Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Toà Hành chính

Mục lục Phần 1: lời nói đầu Phần 2: nội dung: . Chương I. Giới thiệu chung về Tòa Hành chính - TANDHN . 1. Quá trình hình thành và phát triển của Tòa Hành chính . 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa Hành chính. a.Chức năng, nhiệm vụ b.Quyền hạn + thẩm quyền chung + thẩm quyền cụ thể . 3. Kết quả hoạt động của Tòa Hành chính (Tòa Hà Nội) . a. Tích cực . b. Hạn chế c. Nguyên nhân . Chương II: Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Tòa Hành chính. 1. Mô hình tổ chức của Tòa Hành chính a. Cơ cấu tổ chức bộ máy b. Cơ cấu nhân sự . 2. Phương thức hoạt động của Tòa Hành chính a. Điều kiện khởi kiện . b. Đối tượng xét xử của Tòa Hành chính c. Công tác xác minh, thu thập chứng cứ d. Hoạt động xét xử của Tòa Hành chính . 3. Thuận lợi - khó khăn. 4. Nhận xét đánh giá Chương III: Phương hướng hoàn thiện, một số kiến nghị và giải pháp. 1. Phương hướng đổi mới 2. Kiến nghị . a. Về thẩm quyền và đối tượng xét . b. Về quyền hạn của tòa án trong quá trình xét xử vụ án c. Về trình tự thủ tục tố tụng d. Về tổ chức cơ quan xét xử Hành chính . e. Về thẩm phán hành chính . 3. Giải pháp Phần 3: kết luận Phần 4: lời cảm ơn và danh mục tài liệu tham khảo thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới sô ***********

doc44 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4313 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Toà Hành chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o Viện tài phán HC đưa ra được các phán quyết nhanh chóng, kịp thời, đồng thời sẽ bảo đảm hoạt động tài phán không cản trở các hoạt động quản lý. Đặt cơ quan tài phán hành chính trong quyền hành pháp thuộc Thủ tướng sẽ tạo ra cơ chế kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ hoạt động của cơ quan quản lý, bảo đảm tính pháp chế trong mọi hành vi của cơ quan này. Thực hiện phương án này sẽ tạo ra bước phát triển cao hơn trong công tác giải quyết khiếu nại HC mà từ trước đến nay vẫn do các cơ quan HC và cơ quan thanh tra tiến hành. Hiệu lực thi hành bản án HC được bảo đảm bởi quyền lực của thủ tướng chính phủ. Ngày 28/12/1994, UBTV Quốc hội họp đã xem xét và cho ý kiến bước đầu về dự án luật tổ chức Viện tài phán HC. Trên tinh thần đó, thường trực Chính phủ đã họp và thảo luận những ý kiến bước đầu của UBTV quốc hội, cân nhắc những ưu điểm và nhược điểm, những khó khăn và thuận lợi của từng phương án, và thấy rằng phương án tổ chức Tòa án HC thành một hệ thống thuộc Thủ tướng là thích hợp hơn cả. Vì vậy, Chính phủ tiếp tục đề nghị UBTV Quốc hội xem xét phương án tổ chức cơ quan tài phán HC thành hệ thống độc lập thuộc Thủ tướng như tờ trình số 7120/CP ngày 20/12/1994 của Chính phủ trình UBTV Quốc hội. Tuy nhiên, theo phương án này cần chỉnh lý một số điểm sau: tên gọi cơ quan tài phán hành chính là Tòa Hành chính, không gọi là Viện tài phán Hành Chính…" UBTV Quốc hội đã xem xét dự luật tại 2 phiên họp ngày 15 và ngày 25/3/1995. Trên thực tế, cuộc tranh luận chủ yếu tập trung vào vấn đề mô hình tổ chức Tòa án hành chính như thế nào? Do Tòa án Hành chính là vấn đề rất mới mẻ đối với chúng ta và quá trình thảo luận có nhiều ý kiến khác nhau nên UBTV Quốc hội đã đề nghị Chính phủ nghiên cứu, chỉnh lý và trình Quốc hội các phương án khác nhau về tổ chức Tòa án Hành chính để Quốc hội xem xét, quyết định. Ngày 30/3/1995 Chính phủ đã có tờ trình số 1650/CP trình Quốc hội về Dự án Luật tổ chức Tòa án Hành chính kèm theo dự thảo các văn bản pháp luật tương ứng với từng phương án, bao gồm: - Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức Tòa án Nhân dân (phương án Tòa án Hành chính thành các phân tòa trong TAND). - Dự thảo Luật Tổ chứcTòa Hành chính (tổ chức Tòa án Hành chính thành hệ thống độc lập với hệ thống TAND hiện nay). - Dự thảo Pháp lệnh tổ chức Tòa án Hành chính (Tổ chức Tòa án Hành chính thành hệ thống như Tòa án Dân sự). Đồng thời với các phương án tổ chức Tòa án Hành chính là Dự thảo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Hành chính. Tại kỳ họp thứ VII Quốc hội khóa IX, Quốc hội đã dành nhiều thời gian để thảo luận về dự án luật và các ý kiến vẫn chủ yếu xoay quanh việc phân tích các ưu nhược điểm, nhưng thuận lợi và khó khăn, tính hợp lý và bất hợp lý của từng mô hình tổ chức Tòa án Hành chính ở Việt Nam. Cuối cùng, Quốc hội đã quyết định chọn phương án tổ chức Tòa án Hành chính thành các phân tòa trong hệ thống Tòa án Nhân dân và giao TAND Tối cao phối hợp với các cơ quan hữu quan của Chính phủ soạn thảo dự thảo "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức Tòa án Nhân dân" cho sự thiết lập tòa Hành chính. Ngày 28/9/1995, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ IX đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức TAND, trong đó quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử các vụ án Hành chính. Về mặt tổ chức, tại Tòa án Nhân dân tối cao và Tòa án Nhân dân cấp tỉnh có tòa Hành chính, còn tại Tòa án Nhân dân cấp huyện có các thẩm phán xét xử hành chính. Ngày 21/5/1996, "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính" được ban hành (sau đó được sửa đổi, bổ sung ngày 25/12/1998). Sự ra đời của cơ quan xét xử hành chính đánh dấu một bước phát triển mới trong thiết chế bảo đảm dân chủ của người dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, tránh được sự xâm phạm từ phía các cơ quan Nhà nước. Có thể thấy rằng, quá trình nghiên cứu và hình thành cơ chế tài phán hành chính ở nước ta thể hiện xu hướng tất yếu của việc dân chủ hóa đời sống xã hội và dân chủ hóa ngay trong bản thân hoạt động của bộ máy Nhà nước. Khi nghiên cứu quá trình này cũng có rất nhiều nét tương đồng với sự hình thành cơ chế tài phán Hành chính ở một số nước trên thế giới, đặc biệt là khi tìm hiểu lịch sử hơn 200 năm hình thành và phát triển của Hội đồng Nhà nước Pháp, cơ quan tài phán Hành chính tối cao và hệ thống Tòa án Hành chính của Pháp cũng như quá trình tranh luận kéo dài mấy chục năm qua ở Thái Lan về sự cần thiết và phương án tổ chức cơ quan tài phán Hành chính ở nước này. Chính vì vậy, khi đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án Hành chính ở nước ta hiện nay, một mặt chúng ta cần tìm ra những mặt hạn chế của nó để khắc phục nhưng mặt khác chúng ta cũng cần phải coi đó là quá trình phát triển tất yếu từ không đến có, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của cơ chế này. Tháng 12/1998 Quốc hội đã thông qua "Luật khiếu nại, tố cáo" thay thế cho "Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân" năm 1991. Như vậy, cơ chế giải quyết khiếu kiện Hành chính được thực hiện theo qui định của các văn bản này cho đến nay đã có những kết quả nhất định, đồng thời cũng bộc lộ những vấn đề khó khăn bất cập và đã được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại tố cáo năm 2003 khắc phục. 2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa hành chính: a. Chức năng, nhiệm vụ: Tại điều 1- Luật tổ chức tòa án nhân dân đã khẳng định: "TAND Tối cao, các Tòa án Nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những viện khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác". Tòa Hành chính là cơ quan xét xử, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quá trình hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là của các cơ quan Hành chính Nhà nước. Nói cách khác, Tòa Hành chính là cơ quan xét xử có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện của công dân đối với quyết định hay hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước hoặc công chức Nhà nước khi họ cho là trái pháp luật, xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của họ. Như vậy, ta thấy một điểm đặc biệt của Tòa Hành chính là cơ quan xét xử mà đối tượng của nó là các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cán bộ, cơ quan Nhà nước, đặc biệt là cán bộ và cơ quan hành chính Nhà nước. Nếu như các tòa án khác (Tòa dân sự, kinh tế, lao động…)có trách nhiệm giải quyết tranh chấp giữa các pháp nhân với nhau hoặc giữa pháp nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhau… thì ngược lại, Tòa Hành chính có thẩm quyền xét xử các tranh chấp giữa công dân và cán bộ, cơ quan Nhà nước. Nói tóm lại, chức năng của tòa Hành chính là xét xử về hành chính, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước giữa công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan hành chính Nhà nước và các cơ quan khác khi thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của nhân viên Nhà nước trong bộ máy đó. Trong khi xét xử, Tòa Hành chính có các quyền và nghĩa vụ: kiểm tra tính hợp pháp các quyết định hành chính, các hành vi hành chính bị khiếu kiện xét xử các vụ kiện hành chính. b. Quyền hạn: 1. Thẩm quyền chung: Pháp luật giao cho Tòa án thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành chính đối với quyết định và hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và cán bộ viên chức nhà nước. Tuy nhiên chúng ta biết rằng, hoạt động quản lý diễn ra hàng ngày, hàng giờ rất đa dạng và phong phú, vi phạm trong quản lý hành chính cũng có rất nhiều cấp độ khác nhau. Nếu cho phép mọi tranh chấp hành chính đều có thể kiện trước Tòa án thì sẽ có một khối lượng rất lớn các vụ việc, Tòa án không thể giải quyết được. Vì vậy, pháp luật lựa chọn những loại việc thường xảy ra nhiều vi phạm, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân để xác định là đối tượng xét xử của tòa án hành chính. Theo quy định của Điều 11- "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính". Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án Hành chính sau đây: *. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Hiện nay hầu hết các lĩnh vực quản lý Nhà nước đều có quy định về xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể như các lĩnh vực: giao thông, văn hóa, thương mại, hải quan, thuế, quốc phòng, bảo vệ môi trường, lâm nghiệp, đất đai, khoáng sản, xây dựng, bưu chính viễn thông, lao động, thủy sản, y tế, an ninh trật tự…). *. Khiếu kiện quy định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác; *. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính. *. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống; *. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Quản lý đất đai gồm các nội dung sau đây( theo luật đất đai hiện hành): + điều tra, khảo sát, đo dạc,đánh giá ,phân hạng đất và lập bản đồ địa chính + Quy hoạch và kế hoạch hóa việc sử dụng đất; + Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó. + Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất. + Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. + Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý sử dụng đất. + Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai. *. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản sản xuất, kinh doanh. *. Khiếu kiện Quyết định HC, Hành chính HC trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản. *. Khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC trong việc thu thuế, truy thu thuế. Theo quy định của Pháp luật hiện nay có các loại thuế sau: + Thuế thu nhập + Thuế xuất nhập khẩu + Thuế sử dụng đất nông nghiệp + Thuế tiêu thụ đặc biệt + Thuế chính quyền sử dụng đất + Thuế nhà đất + Thuế tài nguyên + Thuế môn bài + Thuế thu nhập doanh nghiệp + Thuế giá trị gia tăng *. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thu phí, lệ phí. *. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, Pháp lệnh đã liệt kê ra 9 loại việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, điều đó tạo điều kiện cho công dân có thể xác định những việc nào mình có thể khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết. Ngoài ra để có thể đáp ứng kịp thời được tình hình khi xét thấy có một số loại việc cần thiết phải cho phép khởi kiện ra tòa án, khoản 10 Điều 11 pháp lệnh quy định: Tòa án có toàn quyền xét xử "các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật" . Điều đó tạo ra một "quy định mở" cho việc bổ sung sau này các việc khác thuộc đối tượng xét xử của Tòa hành chính. 2.Thẩm quyền cụ thể: Tại Khoản 2 Điều 30-Pháp lệnh đã qui định: "Tòa hình sự, Tòa dân sự và Tòa án hành chính, Tòa án nhân dân, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: *. Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng. *. Phúc thẩm những vụ án mà bản án quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng". Cụ thể, Tòa án hành chính thuộc Tòa án Nhân dân Hà Nội là một phân tòa thuộc Tòa án Nhân dân cấp tỉnh. Do đó, Tòa hành chính Hà Nội có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện hành chính qui định tại khoản 2 Điều 12- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. "Tòa án Nhân dân tỉnh, thành phố, trực thuộc Trung ương (gọi chung là tòa án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây: *. Những khiếu kiện Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm soát nhân dân tối cao và Quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ. *. Những khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan chức năng thuộc một trong cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 điều này và Quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức của của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ. *. Những khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan Nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước đó. *. Những khiếu kiện Quyết định kỷ luật buộc thôi việc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm 6 khoản 2 điều này. *. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện đối với khiếu kiện Quyết định HC, Hành chính HC của UBND, Chủ tịch UB ND cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng phức tạp hoặc trong trường hợp các thẩm phán của tòa án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi". Tòa án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Qua tìm hiểu thực tế tại Tòa án Hành chính TAND Hà Nội (với phương pháp hỏi ý kiến trực tiếp cán bộ trong Tòa hành chính). Tôi tìm hiểu được rõ hơn về quyền hạn thẩm quyền của Tòa hành chính với nội dung: Việc phân định thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành chính giữa các cấp tòa án căn cứ vào đối tượng bị kiện. Thông thường Tòa án Nhân dân cấp có quyền xét xử đối tượng bị kiện là cấp đó trở xuống. Cấp nào có quyền xét xử đối tượng bị kiện là cấp đó trở xuống. Tuy nhiên pháp luật quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan cấp bộ, cơ quan thuộc Chính phủ vì những lý do sau đây: 1. Các bộ và cơ quan thuộc Chính phủ là những cơ quan quản lý Nhà nước ở cấp Trung ương chịu trách nhiệm quản lý ngành và một lĩnh vực nào đó trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy, các cơ quan này có thể có các Quyết định HC hoặc Hành vi HC tác động đến quyền và lợi ích của công dân, cơ quan, tổ chức ở bất cứ địa phương nào. Nếu quy định bắt buộc mọi khiếu kiện đối với Quyết định HC, Hành vi HC của các cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương đều phải khởi kiện tại Tòa án cấp Trung ương (Tòa án Nhân dân tối cao) thì trong nhiều trường hợp, các đương sự sẽ gặp khó khăn khi tiến hành khởi kiện nhất là các đương sự ở vùng sâu vùng xa. Vì vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho người khởi kiện, pháp luật quy định việc khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan quản lý cấp Trung ương được tiến hành tại ngay Tòa án Nhân dân cấp tỉnh, nơi mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc trên trụ sở. 2. Nếu quyết định mọi khởi kiện đều phải khởi kiện tại Tòa án cấp Trung ương thì sẽ dẫn đến tình trạng TAND Tối cao sẽ phải giải quyết rất nhiều vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Đây là điều mà chúng ta đang cố gắng hạn chế trong quá trình cải cách tư pháp và xu hướng trên thế giới cũng đang loại trừ dần thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm kháng cáo của các tương sự qua 2 cấp xét xử. (ý kiến của phó chánh tòa hành chính-TAND Hà nội:Bà. Nguyễn Túy Hoa…) 3. Thành tựu của Toà hành chính (Tòa HC-tAND Hà nội) a. Tích cực Kể từ khi Nhà nước quyết định thiết lập cơ chế tài phán hành chính đến nay đã gần 10 năm. Đây thực sự là nét mới trong đời sống pháp luật của xã hội nước ta, mang đậm tính chất dân chủ và pháp quyền. Nó vừa tạo điều kiện để công dân có thêm cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình vừa tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền Nhà nước, trước hết là các cơ quan hành chính Nhà nước, những cơ quan có quan hệ trực tiếp và hàng ngày đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Qua gần 10 năm hoạt động,xét xử HC đã bước đầu phát huy tác dụng trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân và góp phần vào việc kiểm tra tính hợp pháp của các Quyết định HC và Hành vi HC của cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu đi vào hoạt động, Tòa án nhân dân các cấp trong đó có Tòa án Nhân dân Hà Nội với phân tòa hành chính, đã thụ lý và giải quyết được một số vụ việc, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan , tổ chức. Tòa án đã tạo điều kiện để các bên thoả thuận và cơ quan HCcó quyết định bị khiếu kiện tự kiểm tra, thu hồi hoặc sửa đổi Quyết định HC của mình cho phù hợp và chấm dứt khiếu kiện trước khi tòa án mở phiên tòa xét xử. Ví dụ: 1. Bản án số 05/HCST (27.8.2004) Thụ lý số: 05/HCST (22.6.2004) Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Minh (Thẩm phán) Hội thẩm nhân dân: Bà Đỗ Thị Minh Chi Ông Vũ Mạnh Đam Đại diện VKSNDTP Hà nội: Ông Trần Hưng Bình (Kiểm sát viên) Thư ký phiên tòa: Bà. Trần Thị Minh Thu (cán bộ Tòa án). Người khởi kiện: Công ty TNHH Nippon Paint Việt Nam Trụ sở: Lô 33 khu công nghiệp Biên Hòa II - Đồng Nai. Người bị kiện: Cục Sở hữu trí tuệ Trụ sở: 384, 386 đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. 2. Bản án số: 08/HCST (23, 24/12/04). Thụ lý số: 08/HCST (5/10/2004)… (Xem bảng thống kê số liệu…). b. Hạn chế: Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được, việc xét xử hành chính còn gặp nhiều khó khăn, chưa thực sự phát huy được vai trò của mình. Theo kết quả khảo sát của các cơ quan có trách nhiệm thì kể từ khi đi vào hoạt động cho đến cuối năm 1998 TAND các cấp đã nhận được không dưới 2.000 đơn kiện hành chính nhưng hầu hết là không đủ điều kiện để thụ lý theo quy định của pháp luật. Từ ngày 01/07/96 đến hết 1997 mới thụ lý 150 vụ và đưa ra xét xử 97 vụ. Năm 1997 chỉ có 24/61 Tòa án cấp tỉnh và 16 Tòa án huyện có xét xử vụ hành chính. Năm 1998 theo thống kê sơ bộ, TAND các cấp mới xử hơn 200 vụ án hành chính. Năm 1999 tòa án giải quyết được 319 vụ trong số 408 vụ án hành chính đã thụ lý. Năm 2000, Tòa án giải quyết được 419 vụ trong tổng số 503 vụ đã thụ lý. Năm 2001 giải quyết được 513 vụ trong số 688 vụ đã thụ lý. Nhìn chung cho đến nay, tình hình xét xử hành chính vẫn chưa có chuyển biến lớn mặc dù tình hình khiếu kiện hành chính nói chung vẫn diễn ra ngày một phức tạp và gay gắt. Theo thống kê của Tòa án hành chính TAND Hà Nội (xem bảng số liệu sau). c. Nguyên nhân. Như vậy có thể thấy số lượng vụ mà tòa án đưa ra xét xử còn ít so với số vụ việc khiếu nại mà các cơ quan hành chính tiếp nhận và quản lý. Có thể nêu khái quát một số nguyên nhân của tình hình trên như sau: Một là, xét xử hành chính là một công việc hoàn toàn mới mẻ, chúng ta chưa có kinh nghiệm, tổ chức bộ máy còn chưa hoàn thiện. Một số địa phương có khó khăn về cơ sở vật chất, đặc biệt là về nhân sự, nhất là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, gây tâm lý làm việc tạm, thiếu tập trung của một số cán bộ, thẩm phán. Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về tố tụng hành chính nói riêng chưa được chú trọng đúng mức và chưa thực hiện tốt trong cả nước. Nhiều người không biết rõ phạm vi thẩm quyền của TA trong việc xét xử hành chính nên đã khởi kiện những vụ việc không thuộc thẩm quyền của tòa án , có vụ việc để quá thời gian khởi kiện. Bên cạnh đó, có bộ phận không nhỏ nhân dân không biết đến sự ra đời của cơ chế xét xử hành chính nên khi quyền và lợi ích của mình bị vi phạm đã không biết khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết. Ba là, về mặt tâm lý xã hội, hoạt động xét xử hành chính còn là điều khá lạ lẫm với nhiều người. Nhiều trường hợp, vụ việc đã có đủ điều kiện để có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng người dân e ngại va chạm với chính quyền nên đã không khởi kiện mà chọn con đường khiếu nại hành chính. Bên cạnh đó, nhiều cán bộ trong các cơ quan quản lý Nhà nước có tâm lý sợ mất uy tín nếu ra tòa nên đã ủy nhiệm cho cán bộ không đủ thẩm quyền để thay mặt mình tham gia phiên tòa hành chính, gây khó khăn cho tòa án trong quá trình xét xử vụ việc. Việc phải nộp một khoản án phí cho vụ kiện hành chính cũng là một trong những nguyên nhân khiến người dân không muốn khởi kiện mà chọn con đường khiếu nại hành chính (không phải mất chi phí cho việc khiếu nại của mình). Bốn là, đội ngũ thẩm phán chuyên trách có nhiệm vụ xét xử hành chính vừa thiếu về số lượng lại vừa yếu về năng lực chuyên môn. Trong khi đó, yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán hành chính lại khá cao không những phải nắm vững pháp luật mà còn cần có sự hiểu biết khá toàn diện về quản lý hành chính nhà nước trong nhiều lĩnh vực. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho hoạt động xét xử hành chính của các Tòa án kém hiệu quả chưa tạo được sự tin tưởng của nhân dân. Số lượng thẩm phán và cán bộ của tòa án hành chính còn hạn chế. Năm là, hiện nay pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử đối với một số vụ án hành chính nhất định. Vì vậy, có rất nhiều vụ việc người dân bị thiệt thòi về quyền lợi nhưng cũng chỉ có thể khiếu nại tại các cơ quan hành chính nhà nước vì pháp luật không quy định Tòa án có thẩm quyền đối với những vụ việc đó. (Theo ý kiến đóng góp của cán bộ Tòa hành chính Hà Nội). Chương 2 Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Tòa hành chính 1. Mô hình của tòa hành chính. a. Cơ cấu tổ chức: ở nước ta hiện nay Tòa hành chính không được tổ chức thành hệ thống độc lập mà thành các tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân . Điều 1- Luật Tổ chức TAND quy định: "TAND Tối cao, các TAND địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước CHXH CNVN. Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật". Như vậy, việc giải quyết các khiếu kiện hành chính cơ bản thuộc thẩm quyền TAND các cấp. Theo Khoản 2 Điều 18 và Khoản 1 Điều 27 của Luật tổ chức TAND cơ quan xét xử hành chính tổ chức như sau. Khoản 2. Điều 18: Cơ cấu tổ chức của TAND tối cao gồm có *. Hội đồng thẩm pháp tòa án nhân dân tối cao. *. Tòa án quân sự trung ương, tòa hình sự, tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động, tòa hành chính và các tòa phúc thẩm TANDTC, trong trường hợp cần thiết, UB thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND TC. *. Bộ máy giúp việc. Khoản 1 Điều 27: "cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc TW gồm có; *. Uỷ ban thẩm phán. *. Tòa hình sự, tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động, tòa hành chính; trong trường hợp cần thiết UBTV Quốc hội quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao. *. Bộ máy giúp việc. Tóm lại, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan chuyên trách xét xử hành chính ở nước ta gồm có các tòa hành chính thuộc cơ cấu tòa án nhân dân tối cao và tòa án nhân dân cấp tỉnh , ở cấp huyện có thẩm phán chuyên trách xét xử hành chính. Do đó, Toà hành chính của TAND Hà nội là một toà chuyên trách của TAND TP Hà nội. b.cơ cấu nhân sự: Tại khoản 1 điều 30 Pháp lệnh quy định: các tòa chuyên trách của TAND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có chánh tòa, phó chánh tòa, thẩm phán, thư ký tòa án. Theo tìm hiểu tại Tòa hành chính- TAND Hà Nội chúng tôi được biết cơ cấu nhân sự gồm có: Phó chánh tòa: thẩm phán - Nguyễn Thị Túy Hoa. Hai thẩm phán: Ông Lại Vĩnh Trung. Bà Trần Thị Phương Nga Bốn thư ký: Bà Đặng Thu Phương. Ông Nguyễn Hồng Bách. Bà Trần Thị Thu Minh Bà Bùi Thị Thu. Hiện nay, do chánh tòa hành chính ở đây vừa về hưu, nên phó chánh tòa kiêm chánh tòa quản lý tòa hành chính. 2. Phương thức hoạt động của Tòa hành chính. a. Điều kiện khởi kiện: tại khoản 1 điều 2 Pháp lệnh quy định về điều kiện khởi kiện vụ án hành chính như sau: "cá nhân, cơ quan nhà nước, mọi tất cả các cơ quan khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định HC, Hành vi HC trong các trường hợp sau đây: *. Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại các Điều từ 19 đến Điều 25 của Luật khiếu nại tố cáo, nhưng hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 36 của Luật khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. *. Đã khiếu nại với người có thẩm quyền khiếu nại lần đầu theo quy định tại các Điều từ Điều 19 đến Điều 25 của luật khiếu nại. Tố cáo nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết khiếu nại tiếp theo". b. Đối tượng xét xử của Tòa án: Đối tượng xét xử của tòa án là Quyết địnhHC và Hành vi HC. Theo quy định tại khoản 1,2 điều 4 Pháp lệnh thì: " Quyết định HC là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước và của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hành động quản lý hành chính". " Hành vi HC là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, cộng vụ theo quy định của pháp luật. c.xác minh thu thập chứng cứ: Tại điều 38-Pháp lệnh quy định: *. Yêu cầu các đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về những vấn đề cần thiết. *. Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Nếu như trong các loại vụ án khác (hình sự, dân sự, kinh tế…) những yêu cầu nói trên của Tòa án có thể được tiến hành một cách thuận lợi thì trong các vụ án hành chính vấn đề không hoàn toàn đơn giản. Bởi vì, người bị kiện ở đây là cơ quan nhà nước, đại diện cho quyền lực nhà nước thực hiện quản lý hành chính nhà nước. Vụ kiện hành chính có thể bị ách tắc nếu cơ quan hành chính tỏ thái độ "bất hợp tác" với tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, như có thể trì hoãn hoặc thậm chí không đáp ứng những nhu cầu của Tòa án. d. Hoạt động xét xử của Tòa án hành chính: tòa án hành chính thuộc TAND cấp tỉnh (Tòa HC TAND Hà nội) có thẩm quyền xét xử án sơ thẩm và án phúc thẩm. Phiên tòa hành chính sơ thẩm cũng như các phiên tòa khác, đều được tiến hành theo những thủ tục chung và có thể chia thành các giai đoạn: - Bắt đầu phiên tòa: là giai đoạn tiến hành những thủ tục cần thiết nhằm ổn định về tổ chức trong phiên tòa, tạo cơ sở cho việc xét xử được tiến hành thuận lợi, đúng pháp luật. - Xét hỏi tại phiên tòa: là giai đoạn những người do pháp luật quy định nêu câu hỏi về tất cả những vấn đề, tình tiết có liên quan đến vụ án hành chính và người bị hỏi trả lời những câu hỏi đó trong khuôn khổ pháp luật quy định. - Tranh luận tại phiên tòa: là giai đoạn những người do pháp luật quy định đưa ra ý kiến của mình về việc phân tích, xem xét các chứng cứ, với mục đích làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. - Nghị án, là giai đoạn Hội đồng xét xử căn cứ vào mọi tình tiết có liên quan để đưa ra các phán quyết về vụ án. - Tuyên án là giai đoạn cuối cùng của phiên tòa, chủ tọa tuyên bố những phán quyết của Hội đồng xét xử về vụ án trước toàn bộ những người có mặt tại phiên tòa. 3. Thuận lợi, khó khăn. Việc thành lập cơ quan tài chính cũng như thực tiễn hành động, một mặt đã dần khẳng định những nét ưu việt của cơ chế xét xử hành chính nhưng mặt khác, cũng đã bộc lộ nhiều bất cập làm hạn chế hiệu quả hoạt động cũng như ý nghĩa của việc thiết lập cơ quan tài phán hành chính. Hệ thống các văn bản về tố tụng hành chính không chỉ quá ít mà còn có nhiều điểm mâu thuẫn chồng chéo. Trong khi những vướng mắc trong xét xử hành chính thì nhiều nhưng không có sự hướng dẫn kịp thời một cách chính thức mà chủ yếu thông qua các đợt tập huấn, luân huấn, trao đổi nghiệp vụ của ngành Tòa án. Bên cạnh đó, số lượng thẩm phán hành chính còn thiếu và phần lớn lại chưa được đào tạo bồi dưỡng thêm về những kiến thức quản lý, một yêu cầu quan trọng của một người có quyền phán xét các hoạt động quản lý của cơ quan hành chính công. Mặt khác trình tự, thủ tục tố tụng còn đơn giản và sao chép từ quy định của tố tụng dân sự, kinh tế, chưa căn cứ vào những nét đặc thù của xét xử hành chính để tiên liệu những khó khăn và phương cách giải quyết trong những vụ án hành chính, đặc biệt là những khó khăn xuất phát từ phía người bị khởi kiện là cơ quan hành chính nhà nước. Ngoài ra điều kiện khởi kiện còn quy định quá rườm rà và chưa tạo thuận lợi cho công dân có thể kêu kiện khi cho rằng quyền, lợi ích của mình bị xâm hại. Hơn thế nữa, quyền hạn của tòa án trong xét xử hành chính còn chưa rõ ràng. Sự phối hợp giữa Tòa án và cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân chưa được chú trọng nên chưa tạo ra được một cơ chế nhịp nhàng và hiệu quả. 4. Nhận xét đánh giá : Tựu chung lại, cơ chế tài phán hành chính ở nước ta còn nhiều bất cập đòi hỏi phải tiếp tục được hoàn thiện trong thời gian tới. Chính vì vậy, Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị số 35/1998/CT-TTg ngày 9/10/1998 đề nghị Chánh án TAND Tối cao chỉ đạo các Tòa hành chính tổng kết việc giải quyết các vụ án hành chính kể từ khi có pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đến nay, trong đó có sự phối hợp với tổng thanh tra nhà nước trong việc giải quyết các khởi kiện hành chính. Đồng thời, trên cơ sở tổng kết, yêu cầu Bộ tư pháp phối hợp nghiên cứu đề xuất chủ trương, biện pháp mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án. Kiện toàn tổ chức, cán bộ đi đôi với bổ sung pháp luật, thể chế làm cơ sở cho việc xét xử hành chính nhằm từng bước chuyển các khiếu kiện của công dân đối với cơ quan, công chức hành chính sang phương thức tranh tụng, xét xử tại tòa án theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là :"khắc phục tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ trong công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của tòa án hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính". Chương 3 Phương hướng đổi mới, một số kiến nghị và giải pháp 1. Phương hướng đổi mới. Định hướng nâng cao vai trò của tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính mà đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu lên một lần nữa đã khẳng định việc thiết lập cơ chế tài pháp hành chính ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với xu hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền và yêu cầu của quá trình dân chủ hóa, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền lợi của người dân kể từ khi được thiết lập cho đến nay. Cơ chế tài phán hành chính và thực tiễn xét xử hành chính đã cho phép chúng ta rút ra được những kinh nghiệm bước đầu để có sự điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động. Kết quả xét xử hành chính những năm qua còn khiêm tốn và tương đối ít ỏi nhưng có thể coi đó là giai đoạn "thử nghiệm" một phương thức mới trong việc giải quyết khiếu kiện của người dân hiện nay. Chúng tôi đã được về thực tập tại Tòa hành chính, đã có dịp khảo sát thực tiễn xét xử hành chính và rút ra được những nhận xét bước đầu đối với hoạt động này. Những khó khăn, thuận lợi những ưu điểm, nhược điểm bất cập trong các quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Đó là những điều kiện để tiến hành đổi mới cơ bản hoạt động tài phán hành chính và coi đây là phương thức căn bản để giải quyết các khiếu kiện của công dân. Sự đổi mới này liên quan đến nhiều mặt của cơ chế:. Xác định lại thẩm quyền xét xử hành chính, điều chỉnh quy định của pháp luật về tố tụng hành chính cho phù hợp với đặc điểm của việc giải quyết một vụ kiện hành chính ;và kể cả việc đổi mới tổ chức cơ quan tài phán HC,cũng như vấn đề về thẩm phán HC nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Gồm có các phương hướng đổi mới cơ bản như sau: 1. Đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính phải gắn bó chặt chẽ và nằm trong tiến trình chung của cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính phải được tiến hành từng bước cùng với quá trình cải cách hành chính và cải cách bộ máy nhà nước. Mọi sự nôn nóng, muốn nhanh chóng đổi mới triệt để cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính sẽ không mang lại hiệu quả và thậm chí có thể gây ra sự phức tạp thêm cho quá trình này. 2. Đổi mới nhằm hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính cần phải tính đến các yếu tố cấu thành của nó để có sự tác động một cách hợp lý tới từng yếu tố. Điều đó có nghĩa rằng, một mặt chúng ta phải hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại theo cấp hành chính bằng con đường hành chính; đồng thời cần tổng kết thực tiễn xét xử của Tòa án đối với những vụ án hành chính để rút kinh nghiệm và tiếp tục đổi mới phương thức giải quyết này trong sự phối hợp với cơ quan HC nhà nước nhằm giải quyết tốt các khiếu kiện của công dân. 3. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính phải trên nguyên tắc vừa bảo đảm phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho người dân thực hiện được quyền khiếu kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhưng cũng phải đề cao kỷ cương kỷ luật, hạn chế mọi biểu hiện dân chủ cực đoan, gây khó khăn cho các chính quyền nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công vụ… 4. Phân định rõ tính chất của các giai đoạn trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính để có những quy định phù hợp với tính chất của từng giai đoạn. 2. Kiến nghị. a. Về thẩm quyền và đối tượng xét xử của tòa hành chính: - Nhìn chung, quy định thẩm quyền của tòa án xét xử các khiếu kiện hành chính đối với Quyết định Hành chính, Hành vi hành chính như hiện nay là phù hợp. Tuy nhiên cũng cần mở rộng thẩm quyền của tòa án đối với mọi vụ việc khiếu kiện hành chính nói chung. Tức là thay vì liệt kê những vụ việc mà tòa án có thẩm quyền giải quyết quy định tại Điều 11- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính" chỉ cần nêu những nguyên tắc để tòa án nhân dân thụ lý giải quyết những khiếu kiện đối với Quyết định hành chính, Hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước đã được giải quyết tại cơ quan hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật nhưng đương sự không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại đó. - Về đối tượng của xét xử hành chính cần làm rõ hơn khái niệm Quyết định hành chính, Hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước và như vậy phải loại trừ các trường hợp sau: + Những quyết định mang tính quản lý điều hành nội bộ của chính quyền hành chính nhà nước cấp trên đối với cơ quan cấp dưới. + Những quy định nhằm thực hiện quyền quản lý nhà nước của cơ quan này đối với cơ quan khác. + Một số Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước liên quan đến lĩnh vực an ninh, quốc phòng, đối ngoại… - Nên bổ sung tòa án có thẩm quyền xét xử cả những Quyết định hành chính, Hành vi hành chính của các tổ chức mà nhà nước ủy quyền thực hiện một phần chức năng của cơ quan quản lý theo quy định của pháp luật (VD: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Trung ương hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam…). Đây là những vấn đề khá phức tạp và cần nghiên cứu để có những quy định phù hợp khi đã tiến hành sửa đổi quy định của pháp luật tố tụng hành chính. b. Về quyền hạn của tòa án trong quá trình xét xử vụ án hành chính. Vấn đề quyền hạn của tòa án trong quá trình xét xử được xác định trên nguyên tắc bản án, quyết định của tòa án phải được các cá nhân, cơ quan, tổ chức có Quyết định bị kiện để tìm ra giải pháp cho vụ kiện hành chính. c. Trình tự thủ tục tố tụng hành chính phải được xác định sao cho phù hợp với đặc điểm đối tượng xét xử. - Phải tạo ra sự cân bằng giữa các bên trong tố tụng hành chính. Về nguyên tắc, khi tham gia tố tụng thì các bên đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước tòa án và trước pháp luật. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, trong vụ án hành chính một công dân bên kiện, có thể bị "yếu thế" hơn cơ quan hành chính bên bị kiện. Bởi lẽ, cơ quan hành chính có cả bộ máy tham mưu và các phương tiện cần thiết để có thể thu thập và đưa ra những bằng chứng hay căn cứ pháp luật để chứng minh cho tính hợp pháp của Quyết định hay hành vi bị kiện và họ cũng không dễ dàng thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với những yêu cầu của tòa án trong quá trình thẩm tra, xác minh. - Cần có những quy định để các bên trong vụ kiện có thể tiếp cận được với những thông tin, tài liệu cũng như những lập luận của bên kia. Trên cơ sở đó khi ra trước tòa, mọi tranh luận sẽ chỉ tập trung vào những vấn đề pháp luật then chốt nhất của vụ việc. Điều quan trọng là tìm ra giải pháp thích hợp để giải tỏa tranh chấp đó, vừa bảo đảm quyền lợi cho công dân, vừa không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung và sự điều hành, quản lý của cơ quan nhà nước. - Quá trình chuẩn bị phiên tòa (quá trình thẩm tra, xác minh vụ việc) trong vụ án hành chính có những điểm khác biệt so với các vụ án khác trong. Đó là giải quyết khiếu kiện hành chính chủ yếu là xem xét tính hợp pháp của Quyết định bị khiếu nại. Mà những quy định của pháp luật về quản lý nhà nước lại thường xuyên được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu quản lý nên người dân và ngay cả các cơ quan những cán bộ, công chức nhà nước cũng khó có thể nắm bắt, cập nhật và hiểu cặn kẽ những quy định đó. Chính vì vậy mà đòi hỏi người thẩm phán xét xử vụ án hành chính cần hết sức thận trọng khi nghiên cứu để áp dụng những quy định của pháp luật vào giải quyết vụ án hành chính. d. Về tổ chức cơ quan xét xử hành chính. Trong tình hình hiện nay, nên tổ chức tòa án hành chính gần giống như mô hình tòa án quân sự. Tức là tòa án hành chính sẽ được tổ chức thành một hệ thống gồm 2 cấp xét xử. Tòa án hành chính Trung ương và Tòa án Hành chính cấp tỉnh. Tòa án hành chính chịu sự giám đốc của tòa án nhân dân tối cao. Bởi: - Với xu hướng mở rộng thẩm quyền của tòa án xét xử mọi tranh chấp hành chính thì số lượng vụ việc khởi kiện đến tòa án sẽ rất lớn. Vậy nên cần có một hệ thống tòa án riêng chuyên xét xử hành chính mới có thể đáp ứng được yêu cầu thụ lý và xét xử hành chính. - Thực tế cho thấy, xét xử hành chính có những nét đặc thù riêng. Do đối tượng xét xử hành chính là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nên đòi hỏi một trình tự tố tụng riêng với những nguyên tắc đặc thù và cần có một hình thức tổ chức thích hợp với những quyền hạn thích hợp với nó. - Tổ chức tòa án hành chính như vậy bảo đảm sự thống trị nhất trong hệ thống cơ quan xét xử ở nước ta, phù hợp với nguyên tắc tổ chức của bộ máy nhà nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp như quy định của hiến pháp năm 1992 mới được sửa đổi, bổ sung. e. Về thẩm phán hành chính. Vấn đề đội ngũ thẩm phán hành chính những người trực tiếp thực hiện chức năng xét xử hành chính cũng là vấn đề hết sức quan trọng. Nên thẩm phán phải có: - Kiến thức luật pháp như bất kỳ 1 thẩm phán nào khác, đặc biệt là pháp luật về quản lý. - Cần có một sự hiểu biết toàn diện và sâu sắc về sự vận hành của nền hành chính, những đặc điểm và nguyên tắc của hoạt động công vụ trong quá trình xét xử, bảo đảm sự cân bằng giữa việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước. 3. Giải pháp. 1. Hoàn thiện các thể chế pháp luật liên quan đến việc giải quyết khiếu nại của công dân trong đó bao gồm cả hệ thống pháp luật về quản lý hành chính nhà nước khắc phục những mâu thuẫn chồng chéo, trùng lắp giữa các chế định pháp luật, bảo đảm tính thống nhất của Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng pháp luật cũng như trong quản lý điều hành của bộ máy hành chính nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cụ thể là đơn giản hóa thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tạo điều kiện cho công dân dễ dàng trong việc khởi kiện hành chính tại tòa án. 2. Tăng cường hơn nữa việc phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật, quan điểm sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho toàn thể cộng đồng nhất là đội ngũ cán bộ, công chức đang vận hành bộ máy nhà nước. Tăng cường các hình thức trợ giúp pháp lý cho những địa phương những khu vực và những người còn ít hiểu biết hoặc ít có điều kiện tiếp xúc với các thông tin về luật pháp, tạo điều kiện cho mọi người thực hiện đúng quyền khiếu nại và khiếu kiện theo thủ tục mà pháp luật đã quy định. Như vậy, họ có cơ sở để vừa tự bảo vệ một cách hữu hiệu quyền lợi của mình, vừa giúp cơ quan quản lý hành chính nhà nước sớm phát hiện các văn bản hành chính và hành vi hành chính không hợp pháp, tránh được hiện tượng đơn thư vượt cấp, lòng vòng làm giảm lòng tin của nhân dân vào pháp luật và các cơ quan nhà nước. 3. Củng cố một bước tổ chức của tòa án hành chính. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm của thẩm phán, cán bộ, công chức ở tòa án để giải quyết kịp thời, đúng luật pháp đối với mọi khiếu kiện hành chính. 4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hành chính để có những quy định phù hợp với đặc điểm của các tranh chấp hành chính, tạo điều kiện cho tòa án thực hiện được tốt chức năng xét xử hành chính của mình. Tăng cường hơn nữa công tác thi hành án hành chính, có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành các bản án, quyết định của hành tòa án để bảo đảm hiện lực thi hành trên thực tế các bản án quyết định đã tuyên. 5.Bộ Nội vụ chủ trì cùng với Bộ Tư pháp, Thanh Tra Chính phủ phối hợp với TAND Tối cao cần đẩy mạnh: -Xây dựng quy hoạch, kế hoặc đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán tòa án hành chính hàng năm một cách hợp lý. - Hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ chức danh thẩm phán tòa án hành chính các cấp, tiêu chuẩn tuyển chọn các đối tượng để đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán tòa án hành chính. - Phân công học viên sau khi kết thúc các khóa đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán tòa án hành chính hợp lý điều kiện đủ số lượng và chất lượng thẩm phán hành chính cho tòa án các cấp. 6. Học viện Tư Pháp(thành lập tháng 3 năm 2004) chủ trì cùng với Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ phối hợp với TAND Tối cao cần: - Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán thiết thực, phù hợp, bao gồm các nội dung thiết thực tiễn của nước ta và có tham khảo kinh nghiệm nước ngoài. - Tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán tòa án hành chính bảo đảm chỉ tiêu số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Kết luận Trong điều kiện xây dựng từng bước nhà nước pháp quyền Việt Nam, việc thiết lập hệ thống tòa hành chính là sự đáp ứng nhu cầu cần thiết khách quan, nhằm đảm bảo pháp chế và kỷ luật trong hoạt động hành chính nhà nước bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức… Thực hiện tài phán hành chính sẽ làm cho bộ máy hành chính nhà nước nâng cao trách nhiệm tăng cường kỷ luật kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước, nâng cao trách nhiệm, bổn phận của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do dân chủ, lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Tài phán hành chính là phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nền hành chính nhà nước là biện pháp kiểm tra, giám sát hữu hiệu hoạt động đối với cơ quan hành chính và các cán bộ, công chức, tránh được các hiện tượng lạm quyền, lộng quyền, trốn tránh trách nhiệm loại trừ những hiện tượng tiêu cực, cửa quyền, quan liêu trong bộ máy hành chính, góp phần xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, năng động, có hiệu quả, đáp ứng ngày một tốt hơn các dịch vụ hành chính cho công dân. Tài phán hành chính một phương thức bảo vệ quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân khỏi mọi sự xâm hại từ phía các cơ quan hành chính, những người có chức vụ cán bộ công chức. Thông qua hoạt động xét xử hành chính, tòa án góp phần giáo dục ý thức pháp luật của các nhân viên nhà nước, cũng như mọi công dân, nâng cao tính tích cực chính trị của họ trong đấu tranh với những vi phạm pháp luật, củng cố lòng tin của công dân đối với hệ thống hành chính nhà nước, tòa án hành chính là cơ chế hữu hiệu giải quyết các khiếu kiện hành chính của công dân, là nơi để công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đã được Pháp luật ghi nhận. Nói tóm lại, thực hiện tốt tài phán hành chính sẽ góp phần thực hiện tốt hơn các nội dung khác của nền hành chính nhà nước. Tòa án hành chính như là "thanh kiếm và lá chắn" đấu tranh với mọi vi phạm pháp luật phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành của bộ máy hành chính bảo vệ quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ sự trong sạch của nền hành chính nhà nước. tài liệu tham khảo 1. Hiến pháp 1992 sửa đôỉ 2001. 2.Luật tổ chức toà án nhân dân 2002. 3. Luật khiếu nại, tố cáo1998 sửa đổi 2003. 4. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1998. 5. Pháp lệnh xử lý vi pham hành chính (6/2002). 6. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân(10/2002) 7. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 410-ttg ngày 15-7-1995 về việc đào tạo,bồi dưỡng Thẩm phán Toà án Hành chính các cấp. 8. Nguyễn Ngọc Điệp và Vũ Mạnh Thông - Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính - NXB TP. HCM năm 2000. 9. Nguyễn Văn Thanh và Đinh Văn Minh - một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện về hành chính ở Việt Nam - NXB Tư pháp Hà Nội , năm 2004. 10.Nguyễn Thế Quyền và Đinh Văn Minh – hỏi đáp về pháp luật tố tụng hành chính –NXB Thống kê năm 1996. 11. Báo cáo tham luận về công tác giải quyết, xét xử các vụ án hành chính năm 2004 và một số kiến nghị của Tòa hành chính - tòa án nhân dân tối cao. 12.Báo cáo tổng kết hàng năm của Toà HC-TAND TP Hà nội. 13.Tạp chí Toà án nhân dân tháng 4-2005(số 7) 14.Giáo trình luật hành chính –Học viện Hành chính Quốc gia năm 2004. Nhận xét của giảng viên hướng dẫn Thống kê số liệu án hành chính thụ lý và giải quyết của Tòa án Hành chính, Tòa án nhân dân Hà Nội (Từ ngày 01/01/1999 đến ngày 31/12/2004) I. án hành chính sơ thẩm. Năm 1999: - Thụ lý: 02 vụ - Giải quyết: 01 vụ - Kết quả: + Chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Năm 2000: - Thụ lý: 04 vụ (cũ còn 01 vụ). - Giải quyết: 05 vụ. - Kết quả: + Bác yêu cầu khởi kiện: 03 vụ. + Chấp nhận yêu cầu khởi kiện: 01 vụ. + Đình chỉ: 01 vụ (Do không thuộc thẩm quyền). Năm 2001: - Thụ lý: 02 vụ. - Giải quyết: 01 vụ. - Kết quả: + Đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện rút đơn khởi kiện. Năm 2002: - Thụ lý: 04 vụ (cũ còn 01 vụ). - Giải quyết: 04 vụ. - Kết quả: + Bác yêu cầu khởi kiện: 03 vụ. + Tạm đình chỉ: 01 vụ. (Do người khởi kiện xin tạm đình chỉ). Năm 2003: - Thụ lý: 08 vụ (cũ còn 01 vụ). - Giải quyết: 08 vụ. - Kết quả: + Bác yêu cầu khởi kiện: 04 vụ. + Đình chỉ: 04 vụ. (02 vụ do người khởi kiện rút yêu cầu; 01 vụ do không thuộc đối tượng khởi kiện; 01 vụ do người khởi kiện báo gọi nhiều lần không đến Tòa làm việc). Năm 2004: - Thụ lý: 10 vụ (cũ còn 01 vụ). - Giải quyết: 08 vụ. - Kết quả: + Bác yêu cầu khởi kiện: 04 vụ. (Trong đó có 01 vụ người bị kiện thu hồi quyết định hành chính bị kiện). + Đình chỉ: 04 vụ (01 vụ người bị kiện thu hồi và hủy quyết định hành chính. 02 vụ người bị kiện thu hồi quyết định hành chính. 01 vụ do người khởi kiện rút đơn). (*) Kết quả giải quyết từ 01/01/1999 đến 31/12/2004: Tổng: 26 vụ. Cụ thể: - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện: 02 vụ. - Bác yêu cầu khởi kiện: 14 vụ. - Tạm đình chỉ giải quyết vụ án: 01 vụ. - Đình chỉ giải quyết vụ án: 09 vụ. Trong đó: + 03 vụ đình chỉ do người khởi kiện rút yêu cầu. + 02 vụ không thuộc thẩm quyền. + 01 vụ người khởi kiện báo gọi nhiều lần không đến Tòa làm việc. + 03 vụ đình chỉ do người bị kiện thu hồi, hủy quyết định sau khi thụ lý. II. án hành chính phúc thẩm: Năm 1999: - Thụ lý: 06 vụ (cũ còn lại 01 vụ). - Giải quyết: 07 vụ. - Kết quả: + Giữ nguyên quyết định hành chính: 03 vụ. + Hủy quyết định hành chính: 02 vụ. Năm 2000: - Thụ lý: 05 vụ. - Giải quyết: 04 vụ. - Kết quả: + Giữ nguyên quyết định hành chính: 03 vụ. Năm 2001: - Thụ lý: 06 vụ (cũ còn 01 vụ). - Giải quyết: 06 vụ. Bảng tổng hợp đơn Từ 01 tháng 01 năm 1999 đến 31 tháng 12 năm 2004 Tại Tòa Hành chính - Tòa án nhân dân Hà Nội Năm Tổng số đơn đã nhận Đơn không thuộc thẩm quyền Hết thời hiệu Thụ lý 1999 22 20 0 2 2000 27 23 0 4 2001 22 19 1 2 2002 21 16 1 4 2003 45 32 5 8 2004 29 17 2 10 Tổng cộng 166 127 9 30 Nhật ký thực tập Ngày Nội dung nghiên cứu 18 -> 20/4/05 Nghiên cứu tài liệu 23/4/05 Đến cơ quan thực tập nghe báo cáo của cơ quan về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn……. 25 -> 29/4/05 Đến cơ quan thực tập và làm việc tại tòa Hành chính 9 -> 13/5/05 Viết báo cáo Mục lục Phần 1: lời nói đầu. Phần 2: nội dung:. Chương I. Giới thiệu chung về Tòa Hành chính - TANDHN. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Tòa Hành chính. 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa Hành chính. a.Chức năng, nhiệm vụ b.Quyền hạn + thẩm quyền chung + thẩm quyền cụ thể 3. Kết quả hoạt động của Tòa Hành chính (Tòa Hà Nội). a. Tích cực. b. Hạn chế. c. Nguyên nhân. Chương II: Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Tòa Hành chính. 1. Mô hình tổ chức của Tòa Hành chính. a. Cơ cấu tổ chức bộ máy. b. Cơ cấu nhân sự. 2. Phương thức hoạt động của Tòa Hành chính. a. Điều kiện khởi kiện. b. Đối tượng xét xử của Tòa Hành chính. c. Công tác xác minh, thu thập chứng cứ. d. Hoạt động xét xử của Tòa Hành chính. 3. Thuận lợi - khó khăn. 4. Nhận xét đánh giá. Chương III: Phương hướng hoàn thiện, một số kiến nghị và giải pháp. 1. Phương hướng đổi mới. 2. Kiến nghị. a. Về thẩm quyền và đối tượng xét. b. Về quyền hạn của tòa án trong quá trình xét xử vụ án. c. Về trình tự thủ tục tố tụng. d. Về tổ chức cơ quan xét xử Hành chính. e. Về thẩm phán hành chính. 3. Giải pháp. Phần 3: kết luận. Phần 4: lời cảm ơn và danh mục tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Toà Hành chính.DOC
Luận văn liên quan