Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG I: Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài 4 I. Khái niệm, phân loại và bản chất của nguồn vốn 4 1. Khái niệm: 4 2. Phân loại nguồn vốn đầu tư: 4 3. Bản chất nguồn vốn đầu tư 8 II. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế 9 1. Sự cần thiết phải có cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng 9 2. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài 12 CHƯƠNG II: Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 23 I. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định 23 1. Nguồn vốn trong nước mang tính ổn đinh và bền vững, có thể chủ động trong việc huy động và sử dụng. 23 2. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào những ngành, lĩnh vực cần thiết 26 3. Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài 30 4. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả. 34 5. Nguồn vốn trong nước là nguồn chi trả các khoản vay nước ngoài và giảm áp lực nợ nước ngoài cho nền kinh tế. 36 II. Tác động của nguồn vốn nước ngoài đối với nguồn vốn trong nước 40 1. Thành tựu 40 2. Hạn chế: 49 Chương III: Một số kiến nghị chủ yếu nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. 52 I. Nguồn vốn trong nước: 52 1. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư: 52 2. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: 53 II. Nguồn vốn nước ngoài: 54 1. Đối với nguồn vốn FDI: 54 2. Đối với nguồn vốn ODA: 56 LỜI KẾT 61 TÀI LIỆU THAM KHẢO 62 LỜI MỞ ĐẦU    Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao, GDP đầu người hàng năm tăng. Thêm vào đó, môi trường đầu tư ở nước ta ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước góp phần làm cho nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng tăng mạnh. Đặc biệt, từ năm 2008, sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã làm cho lượng vốn đầu tư đổ về Việt Nam càng nhiều hơn đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài có quan hệ mật thiết với nhau trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hiện nay ở nước ta cũng có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai nguồn vốn này và các nghiên cứu đó cũng đã đưa ra được rất nhiều nhận định đúng đắn. Tuy nhiên, trên thực tế, nhận định của các nhà nghiên cứu vẫn chưa thực sự đi kèm với các giải pháp đẩy mạnh mối quan hệ này nhằm tác động đến việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế ở nước ta. Chính vì vậy, chúng em đã chọn đề tài này để tài này để nghiên cứu nhằm cung cấp thêm cho các bạn sinh viên khối ngành kinh tế đặc biệt là chuyên ngành kinh tế đầu tư những kiến thức chung nhất về nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa hai nguồn vốn này trong nền kinh tế hiện nay. Từ đó, các bạn sẽ tìm ra mối liên hệ giữa hai nguồn vốn này trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta và cuối cùng đi đến những giải pháp thiết thực nhất nhằm kết hợp lợi ích tối ưu của hai nguồn vốn này. Thông qua nghiên cứu nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài, ngoài việc chỉ ra các lý luận chung về hai nguồn vốn này, đề tài còn cung cấp những thông tin về thực trạng sử dụng cũng như những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến việc tăng giảm dòng vốn đầu tư tại Việt Nam. Từ đó, chúng ta có được cái nhìn bao quát về tình hình kinh tế đất nước để có những phương hướng mới thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển. Với việc nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam” chúng em xin trình bày những nội dung chính sau đây: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Chương II: Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Qua tìm hiểu và phân tích các số liệu, đề tài của chúng em đã đưa ra một số định hướng rõ rang trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn, điều kiện tiếp xúc thực tế chưa nhiều và khả năng đánh giá còn non nớt nên đề tài của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót trong cách nhìn tổng thể. Kính mong thầy giáo và các bạn đóng góp thêm ý kiến để chúng em có thể hoàn thiện đề tài. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

doc63 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3666 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính dự báo trong chuỗi cung ứng, phương tiện vận chuyển trên bộ đã cũ, không hiệu quả, không tuân thủ các quy định về hạn chế trọng lượng vận tải cũng dẫn đến chi phí hoạt động cao hơn và kém an toàn”. Nhằm giải quyết những vướng mắc này, theo gợi ý của ông Brian O’Reilly, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại Australia: “Việt Nam cần chú ý đến hình thức đối tác công - tư. Mô hình đối tác công tư bao gồm thành phần doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ góp phần quan trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Nhằm giải quyết phần nào những vấn đề này, cần cải thiện những thủ tục hành chính, đặc biệt là trong các dự án và hợp đồng”. Việt Nam đã thành công trong việc mở rộng tiếp cận đến các dịch vụ cơ sở hạ tầng trong hơn 20 năm qua, nhưng còn rất nhiều việc phải làm để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, tháo gỡ những “nút thắt” của nền kinh tế. “Các chính sách và thể chế trước đây thành công nhưng so với tình hình bây giờ cần phải được điều chỉnh vì sự phát triển của Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông khẳng định. Theo nhiều khảo sát quốc tế nhận định, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu phát triển nhưng những trở ngại về cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn chưa được giải quyết một cách hiệu quả. Thực tế, chính những tắc nghẽn về cơ sở hạ tầng hiện được xem là vấn đề lớn nhất cản trở môi trường kinh doanh của đất nước. Vượt qua những rào cản cơ sở hạ tầng này, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khả quan và bền vững, hiện thực hóa những mục tiêu phát triển đã đề ra cho những thập niên sắp tới. 4. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả. Theo kinh ngiệm của một số nước nhóm NICs thì giai đoạn đầu của quá trình phát triển, tỷ lệ vốn đối ứng so với vốn nước ngoài thu hút được thường thấp, ở mức 1/1.5 nghĩa là một đồng vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau, khi các chương trình đầu tư nghiêng về ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này thường tăng lên 1/2.5. Ở Việt Nam, nhu cầu về vốn đối ứng cho các dự án ODA cũng rất lớn nhưng tình hình bố trí vốn đối ứng từ phía Việt Nam để chuẩn bị cho việc tiếp nhận vốn ODA, đáp ứng yêu cầu của nhà tài trợ còn chậm trễ và thiếu kịp thời dẫn đến tình hình giải ngân vốn ODA quá chậm. Thậm chí, nhiều dự án ODA, nhà tài trợ đã ngừng giải ngân vốn ODA do vốn đối ứng không đáp ứng được. Điều này gây tác động xấu đến việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã hội vì giai đoạn hiện nay, nhu cầu về vốn đầu tư của đất nước là rất lớn. Không những bổ sung lượng vốn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế, việc giải ngân nguồn vốn ODA nhanh chóng sẽ đóng góp tích cực cho chương trình kích cầu đầu tư, tăng trưởng GDP. Bộ Kế hoạch – Đầu tư công bố: trong 6 tháng đầu năm 2010, số vốn ODA được giải ngân là 720 triệu USD. Kết quả này chỉ bằng 38% kế hoạch năm 2010. Đáng chú ý là việc giải ngân chậm diễn ra ở nhiều dự án quan trọng thuộc lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng. Theo Bộ KH-ĐT, một số đơn vị có mức giải ngân ODA thấp dưới 40% là Bộ GTVT (38%), Bộ Y tế (27,9%), Thành phố Đà Nẵng (6,66%), Thành phố Cần Thơ (11,6%), Thành phố Hà Nội (36%). Bộ GTVT chủ trì 38 dự án ODA thì có tới 27 dự án mới giải ngân bằng 20% kế hoạch năm, 6 dự án đạt mức giải ngân từ 20-40% kế hoạch năm. Các dự án giải ngân ODA thấp là dự án hành lang ven biển phía Nam (0,03%), cầu Nhật Tân (0,96%), cảng Cái Mép- Thị Vải (2,57%), quốc lộ 3 mới Hà Nội - Thái Nguyên (7,15%). Thành phố Hà Nội đang quản lý 19 dự án ODA quan trọng. Năm 2010, Hà Nội sẽ phải thực hiện 631 tỷ đồng nhưng 4 tháng đầu năm, mới giải ngân đuợc 36% kế hoạch năm. Trong đó, điển hình chậm giải ngân vốn ODA là dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long- Vân Trì mới đạt 5%, dự án phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, tiểu phần thành phố Hà Nội mới đạt có 1%, dự án trường cao đẳng dạy nghề Hàn Quốc- Thành phố Hà Nội đạt 10%, dự án phát triển giao thông đô thị Hà Nội mới đạt 12%. Bộ KH-ĐT cho biết, những dự án đầu tư lớn phát triển cơ sở hạ tầng đều thuộc lĩnh vực ưu tiên bố trí vốn đối ứng. Bộ GTVT thường đề nghị bố trí khối lượng vốn đối ứng lớn, song thực tế không giải ngân hết. Trong khi đó, vốn đầu tư cho các dự án khác trong nước lại thiếu. Việc chậm giải ngân như vậy đã ảnh hưởng tới cả cân đối ngân sách chung và kế hoạch phát triển của các ngành. Theo báo cáo của 8 bộ ngành và 48 tỉnh, thành phố, số dự án ODA đạt mức giải ngân khá từ 60% trở lên so với kế hoạch năm, chỉ chiếm có 1/5 tổng số dự án (121/556 dự án). Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, 50% khối lượng giải ngân ODA là từ các dự án điện. Các dự án trong lĩnh vực giao thông, nâng cấp đô thị, giáo dục có mức giải ngân thấp hoặc trung bình. Các dự án công nghệ thông tin có mức giải ngân kém nhất. Bộ KH-ĐT cho rằng, những nguyên nhân cơ bản dẫn tới giải ngân chậm ODA là do cơ chế, chính sách trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng còn nhiều bất hợp lý, năng lực của cả cơ quan chủ quản và các nhà thầu còn hạn chế, cơ chế bố trí vốn đối ứng chưa hợp lý. Thứ trưởng Bộ KH-ĐT, ông Cao Viết Sinh khẳng định, sẽ không để thiếu vốn đối ứng cho bất cứ dự án trọng điểm nào. “:Bảo đảm bố trí kịp thời và đầy đủ nguồn vốn đối ứng theo tiến độ thực hiện chương trình, dự án ODA. Bộ nào, địa phương nào có khả năng giải ngân ODA vượt mức sẽ được hỗ trợ thủ tục cần thiết để giải ngân nhanh vì nguồn vốn này không bị ràng buộc bởi kế hoạch đầu năm. Nếu vốn đối ứng thiếu, các đơn vị làm ngay kiến nghị Bộ KHĐT sẽ không để thiếu một đồng nào vốn đối ứng, cũng như sẵn sàng ứng vốn đối ứng 2010 để bảo đảm đủ nhu cầu cho các công trình trọng điểm, cấp thiết. 5. Nguồn vốn trong nước là nguồn chi trả các khoản vay nước ngoài và giảm áp lực nợ nước ngoài cho nền kinh tế. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nên vay nợ nước ngoài là điều tất yếu. Để đánh giá tình trạng nợ của Việt Nam có thể xem xét trên các phương diện về quy mô, cơ cấu và các chỉ số về khả năng trả nợ. 5.1 Tổng nợ và thu nhập quốc dân Nguồn: Asia Development Bank 2007 Biểu 1: Tổng nợ và thu nhập quốc dân (GNI) Trong những năm đầu thập niên 90 Việt Nam là một nước nợ lớn, tổng nợ cao hơn nhiều lần so với tổng thu nhập quốc dân. Tổng nợ năm 1990 là 23,27 tỷ USD trong khi tổng thu nhập quốc dân (GNI) là 6,06 tỷ cho thấy sự khủng hoảng về khả năng thanh toán nợ của Việt Nam. Tuy nhiên nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh nên từ nửa sau thập niên 90 tổng thu nhập quốc dân đã tăng lên liên tục cộng với việc giảm nợ và xóa nợ của một số nhà tài trợ đặc biệt là Nga với những khoản nợ để lại từ thời Liên Xô cũ nên tổng nợ giảm liên tục, đến năm 2000 tổng nợ chỉ còn 11,586 và chỉ bằng 1/3 so với tổng thu nhập. Khả quan đối với phát triển kinh tế, Việt Nam đã nhận được nhiều khoản vay phát triển mới đặc biệt là vốn ODA từ Nhật Bản, WB và ADB. Đến năm 2005 dù tổng nợ đã tăng lên gần 20 tỷ USD nhưng cũng chỉ bằng khoảng 40% tổng thu nhập quốc dân. 5.2 Nợ phải trả hàng năm và giá trị xuất khẩu Nguồn: Asia Development Bank 2007 Biểu 2: Nợ phải trả hàng năm và giá trị xuất khẩu Giá trị xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu thể hiện cho khả năng trả nợ của một quốc gia. Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế của khu vực và thế giới, Việt Nam là một trong những nước có độ mở cửa thương mại lớn nhất thế giới (tỉ lệ giá trị xuất nhập khẩu/GDP là 150%). Tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 15 lần từ 2,4 tỷ USD năm 1990 lên 32,4 năm 2005 và hơn gấp đôi tổng số nợ hiện hữu. Mặc dù Việt Nam có mức tổng nợ lớn nhưng nợ phải trả hàng năm bao gồm trả nợ gốc và trả lãi lại khá thấp. Do phần lớn các khoản nợ là những khoản viện trợ không hoàn lại hoặc vay ưu đãi với lãi suất thấp. Giá trị xuất khẩu cao hơn gấp nhiều lần so với số nợ phải trả hàng năm cho thấy tính thanh khoản trong khả năng thanh toán nợ nước ngoài.  5.3 Nợ phải trả hàng năm và thu ngân sách chính phủ Đối với những quốc gia đang phát triển, các khoản vay nước ngoài chủ yếu là vay nợ của chính phủ hoặc do chính phủ đảm bảo. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là khu vực tư nhân chưa đủ uy tín để có thể vay mượn trực tiếp các nguồn vốn từ bên ngoài. Do đó khả năng trả nợ của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào giá trị xuất khẩu mà còn phải căn cứ vào nguồn thu của chính phủ. Nguồn: Asia Development Bank 2007 Biểu 3: Tổng nợ - nợ phải trả - thu ngân sách Cùng với đà tăng trưởng kinh tế, nguồn thu của chính phủ tăng lên rất nhanh từ mức dưới 1 tỷ USD năm 1990 đã tăng lên gần 5 tỷ năm 1995 và đến năm 2005 đạt hơn 13 tỷ USD. Trong những năm gần đây nợ nước ngoài phải trả hàng năm dưới 10% tổng thu ngân sách. Trong khi thu ngân sách của chính phủ ngày càng tăng cao và tỉ trọng nợ phải trả không lớn là những điều khiện thuận lợi đảm bảo cho khả năng thanh toán nợ của chính phủ và tạo được lòng tin cho các nhà tài trợ. 5.4 Cơ cấu về  nợ ngắn hạn và dài hạn Cơ cấu về tỉ lệ nợ ngắn hạn và dài hạn cho thấy khả năng ổn định của dòng vốn vay nợ nước ngoài. Tỉ lệ vay ngắn hạn càng cao thì dòng vốn càng dễ đổi chiều và gây bất ổn cho nền kinh tế. Tuy có mức vay nợ nhiều nhưng cơ cấu nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là nợ dài hạn. Tỉ lệ nợ dài hạn trên tổng nợ luôn ở mức trên dưới 90% trong khi nợ ngắn hạn trên tổng nợ thường ở mức dưới 10%, thời điểm cao nhất cũng ở mức 14% năm 1996. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 khiến nhiều nước rơi vào khủng hoảng do các dòng vốn chảy ra nhất là những nước vay nợ ngắn hạn cao như Thái Lan, nhưng Việt Nam lại không bị ảnh hưởng trực tiếp một phần cũng vì tỉ lệ vay ngắn hạn thấp. 5.6 Chỉ số an toàn về nợ của Việt Nam Căn cứ theo hệ thống chỉ số đánh giá nợ của WB đối với một quốc gia, các chỉ số nợ của Việt Nam được thể hiện trong bảng sau: Bảng 4: Chỉ số nợ của Việt Nam qua các năm Chỉ số (%) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Mức độ Tổng nợ/GNI 42 39 39 41 41 38 Trung bình Tổng nợ/xuất khẩu 89 84 80 79 68 59 Yếu Nợ phải trả hàng năm/ xuất khẩu 9 8 7 4 3 3 Yếu Tổng nợ/thu ngân sách 210 186 172 161 145 143 Yếu Nợ phải trả hàng năm/thu ngân sách 21 17 15 7 6 7 Yếu Nguồn: Asia Development Bank, 2007 Các chỉ số về nợ cho thấy một hệ số an toàn cao đối với tình trạng nợ của Việt Nam. Chỉ số về tổng nợ trên tổng thu nhập quốc dân (38%) ở vào mức trung bình và đang có xu hướng giảm từ năm 2000 tới 2005. Ngoài ra, hầu hết các chỉ số khác đều ở dưới mức có thể gây ra khủng hoảng về nợ hoặc tính thiếu thanh khoản để trả nợ. Kết luận: Vốn ODA có vai trò rất lớn đối với đầu tư phát triển góp phần nâng cao mức sống cho người dân thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, v.v…. Nợ nước ngoài đối với Việt Nam cho tới thời điểm này chủ yếu là vốn ODA với lãi suất thấp và thời gian cho vay dài, tỷ lệ vay thương mại là không đáng kể. Các chỉ số an toàn về nợ nước ngoài cho thấy Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn và khó có khả năng xảy ra khủng hoảng về nợ giống như các nước từng vướng phải như Mexico, Argentina hay Thái Lan. II. Tác động của nguồn vốn nước ngoài đối với nguồn vốn trong nước Thành tựu Trong thời kỳ hiện nay, nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam phải kể đến hai nguồn chính là nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. Hai nguồn vốn này hiện đang có những tác động mạnh mẽ tới nguồn vốn trong nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế nước ta. 1.1 Nguồn vốn nước ngoài bổ sung cho nguồn vốn đang thiếu hụt trong nước Trước hết phải kể đến việc tăng thu Ngân sách Nhà nước do sự đóng góp của bộ phận các doanh nghiệp FDI và một phần viện trợ không hoàn lại nằm trong ODA. Ngân sách Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư trong nước. Vì vậy, việc tăng thu cho Ngân sách chính là làm tăng nguồn vốn trong nước. Bảng 5: Tỷ lệ thu NSNN của khu vực FDI và ODA qua các năm Đơn vị: Tỷ đồng Năm Tổng thu NSNN Thu từ FDI Thu từ ODA Thu Tỷ lệ % Thu Tỷ lệ % 2002 123860 7276 5,87 2249 1,82 2003 152274 9942 6,53 2969 1,95 2004 190928 15109 7,91 2877 1,51 2005 228287 19081 8,36 3789 1,66 2006 279472 25838 9,25 7897 2,83 2007 315915 31388 9,94 4256 1,35 2008 416783 43848 10,52 7275 1,74 Nguồn: Tổng cuc thống kê Đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào thu Ngân sách Nhà nước có xu hướng tăng dần qua các năm trở lại đây. Nguyên nhân là do, các dự án FDI đầu tư vào nước ta đang dần bước vào giai đoạn phát triển và thu lợi nhuận. Những năm đầu, thu Ngân sách từ khu vực này chưa cao một phần là do các dự án FDI mới được đầu tư còn đang trong giai đoạn thực hiện đầu tư nên chưa thu được kết quả. Sau khi hoàn thành giai đoạn thực hiện đầu tư và đưa vào giai đoạn vận hành kết quả đầu tư nên doanh thu cũng như lợi nhuận tăng, khả năng đóng góp vào Ngân sách ngày càng tăng. Khu vực FDI đóng một vai trò quan trọng trong thu Ngân sách. Tuy nhiên, hiện nay, do sự quản lý thiếu chặt chẽ của các cơ quan có thẩm quyền nên, tỷ lệ thu Ngân sách từ khu vực FDI còn chưa tương xứng với số vốn FDI đã triển khai tại Việt Nam. Cụ thể, trong 10 năm qua, tổng số vốn triển khai là 48 tỷ USD trong khi mức bình quân trích nộp Ngân sách hàng năm là 1 tỷ USD/năm. Điều này đưa ra hoài nghi về tình trạng chuyển giao giá xảy ra ở các doanh nghiệp FDI hiện nay làm thất thoát nguồn thu của Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, cần phải có các biện pháp nâng cao công tác quản lý, tăng cường các biện pháp kiểm tra để tránh tình trạng các doanh nghiệp lợi dụng khe hở pháp luật làm lợi không chính đáng nhằm quản lý được nguồn thu tương xứng từ khu vực FDI cho Ngân sách. Khó khăn lớn nhất của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng là sự thiếu thốn về cơ sở hạ tầng hiện đại . Tuy nhiên do nguồn vốn trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu xây mới, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nên nguồn vốn nước ngoài lúc này trở nên rất quan trọng, đặc biệt là nguồn vốn ODA. Lượng vốn ODA đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng đặc biệt là từ năm 2007 trở lại đây, đã giúp nước ta cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Năm 2007, tổng mức cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam là 4,445 tỷ USD, vượt 700 triệu USD so với năm 2006, trong đó, các nhà tài trợ song phương cam kết viện trợ cho Việt Nam 2,164 tỷ USD, đa phương 2,101 tỷ USD và từ các tổ chức phi chính phủ 180 triệu USD. Năm 2008, các nhà tài trợ đã cam kết khoản ODA cho Việt Nam là 5,426 tỷ USD. Tuy năm 2009, lượng vốn cam kết có giảm xuống còn 5,015 tỷ USD nhưng đến năm 2010, lượng vốn cam kết cho Việt Nam đã đạt kỷ lục 7,905 tỷ USD. Trong số các nhà tài trợ, đáng chú ý nhất là nguồn vốn ODA từ Nhật Bản, và từ Ngân hàng phát triển châu Á – ADB. Đây là những nhà tài trợ khổng lồ trong tổng hỗ trợ ODA vào Việt Nam. Cụ thể: Bảng 6: Cơ cấu nguồn vốn ODA theo chủ thể cho vay qua các năm Chủ thể cho vay Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Chính phủ Nhật Bản 30,78 33,03 34,06 32,69 33,8 Pháp 4,99 5,95 6,08 5,6 5,86 Nga 13,56 6,22 5,15 5,31 4,76 Các nước khác 12,59 11,42 10,89 10,94 10,03 Tổng 61,91 56,62 56,18 54,54 54,45 Tổ chức tài chính quốc tế ADB 12,86 14,48 14,52 14,75 15,01 IDA 19,8 24,26 25,38 26,81 26,83 IMF 4,18 3,21 2,26 1,75 1,41 Tổng 38,08 43,38 43,82 45,45 45,55 Nguồn:Bộ Tài chính 2007 Hàng năm, nguồn hỗ trợ ODA từ Nhật chiếm tỷ trọng rất lớn. Năm 2007, Nhật Bản đứng thứ ba danh sách hỗ trợ ODA cho Việt Nam với 890 triệu USD. Trong năm 2007, liên minh châu Âu EU cũng tài trợ cho Việt Nam số vốn rất lớn 948,2 triệu USD. Sang năm 2008, do sự cố ở công ty PCI, Nhật đã ngừng cung cấp ODA cho Việt Nam làm giảm đáng kể lượng vốn từ nhà tài trợ này và giảm lòng tin của các nhà tài trợ vào Việt Nam. Đây chính là bài học đắt giá cho Việt Nam trong việc quản lý và sử dụng nguồn ODA một cách rõ ràng, chính đáng và hợp lý nhằm tạo lòng tin cho các nhà tài trợ và nâng cao hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này ở nước ta. Tuy nhiên, sau khi đồng ý để Nhật tham gia vào quản lý nguồn ODA, thì số vốn hỗ trợ từ phía Nhật Bản không những tăng lên mà còn lập kỷ lục năm 2009 với mức hỗ trợ lên tới 1,63 tỷ USD. Bên cạnh Nhật, ADB cũng là một nhà tài trợ lớn của Việt Nam. Năm 2007, ADB đứng đầu danh sách các nhà tài trợ với số vốn lên tới 1,14 tỷ USD. Sang năm 2009, ADB tài trợ cho Việt Nam với số vốn 1,57 tỷ USD. Nguồn vốn ODA này được ưu tiên đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng như: giao thông vận tải, sản xuất và truyền tải điện, thông tin liên lạc, cấp thoát nước… Cụ thể: Bảng 7: Tỷ trọng vốn ODA phân theo ngành trong các hiệp định đã ký Đơn vị: % STT Ngành Tỷ trọng 1 Năng lượng điện 27,2 2 Giao thông vận tải 26,8 3 Tín dụng điều chỉnh cơ cấu 14,2 4 Nông nghiệp và xóa đói giảm nghèo 10,2 5 Cấp thoát nước 7,1 6 Lĩnh vực xã hội 6,8 7 Các ngành khác 7,8 Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính Như vậy bằng cách đầu tư phát triển và cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng trong nước, nguồn vốn ODA đã góp phần tạo động lực thu hút FDI đầu tư vào Việt Nam đặc biệt là đầu tư vào những khu vực mới, các ngành sản xuất mới. 1.2 Nguồn vốn nước ngoài thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước Đầu tiên phải kể đến tác động của nguồn vốn nước ngoài vào việc cải tiến kĩ thuật công nghệ của nền kinh tế thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI. Nhờ đó, năng suất lao động trong nước cũng như tổng sản phẩm quốc dân của nước ta những năm gần đây đã tăng lên đáng kể. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật lỗi thời, kém phát triển, mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa là một thách thức lớn đối với Việt Nam nếu hoàn toàn dựa vào nội lực đất nước tức là nguồn vốn trong nước. Chính vì vậy, FDI đóng vai trò là cú huých, đưa Việt Nam thoát khỏi “cái vòng luẩn quẩn” nghèo đói ấy. Với quá trình chuyển giao công nghệ của FDI, cơ cấu kinh tế của nước ta đã có những thay đổi rõ rệt, tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng, tỷ trọng nông nghiệp giảm, Việt Nam đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa. Nguồn: tổng cục thống kê Biểu 4: Cơ cầu tổng sản phẩm quốc dân phân theo khu vực kinh tế Không chỉ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành mà cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay cũng đang có những bước chuyển dịch theo vùng đáng kể. Cả nước đã hình thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm là động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Trước đây, nguồn FDI chủ yếu đầu tư vào những vùng có kinh tế phát triển, đặc biệt là khu vực Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh… Ngoài ra, những khu vực nông thôn, các tỉnh thành phố còn chưa phát triển, đang thực sự cần có nguồn FDI đầu tư vào thì vẫn không được chú ý đến mặc dù nếu đầu tư vào những vùng này dự án được ưu đãi rất nhiều về thuế, tiền thuê đất…. Nguyên nhân chính xảy ra tình trạng này là do ở các thành phố lớn, cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc thuận lợi, điện nước đầy đủ nên các doanh nghiệp đầu tư vào vùng này không mất công xây dựng cơ sở từ đầu, tiết kiệm chi phí vận chuyển… Trong khi đó, vùng nông thôn hoặc các tỉnh thành chưa xây dựng được kết cấu hạ tầng ban đầu nên khi doanh nghiệp đầu tư vào đây thì họ buộc phải xây dựng cơ sở hạ tầng từ đầu. Như vậy, khoản ưu đãi mà họ nhận được cũng không thể hấp dẫn họ đầu tư vào những vùng này. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA đầu tư vào Việt Nam đã giải quyết được phần nào khó khăn về cơ sở hạ tầng cho nước ta. 1.3 nguồn vốn nước ngoài góp phần tạo ra năng lực sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là khu vực FDI đã cung cấp cho nước ta nhiều công nghệ mới, hiện đại mà biểu hiện cụ thể nhất ở các ngành viễn thông, dầu khí, ô tô, xe máy…tạo tiền đề cho sự phát triển của một số ngành công nghiệp mũi nhọn ở nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp FDI điển hình như Honda trong lĩnh vực sản xuất ô tô, xe máy, Intels trong lĩnh vực điện tử,… chính là những người đi đầu trong việc tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng học hỏi được phương thức quản lý và làm việc của các doanh nghiệp FDI. Cụ thể, trong các doanh nghiệp có vốn FDI, các cán bộ, nhân viên, kĩ sư người Việt có cơ hội học hỏi công nghệ quản lý, tác phong làm việc, kĩ năng xử lý công việc của các cán bộ quản lý nước chủ đầu tư. Cùng với việc tạo ra năng lực sản xuất mới, các doanh nghiệp FDI còn tạo ra năng lực cạnh tranh mạnh mẽ cho các doanh nghiệp trong nước. Trước đây, khi chưa có các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng ảm đạm, thiếu sức cạnh tranh, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm và bán ra thị trường không mấy quan tâm đến chất lượng cũng như giá thành sản phẩm vì người tiêu dung không có nhiều lựa chọn cho những sản phẩm đó. Nhưng hiện nay, các công nghệ hiện đại của thế giới phát triển, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hợp lý, mẫu mã đẹp trở thành thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước. Khi các doanh nghiệp FDI xuất hiện tại Việt Nam, sản phẩm của họ được chào đón rộng rãi khiến các doanh nghiệp trong nước phải nhìn lại chính mình, thay đổi, cải tiến sản xuất, cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp FDI cũng như những sản phẩm nhập khẩu. Những năm gần đây, các tổ chức kinh tế thế giới cũng đã nhận thấy rằng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tăng. 1.4 Nguồn vốn nước ngoài làm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Khi chưa có đầu tư nước ngoài, Việt Nam phải nhập khẩu các sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao như ô tô, xe máy, linh kiện điện tử, máy móc…đây là những sản phẩm có giá trị rất cao. Trong khi đó, sản phẩm xuất khẩu của nước ta lại chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp, giá trị thấp. Chính vì vậy trong nhiều năm, cán cân thương mại của nước ta đều trong tình trạng thâm hụt. Nhờ có nguồn vốn đầu tư nước ngoài, kĩ thuật công nghệ trong nước được cải thiện và đổi mới, nhiều sản phẩm mới được sản xuất ra trong nước, thay thế hàng nhập khẩu, nhiều sản phẩm khác được sản xuất ra với mục đích xuất khẩu đã thay đổi cán cân thương mại nước ta, đưa nước ta dần thoát khỏi tình trạng nhập siêu. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng lên, kim ngạch nhập khẩu giảm xuống, làm tăng nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động ngoại thương. Biểu 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa qua các năm 1.5 Nguồn vốn nước ngoài góp phần tạo việc làm cho người lao động Việt Nam Khi đầu tư vào nước ta, các doanh nghiệp nước ngoài đã tạo ra khối lượng việc làm khá lớn cho người dân Việt Nam giúp góp phần giải quyết hiệu quả tình trạng thất nghiệp của lao động trong nước. Biểu 7: Lao động Việt Nam làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Đơn vị tính: triệu người Không chỉ làm tăng lượng việc làm cho lao động trong nước trực tiếp làm việc tại các doanh nghiệp nước ngoài, nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn làm gia tăng nguồn thu nhập một cách gián tiếp cho các lao động xung quanh khu vực doanh nghiệp đầu tư vào. Ví dụ như một nhà máy đường được đầu tư thành lập ở một địa phương thì ngoài lượng việc làm tạo ra cho những công nhân trực tiếp sản xuất trong nhà máy, doanh nghiệp còn tạo ra thu nhập gián tiếp cho người dân xung quanh đó thông qua việc trồng vùng nguyên liệu mía để cung cấp cho nhà máy.Thêm vào đó, thu nhập của người lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng cao hơn thu nhập của người lao động ở khu vực khác trung bình khoảng 30%. 1.6 Nguồn vốn nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình phát triển đổi mới và hội nhập Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, mở rộng bạn hàng và thị phần quốc tế Với sự hỗ trợ của nguồn vốn nước ngoài, nền kinh tế trong nước có những bước phát triển nhanh chóng, Việt Nam đã dần thoát ra khỏi nhóm nước có thu thấp trên thế giới, kinh tế nước ta những năm gần đây luôn tăng trưởng với tốc độ cao. Năm 2009, tốc độ tăng trưởng đạt 5,32%, năm 2010, tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng đầu năm đạt 6,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Mặt khác, sự kiện Việt Nam chính thức gia nhâp tổ chức thương mại thế giới WTO đã đánh dấu một mốc son trong công cuộc đổi mới và hội nhập nền kinh tế của nước ta hiện nay. Việt Nam đã bắt kịp với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Sau sự kiện này, nước ta có cơ hội tiếp cận với những nền kinh tế năng động, khoa học công nghệ phát triển trên thế giới, từ đó, học hỏi những kinh nghiệm quản lý và áp dụng linh hoạt vào nền kinh tế trong nước để kinh tế phát triển ngày càng nhanh chóng, ngày càng hợp lý. Hạn chế: Nguồn vốn nước ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta. Bên cạnh những tác động tích cực đến nền kinh tế thì nguồn vốn nước ngoài cũng đem đến những ảnh hưởng tiêu cực cho kinh tế nước ta nếu như nguồn vốn nước ngoài không được quản lý và sử dụng một cách hợp lý. Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đều nhằm mục đích lợi nhuận do vậy các doanh nghiệp này sẽ luôn tìm mọi cách để tối đa hóa lợi nhuận. Như vậy, để giảm thiểu chi phí, họ không quan tâm đến các quy trình xử lý chất thải công nghiệp mà xả thẳng chất thải ra môi trường hoặc xử lý không đúng tiêu chuẩn làm cho môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Trường hợp của công ty Vedan là một điển hình cụ thể. Công ty này đã không xử lý nước thải mà xả thẳng ra con sông Thị Vải làm ô nhiễm nặng nề nguồn nước ở đây và ảnh hưởng trực tiếp đến người dân quanh vùng cũng như môi trường sinh thái của con sông. Thêm vào đó, các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay chủ yếu hoạt động trong những lĩnh vực đòi hỏi nhiều tài nguyên thiên nhiên. Do vậy, hoạt động của các doanh nghiệp này có nguy cơ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta vì việc khai thác quá mức mà không có biện pháp bảo vệ. Hơn nữa, do chế độ đãi ngộ đối với những lao động có trình độ cao của các doanh nghiệp nước ngoài tốt hơn các doanh nghiệp trong nước nên dẫn đến việc những lao động có trình độ tay nghề cao bị thu hút vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gây ra tình trạng chảy máu chất xám. Thật vậy, chỉ tính riêng về lương, lao động trong khu vực này cũng có thu nhập cao hơn khu vực khác khoảng 30%. Ngoài ra trong quá trình làm việc, có rất nhiều chế độ trợ cấp, phụ cấp và thưởng theo doanh thu cho người lao động nếu họ có năng lực, thái độ làm việc tốt và năng suất lao động cao. 2.2 Nguồn vốn nước ngoài tạo ra áp lực trả nợ cho nguồn vốn trong nước Trong tổng nguồn vốn hỗ trợ ODA, chỉ có một phần nhỏ là nguồn viện trợ không hoàn lại, còn phần lớn là nguồn vốn cho vay ưu đãi của các tổ chức, chính phủ nước ngoài. Vì vậy, đây là một khoản nợ phải trả của chính phủ nước ta. Trong quá trình sử dụng nguồn vốn này, nếu như việc quản lý vốn không tốt sẽ xảy ra tình trạng lãng phí, thất thoát khiến cho hiệu quả sử dụng vốn không cao. Sau đó, khi các dự án ODA được đưa vào sử dụng, nếu hiệu quả đầu tư không cao, việc thu hồi vốn chậm thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của chính phủ nước ta trong thời kỳ các khoản vay đến hạn. Hiện nay ở Việt Nam, công tác quản lý và sử dụng nguồn ODA chưa thực sự tốt khiến lòng tin của các nhà tài trợ vào khả năng tài trợ cho nước ta còn chưa cao. Điều này thể hiện qua tỷ lệ vốn cam kết, vốn ký kết và vốn giải ngân như sau: Biểu 8: Tỷ lệ vốn ODA cam kết, ký kết và giải ngân ở Việt Nam 2.3 Gây sức ép với các doanh nghiệp trong nước, làm phá sản các doanh nghiệp nhỏ Bên cạnh tác động tích cực đến việc tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước thì các doanh nghiệp nước ngoài cũng đồng thời khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ trong nước phải cạnh tranh không cân sức dẫn đến phá sản bộ phận doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp nước ngoài hầu hết là những doanh nghiệp lớn mạnh, có nguồn vốn lớn, kĩ thuật công nghệ cao, khả năng chịu thua lỗ tạm thời và khủng hoảng tốt. Vì vậy, các doanh nghiệp này luôn có ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Về chất lượng, sản phẩm ở khu vực này có chất lượng tốt, về giá cả, do dây chuyền sản xuất lớn, công nghệ mới nên chi phí sản xuất thấp dẫn đến giá cả cạnh tranh. Đây là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất nhỏ trong nước. Thêm vào đó, các doanh nghiệp này đôi khi chịu thua lỗ, bán với giá rẻ, cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước nhằm làm thâu tóm bộ phận doanh nghiệp này. Với khả năng vốn lớn, các doanh nghiệp nước ngoài có thế bù đắp được khoản lỗ này, nhưng các doanh nghiệp trong nước thì do quy mô nhỏ, vốn ít nên không thể cầm cự được lâu trong tình trạng thua lỗ. Như vậy, các doanh nghiệp nước ngoài có được cơ hội mua lại các doanh nghiệp phá sản để mở rộng sản xuất và độc chiếm thì trường sản phẩm. 2.4 Ảnh hưởng đến cán cân thương mại quốc gia Mặt trái của việc cải thiện cán cân thương mại là việc nguồn vốn nước ngoài góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại do một số doanh nghiệp đầu tư vào nước ta đã nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài nhưng sản phẩm lại tiêu thụ tại thị trường trong nước. Ví dụ như các doanh nghiệp sản xuất xe máy tại Việt Nam như Honda, Yamaha… các doanh nghiệp này đều nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài về, lắp ráp tại Việt Nam và tiêu thụ tại thị trường Việt Nam. Chương III: Một số kiến nghị chủ yếu nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Nguồn vốn trong nước: Nguồn vốn trong nước đóng vai trò là yếu tố thúc đẩy sự gia tăng của nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Nếu như nguồn vốn đầu tư trong nước dồi dào, một mặt có thể tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài về độ hấp dẫn và khả năng đầu tư có lợi nhuận cao của môi trường đầu tư trong nước. Mặt khác, nguồn vốn đầu tư trong nước là nhân tố tạo tiền đề cho hoạt động đầu tư nước ngoài ví dụ như vốn trong nước đóng vai trò là vốn đối ứng trong quá trình vay vốn ODA, là chỗ dựa vững chắc cho các khoản nợ, là nguồn đầu tư cơ sở hạ tầng nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư của các địa phương trong cả nước…Như vậy, để tăng cường mối liên hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài thì trước hết cần phải có những biện pháp quản lý và sử dụng hợp lý để tối đa hóa lợi ích của nguồn nội lực này. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư: Bắt nguồn từ bản chất của nguồn vốn trong dân cư là nguồn vốn phân tán, chủ yếu là tiền mặt, ngoại tệ và vàng tuy nhiên lại có một số lượng rất lớn nên cần phải có các chính sách để huy động tối đa và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính của thành phần kinh tế này cho đầu tư phát triển. Thứ nhất, thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư, đẩy nhanh việc giải quyết các thủ tục hành chính, công khai cơ chế chính sách… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiếp cận các yếu tố sản xuất. Thứ hai, thực hiện các giải pháp ưu đãi về thuế tín dụng, giao quyền sử dụng đất , cho thuê tài sản. Thứ ba, xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong các văn bản pháp lý, quan niệm xã hội, các quy định hành chính. Thông qua đó, nguồn lực trong nhân dân được sử dụng tối đa nhằm phát huy được tác dụng thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Nguồn vốn này sẽ trở thành tác nhân tích cực trong việc tạo ra một nguồn vốn đầu tư trong nước dồi dào, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước. Nền kinh tế tư nhân ngày càng phát triển song song với nền kinh tế quốc dân, tạo ra các cơ hội đầu tư mới cho nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là một nguồn vốn công được cấp cho các dự án của quốc gia chủ yếu tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ sự phát triển của xã hội nói chung nên thường được sử dụng thiếu tiết kiệm hơn nguồn vốn trong khu vực tư nhân. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc thất thoát nguồn vốn này. Chính vì vậy, để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn Ngân sách này thì trước hết Chính phủ cần tập trung rà soát lại các dự án, ưu tiên bố trí vốn cho các công trình then chốt, không đầu tư tràn lan vào các dự án chưa hoặc không thực sự cần thiết. Bên cạnh đó, việc bù đắp thiếu hụt ngân sách nên được thực hiện chủ yều thông qua các hình thức: đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước, bán lẻ trái phiếu chính phủ qua kho bạc nhà nước, đấu thầu và bảo lãnh phát hành qua thị trường chứng khoán . Ngoài ra, biện pháp cấp bách và lâu dài là phải tăng cường công tác thanh tra kiểm tra giám định đối với các dự án đầu tư đang thực hiện cũng như sắp thực hiện. Thông qua đó, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, rút ruột công trình dẫn tới chất lượng thi công kém, công trình hoàn thiện không đảm bảo đi vào hoạt động hiệu quả. Không chỉ vậy, công tác thẩm định dự án đầu tư còn giúp xác định những dự án khả thi, cần đầu tư đúng mức để tránh tình trạng đầu tư gián đoạn, dở dang, gây lãng phí nguồn lực. Đồng thời việc kiểm tra thường xuyên còn chống lãng phí tiêu cực trong xây dựng cơ bản, đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả, tập trung theo mục tiêu kế hoạch và cơ cấu đầu tư hợp lý. Ngân sách nhà nước là nguồn trực tiếp sử dụng và cũng là đối tượng trực tiếp gánh vác việc trả nợ cho các khoản vốn hỗ trợ của các nước và các tổ chức thế giới. Chính vì vậy, nếu quá trình sử dụng không được quản lý chặt chẽ sẽ gây ra tình trạng thất thoát lãng phí từ đó tạo ra áp lực nợ nần cho nền kinh tế quốc gia. Bằng những giải pháp trên, khi nguồn Ngân sách được đầu tư hợp lý, tập trung thì thời gian thu hồi vốn sẽ được rút ngắn, tránh được sự thất thoát từ đó làm giảm áp lực nợ nần cho đất nước. Nguồn vốn nước ngoài: Đối với nguồn vốn FDI: Nguồn vốn FDI đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đặc biệt là đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Các nước đang phát triển thường là những nước thiếu vốn trầm trọng nên luôn bị cuốn vào “cái vòng luẩn quẩn” của nghèo đói, thu nhập thấp, tích lũy thấp, đầu tư thấp và do vậy ngày càng nghèo thêm. Và nguồn FDI chính là đòn bẩy cho nền kinh tế phát triển khi đầu tư vào các quốc gia này. Vì vậy, cần phải có những giải pháp thiết thực nhằm thu hút nguồn vốn FDI nhằm tạo ra năng lực phát triển cho nền kinh tế trong nước. Phát triển cơ sở hạ tầng: Hiện nay, thực trạng nguồn FDI ở Việt Nam đang là nguồn đầu tư lệch, trên thực tế FDI chỉ chủ yếu chảy về những vùng kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng đầy đủ thuận lợi. Trong khi đó, những vùng đang cần thu hút FDI nhiều để cải thiện và phát triển kinh tế thì lại không có nhiều vốn đầu tư vào. Nguyên nhân chính ở đây là do những vùng này chưa có đầy đủ về cơ sở hạ tầng, nếu các nhà đầu tư quyết định đầu tư vào những vùng này thì chi phí ban đầu bỏ ra để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ dự án là rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của dự án. Chính vì vậy, việc nhà nước tăng cường đầu tư, xây dựng và cải thiện kết cấu hạ tầng ở những vùng kinh tế còn đang nghèo nàn nhằm thu hút nguồn FDI chảy vào là công việc hết sức cần thiết để cải thiện cơ cấu vùng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Hoàn thiện môi trường luật pháp: Mặc dù đã có nhiều sửa đổi bổ sung sau khi chính thức gia nhập WTO nhưng hành lang pháp lý của Việt Nam vẫn chưa thực sự thông thoáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Những thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, nhiều quy định vẫn còn khắt khe đối với các dự án đầu tư có vốn nước ngoài. Đây là một phần nguyên nhân dẫn đến các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn e ngại về môi trường đầu tư ở Việt Nam. Để cải thiện tình trạng này, chính phủ nước ta cần tạo ra một môi trường luật pháp phù hợp, khéo léo vừa thông thoáng vừa quy củ nhằm khuyến khích đầu tư và tạo điều kiện hướng dòng vốn FDI vào các lĩnh vực cần thiết một cách hiệu quả, khuyến khích các chủ đầu tư đầu tư vào thị trường đó. Tăng cường chất lượng nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là nhân tố tác động trực tiếp tới các hoạt động sản xuất kinh doanh, các vấn đề xã hội và mức độ tiêu dung của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc đầu tư vào các lĩnh vực : sức khỏe, giáo duc, đào tạo nghề nghiệp và kĩ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao động. Sự phát triển nguồn nhân lực cả về thể chất lẫn năng lực sẽ khiến cho các nhà đầu tư tự tin hơn khi đầu tư những công nghệ mới vào Việt Nam vì họ tin rằng lao động trong nước có thể bảo đảm được việc sử dụng dây chuyền công nghệ mới sau thời gian đào tạo mà không cần đến các chuyên gia nước ngoài. Như vậy, chi phí nhân công cho dự án đã giảm đáng kể, làm cho lợi nhuận của nhà đầu tư tăng, khuyến khích khả năng đầu tư. Thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư: Xúc tiến đầu tư là hoạt động nhằm giới thiệu quảng bá cơ hội đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Các hoạt động này do các quan chức chính phủ, các nhà khoa học, các tổ chức các doanh nghiệp….thực hiện dưới nhiều hình thức như tổ chức các hội thảo khoa học, diễn đàn đầu tư…và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, xây dựng các mạng lưới văn phòng đại diện ở nước ngoài. Việc thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư sẽ cung cấp được những thông tin cần thiết về môi trường đầu tư trong nước cho các nhà đầu tư nước ngoài từ đó tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tìm hiểu về môi trường đầu tư trong nước để có thế xác định cơ hội đầu tư cho mình. Đây là một hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài rất hiệu quả và cần được đẩy mạnh thực hiện đúng mức. Ngoài những biện pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài như trên nước ta cần: Nâng cao vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước: Bên cạnh việc cải thiện và thông thoáng hóa hành lang pháp lý cũng như các thủ tục hành chính, các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần phải tăng cường việc kiểm tra giám sát nhằm đảm bảo hiệu quả của các dự án đầu tư đồng thời tuân thủ đầy đủ các quy định của nhà nước trong quá trình kinh doanh sản xuất. Đặc biệt, với vai trò quản lý của mình, các cơ quan nhà nước cần phải theo sát các dự án trong việc bảo vệ môi trường, đảm bảo lợi ích ròng cho xã hội. Ban hành một số chính sách nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như: Cải thiện thủ tục hành chính tránh sự rườm rà không cần thiết, gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài về thời gian hoàn tất hồ sơ…, mở rộng điều kiện được tham gia đầu tư, ưu tiên ưu đãi về một số khoản mục cần cho qua trình tham gia hoạt động kinh doanh sản xuất của các nhà đầu tư ngoài nước… Cần chuẩn bị tốt hơn nữa khâu giải phóng mặt bằng: Chính sách đèn bù nên ổn định, nhất quán và kiên quyết để có thể tăng tiến độ giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh quá trình xây dựng và thực hiện dự án. Từng bước thực hiện tự do hóa chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai: Điều chỉnh các chuẩn mực quy định phù hợp với thông lệ quốc tế: Ban hành các chuẩn mực kế toán kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp đồng thời đảm bảo các điều kiện của nhà nước. Như vậy, để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước ta cần phải kết hợp và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các yếu tố trên kết hợp một cách tối ưu trong việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với nguồn vốn ODA: Với tên gọi là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, và trên thực tế, nguồn vốn này hầu như chỉ chảy theo chiểu từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển ta đã phần nào thấy được vai trò quan trọng của nguồn vốn này đối với sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Đối với Việt Nam cũng vậy, đây là nguồn vốn đặc biệt quan trọng trong quá trình cải thiện cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế, nâng cao năng lực quản lý của các cán bộ, nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường kinh doanh trong nước và góp một phần rất lớn trong việc tạo dựng môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần phải có những biện pháp nhằm tạo niềm tin cho các nhà tài trợ khi quyết định tài trợ vốn cho Việt Nam để từ đó, thu hút ngày càng nhiều nguồn tài trợ từ các quốc gia và tổ chức trên thế giới để phục vụ cho công cuộc xây dựng nền kinh tế hiện đại, năng động với hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đáp ứng được nhu cầu mởi của nền kinh tế. Đổi mới và đẩy mạnh công tác quy hoạch: Trước hết, cần phải thực hiện tốt các công tác quy hoạch nhằm định hướng thu hút đầu tư vào các địa bàn, lĩnh vực phù hợp với tiềm năng, lợi thế phát triển, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững: Tập trung chỉ đạo hoàn thành việc xây dựng quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội đặc biệt là việc phát triển cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Tiếp theo đó, cần đầu tư đúng mức vào nguồn lực để đẩy mạnh công tác lập quy hoạch xây dựng, đặc biệt là quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, đảm bảo quy hoạch xây dựng phải đi trước một bước làm cơ sở cho việc cấp phép xây dựng và định hướng cho công tác đầu tư. Chú trọng quy hoạch chi tiết các trung tâm cụm xã, các xã phường, các điểm dân cư, các điểm nút giao thông quan trọng, các khu du lịch... Cần đổi mới phương pháp, cách làm quy hoạch, quy hoạch phải phù hợp với cơ chế thị trường. Cần thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và phải có sự lồng ghép giữa quy hoạch ngành và lãnh thổ. Cần sử dụng có hiệu quả năng lực của các tổ chức tư vấn hiện có trong tỉnh, ngoài ra cần tranh thủ các tổ chức tư vấn trong nước, các trường Đại học, các Bộ, ngành TW, tư vấn quốc tế để lập quy hoạch. Công bố công khai các quy hoạch chi tiết xây dựng sau khi phê duyệt được trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan nhà nước, tại các vùng dự án để nhân dân và các nhà đầu tư biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện xây dựng theo đúng quy hoạch. Nâng cao năng lực trong việc thu hút và sử dụng ODA: Làm tốt công tác theo dõi, hướng dẫn, đánh giá việc thực hiện các dự án ODA. Tích cực thúc đẩy tiến độ xây dựng và bảo đảm hiệu quả các dự án ODA đang thực hiện. Trước mắt cần đẩy nhanh tiến độ giải ngân và bảo đảm hiệu quả các dự án đã được đầu tư để tạo điều kiện tăng mức đầu tư, hoàn thành thủ tục để triển khai các dự án do các tổ chức song phương, đa phương tài trợ. Tiến hành tổng kết công tác đối ngoại để rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc thu hút nguồn vốn ODA. Tăng cường huy động mọi nguồn lực trong nhân dân, đồng thời xây dựng cơ chế vận động thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tổ chức hội thảo vận động xúc tiến đầu tư trên cơ sở các tiềm năng, thế mạnh sẵn có của địa phương và những lĩnh vực cần ưu tiên cho đầu tư phát triển. Huy động mọi nguồn lực để tăng cường công tác vận động các nhà tài trợ. Giải quyết tốt vấn đề đất đai: Thực hiện tốt các quy định của Luật Đất đai và các văn bản Nghị định, Thông tư hướng dẫn về đất đai. Đẩy nhanh việc quy hoạch sử dụng đất nhằm phục vụ tốt hơn, kịp thời cho phát triển kinh tế xã hội của các vùng và thu hút các dự án đầu tư. Tập trung chỉ đạo mạnh mẽ, quyết liệt công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu tái định cư và cần coi đây là trách nhiệm của các cấp, các ngành nhằm bảo đảm khởi công và hoàn thành chương trình, dự án theo đúng tiến độ đã được thoả thuận với nhà tài trợ. Cần có sự phối hợp một cách tích cực đồng bộ với các nhà đầu tư để giải quyết dứt điểm theo từng dự án. Thực hiện tốt các văn bản luật và các văn bản hướng dẫn dưới luật, đặc biệt, tập trung làm tốt công tác quy hoạch, chuyển mục đích sử dụng đất, khắc phục cơ bản tình trạng dự án chờ đất, giải quyết nhanh chóng các thủ tục về giao đất, cho thuê đất, các dịch vụ về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Xây dựng khung giá đất phù hợp với thị trường và thực trạng nền kinh tế , coi đây là một trong những yếu tố tạo thế cạnh tranh về thu hút đầu tư. Cần gắn trách nhiệm việc gây ách tắc, chậm tiến độ đầu tư xây dựng. Cần phải quyết liệt hơn, nỗ lực mạnh mẽ hơn, dứt điểm hơn trong công tác giải phóng mặt bằng và coi đó là những nỗ lực, là những tiêu chí để đánh giá năng lực lãnh đạo của các cấp, các ngành trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Đào tạo, bố trí, sử dụng có hiệu quả cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại, xúc tiến đầu tư và quản lý các dự án ODA: Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại có trình độ chuyên môn về kinh tế và quản lý giỏi, có trình độ về ngoại ngữ, tin học, có đầy đủ bản lĩnh và năng lực để sẵn sàng hợp tác và làm việc trong các chương trình, dự án ODA. Thực hiện chính sách thu hút cán bộ có trình độ chuyên môn, có kỹ năng làm công tác kinh tế đối ngoại, cần có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo nguồn cán bộ có nghiệp vụ kinh tế đối ngoại, có năng lực, đáp ứng các yêu cầu chuyên môn về quản lý, điều hành và bố trí phù hợp để thực hiện tốt các chương trình, dự án ODA. Kết hợp đào tạo mới, đào tạo lại, tranh thủ các nguồn tài trợ, học bổng, khuyến khích du học tự túc để tăng nhanh lực lượng chuyên gia khoa học công nghệ, nhà kinh doanh, quản lý giỏi, đội ngũ công chức có năng lực. Có chính sách ưu đãi đặc biệt và ngân sách dành một khoản kinh phí hợp lý, thoả đáng để thu hút nguồn chất xám, nhân tài, bổ sung nguồn cho các dự án ODA. Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và bố trí sử dụng cán bộ nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý. Khuyến khích phát hiện, bồi dưỡng tài năng trẻ trong hàng ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước và quản lý kỹ thuật. Kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp, các ngành, đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư: Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các ngành, đơn vị, các cấp để từ đó nâng cao trách nhiệm của các ngành các cấp trong xử lý công việc, để công việc được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện. Bổ sung các quy định, quy chế hoạt động của các cơ quan nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy ở mỗi ngành, mỗi cấp, từng cơ quan trong bộ máy hành chính sao cho hợp lý; sáp nhập, lồng ghép các tổ chức cơ quan tránh các bộ phận trùng lắp chức năng, nhiệm vụ, bỏ những khâu trung gian gây phiền hà, làm chậm công việc. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chức danh theo tiêu chuẩn, biên chế cán bộ công chức. Triển khai thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh về cán bộ công chức và các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh phòng chống tham nhũng. Các ngành các cấp cần tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định không phù hợp làm phiền hà đến người dân và doanh nghiệp theo hướng đảm bảo thủ tục đầy đủ, đơn giản, giải quyết công việc nhanh chóng. Nâng cao hiệu quả cơ chế giao dịch một cửa, tập trung vào các lĩnh vực như: giới thiệu địa điểm đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thuê đất, đăng ký kinh doanh, quản lý thuế, thẩm định dự án đầu tư, cấp phép đầu tư cho các dự án. Cải tiến phương thức làm việc, thực hiện công khai, minh bạch, đổi mới lề lối, tác phong làm việc trong các cơ quan công quyền, tránh tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền trong cán bộ công chức và các cơ quan nhà nước. Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về môi trường đầu tư thông thoáng, đơn giản hóa các thủ tục trong đầu tư, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư, cải cách các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư cũng như các dự án ODA. Nâng cao năng lực quản lý điều hành của bộ máy quản lý nhà nước: Việc nâng cao năng lực quản lý điều hành và tổ chức thực hiện của các ngành, các cấp, các đơn vị là khâu có tính chất quyết định đến việc thực hiện tốt việc thu hút và sử dụng vốn ODA. Đề cao chế độ trách nhiệm của các cấp, các ngành, của đội ngũ cán bộ trong chỉ đạo điều hành và thực hiện theo chức năng nhiệm vụ được phân công. Cần đánh giá đúng năng lực để bố trí đúng cán bộ vào các khâu công việc, kiên quyết thay thế những cán bộ không đủ phẩm chất, kém năng lực, không phù hợp yêu cầu đổi mới. Tăng cường công tác thông tin, báo cáo, công tác kiểm tra thực hiện chương trình, dự án, đảm bảo cho lãnh đạo các cấp xử lý kịp thời thông tin trong quá trình chỉ đạo, điều hành nhằm phát huy nhanh những nhân tố tích cực và hạn chế kịp thời những tổn thất gây ra. Trên đây là một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác thu hút và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. LỜI KẾT @&? Nhìn lại mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta có thể thấy được những thành tựu đã đạt được cũng như hạn chế cần phải khắc phục khi đưa mối quan hệ này áp dụng vào thực tiễn để từ đó đưa ra được những kiến nghị, giải pháp khắc phục những tồn tại đó. Có thể thấy rằng, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết đinh, nguồn vốn nước ngoài có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đối với mỗi quốc gia, tỷ lệ hai nguồn vốn này có thể khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mỗi nước cũng như nhu cầu đầu tư ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau. Ở Việt Nam, Đảng và nhà nước ta đã có những nhận định đúng đắn đối với vai trò của đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Nó được đánh giá là động lực to lớn trong thời kỳ xây dựng, đổi mới hướng đến xây dựng một nền kinh tế phát triển, năng động và hiện đại. Với mục tiêu đó, nhà nước ta đã và đang nhanh chóng hoàn thiện các chính sách kinh tế cũng như các biện pháp ưu đãi phù hợp dựa trên những nguyên tắc kinh tế thị trường nhằm tháo gỡ những khó khăn đang còn tồn tại, tạo môi trường đầu tư thông thoáng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, việc tích cực đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh tổng hợp của nền kinh tế, phát huy những tiềm lực kinh tế của đất nước cũng đang góp phần rất lớn làm cho nước ta trở thành điểm đến hấp dẫn cho các dự án đầu tư trên thế giới. Tăng cường sức mạnh kinh tế, khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế, đây là mong muốn mà mọi quốc gia trên thế giới đều hướng tới. Và không nằm ngoài mục tiêu đó, Việt Nam đang nỗ lực hết mình, phát huy mọi thực lực tiến tới toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới và vươn lên bắt kịp với các quốc gia phát triển. — & – TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế đầu tư- NXB ĐH Kinh tế Quốc dân 2010 Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ - TS. Đinh Đàm Ánh Thủy Giáo trình kinh tế phát triển – NXB ĐH Kinh tế Quốc dân 2008 Tổng cục thống kê Báo đầu tư (www.baodautu.vn)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế việt nam.doc
Luận văn liên quan