phía bản thân SCIC và các nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Trong nội dung 
của bài nghiên cứu ở trên, chúng tôi đã thực hiện phân tích về thành công và một số 
nhược điểm nhỏ của mô hình Temasek Holdings, từ đó đưa ra những kiến nghị cho 
SCIC Việt Nam. 
 Nếu nhìn sâu vào ngõ ngách các vấn đề của SCIC những câu hỏi tiếp tục vẫn 
được đặt ra đó là: Liệu SCIC có phải là một sự cải tổ lại tất cả các DNNN của Việt Nam 
như kỳ vọng hay vẫn chỉ là “bình mới rượu cũ” của một tập hợp rời rạc các DNNN hoạt 
động không hiệu quả? SCIC có thưc sự là một việc làm cần thiết đối với một nền kinh tế 
đang phát triển, cần phải phát triển từ sự nỗ lực của tất cả mọi người dân bằng chứ và 
quyết tâm cao của Chính phủ chứ không phải bằng những cải tổ chỉ mang tính hình 
thức? Chúng tôi xin trích dẫn những ý kiến của các nhà kinh tế của trường Đại học 
Havard trong nghiên cứu “Lựa chọn thành công” như một tham khảo cho hướng đi của 
các tổng công ty của Việt Nam: “Giải tán các tổng công ty và thận trọng với các tập 
đoàn... Những cải cách thực sự chỉ có thể xảy ra khi những doanh nghiệp này được dẫn 
dắt bởi các doanh nhân thực thụ, hoạt động dưới áp lực của cạnh tranh, khi mua bán - 
sáp nhập công ty được thực hiện trên cơ sở thương mại, và khi tồn tại cơ chế đào thải 
một cách dứt khoát các doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh... Sở dĩ phân tích 
này đề xuất một chính sách mạnh mẽ và dứt khoát như vậy là do việc chuyển TCT thành 
tập đoàn cũng không phải là giải pháp đúng đắn vì những vấn đề kể trên của mô hình 
TCT vẫn được chuyển giao gần như nguyên vẹn sang mô hình tập đoàn.” Chúng tôi thiết 
50 
 50 
nghĩ Chính phủ Việt Nam nên nhìn nhận lại nghiêm túc vấn đề SCIC cũng như vấn đề 
chuyển giao từ các tổng công ty sang tập đoàn một cách ồ ạt và bừa bãi như hiện nay. 
Và xin hãy nhớ rằng khi sự cải tổ thất bại nó sẽ kéo giật lùi sự phát triển của cả đất nước. 
 Việc hoạch định chính sách và thực hiện những quyết định vĩ mô luôn là một vấn 
đề rất khó bởi sự ảnh hưởng tới cuộc sống và vận mệnh của một quốc gia. Nó sẽ quyết 
định xem chúng ta sẽ giàu có hay nghèo khổ, tiến bộ hay giật lùi, được kính trọng, học 
hỏi hay bị chê trách. Vậy nên, Chính phủ khi nên đưa ra những quyết định xuất phát từ 
chính yêu cầu thực tế từ cuộc sống và lợi ích của người dân. Với tư cách của người dân 
chúng tôi mong bài nghiên cứu của mình sẽ có thể là những tham khảo nhỏ cho các nhà 
hoạch định chính sách. Và đó cũng là mong muốn được góp tiếng nói của thế hệ trẻ vào 
những vấn đề lớn của cả dân tộc. Tuy nhiên trong giới hạn về khả năng nhận thức của 
bản thân về vấn đề này và giới hạn của bài nghiên cứu, chúng tôi không tránh được 
những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy kính mong sự chỉ bảo tận tình của hội đồng giám 
khảo cũng như sự góp ý tận tình của các chuyên gia trong lĩnh vực này. 
  1 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Website các cơ quan ban ngành: 
1. Website chính thức của SCIC: www.scic.vn 
2. Website chính thức của Temasek Holdings: www.temasekholdings.com.sg 
3. Website Bộ Tài chính: www.mof.gov.vn 
4. Website của UBQG về hợp tác kinh tế quốc tế: www.nciec.gov.vn 
5. Website Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn 
Luật và Văn bản pháp quy: 
1. Quyết định ban hành qui chế người đại diện của SCIC 
2. Quyết định 151 - Thành lập Tổng công ty SCIC 
3. Quyết định 152 - Phê duyệt điều lệ của SCIC 
4. Nghị định 199 về quản lý tài chính đối với DNNN 
5. Luật Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam 
Báo điện tử: 
1. Thời báo kinh tế Việt Nam: www.vneconomy.com.vn 
2. Báo điện tử: www.vietnamnet.vn 
3. Báo điện tử: www.vnexpress.net 
4. Báo điện tử : www.saigontimes.com.vn 
5. Báo Thanh niên: www2.thanhnien.com.vn/Kinhte.tno 
Sách và tạp chí: 
1. Sách: Kinh tế Vĩ mô I - Trường Đại học Kinh tế quốc dân – NXB Lao động 
2. Sách: Kinh tế Vĩ mô II - Trường Đại học Kinh tế quốc dân - NXB Lao động 
3. Sách: Sở hữu Nhà nước và Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định 
hướng XHCN, PGS.TS Nguyễn Cúc & Kim Văn Chính, NXB Lý luận chính trị 
4. Tạp chí: Thời báo kinh tế Sài Gòn 
Công trình nghiên cứu: 
1.Công trình nghiên cứu: Sự lựa chọn thành công - Đại học Havard 
  2 
2. Công trình nghiên cứu: Bước tiếp theo cho các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc là 
gì? ,Leilaz Fenandez – Stembrigh và Jean – Fancois Huchet, T/c Far Easten Economic 
Review, tháng 6 năm 2006 
Bách khoa toàn thƣ mở 
Wikipedia 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Mô hình Temasek Holdings của Singapore trong thực tiễn xây dựng Tổng công ty SCIC Việt Nam.pdf Mô hình Temasek Holdings của Singapore trong thực tiễn xây dựng Tổng công ty SCIC Việt Nam.pdf