Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư, lấy thực tế ở Việt Nam để chứng minh

ĐỀ CƯƠNG: PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẠO LẬP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ. I. TẠO LẬP, THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ. 1. Nguồn vốn đầu tư: 2. Phân loại vốn đầu tư: 3. Tạo lập vốn đầu tư: 4. Thu hút vốn đầu tư: 5.Sử dụng vốn đầu tư: II. TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA VIỆC SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ ĐẾN CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TÊ.11/18/2008 1. Sử dụng vốn đầu tư hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và do đó tác động tích cực đến tăng trưởng: 2. Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến năng suất nhân tố tổng hợp và do đó tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế: 3. Tác động của của việc sử dụng vốn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH: 4. Tác động của hoạt động sử dụng vốn đầu tư đến khả năng nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế: 5. Tác động của vốn đầu tư đến chất lượng và giá thành sản phẩm: III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TẠO LẬP, THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ. 1. Tính thuận chiều trong mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư: 2. Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư là cơ sở duy trì sự tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh tạo lập vốn và tăng khả năng thu hút vốn: PHẦN II : THỰC TRẠNG TẠO LẬP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 – 2008. I. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM NÓI CHUNG: 1. Đầu tư trong nước : 1.1.Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: 1.2. Vốn đầu tư từ doanh nghiệp: 1.3. Vốn đầu tư từ tiết kiệm dân cư: 2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: 2.2. Tình hình triển khai thực hiện dự án đầu tư nước ngoài: II. Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư: 1. Khả năng tạo lập vốn ngày càng được cải thiện tạo điều kiện tốt để thu hút vốn ngày càng nhiều. 2. Khả năng thu hút vốn ngày càng gia tăng: 2.1 Thực trạng tình hình thu hút vốn của nước ta : 2.2 Nguồn vốn thu hút đầu tư ngày càng gia tăng cả về chất lẫn lượng: 2.2.1 Nguồn trong nước: 2.2.2 Nguồn nước ngoài: 2.2.3 Các nguồn vốn khác: 3. Sử dụng vốn chưa hiệu quả hạn chế khả năng tạo lập thu hút vốn. 3.1 Thể hiện qua hệ số ICOR của Việt Nam 3.2 Thể hiện qua tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp( TFP): 3.3 Ảnh hưởng của quá trình sử dụng vốn đến tạo lập và thu hút vốn: 3.3.1 Tác động của việc sử dụng vốn hiệu quả đến khả năng tích lũy vốn và thu hút vốn: 3.3.2 Sử dụng nguồn vốn hiện nay của Việt Nam chưa thật sự hiệu quả hạn chế khả năng tạo lập và thu hút vốn: PHẦN 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO MỐI QUAN HỆ CỦA TẠO LẬP, THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ. I. Mục tiêu và quan điểm định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến 2010: 1. Mục tiêu và quan điểm phát triển kinh tế đến năm 2010: 1.1 Mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam đến 2010: 1.2 Quan điểm phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2010: 2. Dự báo nhu cầu đầu tư và yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đến 2010: II. Giải pháp nâng cao mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư: 1. Giải pháp chung: 2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập vốn: 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư: 4. Giải pháp nâng cao sử dụng nguồn vốn đầu tư nhằm góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng Việt nam đến 2010, tạo điều kiện tạo lập và thu hút vốn đầu tư: 4.1 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư: 4.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước: 4.3 Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn nước ngoài : 4.4 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động: Lời mở đầu: Một nền kinh tế để có thể tồn tại và phát triển thì phải có sự tăng trưởng. Theo nghĩa chung nhất thì tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định ( thường là một năm). Tăng trưởng sẽ kéo theo sự phát triển của các yếu tố khác. Một nền kinh tế muốn có tăng trưởng thì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, một trong những yếu tố quan trọng nhất là vốn đầu tư. Vốn đầu tư là một trong những nhân tố đầu vào của quá trình sản xuất cũng như mọi hoạt động trong nền kinh tế, nó có vai trò đặc biệt quan trọng đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy yêu cầu hiểu rõ về vốn đầu tư, các nguồn vốn đầu tư là vô cùng quan trọng. Một trong những đòi hỏi đó chính là việc nắm bắt rõ các quá trình tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư, cũng như mối quan hệ giữa chúng. Nắm bắt được yêu cầu đó nên nhóm chúng em chọn đề tài: “mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Lấy thực tế ở Việt nam để chứng minh.” Trong quá trình hoàn thiện đề tài, chắc chắn sẽ có những thiếu sót do nhân tố khách quan cũng như các nhân tố chủ quan không thể tránh khỏi. Và để hoàn thành đề tài này chúng em cũng xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của: PGS-TS Từ Quang Phương và TS Phạm Văn Hùng.

doc58 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3530 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư, lấy thực tế ở Việt Nam để chứng minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính - viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại trường. Có đủ giường bệnh cho bệnh nhân. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, phát triển, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả. 1.2 Quan điểm phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2010: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trường kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường: Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tiếp tục có chính sách đầu tư thỏa đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ giữa các vùng kinh tế để đảm bảo các vùng kinh tế trọng điểm không những đóng góp trực tiếp cho tăng trưởng của cả nước mà vòn lôi kéo, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng có nhiều khó khăn. Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả giá dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng nhảy vọt ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và tiếp tục giải quyết hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường. Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng trong thẩm định, đánh giá và giám sát các dự án đầu tư phát triển trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp hiện đại là yêu cầu bức thiết. Với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc thông qua việc huy động và sử dụng phối hợp các nguồn lực trong nước và nước ngoài, tập trung sức phát triển kinh tế để xây xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại với nội dung chủ yếu là: Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất – kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; nền công nghiệp trong đó công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, nền nông nghiệp hàng hóa lớn, các dịch vụ cơ bản, tiềm lực khoa học và công nghệ. Trên cơ sở hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội, trước mắt và lâu dài, triển khai xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu và xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng, cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy nhanh tác dụng, đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành kinh tế và quốc phòng, an ninh. Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế xã hội và bộ máy quản lý nhà nước hướng vào hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng sức và phát huy mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh và bền vững. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, mọi thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xóa bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà đầu tư, kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bện ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Gắn chặt xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất – kỹ thuật đủ mạnh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm nền kinh tế đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tê, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc, bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thể lực thù địch. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài, tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta đối với kinh tế khu vực và thế giới 2. Dự báo nhu cầu đầu tư và yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đến 2010: Để đạt được các mục tiêu cơ bản như trên, phương hướng đầu tư đến năm 2010 cảu Việt nam được đặt ra là phải thực hiện đầu tư có hiệu quả, kết hợp giữa đầu tư trước mắt với đầu tư lâu dài hướng tới xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, kiên quyết đưa Việt nam ra khỏi tình trạng các nước có thu nhập thấp. tập trung đầu tư của nhà nước để phát triển kết cấu hạ tầng, đầu tư mới để thu hút đầu tư từ các nguồn khác. Huy động tổng lực các nguồn vốn đầu tư nhằm hình thành những lĩnh vực mũi nhọn. những công trình then chốt. Một mặt cải thiện quan hệ tích lũy và tiêu dùng theo hướng tăng khả năng tích lũy để tạo thêm nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mặt khác vân phải đảm bảo mục tiêu cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. - Phấn đấu tỷ lệ đầu tư trên GDP đạt mức cao, khoảng 37 – 40% trong đó nguồn tiết kiệm nội địa khoảng 25 – 26%. - Toàn xã hội tập trung khoảng 40 – 45% đầu tư cho các lĩnh vực then chốt, mũi nhọn về phát triển kinh tế. - Phấn đấu giành khoảng 4 – 8% GDP để đầu tư phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ . Cụ thể dự kiến nhu cầu vốn đầu tư đến năm 2010 là: Nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam đến 2010 Các chỉ tiêu 2009 2010 Đơn vị Tỷ USD GDP 58,26 62,45 Đầu tư 15.65 16,78 + Đầu tư trong nước 11,05 12,18 + Đầu tư nước ngoài 4,6 4,6 - FDI 2,82 2,0 - FPI 0,74 0,8 - ODA 1,8 1,8 Nguồn: MPI và UNDP, Việt nam hướng tới 2010, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội II. Giải pháp nâng cao mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư 1. Giải pháp chung: Để có thể huy động được quy mô nguồn lực lơn như vậy cho đầu tư, về mặt phương hướng yêu cầu trong giai đoạn tới cần phải quyết liệt hơn trong tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để tiếp tục giải phóng sức sản xuất, đồng thời đảm bảo kinh doanh bình đẳng, có tính cạnh tranh cao. Về kinh tế, trong thời gian tới cần tập trung vào việc huy động mọi nguồn lực để đây nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Để làm đuợc điều đó phải khai thông tất cả mọi nguồn vốn đầu tư, đa dạng hóa các hình thức tạo lập vốn, thực hiện chính sách xã hội hóa đối với hoạt động đầu tư nhằm huy động tối đa các kênh vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế; mớ rộng phương thức đầu tư BTO, BT đối với các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tậng kinh tế, kỹ thuật , xã hội có khả năng thu hồii vốn trực tiếp. Tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới trong đầu tư, tạo môi trường đầu tư kinh doanh, bình đẳng, minh bạch, ổn định , thông thoáng và có tính cạnh tranh cao. Đây là tiền đề quan trọng để các doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ về tài chính, mạnh dạn đầu tư vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoải; xử lý dứt điểm trong việc giải phóng mặt bằng, di đân, tái định cư và bố trí đầy đủ vốn đối ứng để đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA; đồng thời quản lý chặt chẽ nguồn vốn này từ khâu quy hoạch, lựa chọn mục tiêu đầu tư gắn với hiệu quả sử dụng vốn vay và thu hồi vốn . Đổi mới công nghệ và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trong hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp kinh doanh là tế bào của nền kinh tế, là nơi sử dụng và kết hợp các nguồn lực để tạo ra sản phẩm hàng hoá, điều quan trọng để tạo ra nhiều sản phẩm tốt với giá thành hạ, thì cần tăng năng suất lao động. Muốn vậy cần phải nhanh chóng thực hiện đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp, vì trình độ trang bị máy móc, thiết bị hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam lạc hậu so với khu vực và thế giới khoảng từ 20 năm đến 30 năm, đó cũng là một trong những lý do chính làm giảm hiệu suất sử dụng vốn đầu tư trong thời gian qua. Mà đặc biệt là việc đổi mới công nghệ tại các DNNN phải được ưu tiên hàng đầu, bởi vì đây là khu vực trọng yếu của nền kinh tế, chiếm tỷ trọng phần lớn vốn đầu tư của toàn xã hội. Vấn đề này phải được gắn liền với quá trình sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, kiên quyết giải thể, phá sản, bán hoặc cho thuê các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, bởi vì bản thân các doanh nghiệp này sẽ không đủ sức tồn tại và cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc khuyến khích tư bản nước ngoài thâm nhập vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng các hình thức mua, sát nhập, thuê, khoán để nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý doanh nghiệp là điều cần được tham khảo và vận dụng. Thực hiện tốt việc đổi mới công nghệ sẽ quyết định trực tiếp tới năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và nền kinh tế thế giới đang bước vào một dạng thức mới- nền kinh tế tri thức, một dạng thức mới của kinh tế thế giới (đặc trưng là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chất xám chiếm tỷ lệ chủ yếu trong giá thành sản phẩm), thì cho các ngành công nghệ cao (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới) phải được ưu tiên và quan tâm hàng đầu. Do đó Nhà nước cần xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển các ngành công nghệ cao của toàn đất nước, với một cơ chế đặc thù về các phương diện đầu tư, tài chính, tín dụng (được thuê đất với giá rẻ, được miễn giảm các loại thuế, được vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi), và cần phải có những bước đi thích hợp. Theo đó các ngành công nghệ cao cần được ưu tiên phát triển tại các khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước, mà đặc biệt nhất là tại hai trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước là thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, từ đó tạo ra các không gian kinh tế rộng lớn, với sức lan toả mạnh, trở thành những đầu tàu kinh tế, đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới. Để phát triển các ngành công nghệ cao phải đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư ban đầu rất lớn, điều này có thể ảnh hưởng phần nào tới việc phân bổ các nguồn lực xã hội, nhưng đây lại là những ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, hiệu suất đầu tư lớn. Vì thế trong thời gian tới nên xem việc gia tăng mạnh mẽ tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành công nghệ cao trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội là một hướng đi tích vực, kiên quyết không đầu tư thêm vốn cho những chương trình, dự án kinh tế không có khả năng thu hồi vốn, không có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, mà việc đầu tư hàng tỷ đô là trong chương trình mía đường của ta không mang lại hiệu quả kinh tế là bài học nhãn tiền. Nếu cũng với số vốn đó dùng để đầu tư cho các ngành công nghệ cao thì chắc chắn rằng hiệu suất đầu tư vốn sẽ đạt cao hơn nhiều. 2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập vốn: Khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế lớn sẽ là một động lực cho việc thu hút vốn, do vậy cần có những giải pháp đề khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế ngày càng nâng cao. Để thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển cần phải hoàn thiện hơn nữa các chính sách về đầu tư để, từ đó tạo ra môi trường thông thoáng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để phát huy hết nội lực và ngoại lực của nền kinh tế. Không chỉ khắc phục những tồn tại và thiếu sót về khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngòai mà chúng ta cần nghiên cứu kỹ để đưa ra chính sách hợp lý nhằm tạo lập một môi trường thuận lợi tức là tạo lập cơ sở để thu hút vốn đầu tư. Tạo một môi trường chính trị ổn định xã hội công bằng và không có bạo loạn. Xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư : để đảm bảo cho thị trường vốn, thị trường tài chính trong nước phát triển ổn định. Chính phủ tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn cho mọi thành phần kinh tế, tạo niềm tin của các nhà đầu tư đối với chính sách của chính phủ. Chú trọng hơn nữa về mặt chất luợng trong việc nhận đầu tư nước ngoài thu hút vào phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp nặng; với những vùng miền có thế mạnh ở những ngành nhất định thì nên thu hút đầu tư vào những ngành đó để chuyên môn hóa theo từng ngành, từng vùng, từng lãnh thổ . Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài; xây dựng hệ thống chính sách để cải thiện môi trương kinh doanh; thực hiện thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước nước ngoài , nâng cao năng lực quản lý của nhà nước đối với đầu tư nước ngoài; đơn giản hóa thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quy trình, thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục tạo niềm tin cho các nhà đầu tư; tập trung cao công tác điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Phải sớm tổng kết thực tế thi hành luật doanh nghiệp để có những sửa đổi bổ sung cần thiết vả thống nhất áp dụng những quy định của luật này cho việc thành lập và tổ chức họa động của các doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: mối quan hệ của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp và nguời quản lý doanh nghiệp. Luật đầu tư nước ngoài cần được sửa đổi, mở rộng những quy định về hình thức pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ giữ lại các quy định về lĩnh vực, địa bàn đầu tư, khuyến khích và bảo vệ. Tất cả những chính sách trên đều mang tính thời kỳ, tùy vào bối cảnh nền kinh tế thế giới và Việt nam như thế nào từ đó chúng ta phải có những biện pháp kịp thời trước mắt nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư, sản xuất kinh doanh, từ đó tác động vào khả năng tạo lập nguồn vốn đầu tư của Việt nam. 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư: Nhằm nâng cao mối quan hệ giữa thu hút và sử dụng vốn cần đòi hỏi những chính sách thu hút vốn phù hợp, đòi hỏi kịp thời. Vì vậy những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư là cần thiết. Theo thực trạng thu hút vốn đầu tư của Việt Nam, kết quả thu hút vốn vẫn chưa tương xứng với nhu cầu huy động vốn đáp ứng cho tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời chưa tương xứng với tiềm năng của nứơc ta. Vì vậy cần có những biện pháp để nâng cao hiệu quả thu hút vốn, cụ thể : Đối với nguồn vốn trong nước: Để đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư trước tiên cần phát huy mọi tiềm năng về yếu tố nội lực của nền kinh tế mà đặcbiệt là khu vực kinh tế dân doanh, một khu vực kinh tế đang được xem là hoạt động có hiệu quả và rất năng động. Chỉ sau 5 năm thực hiện luật doanh nghiệp, số doanh nghiệp mới đăng ký hoạt động là trên 110.000 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký trên 10 tỷ USD, lớn hơn số vốn FDI thu hút được trong cùng thời kỳ. Hiện các doanh nghiệp dân doanh đã đóng góp tới 44% kim ngạch xuất khẩu, cùng với kinh tế hộ gia đình các doanh nghiệp dân doanh chiếm 42% GDP, chứng tỏ tiềm năng của khu vực kinh tế dân doanh là rất lớn. Điều quan trọng hơn là khu vực kinh tế này đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm mới cho xấp xỉ 1,6 triệu lao động. Tạo ra nhiều công ăn việc làm cũng có nghĩa là tạo thêm thu nhập cho người lao động, gia tăng khả năng tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Đây là một trong những yếu tố quyết định cơ bản tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn hiện nay. Điều này cũng có nghĩa phải có nhiều nhà đầu tư mạng dạn bỏ vốn và nhiều doanh nghiệp sẽ ra đời, tính đến nay cả nước Việt Nam có hơn 350.000 doanh nghiệp, trong đó có khoảng 95% là nhỏ và vừa. Như vậy có nghĩa rằng cùng với sự phát triển của nền kinh tế, khả năng phát triển số lượng doanh nghiệp của Việt Nam còn rất lớn. Vấn đề là Việt Nam cần phải tiếp tục có các chính sách cởi mở hơn nữa nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư và kinh doanh của mọi tầng lớp dân cư. Nhà nước cần phải thực hiện triệt để cơ chế mọi công dân đều có quyền kinh doanh bất cứ những cái gì mà luật pháp không cấm. Với nội lực của nền kinh tế hiện nay Việt nam sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp, trong đó số doanh nghiệp lớn chiếm số lượng lớn. Rõ rang đây là một trong những nhân tố quan trọng để tạo ra sự gia tăng GDP Về lâu dài phát triển kinh tế dân doanh lên một cấp độ mới. Không chỉ dừng lại ở chổ mỏ thêm nhiều nhiều doanh nghiệp mới, huy động thêm vốn mà phải chú trọng và quan tâm hơn đến trình độ trang bị công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng thị phần tiêu thụ sản phẩm. Để làm được điều đó, phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức. Theo đó, nhà nước cần xem xét khu vực kinh tế dân doanh là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là khu vực sẽ tạo ra nguồn thu quan trọng cho ngân sách quốc gia. Đối với nguồn vốn nước ngoài: Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực. Đặc biệt là khi nước ta gia nhập WTO, một làn sóng đầu tư mới đang ồ ạt “chảy” vào Việt Nam. Những cơ hội đang mở ra phía trước, những con số thống kê về nguồn vốn FDI thời gian qua cũng hết sức khả quan. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nhiều điều phải làm để cải thiện môi trường đầu tư, làm cho hình ảnh Việt Nam hấp dẫn hơn trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đà tăng trưởng của năm 2007, trong những tháng đầu năm 2008, thu hút đầu tư nước ngoài vẫn đạt mức cao, một số doanh nghiệp ĐTNN đã triển khai tích cực ngay trong tháng đầu tiên của năm 2008. Nhiều dự án có quy mô lớn đã được các địa phương cấp phép trong những tháng đầu năm, đặc biệt là xu hướng tăng nhanh các dự án kinh doanh bất động sản (xây dựng văn phòng căn hộ để bán và cho thuê, xây dựng khách sạn cao cấp, khu nghỉ dưỡng). Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch - Đầu tư), so với cùng kỳ năm ngoái, quý I năm 2008, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp vốn đầu tư thực hiện trên 1,68 tỷ USD, tăng 24%; doanh thu ước đạt 7.600 triệu USD, tăng 27%. Tính từ đầu năm tới thời điểm hiện nay, số vốn đăng ký đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 14,7 tỷ USD, tăng 2,6 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng trong tháng 5/2008, cả nước có 130 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 7,5 tỷ USD, đưa tổng số dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư từ đầu năm tới nay lên 324 dự án. Ngoài ra, trong thời gian này còn có 132 lượt dự án tăng thêm vốn đầu tư với hơn 600 triệu USD. Cục Đầu tư nước ngoài cho rằng, điều đáng quan tâm là số vốn đầu tư đăng ký vẫn tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, tới hơn 83% tổng vốn; lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 16,2% và số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Canađa là quốc gia chỉ có 3 dự án đầu tư, nhưng có tổng vốn đăng ký lên tới 4,23 tỷ USD và trở thành đối tác đứng đầu trong số 32 quốc gia, vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư vào Việt Nam trong những tháng đầu năm nay. Dự án lớn nhất mà nước này đầu tư vào Việt Nam là dự án xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng, các khách sạn 5 sao, khu thương mại, trung tâm hội nghị quốc tế, văn phòng - căn hộ, biệt thự cao cấp, sân golf, khu vui chơi giải trí có thưởng cho người nước ngoài tại Hồ Tràm, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, do Tập đoàn Asian Coast Development triển khai. Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã vươn lên đứng đầu trong tổng số 36 địa phương thu hút được đầu tư nước ngoài trong 5 tháng đầu năm. Vấn đề đặt ra bây giờ là cần có những chính sách để tiếp tục nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mà những chính sách đó đều nhằm cải thiện môi trường đầu tư ở Việt nam, tạo một môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai đoạn 2006- 2010 và một số năm về sau, Chính phủ cần chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau : Nhóm giải pháp về quy hoạch: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách: Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ. Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư: - Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. - Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch. - Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga) - Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng: - Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. - Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v. Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời. - Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v. - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu, Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương: - Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: - Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. - Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính: - Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. - Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài. - Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. - Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư . - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan. Một số giải pháp khác: - Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung. - Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. 4. Giải pháp nâng cao sử dụng nguồn vốn đầu tư nhằm góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng Việt nam đến 2010, tạo điều kiện tạo lập và thu hút vốn đầu tư: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một trong những biện pháp cực kỳ quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao một cách  bền vững. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thường được phản ánh qua chỉ số ICOR (chỉ số phản ánh hiệu suất đầu tư vốn: để tăng một đơn vị sản phẩm cần tăng bao nhiêu vốn đầu tư). Nếu như trước đây, vào những năm đầu ở thập kỷ 90 của thế kỷ trước chỉ số ICOR khoảng độ 0,4 - 0,5 thì  đến năm 2007  đã là 4,8, và 9 tháng đầu năm 2008 chỉ số ICOR là 4,7. Như thế có nghĩa là trong vòng hơn 10 năm hệ số ICOR đã tăng lên  hơn 10 lần. Chỉ số ICOR  qua các năm cho thấy  tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư tăng nhanh hơn giá trị tăng thêm. Chính chỉ số ICOR ngày càng cao cũng là một trong những nguyên nhân đã làm cho tỷ trọng chi phí trung gian trong giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế tiếp tục tăng: năm 1999 là 47,76%, năm 2000 là 50,35%, năm 2001 là 51,57%, năm 2002 là 52,13%. Điều đó cũng có nghĩa là làm giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, làm giảm khả năng tiêu thụ hàng hoá của hàng hoá Việt Nam trong thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Vậy đòi hỏi đặt ra là cần có những biện pháp nang cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 4.1 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư: Trong công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các ngành và các địa phương về việc tạo lập và thực thi các quy hoạch và kế hoạch phát triển. Quy hoạch phát triển ngành cần gắn kết với quy hoạch của các địa phương và ngược lại quy hoạch của các địa phương cũng cần có sự tham gia của các bộ, các ngành nhằm tránh tình trạng chồng chéo quy hoạch giữa các ngành và địa phương như đã xảy ra trong thời gian vừa qua, dẫn đến một số dự án đầu tư đã được xây dựng xong nhưng thiếu nguyên liệu sản xuất, hiệu quả đầu tư không cao. Cần đổi mới cơ chế quản lý là giảm sự phát sinh tư tưởng cục bộ trong quy hoạch, khiến cho các địa phương cho dù không cơ sở vẫn xin trung ường được hưởng các chính sách đặc thù cho mình, thay vì khuyến khích các địa phương liên kết, hợp tác với nhau để phát huy sức mạnh của mỗi vùng và cùng phát triển. Đối với kế hoạch đầu tư cần có quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến việc cấp phát vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo đầu tư tập trung, đúng mục đích, đảm bảo cân đối nguồn vốn có hiệu quả. Chỉ tiêu số lượng công trình hoàn thành và tiến độ thực hiện các công trình sẽ là chỉ tiêu pháp lệnh trong kế hoạch đầu tư; quy hoạch và tổng mức đầu tư là yêu cầu bắt buộc chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về chỉ tiêu này. Kế hoạch đầu tư cần được xem xét trong cả thời kỳ 5 năm bao gồm cả danh mục và cân đối nguồn vốn; ở các địa phương kế hoạch đầu tư 5 năm về nguồn vốn nhà nước và danh mục các dự án đầu tư quan trọng cần được hội đồng nhân dân thông qua. Kế hoạch đầu tư cần được công khai để nhân dân có thể theo dõi kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện. Để đảm bảo chất lượng tăng trưởng kinh tế, trong xây dựng quy hoạch cần phải đảm bảo cân đối đồng thời 3 nhân tố: kinh tế - xã hội - môi trường . Phát triển kinh tế - xã hội mà vẫn bảo vệ và cải thiện môi trường chính là cách để tạo ra môi trường sống cân bằng, ổn định, và có chất lượng cao hơn. Khi lập quy hoạch cần phải có sự lồng ghép giữa yếu tố kinh tế và xã hội, đặc biệt là hệ thống văn bản pháp luật cần phải chặt chẽ, thể hiện được mối quan hệ giữa các ngành liên quan. Những vấn đề như mâu thuẫn trong sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, quản lý chất lượng nước của các lưu vực, những tác động tiêu cực có khả năng xảy ra đối với hệ thống sinh thái trong quá trình thực hiện đầu tư cần được phân tích rõ ràng, thấu đáo. Trong thời gian tới, bên cạnh việc xây dựng, ban hành và phổ biến vavs tiêu chuẩn môi trường và các hướng dẫn bảo vệ môi trường, cần xây dựng chính sách huy động và sử dụng vốn phục vụ cho công tác khảo sát, quy hoạch xây dựng để đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch chi tiết và các quy hoạch chuyên ngành. 4.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước: Trong mục tiêu chống lạm phát của Thủ tướng Chính phủ cũng đã nêu rõ: “Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế… Từ đó, phân bổ lại và cân đối nguồn vốn, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả…”. Trước bối cảnh lạm phát hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, nếu Chính phủ lại tiếp tục đầu tư và việc đầu tư không hiệu quả thì sẽ không đạt được kết quả như mong muốn. Do đó, Chính phủ cắt giảm đầu tư công, kiểm tra rà soát việc đầu tư công một cách chặt chẽ để nâng cao hiệu quả đầu tư công là một giải pháp đồng bộ kết hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa. Chỉ tính riêng năm 2007, tổng đầu tư của toàn xã hội là hơn 461.900 tỷ đồng nhưng khu vực nhà nước chiếm 43,3%. Điều này cho thấy, nhà nước đang là nhà đầu tư áp đảo, dẫn dắt thị trường, cho nên mọi nhất cử nhất động của nhà nước đều tác động tới diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, trong thời gian qua, do cơ chế thị trường, các tập đoàn kinh tế nhà nước đều nhanh chóng “nhảy vào” các ngành nghề không phải chuyên môn chính của họ như: Chứng khoán, ngân hàng, bất động sản... Kết quả, dẫn đến hàng ngàn tỉ đồng đầu tư công không có hiệu quả và lãng phí gây ra áp lực lạm phát. Theo điều tra 200 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam do Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) thực hiện, đã khẳng định rằng nhiều công ty trong “Top 200” của Việt Nam, trong đó có các tập đoàn, đang đầu cơ đất đai và chứng khoán mà thiếu tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi của mình, khi đầu tư phân tán như vậy đã làm giảm năng lực cạnh tranh của các tập đoàn và đã để lại những hậu quả khó giải quyết. Mặt khác, hiệu quả đầu tư được thể hiện ở hai chỉ số tổng hợp quan trọng, đó là: Một đồng vốn đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng GDP (GDP/vốn đầu tư) và để tăng thêm một đồng GDP phải cần bao nhiêu đồng vốn (Vốn đầu tư/GDP). Ta có thể tham khảo số liệu vốn đầu tư phát triển, cơ cấu và hiệu quả đầu tư qua các năm để thấy rằng hiệu quả của đầu tư công trong thời gian qua còn thấp.(Xem bảng 1) Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển, cơ cấu và hiệu quả đầu tư CHỈ TIÊU NĂM 2003 2004 2005 2006 2007 1. Vốn đầu tư ( nghìn tỷ đồng) (Chia theo các thành phần kinh tế) 239.246 290.927 343.135 398.900 461.900 - Khu vực nhà nước 126.558 139.831 164.635 185.100 200.000 - Khu vực ngoài quốc doanh doanh 74.388 109.754 130.398 150.500 187.800 - Khu vực có vốn ĐTNN 38.300 41.342 51.102 63.300 74.100 2. Cơ cấu (%) 100% 100% 100% 100% 100% - Khu vực nhà nước 52,9 48,1 47,1 46,4 43,3 - Khu vực ngoài quốc doanh 31,1 37,7 38,0 37,7 40,7 - Khu vực có vốn ĐTNN 16,0 14,2 14,9 15,9 16,0 3. GDP (nghìn tỷ đồng) 613,4 715,3 839,2 973,8 1.143,4 Tổng số vốn năm trước ( nghìn tỷ đồng) 77,6 101,9 123,9 134,6 169,6 4. Hiệu quả đầu tư - tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP (%) 39,0 40,7 40,9 41,0 40,4 -Hệ số Icor 3,73 3,5 3,8 4,3 4,47 Nguồn: Vietnam Economic Times 2007 – 2008 Bảng 1 trên cho thấy đầu tư tăng mạnh từ năm 2003 - 2007 và tăng gần gấp đôi trong vòng 5 năm. Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc dồn mọi nổ lực cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, số liệu này cũng chỉ phản ánh về số lượng mà chưa phản ánh được chất lượng của việc đầu tư, riêng năm 2003, toàn bộ nền kinh tế chỉ cần 3,73 đồng để tạo ra 1 đồng tăng trưởng và các năm sau tăng dần. Đến năm 2007, 4,47 đồng mới tạo ra 1 đồng tăng trưởng, hiệu quả của đầu tư không còn cao như các năm trước, đặc biệt là hiệu quả của đầu tư công. Ngoài ra, muốn đánh giá đánh giá hiệu quả của các dự án đầu tư công, thì chúng ta phải thống kê được các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước đã nhận bao nhiêu tiền đầu tư và thu lợi nhuận về được bao nhiêu, đã tạo bao nhiêu công ăn việc làm để từ đó thấy được tổng số tiền đầu tư công rót cho các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước mang lại hiệu quả như thế nào? Từ đó, Chính phủ muốn cắt giảm đầu tư công thì cắt giảm ở đâu và nâng cao hiệu quả đầu tư công ở những khâu nào? Mặt khác, hiệu quả của đồng vốn đầu tư công không những phụ thuộc vào nỗ lực của chính việc đầu tư đang xét mà còn chịu ảnh hưởng bởi việc hoạch định mục tiêu, quy hoạch đầu tư (nhân tố chủ quan)... Do vậy, việc hoạch định mục tiêu và quy hoạch đầu tư cũng là nhân tố vô cùng quan trọng. Nếu hoạch định và quy hoạch sai, không được thẩm tra đầy đủ thì quá trình đầu tư sẽ không thể có hiệu quả trong dài hạn. Một khi, nhà nước là cơ quan hoạch định mục tiêu cho nền kinh tế thì phải vạch ra lộ trình đầu tư như thế nào cho hợp lý để mang lại hiệu quả đầu tư công như mong đợi. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tư công và góp phần đẩy lùi lạm phát trong giai đoạn hiện nay, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp sau đây: Một là, xây dựng các thể chế quản lý chi tiêu công trong từng thời kỳ cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia và liên quan đến việc thực hiện phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính công, nên vấn đề xuyên suốt của quản lý chi tiêu công phải thực hiện được các mục tiêu của Chính phủ đề ra và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn. Cụ thể là phải xây dựng các thể chế nhằm tạo ra một khu vực công năng động, bao gồm tăng cường xây dựng các thể chế về chính sách, chính quyền có khả năng xây dựng và phối hợp chính sách trong việc lựa chọn mục tiêu chiến lược, phân bổ nguồn lực gắn kết với kế hoạch và chính sách, thực hiện, kiểm soát và đánh giá kết quả các hoạt động chi tiêu công. Hai là, tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán các dự án đầu tư công. Kiểm toán nhà nước và các cơ quan thanh tra, kiểm tra tài chính cần tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đối chiếu, so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Kiên quyết xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự toán lớn. Cần thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất, kể cả trách nhiệm đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận thanh toán khối lượng thiếu trung thực, không đúng quy định. Việc thanh toán vốn đầu tư phải được tiến hành theo đúng quy trình và phương thức thanh toán theo tiến độ thực hiện. Ba là, sử dụng nguồn vốn Ngân sách tập trung, chống dàn trải, chống thất thoát, thực hiện tiết kiệm, chống tiêu cực và lãng phí. Xử lý kịp thời, nghiêm minh trong việc sử dụng Ngân sách Nhà nước cho đầu tư công. Làm rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân và thực hiện chế độ trách nhiệm đối với Thủ trưởng đơn vị sử dụng Ngân sách Nhà nước trong quản lý điều hành ngân sách khi để xảy ra thất thoát, lãng phí và chi tiêu không đúng mục đích. Phải kiên quyết đình hoãn những dự án không hiệu quả, không bố trí vốn những dự án không đủ thủ tục đầu tư, không phê duyệt dự án nếu không xác định được nguồn vốn thực hiện cho việc đầu tư mới. Bốn là, kiện toàn bộ máy quản lý khu vực công. Khoán chi phí hành chính và quỹ lương cho các cơ quan hành chính nhà nước nhằm tạo ra sự chủ động trong việc bố trí nhân sự, cải cách tiền lương công chức, đảm bảo trả lương tương xứng với sự đóng góp của mỗi người, xây dựng chế độ tiền lương sao cho khuyến khích người làm việc có hiệu quả. Thứ năm, có chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của người quyết định đầu tư. Người quyết định đầu tư sai, gây lãng phí, thất thoát phải bị xử phạt hành chính, cắt chức hoặc truy cứu trách nhiệm. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả, chất lượng của dự án, chấm dứt tình trạng giao cho người không đủ điều kiện năng lực và chuyên môn nghiệp vụ thực hiện quản lý dự án. Sắp xếp Ban quản lý dự án theo đúng các tiêu chí và tiêu chuẩn phù hợp. Chủ đầu tư phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát thường xuyên Ban quản lý dự án, phát hiện kịp thời những vấn đề phát sinh và đề xuất các biện pháp xử lý kịp thời. 4.3 Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn nước ngoài : Theo số liệu tổng kết của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án đầu tư nước ngoài (ĐTNN) được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện tại vẫn còn 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Các dự án ĐTNN tăng nhanh, nhất là trong những năm gần đây và đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. ĐTNN tăng nhanh Trong 3 năm đầu, từ 1988-1990, khi mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thì kết quả thu hút vốn ĐTNN còn rất ít, chỉ có 214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD. Vì thế, ĐTNN hầu như chưa có tác động gì lớn đến tình hình kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, dấu hiệu triển vọng của thu hút ĐTNN ngày càng lớn khi chỉ trong vòng 5 năm (1991-1995), ĐTNN đã tăng lên nhanh chóng và đạt 1.409 dự án, với 18,3 tỷ USD được cấp mới. Những năm tiếp đó được xem là thời kỳ “bùng nổ” làn sóng ĐTNN thứ nhất tại Việt Nam, số dự án được cấp phép tăng lên 1.781 dự án, với tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD (từ 1991-1996). Giai đoạn này, Việt Nam bắt đầu hấp dẫn các nhà ĐTNN do chi phí đầu tư kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực, thị trường mới, lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Trong giai đoạn 2001-2005, thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, tăng 30% so với mục tiêu. Giai đoạn này vốn ĐTNN cấp mới đều tăng với tỷ trọng tăng trung bình 59,5%. Tuy nhiên, đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Chỉ đến trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam mới tăng kỷ lục, với mức 32,3 tỷ USD. Đặc biệt, đã xuất hiện nhiều dự án có quy mô lớn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao, cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin... Đây được xem là làn sóng ĐTNN thứ hai vào Việt Nam trong 20 năm qua. Quy mô dự án được mở rộng Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 đã có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Việt Nam, cho thấy có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Trong hai năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước. Sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia như Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio... khi đầu tư các dự án lớn vào Việt Nam đã tạo nên sự chuyển biến rất lớn của nền kinh tế. Sau khi gia nhập và thực hiện các cam kết WTO, Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hóa và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp - xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là những dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên vẫn giữ vai trò quan trọng, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Một số ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Trong năm 2007 đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí...20 năm nhìn lạiQua 20 năm thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, nhưng chủ yếu tập trung tại các địa bàn trọng điểm, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế, xã hội chung và cả các vùng phụ cận. Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam. Đứng đầu là Hàn Quốc với vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ hai là Singapore với 10,7 tỷ USD, thứ ba là Đài Loan 10,5 tỷ USD, thứ tư là Nhật Bản 9,03 tỷ USD... Tuy nhiên, nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với số vốn đã giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đạt 3,8 tỷ USD, Hàn Quốc đạt 2,7 tỷ USD. Với những lợi thế sẵn có cùng với cam kết của Chính phủ và việc cải cách hành chính, Việt Nam đang ngày càng tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn. Theo các chuyên gia kinh tế, mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhất định, nhưng ĐTNN vào Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục tăng mạnh trong các năm tới. 4.4 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động: Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhân lực là yếu tố đầu vào của bất kỳ quá trình sản xuất cũng như mọi hoạt động của nền kinh tế. Khoa học công nghệ có phát triển ở mức độ cao thế nào nhưng nếu thiếu nguồn nhân lực hoặc nhân lực có chất lượng thấp, không đáp ứng được với trình độ khoa học công nghệ đó thì hiệu quả hoạt động không như mong muốn. Đầu tư phát triển nguồn nhần lực có ý nghĩa quan trọng trong bất kỳ thời kỳ nào của nền kinh tế đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi yêu cầu về sản phẩm, dịch vụ ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng tăng trưởng. Thời gian tới cần tiếp tục đầu tư cho giáo dục và đào tạo với tỷ trọng thỏa đáng. Coi trọng đầu tư cho giáo dục đào tạo với quan điểm “ đầu tư cho giáo dục là quốc sách”, tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các cấp. Đặc biệt là đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ khoa học, công nghệ cao, nắm bắt được những thay đổi nhanh chóng của sự phát triển khoa học công nghệ, xây dựng và tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý giỏi ở các cấp, các ngành cùng với đội ngũ công nhân lành nghề. Đây là lực lượng nòng cốt có vai trò quan trọng trong các hoạt động của nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần phải chú trọng đến nguồn nhân lực của khu vực nông thôn. Tăng cường đầu tư phát triển cho khu vực này sẽ góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động nặng nhọc, tăng tỷ trọng lao động có tay nghề, lao động được trang bị kiến thức, có chất xám để làm việc. Bên cạnh đó cần cần phải tiến hành đầu tư đồng bộ những cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như thực hiện những biện pháp hỗ trợ về y tế, môi trường, phòng chống bệnh tật, bảo hiểm y tế để đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất xã hội. Đây là môt trong những giải pháp cần thiết để trực tiếp nâng cao năng suất lao động và năng suất nhân tố tổng hợp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư Lấy thực tế ở Việt nam để chứng minh.DOC
Luận văn liên quan