Một số giải pháp nâng cao chất lượng xuất bản giáo trình ở học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Chỉnh sửa ngữ pháp, ngôn ngữ,văn phong. theo quy định chung của nhà xuất bản. Phối hợp cùng với biên tập kỹ- mỹ thuật làm maket và vẽ bìa sách để vừa đảm bảo được yêu cầu về mặt mỹ thuật, vừa phản ánh được nội dung chính của cuốn sách Biên tập viên là người biên tập, sắp xếp, hoàn chỉnh bản thảo theo quy định của nhà xuất bản. Biên tập giáo trình lý luận chính trịlà biên tập những vấn đề khoa học xã hội và nhân văn, đề cập đến những tri thức khoa học trừu tượng, những lĩnh vực, những chủ đề: nghệ thuật và khoa học lãnh đạo, chính trị học, hệ thống những ý tưởng, nguyên lý, sự cam kết chính trị; các quá trình giành và thực thi quyền lực, quyền lãnh đạo, các quá trình chính trị.

pdf159 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2286 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng xuất bản giáo trình ở học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có khả năng chữa câu, tỉa gọt ý tứ, chọn từ chính xác. Nói chung ở đây cần đến kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo. Một nguyên tắc trong biên tập là người biên tập có thể chữa câu, tỉa gọt đoạn văn, mài sắc ý, thên bớt từ ngữ làm cho tư tưởng sáng tỏ thêm nhưng phải tôn trọng ý đồ và tư tưởng tác giả. Nếu có sửa chữa thì phải tuân theo nguyên tắc trung thành với ý tứ và tư tưởng của tác giả nhằm mục tiêu làm cho ý tứ sáng hơn, sâu sắc hơn. Ở đây thể hiện kỹ năng thuyết phục tác giả để tác giả sửa theo ý mình, mặt khác nếu bác bỏ phải được sự đồng tình của tác giả. Trung thành với văn phong cũng là một nguyên tắc trong biên tập. Cũng là giáo trình lý luận chính trị, nhưng mỗi nhà lý luận, nhà khoa học có cách hành văn, có bút phát riêng. Văn phong, bút pháp không chỉ thể hiện hình thức công trình mà còn thể hiện nội dung, làm tăng độ sâu sắc và nét riêng của công trình. Sửa chữa câu cú nhưng không được làm nhạt nhoà văn phong của tác giả. Những tiếp đầu ngữ, những vế nhấn, những từ bóng gió, khơi gợi đều có ý tứ của nhà nghiên cứu, nhà lý luận. Vì vậy, làm tổn hại phong cách không chỉ tổn hại hình thức, mà còn làm tổn hại đến nội dung, chất lượng công trình. Điều này đòi hỏi sự tinh tế, điêu luyện trong nghề nghiệp, thể hiện trình độ chuyên môn, ở khả năng tu từ, khả năng sắp xếp từ ngữ điêu luyện. Đây là một năng lực biên tập ở trình độ cao. Người biên tập phải hiểu 10 đặc trưng từng lĩnh vực khoa học, từng lĩnh vực chính trị, hiểu được bút pháp thể hiện nội dung khoa học của nhà nghiên cứu, hiểu được tâm lý, sở thích, ý nhấn của người viết. Nếu không thì dù chỉ một dấu phẩy, dấu chấm, một dấu chấm than khác đi... cũng làm sai lệch sắc thái và làm sai lệch cả ý tưởng tác giả. Giáo trình lý luận chính trị có đặc trưng là tính chính xác, lôgíc, lý giải thuyết phục. Hành văn phải thể hiện rõ là tư tưởng của người viết hay mượn ý người khác. Do vậy trích dẫn phải chính xác và đúng chỗ, đúng quy cách - theo quy tắc biên tập. Ở đây đòi hỏi một tinh thần tỉ mỉ, cần cù, nghiêm túc về mặt văn bản học, về xuất xứ của tư liệu. Nếu thiếu trình độ văn bản học, tư liệu học thì người biên tập không phát hiện được điều vô lý, sai sót so với nguyên bản. Như vậy, ngoài các năng lực chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo, nói chung là nghệ thuật biên tập, cán bộ biên tập giáo trình lý luận chính trị có thể nâng cao được chất lượng công trình lý luận chính trị khi thực sự là người có trách nhiệm cùng với tay nghề cao. Có được những điều đó, người biên tập không thể thiếu được lòng yêu nghề và lương tâm nghề nghiệp. 1 BÀN VỀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ TRONG BIÊN TẬP GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Giáo trình lý luận chính trị là các sách được viết theo phong cách khoa học. Trong đời sống, tiếng Việt có nhiều phong cách nói và viết, mỗi phong cách có đặc trưng và chuẩn mực riêng về ngôn ngữ, cú pháp, kết cấu đoạn và cấu trúc toàn văn bản. Nắm được các kiến thức ấy, người sử dụng sẽ dùng ngôn ngữ chính xác, hiệu quả hơn. Cũng như vậy, công tác biên tập giáo trình lý luận chính trị đòi hỏi người biên tập phải nắm chắc đặc trưng phong cách khoa học, để từ đó có thể đáp ứng yêu cầu công việc một cách tốt nhất. Trước hết, phong cách khoa học là khuôn mẫu thích hợp cho những người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực khoa học: người nghiên cứu, giáo viên, kỹ sư, sinh viên, học viên tham gia vào công việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy, phổ biến khoa học. Phong cách khoa học chủ yếu dựa vào kiểu ngôn ngữ viết phi nghệ thuật. Yếu tố cá nhân của người nói giảm xuống tối thiểu (ngoại trừ một số biến thể như trong khoa học phổ cập, khoa học xã hội ở thể luận chiến, phong cách này có thể sử dụng rộng rãi cả những cấu trúc ngôn ngữ nghệ thuật, ở thể luận chiến yếu tố cá nhân được nâng cao). Phong cách khoa học trong các giáo trình lý luận chính trị có những đặc trưng sau: - Ngôn ngữ trong giáo trình lý luận chính trị phải đạt tính trừu tượng - khái quát cao, bởi vì khoa học chính trị, tư tưởng phải thông qua khái quát Nguyễn Hoàng Diệu Thủy Nhà xuất bản Lý luận chính trị 2 hoá, trừu tượng hoá để nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan. Mục đích của khoa học chính trị là phát hiện ra các quy luật tồn tại trong các sự vật, hiện tượng nên càng không thể dừng lại ở những cái gì riêng lẻ, bộ phận, cá biệt. Đặc trưng này thấy rõ khi so sánh những cách dùng từ của cùng một từ trong lời nói khoa học và lời nói nghệ thuật hay lời nói hằng ngày. - Việc sử dụng ngôn ngữ trong các giáo trình lý luận chính trị cũng đòi hỏi tính lôgíc nghiêm ngặt, bởi vì để gợi mở trí tuệ và thuyết phục bằng lý tính, lời trình bày, cách suy luận phải biểu hiện năng lực tổng hợp của trí tuệ, phải tuân theo quy tắc chặt chẽ từ tư duy lôgíc hình thức đến tư duy lôgíc biện chứng. Tính lôgíc, đó là tính chất nhất quán trong sự phân bố tất cả các đơn vị của văn bản và là sự có mặt của những mối liên hệ về nghĩa giữa những đơn vị này. Tính nhất quán này chỉ có thể có ở những văn bản mà kết luận được rút ra một cách hợp lý từ nội dung, nghĩa là các kết luận không gây ra mâu thuẫn, và những câu văn, đoạn văn riêng lẻ tạo nên văn bản thì phản ánh đúng sự vận động của tư duy từ cái chung đến cái riêng hoặc ngược lại. Tính lôgíc của câu văn khoa học khác với ngôn ngữ nghệ thuật ở tính chất cực kỳ khắt khe của nó. - Cuối cùng, tính chính xác - khách quan cũng là một yêu cầu nhất thiết phải có trong các giáo trình lý luận chính trị. Khoa học yêu cầu phản ánh chính xác, khách quan, chân thực các quy luật của tự nhiên và xã hội. Tính chính xác là tính một nghĩa trong cách hiểu, nó đòi hỏi không được tạo ra sự khác biệt giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Từ những đề dẫn lý thuyết khái quát trên, cần đi sâu vào từng mặt, từng cấp độ cụ thể để vận dụng vào công tác biên tập, bởi vì biên tập là một công việc thực tế và “va chạm” trực tiếp với chữ nghĩa. Ý thức được về chuẩn phong cách khoa học chính trị, tư tưởng là một vấn đề, nhưng còn cần phải có phương án thay thế câu chữ khi cần thiết cũng vô cùng quan 3 trọng. Bởi vậy, từ cấp độ nhỏ nhất của ngôn ngữ trong sách vở là từ ngữ, đến những cấp độ lớn hơn là câu, đoạn, (mục, chương) và toàn văn bản, người biên tập phải có thái độ làm việc hết sức nghiêm túc để có thể xử lý những tình huống ngôn ngữ đặt ra. - Về từ ngữ, thành tố quan trọng nhất ở các giáo trình lý luận chính trị là các thuật ngữ chuyên ngành được sử dụng phổ biến, ví dụ: quyền dân sự, quyền chính trị; quyền xã hội, quyền văn hóa; quyền tự do thụ động và quyền tự do chủ động; toàn cầu hoá tích cực, toàn cầu hoá tiêu cực; điều tiết chính trị, thiết chế xã hội... Biên tập viên cần nắm các thuật ngữ này, vì trong nhiều trường hợp, vì nhiều lý do mà các thuật ngữ bị dùng sai hoặc viết sai. Tất nhiên, biên tập viên không thể bao quát được tất cả nhưng họ cần có một sự nhạy cảm với từ ngữ và khi nghi ngờ một thuật ngữ nào đó, biên tập viên cần tra cứu từ điển hoặc tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn. Đồng thời, trong các giáo trình lý luận chính trị cũng dùng các từ ngữ khoa học chung. Nói chung đó là từ ngữ trừu tượng, đa phong cách, sắc thái trung hòa, được dùng ở ý nghĩa khái quát. Tuy nhiên, một số tác giả, tuy không phải là không ý thức về chuẩn phong cách, nhưng đôi khi do “cảm hứng” quá mạnh mà đưa các từ ngữ đời sống vào bản thảo (bởi ngôn ngữ đời sống luôn có khả năng diễn đạt cảm hứng tốt nhất!). Do đó, trong bản thảo có những chỗ không đảm bảo các yêu cầu về phong cách, biên tập viên buộc phải điều chỉnh. Ví dụ: “Chúng ta cũng cần đề phòng âm mưu gây diễn biến hoà bình của bọn xấu ngoài nước, trong nước bằng cách đưa các sách báo ru ngủ, đồi trụy, nói chung là phản động vào thị trường sách báo nước ta” (bản thảo cuốn Giáo trình Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng, tr. 51) và “Không thể có sự công bằng chia đều nhưng phải điều tiết và tạo điều kiện cho mọi người có thể sống được và ngày càng một khá hơn” (bản thảo 4 Tập bài giảng Chính trị học, tr. 404-405)...* Các từ “bọn xấu”, “nói chung là”, “có thể sống được” viết ở dạng văn nói, đọc lên nghe rất nôm na, thể hiện sắc thái tình cảm, không còn khách quan, trung hòa nữa, nên không phù hợp với một văn bản nghiên cứu khoa học. Trong khi những câu đó có thể diễn đạt gọn gàng, ví dụ: “Tuy nhiên cũng cần đề phòng âm mưu “diễn biến hoà bình” của một số thế lực thù địch trong và ngoài nước. Bảo vệ chủ quyền văn hoá là một nhiệm vụ chính trị của các cấp, các ngành”. Để đảm bảo tính chính xác và khách quan, từ ngữ của phong cách khoa học chỉ được phép hiểu một nghĩa và là nghĩa đen. Vì thế các trường hợp sử dụng từ có tính chất tu từ, hình tượng, bóng bẩy, dễ khiến người khác suy luận theo nhiều cách thì biên tập viên phải “canh gác” thật chặt chẽ. Ví dụ: “Nếu mỗi cán bộ, đảng viên, còn xem văn hóa là thuần túy phục vụ chính trị theo kiểu ôsin thì sẽ chẳng bao giờ phát huy được động lực của văn hoá”. Từ ôsin là một từ lóng, dùng phổ biến trong ngôn ngữ hằng ngày với sắc thái biểu cảm mạnh. Có thể tác giả muốn nhấn mạnh, phê phán lối tư duy lỗi thời coi văn hoá nhất nhất phục vụ chính trị nên cho rằng phải dùng lối so sánh với ôsin thì mới diễn đạt được hết ý của mình, tuy nhiên lối so sánh cũng như dùng từ này là không chấp nhận được trong một văn bản khoa học. Hơn nữa, từ ôsin không phải là từ mang một nghĩa đen chính xác trong ngôn ngữ Việt. Tác giả chỉ cần diễn đạt: “Nếu mỗi cán bộ, đảng viên, còn xem văn hoá là thuần tuý phục vụ chính trị thì sẽ chẳng bao giờ phát huy được động * Những ví dụ lỗi về câu, chữ trong tổng quan này được trích dẫn từ các bản thảo giáo trình của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản, tất cả đã được sửa chữa trước khi in thành sách. 5 lực của văn hoá” là đủ. - Về cú pháp, khi làm việc với một văn bản cụ thể, biên tập viên cần nắm vững những tiêu chuẩn cơ bản quyết định một câu văn là tốt, mẫu mực, để có cái nhìn bao quát, có hệ thống, từ đó dễ xác định được phương hướng đúng đắn trong việc rèn luyện kỹ năng tri giác văn bản và biên tập văn bản nói chung. Một câu văn phong cách khoa học tốt phải đảm bảo được tính chính xác. Tính chính xác của câu văn trong giáo trình lý luận chính trị thường được dùng để chỉ sự phù hợp hoàn toàn của các phương tiện ngôn ngữ thuộc lĩnh vực chính trị, tư tưởng với những vấn đề khoa học vốn được diễn đạt bằng những phương tiện đó. Những phương tiện ngôn ngữ được coi là chính xác phải phản ánh thực tế được một cách sát đúng nhất, đồng thời cũng phản ánh được chủ quan của người nói một cách thích hợp nhất. Để biên tập được chính xác, cần rèn luyện để hiểu biết ngôn ngữ, biết một từ khi nào là phù hợp hay không phù hợp, và có khả năng đưa ra những sự thay thế chính xác. - Tính đúng đắn của câu văn khoa học là một tiêu chí nữa. Nghĩa là các câu ấy cần tuân thủ chuẩn mực của ngôn ngữ văn hoá hiện đại, đó là các quy tắc về dùng từ, đặt câu, để từ đó cấu tạo đoạn mạch, kết cấu toàn bộ văn bản... Lối diễn đạt cầu kỳ, rắc rối, cách trình bày mơ hồ, lỏng lẻo cần phải khắc phục. Vì thế ở các văn bản này, không thể dùng những câu văn bay bổng du dương, có nhịp điệu hoặc nhạc tính. Việc sính dùng những câu chữ văn vẻ trong văn phong khoa học đôi khi người viết không kiểm soát được chính ý của mình, như ở đoạn văn sau: “Điều đáng chú ý chỉ là ở chỗ giai cấp cách mạng cần phải kết thúc giai đoạn đặc biệt đó cáng sớm càng tốt. Ngay sau khi có chính quyền thì phải chuyển ngay sang những hoạt động cải cách - có nghĩa là tiến hành cải tạo từ từ, dần dần, từng bước, càng ít đập phá cái cũ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, nhưng “sự vật” vẫn 6 tiến lên phía trước, điều cảnh giác là ở chỗ, phải khắc phục sự lạm dụng một cách quá đáng tinh thần cách mạng đến mức có những hành động vượt khỏi giới hạn của nó trong thời kỳ mới” (bản thảo Giáo trình xã hội học trong quản lý, tr. 335); hoặc: “Quan sát là phương pháp thu thập thông tin trong một cuộc điều tra xã hội trong đó nhà nghiên cứu sử dụng các giác quan hoặc các phương tiện kỹ thuật để tìm hiểu những vấn đề cần phải quan tâm thông qua việc quan sát hiện tượng và hành vi xã hội của đối tượng nghiên cứu trong quá trình diễn ra các sự kiện và hiện tượng thực tế” (bản thảo Giáo trình Xã hội học trong quản lý, tr. 166). - Hiện nay, khi các ngoại ngữ bắt đầu được dùng phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là tiếng Anh, thực tế đã xảy ra tình trạng là văn Việt bị viết theo lối Tây, đọc lên nghe trúc trắc, rườm rà, cũng là điều cần tránh. Ví dụ: “Phỏng vấn không tiêu chuẩn hoá thường phải tiến hành bởi các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp” (bản thảo Giáo trình Xã hội học trong quản lý, tr. 165). Phong cách khoa học, cụ thể là ở các giáo trình lý luận chính trị, điển hình sử dụng các hình thức câu hoàn chỉnh, kết cấu chặt chẽ rõ ràng để đảm bảo yêu cầu chính xác. Không dùng các câu giản lược thành phần, câu đảo vị trí. Sử dụng nhiều câu ghép vì thích hợp cho việc trình bày các luận điểm, phân tích chứng minh. Các cặp liên từ được dùng phổ biến giúp đạt tính lôgíc. Ví dụ: “Dân tộc Việt Nam là một nhưng bao gồm nhiều thành phần: người Kinh và 54 dân tộc thiểu số anh em” (bản thảo Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng, tr. 36). Ở câu văn này, từ “nhưng” vốn được dùng để liên kết một ý mang nghĩa tương phản, nên người đọc hoàn toàn có thể hiểu câu trên là: Dân tộc Việt Nam tuy là một nhưng hoá ra lại phân tán, không thống nhất! Điều nguy hiểm chết người của việc không dùng từ và cách diễn đạt 7 chính xác là ở chỗ ấy. - Một lỗi về câu hết sức phổ biến mà rất nhiều bản thảo giáo trình mắc phải đó là những câu thiếu thành phần chủ ngữ, và vì phổ biến quá đến nỗi nhiều người không ý thức được như thế là sai. Trong biên tập chúng tôi có thể thường xuyên bắt gặp. Ví dụ: “Trong tổng thể phức hợp của các mối quan hệ giữa công tác quản lý và hệ thống hoá các khoa học xã hội đã nổi lên vai trò của chuyên ngành xã hội học quản lý” (bản thảo Giáo trình Xã hội học trong quản lý, tr. 315). Câu văn này có thể sửa lại là: “Trong tổng thể phức hợp của các mối quan hệ giữa công tác quản lý và hệ thống hoá các khoa học xã hội, vai trò của chuyên ngành xã hội học quản lý đã trở nên nổi bật bởi tính cần thiết của nó”. - Việc nhiều câu thiếu thành phần này hay thành phần khác cũng do câu văn trong phong cách khoa học lý luận chính trị thường dài, nhiều ý, nhiều thành phần phụ khiến người viết đôi khi không kiểm soát hết sự trọn vẹn của câu. Ví dụ: “Nhìn sang lịch sử các nước trước đây cũng thấy muốn có độc lập tự chủ và có phát triển thì phải có truyền thống yêu nước và yêu tiến bộ xã hội lâu đời, phải có một mạch ngầm luôn luôn vận động bên dưới cuộc sống như một nền tảng chỉ chờ cơ hội là bộc lộ và bùng nổ. Truyền thống ở đây là sức mạnh tiềm tàng của sự chuẩn bị, là tiền đề của sự bùng nổ” (bản thảo Giáo trình Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng, tr. 35); hoặc: “Ngay từ xa xưa, những tư tưởng nhân đạo đã hình thành tự phát của nhân dân lao động để trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và chống lại những hành vi vi phạm đạo đức” (bản thảo Giáo trình Đạo đức học Mác-Lênin, tr. 167). Chưa kể đến nhiều lỗi khác mà câu này mắc phải, chỉ cần đọc là thấy ngay do tác giả “mải mê” triển khai ý, câu này đã bị thiếu 8 mất vị ngữ. - Tính chính xác, đúng đắn, khách quan, lôgíc, tất cả những yếu tố đó sẽ làm nên tính thẩm mỹ của tác phẩm nghiên cứu khoa học. Không chỉ có trong các ngôn ngữ nghệ thuật, phẩm chất thẩm mỹ có ở tất cả các phong cách. Ngôn ngữ được sử dụng trong nhiều phong cách, mỗi phong cách có nhiệm vụ riêng, do đó có tính thẩm mỹ riêng, có vẻ đẹp riêng, không lẫn lộn với các phong cách khác. Một câu được coi là hay, đẹp là câu mà những phương tiện ngôn ngữ được sử dụng một cách chính xác, đúng đắn và hài hoà trong một chỉnh thể thống nhất về phong cách, do đó đạt được hiệu quả ngôn ngữ cao nhất trong một hoàn cảnh ngôn ngữ nhất định. Dưới đây là một đoạn văn đẹp: “Triết học hiện sinh coi sự tồn tại của con người là tuyệt đối và duy nhất. Những người hiện sinh cho rằng thế giới và các vấn đề của nó chỉ tồn tại khi nó chạm đến tôi, đến sự tồn tại của tôi. Con người là kẻ cô đơn bị vứt bỏ giữa một thế giới xa lạ và thù địch với nó, người hiện sinh gọi thế giới đó là “không phải tôi”. Con người tưởng đã chinh phục thế giới xa lạ đó bằng khoa học kỹ thuật. Nhưng giờ đây, nó kinh hoàng nhận ra rằng cái “không phải tôi” đã nổi dậy chống lại cái tôi. Ý thức nghèo khốn của con người bị áp lực bên ngoài, cảm thấy tuyệt vọng với thế giới bên ngoài, do đó toan ẩn trốn vào bên trong. Nhưng ngay ở đây, con người cũng không tìm thấy sự yên tĩnh vì bên trong nó cũng trống rỗng” (Giáo trình Triết học, Nxb. Lý luận chính trị, H. 2007, tr. 150). - Trên cấp độ câu là cấp độ đoạn, một đoạn trình bày một ý riêng. Các phương tiện liên kết như một là, hai là; trước hết, sau cùng…thường được dùng để liên kết các đoạn. Trên cấp độ đoạn là mục, chương và toàn bộ văn bản chỉnh thể. Ở các cấp độ từ đoạn văn trở lên, tính lôgíc là điều lưu tâm số một, bởi các tính khác như tính chất khác đã được giải quyết ở cấp độ từ, ngữ và câu. Tính lôgíc thế nào là tùy vào từng văn bản cụ thể. Các tác giả viết sách có thể rất giỏi về ngôn ngữ, tuy nhiên không phải 9 bất cứ ở đâu, lúc nào họ cũng đảm bảo được những câu chữ viết ra là chuẩn xác tuyệt đối, đó là lý do vì sao công tác xuất bản sách nói chung và xuất bản giáo trình nói riêng cần đến những người biên tập. Các sách thuộc lĩnh vực lý luận chính trị (trong đó có giáo trình) được viết theo phong cách ngôn ngữ khoa học nói chung, nhưng vẫn có những đặc trưng riêng. Nắm được các đặc trưng chung và riêng ấy của phong cách ngôn ngữ trong sách lý luận chính trị, vận dụng được trong từng tình huống cụ thể, người biên tập mới có thể đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Trên hết, biên tập viên phải có thái độ học tập và rèn luyện không ngừng. 1 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO TRÌNH Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Nhà xuất bản Lý luận chính trị được thành lập ngày 1-11-2003 theo Quyết định số 650/QĐ ngày 20-10-2003 của Giám đốc Học viện, là đơn vị sự nghiệp có thu với các chức năng sau: - Xuất bản sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập theo chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị thuộc các hệ lớp của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học về chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. - Xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, kỷ yếu hội thảo khoa học mà Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các đơn vị thuộc Học viện là chủ đề tài. Qua quá trình xuất bản, qua công việc thực tế từ kế hoạch đề tài, biên tập nội dung, biên tập kỹ - mỹ thuật, in ấn và phát hành, chúng tôi tập trung đề cập đến chất lượng giáo trình của Học viện do Nhà xuất bản Lý luận chính trị ấn hành với các vấn đề chủ yếu sau: 1. Về nội dung khoa học - Ưu điểm: Về cơ bản, các bộ giáo trình của Học viện đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ của các đơn vị kiến thức. Kiến thức được tổng kết theo vấn đề hay chuyên mục, sau đó được khái quát có tính quy luật. Nhờ vậy, học viên rèn Nguyễn Văn Thắng Nhà xuất bản Lý luận chính trị 2 luyện được về kỹ năng nhận thức. Các bộ giáo trình đã đảm bảo tính cơ bản và tối thiểu (giáo trình dùng để dạy và học), có sự mở rộng và chuyên sâu. Kiến thức đưa vào giáo trình có tính thiết thực, hiện đại, chọn lọc hoặc nêu kiến giải mới. - Nhược điểm: Ở một số giáo trình, đôi chỗ cách trình bày còn chưa thống nhất; nội dung kiến thức đôi chỗ còn bị trùng lặp. Đôi chỗ giải thích còn thiếu chính xác. Vẫn còn hiện tượng chưa thống nhất về cách viết các ký hiệu, thuật ngữ khoa học, tên các nhà bác học, nhân vật lịch sử, địa danh nước ngoài trong sách cùng bộ môn, giữa các bộ môn, gây khó khăn trong việc tra cứu. Những môn khoa học thường có sự thay đổi về các chỉ số (kinh tế, chính trị, quan hệ quốc tế...) vẫn còn có số liệu chưa cập nhật, có giáo trình còn để số liệu thống kê từ nhiều năm trước. Một số giáo trình còn sai sót về kỹ thuật chế bản (thiếu dấu, sai số và từ) những chưa được đính chính kịp thời. 2. Về chất lượng sư phạm, mỹ thuật - Ưu điểm: Hệ thống kiến thức ở nhiều cuốn giáo trình mang tính lôgíc cao, chặt chẽ đã giúp học viên sau khi sử dụng có thể hệ thống hóa các kiến thức cơ bản. Nhìn chung, cấu trúc các bộ giáo trình là hợp lý; mỗi chương, mục, phần được trình bày súc tích. Minh họa, biểu bảng, hình vẽ của một số giáo trình hợp lý. Tất cả các bìa giáo trình được in mầu, trình bày đẹp, trang nhã hợp lý. Có nhiều bìa chững chạc, bề thế đã tạo ra phong cách đặc thù của Học viện và thương hiệu của Nhà xuất bản. Bìa sách đã dần dần thể hiện được đặc trưng của bộ môn, gây được ấn tượng cho người đọc, tạo ý thức trân trọng, giữ gìn sách. 3 Ruột sách được in sáng sủa, rõ ràng, dung lượng chữ, cỡ chữ trong một trang vừa phải nên dễ đọc. - Nhược điểm: Một số giáo trình còn nặng về cung cấp kiến thức, ít chú ý hướng dẫn về phương pháp (phương pháp suy luận, tìm tòi, phát hiện và giải quyết vấn đề). Một số cuốn giáo trình đôi chỗ ngôn ngữ chưa chuẩn xác, còn nặng tư duy lý thuyết, còn có nhiều câu phức hợp, câu dài làm người đọc khó hiểu, khó nhớ. Một số trích dẫn còn sai sót về số trang, tập, năm xuất bản v.v.. 3. Chất lượng giáo trình qua điều tra thực tế Trong năm học 2006-2007, Nhà xuất bản Lý luận chính trị đã gửi phiếu điều tra để tìm hiểu nhu cầu thực tế của các học viên. Qua điều tra bằng phiếu hỏi cho thấy: * Câu hỏi 1: Xin ông (bà) vui lòng cho biết giáo trình do Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản đạt được các tiêu chí nào (về nội dung khoa học)? Kết quả: Với kết quả ý kiến đánh giá, chúng tôi thấy rằng đa số ý kiến đánh giá cho thấy về nội dung khoa học, giáo trình do Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản đã đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc. Đặc biệt là có tới 49% ý 4 kiến đánh giá là khá. Song, cũng có tới 27% cho rằng nội dung khoa học trong ấn phẩm của Nhà xuất bản chỉ đạt trung bình. Từ kết quả trên có thể thấy, nội dung khoa học của giáo trình do Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản còn phải được đổi mới. Kết quả điều tra này chính là một căn cứ thực tiễn thuyết phục để Nhà xuất bản kiến nghị Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong quá trình điều chỉnh nội dung, chương trình đào tạo cũng như việc biên soạn, tái bản hệ thống giáo trình. * Câu hỏi 2: Xin ông (bà) vui lòng cho biết giáo trình do Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản về hình thức đạt được các tiêu chí nào? Kết quả: Qua sự đánh giá cho thấy lượng giáo trình đã xuất bản, về hình thức ấn phẩm đã được bạn đọc đánh giá cao (tốt: 27% và khá: 55%). Đây cũng là sự ghi nhận bước đầu việc Nhà xuất bản có sự đầu tư cho vấn đề in ấn, làm bìa. * Câu hỏi 3: Theo ông (bà) Nhà xuất bản Lý luận chính trị cần phải chú trọng hơn nữa vào các nội dung cụ thể nào? Kết quả: 5 Qua điều tra, số lượng độc giả yêu cầu cao về nội dung khoa học của giáo trình chiếm tới 62%. Điều này cho thấy Nhà xuất bản cần phải chú trọng hơn nữa về vấn đề này. Đây sẽ là vấn đề sống còn của các ấn phẩm. Nó sẽ giúp thương hiệu của Nhà xuất bản Lý luận chính trị chiếm lĩnh được thị trường độc giả ngày một nâng cao về trình độ. Câu hỏi 4: Theo ông (bà) giá sách của Nhà xuất bản Lý luận chính trị so với các nhà xuất bản khác như thế nào? Kết quả: Qua điều tra thực tế chúng ta có thể thấy giá sách của Nhà xuất bản là phù hợp với nhu cầu của bạn đọc. Trong giai đoạn giá giấy công in tăng, đây là sự đánh giá những cố gắng lớn về giá thành ấn phẩm của Nhà xuất 6 bản. Đây cũng là điều kiện để sách của Nhà xuất bản có thể chiếm lĩnh được thị trường. Nhu cầu giáo dục và đào tạo lý luận chính trị ngày một lớn trong xã hội, trước hết, trong những cán bộ có trách nhiệm lãnh đạo, trong trí thức và trong sinh viên - nay đã đạt tỷ lệ không nhỏ trong cơ cấu lực lượng xã hội nước ta. So với trước đây, thậm chí nhu cầu này có mặt mở rộng hơn, nhất là từ khi nước ta đổi mới, thực hiện chính sách kinh tế thị trường và hội nhập, rất nhiều quan điểm cần được soi sáng bằng lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lập trường của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhu cầu là một thực tế và là thực tế khá bức xúc. Chúng ta nói nâng cao dân trí, thì cái cốt lõi của nâng cao dân trí là từ giác độ nâng nhận thức chính trị, lý luận, trước khi đi vào các hình thái cụ thể, lĩnh vực cụ thể. Cho đến nay, rất nhiều vấn đề lý luận, chính trị ở ta còn bỏ ngỏ. Mở rộng phạm vi xuất bản giáo trình lý luận chính trị nói riêng và sách chính trị, lý luận nói chung chính là tăng cường cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh quan điểm, đấu tranh đường lối hết sức thiết thân của công việc truyền bá tư tưởng của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh. 1 MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ BIÊN TẬP PHẦN TRÍCH DẪN TRONG GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ D Trong quá trình biên tập nội dung, đặc biệt là biên tập nội dung giáo trình lý luận chính trị, chúng tôi thường gặp rất nhiều các loại câu trích dẫn. Bởi vậy việc biên tập các câu trích dẫn là một phần trong biên tập nội dung. Phần trích dẫn trong cuốn giáo trình có vai trò làm sáng tỏ thêm nội dung mà công trình đề cập đến, vì vậy nó phải có độ chính xác cao. So với toàn bộ việc biên tập nội dung giáo trình, công việc này tuy không lớn nhưng mất nhiều thời gian, đòi hỏi người biên tập phải kiên trì, tỉ mỉ, chính xác. Trong quá trình biên tập giáo trình cho các hệ lý luận chính trị, chúng tôi thường hay gặp trích dẫn các tác phẩm kinh điển của C. Mác, Ph. Ăngghen, Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng v.v.. Nhiệm vụ của người biên tập là phải xác định đâu là đoạn trích, câu trích; phân tích các trích dẫn; kiểm tra độ chính xác của trích dẫn và chỉ rõ đầy đủ nguồn trích dẫn. Một là, xác định đoạn, câu trích dẫn. Trong các giáo trình thường gặp các đoạn, các câu trích mà tác giả sử dụng có những ý nghĩa khác nhau. Có trường hợp tác giả trích ý kiến của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo có uy tín để làm chỗ dựa cho lý giải của mình, để minh họa, củng cố hoặc để tăng thêm sức thuyết phục cho những quan điểm mà tác giả nêu ra. Cũng có trường hợp tác giả trích những ý kiến của người khác, đối lập với những ý kiến của mình để trao đổi, để tranh luận, để bác bỏ và cuối cùng cũng là với mục đích chứng minh cho tính chân thực trong quan điểm của mình. Dương Văn Vinh Nhà xuất bản Lý luận chính trị 2 Thực chất của các tài liệu trích dẫn cũng là một dạng đặc biệt của tài liệu thực tế. Đó là các đoạn văn được trích nguyên văn trong một tác phẩm nào đó của người khác theo mục đích của tác giả. Các câu trích thường được để trong ngoặc kép hoặc được nêu vắn tắt có chú dẫn của tác giả. Phần chú giải thường được đánh số hoặc đánh các dấu ký hiệu và được ghi đầy đủ nguồn trích dẫn. Hai là, phân tích các trích dẫn. Khi biên tập, người biên tập cần phải phân tích xem đoạn trích đó có thực sự giúp làm sáng tỏ hơn tư tưởng của tác giả hay không, qua các đoạn trích có thấy được đầy đủ hơn quan điểm của chủ thể sáng tạo không. Sự lạm dụng những đoạn trích dẫn chẳng những không làm rõ được lập luận của tác giả mà ngược lại còn làm cho vấn đề thêm phức tạp và rối hơn, người đọc không nắm bắt được chủ đề của tác phẩm. Bởi vì các đoạn trích dẫn chỉ là minh họa cho ý kiến riêng của tác giả, nó không thể thay cho lời của tác phẩm. Do đó, biên tập viên phải phân tích và chỉ để lại những đoạn trích dẫn thực sự bổ ích, cắt bỏ những đoạn trích dài dòng, lan man. Những đoạn trích dẫn thừa sẽ gây hạn chế cho tác phẩm và gây phản cảm với độc giả. Ba là, kiểm tra độ chính xác của các trích dẫn. Khi biên tập, người biên tập cần chú ý đến tính chân thực của các trích dẫn. Trong thực tế một số giáo trình, chúng tôi thường gặp hiện tượng "tam sao thất bản". Do đó, việc biên tập trích dẫn thường mất nhiều công và phải tuân thủ theo những bước sau: + Tìm tài liệu gốc: Tùy thuộc vào loại đề tài mà tài liệu gốc được xác định khác nhau. Chẳng hạn, những vấn đề thuộc lĩnh vực chính trị tư tưởng, đường lối quan điểm thì không thể trích dẫn từ những tài liệu tham khảo, từ những tài liệu không chính thức. Có thể phân loại thành một số các loại trích dẫn để tiện kiểm tra và qui về một số nguồn trích dẫn chính thức. 3 Các trích dẫn từ những tác phẩm của các nhà kinh điển mácxít: như C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng thì không thể trích từ các loại tài liệu tham khảo, từ những tác phẩm lẻ trên báo, từ những bản dịch không chính thức. Ở nước ta đã xuất bản các bộ sách của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như: - C. Mác và Ph. Ăngghen Tuyển tập; - C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập; - V.I. Lênin Toàn tập; - Hồ Chí Minh Tuyển tập; - Hồ Chí Minh Toàn tập; - Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử... Đây là những bộ sách chuẩn được coi là tài liệu gốc cho những trích dẫn của các nhà kinh điển. Bởi vậy, khi trích dẫn các tác giả thường lấy nguồn trích dẫn từ các tài liệu này để đảm bảo sự chính xác, sự thống nhất và giúp người đọc dễ dàng hơn nếu như muốn tìm hiểu căn nguyên của những câu trích mà tác giả nêu ra trong tác phẩm của mình. Đối với loại trích dẫn các văn kiện Đảng: Văn kiện được lấy làm nguồn trích dẫn là văn bản chính thức của cơ quan công bố văn kiện. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia là nơi được giao xuất bản những văn kiện này. Ví dụ như bộ Văn kiện Đảng Toàn tập; Văn kiện các Đại hội của Đảng; Văn kiện các Hội nghị Trung ương các khóa... đây có thể được coi là nguồn tài liệu chính thức để sử dụng kiểm tra các câu trích dẫn về văn kiện Đảng. Hiện nay, trên Website của Học viện cũng có 2 chương trình thử nghiệm về sách điện tử (cuốn Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Văn kiện Đại hội X của Đảng) rất có ích để sử dụng trong công việc tra cứu chính xác các trích dẫn. Đối với các câu trích dẫn từ các sách tham khảo, cần phải có đầy đủ 4 những dữ liệu cho câu trích, phải là những tác phẩm, những bài viết đã được chính thức công bố trong sách, báo, tạp chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Đối với các tác phẩm dịch cũng cần lưu ý về nguồn nguyên bản gốc. Bản dịch phải trung thành với tư tưởng của tác giả, đồng thời phải đảm bảo tính trong sáng trong văn phong của tiếng Việt. + Đối chiếu với bản gốc để kiểm tra độ chính xác của câu trích Các câu trích cần phải đảm bảo độ chính xác so với bản gốc đã công bố. Các đoạn trích phải đảm bảo để bạn đọc hiểu đúng tư tưởng tác giả bản gốc. Câu trích không được tùy tiện cắt xén theo ý định chủ quan của người viết. Trên thực tế, có đoạn trích khi kiểm tra về câu chữ thường bị sai sót (có thể thừa câu, thiếu câu, sai lệch câu chữ, ngữ nghĩa...) và làm cho ý nghĩa của nó bị sai lệch, làm bạn đọc hiểu không đúng, thậm chí trái ngược với tư tưởng tác giả bản gốc. Tác giả một giáo trình đã trích dẫn tác phẩm của V.I. Lênin, ví dụ như: “... điều quan trọng nhất của mọi sự nghiên cứu khoa học là không quên sự liên hệ lịch sử căn bản là nhận xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: Một hiện tượng nào đó xuất hiện trong lịch sử như thế nào, các giai đoạn phát triển chính của nó là những gì và đứng trên quan điểm của sự phát đó để xét xem hiện nay, hiện tượng đó đã trở nên như thế nào?”*. Sau khi kiểm tra bản gốc V.I. Lênin Toàn tập, chúng tôi đã phát hiện ra sự sai sót của tác giả và sửa lại theo bản gốc như sau: “... điều quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản; là nhận xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và * Những ví dụ về trích dẫn được đề cập ở tổng quan này được trích từ các bản thảo giáo trình ở Nhà xuất bản Lý luận chính trị, tất cả đã được sửa chữa trước khi in thành sách. 5 đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở nên như thế nào?”. Khi kiểm tra đối chiếu với bản gốc, nếu có sự sai lệch về câu chữ, ngữ nghĩa, người biên tập cần phải sửa lại cho đúng bản gốc. Nguyên nhân của sự sai lệch đó có thể là do tác giả hoặc thiếu bản gốc, hoặc sử dụng trí nhớ... Thực tế việc biên tập các giáo trình nói riêng và các sách lý luận chính trị nói chung cho thấy nếu không đối chiếu với bản gốc mà chỉ chữa theo cách hành văn quen thuộc có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Ví dụ trong một cuốn giáo trình các tác giả đã trích dẫn từ Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, song trong chú thích câu trích lại được dẫn từ Hồ Chí Minh Toàn tập. Cũng có trường hợp tác giả mở rộng ý nghĩa của đoạn trích, gò ép câu trích để thực hiện dụng ý của mình. Điều đó đã làm cho nội dung văn bản không phù hợp, khi đó đoạn trích không những không mang lại lợi ích mà còn làm hại đến nội dung tác phẩm. Trong trường hợp này biên tập viên phải trao đổi lại với tác giả để sửa lại. Ví dụ như có tác giả đã trích dẫn Hồ Chí Minh: Năm 1960, trong Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh 2-9, Người lại đưa ra dự báo thiên tài: “Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm nhất 15 năm nữa Tổ quốc ta nhất định thống nhất, Bắc Nam nhất định sum họp một nhà”. Người còn gạch dưới các chữ chậm nhất 15 năm nữa. Đúng 15 năm sau, đại thắng 30-4-1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, chứng minh tính hiện thực của các tính toán chiến lược do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra. Và sau khi tra cứu văn bản gốc và trao đổi với tác giả, biên tập viên đã sửa lại là: 6 Năm 1960, trong Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh 2-9, Người khẳng định: “Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì Tổ quốc ta nhất định thống nhất, Bắc Nam nhất định sum họp một nhà”. Đúng 15 năm sau, đại thắng 30-4-1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, chứng minh tính hiện thực của các tính toán chiến lược do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra. Việc biên tập các câu trích dẫn là một việc khó, nhất là khi biên tập các giáo trình lý luận chính trị, chúng ta sẽ gặp rất nhiều các câu trích của các nhà kinh điển. Do đó, biên tập các loại hình này cần phải tích lũy kinh nghiệm, biết cách sử dụng các công cụ tra cứu để chỉnh sửa lại những câu trích còn chưa chuẩn xác, cắt bỏ bớt những câu trích rườm rà, chỉ đúng nguồn trích dẫn để giúp cho bạn đọc dễ tra cứu. Về biên tập các câu trích dẫn từ các tác phẩm kinh điển: Trong bản thảo chúng ta thường hay gặp các câu trích mà tác giả chỉ nguồn chưa chính xác, biên tập viên phải xác định lại nguồn cho chính xác thông qua các công cụ tra cứu. Các câu trích từ bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Tuyển tập có thể chuyển sang bộ Toàn tập bằng cách tra cứu xem trong bộ Tuyển tập, câu trích đó thuộc tác phẩm nào, ở mục nào của tác phẩm đó, để từ đó có cơ sở tìm câu trích trong bộ Toàn tập. Ví dụ như: Theo C.Mác: “Thuật ngữ xã hội công dân ra đời vào thế kỷ XVIII, khi những quan hệ sở hữu đã thoát khỏi thể cộng đồng thời cổ và trung cổ. Xã hội công dân, theo đúng nghĩa của nó, chỉ phát triển cùng giai cấp tư sản; tuy nhiên danh từ ấy bao giờ cũng được dùng để chỉ tổ chức xã hội ra đời trực tiếp từ sản xuất và thương nghiệp và trong bất cứ thời đại nào cũng là 7 cơ sở của nhà nước và còn là của kiến trúc thượng tầng tư tưởng nữa” (Hệ tư tưởng Đức - C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, tập 1, tr. 362). Sau khi tìm và chuyển đổi, chúng ta có đoạn trích: Theo C. Mác: “Thuật ngữ xã hội công dân xuất hiện trong thế kỷ XVIII khi những quan hệ sở hữu đã thoát khỏi thể cộng đồng cổ đại và trung cổ. Xã hội công dân với tính cách là xã hội tư sản chỉ phát triển cùng với giai cấp tư sản; tuy nhiên, tổ chức xã hội trực tiếp sinh ra từ sản xuất và giao tiếp và trong mọi thời đại đều cấu thành cơ sở của nhà nước và của kiến trúc thượng tầng tư tưởng, vẫn luôn luôn được gọi bằng danh từ đó” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 3, tr. 52). Nếu câu trích chỉ sai số trang, sai tập hoặc không có số trang, có thể căn cứ vào tên tác phẩm được tác giả nhắc đến trong bản thảo (nếu có), hoặc căn cứ vào thời điểm mà câu trích đó được nhắc đến (nếu có). Ví dụ như: Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Ph. Ăngghen đã phân tích sâu sắc về vấn đề này và đi tới kết luận: “Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định... xã hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập không thể điều hoà mà xã hội đó bất lực không sao loại bỏ được”. Đoạn trích này khi kiểm tra qua tên tác phẩm đã tìm thấy ở C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 3, tr. 252. Trường hợp các căn cứ trên đều không có, chúng ta có thể căn cứ vào vấn đề mà tác giả đề cập đến trong bản thảo để có thể sử dụng công cụ tra cứu theo mục lục vấn đề. Ví dụ dùng bộ 2 tập mục lục vấn đề cho bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Tuyển tập. Đối với bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, do chưa có sách tra cứu theo mục lục vấn đề, chúng ta có thể dựa vào bộ tra cứu bằng tiếng Nga, tiếng Đức. Tuy nhiên căn cứ này là rất khó, đòi hỏi biên tập viên phải có kinh nghiệm và có trình độ ngoại ngữ. Riêng đối 8 với bộ sách V.I. Lênin Toàn tập thì có thể tra cứu theo cuốn tra cứu tập 2 (tra cứu theo mục lục vấn đề). Nhờ công cụ này chúng tôi phát hiện ra các tác giả đã sai khi trích dẫn (ví dụ như trong cuốn Tập bài giảng Chính trị học, tại trang 156 trích dẫn Lênin nói về giai cấp được trích từ tập 33, trang 9 trong Lênin Toàn tập. Song khi kiểm tra theo tập và kiểm tra theo vấn đề, chúng tôi phát hiện ra câu trích này nằm ở tập 39, trang 17-18). Đối với những câu trích của Hồ Chí Minh có thể sử dụng tra cứu bằng đĩa CD-Hồ Chí Minh. Hiện nay trên Website của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa gần đầy đủ các tập của bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập; V.I. Lênin Toàn tập và một số văn kiện Đại hội, các Hội nghị Trung ương..., chúng tôi đã có thể tra trực tiếp hoặc tải về để tra cứu. Đây là công cụ tra cứu nhanh và có hiệu quả nhất. Đối với các trích dẫn từ văn kiện Đảng, nếu gặp những trường hợp trong bản thảo nguồn câu trích không rõ ràng, chúng tôi thường căn cứ vào thời gian để suy luận câu trích đó thuộc văn kiện đại hội nào, hoặc căn cứ vào chủ đề đang bàn đến để suy luận câu trích thuộc văn kiện hội nghị nào... Đối với một số câu trích dẫn từ các bản dịch, cần lưu ý về cách phiên âm tên tác giả và xác định nguồn. Nếu trong bản thảo, tên tác giả được phiên âm, thì khi ghi chú thích cũng phải ghi cho thống nhất. Trong trường hợp tên tác giả bản dịch được nêu trong bản thảo để nguyên gốc tiếng nước ngoài, thì phần ghi chú thích cũng phải để nguyên. Trong trường hợp đã áp dụng tất cả những biện pháp tìm kiếm tra cứu mà không tìm thấy nguồn câu trích, biên tập viên có thể trao đổi với tác giả để có thể gạch bỏ câu trích hoặc giữ lại ý của câu trích và phá ngoặc kép. Ví dụ: chúng ta có 3 đoạn trích - Lênin từng nói: “Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng; chúng tôi sẽ làm rung chuyển cả nước Nga” (V.I. Lênin: Toàn tập, tập 1, 9 tr. 559). - Lênin đã có một quyết định cực kỳ quan trọng: “Hãy cho tôi một tổ chức của những người cộng sản tôi sẽ đảo ngược nước Nga Sa hoàng” (V.I. Lênin: Toàn tập, tập 11, tr. 359). Hai câu trích trên không đúng vì số trang nội dung câu trích trong các tập này nằm ở nội dung một vấn đề khác mà Lênin đề cập. - Lênin đã từng nói: “Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng; chúng tôi sẽ làm đảo lộn của nước Nga” (V.I. Lênin: Toàn tập, tập 5, tr. 559). Câu trích này cũng không đúng vì số trang nội dung câu trích trong tập này nằm ở phần chú thích cuốn sách. Bốn là, chỉ rõ nguồn (xuất xứ) của câu trích. Sau khi đã phân tích, kiểm tra độ chính xác của câu trích, người biên tập cần phải chỉ rõ nguồn của câu trích theo đúng qui định của đơn vị mình. Có nhiều loại chú thích cho trích dẫn: chú thích cho một câu, chú thích cho một đoạn, cho một bài, một tác phẩm, hoặc một tác giả. - Trong trường hợp các câu trích là những câu trích từ các tác phẩm kinh điển, cần phải lấy xuất xứ từ các bộ sách toàn tập đã được ban hành. Nếu trong bản thảo tác giả không có nguồn từ các tài liệu gốc, người biên tập có thể chuyển theo nguồn tài liệu gốc. Ví dụ, khi trích C. Mác và Ph. Ăngghen, nếu các câu trích được trích từ các tác phẩm riêng lẻ, từ Tuyển tập, người biên tập có thể thông qua các công cụ tra cứu để có thể chuyển về bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập. - Nếu câu và đoạn được trích dẫn trong bản thảo nằm trong một cuốn sách thì lấy xuất xứ theo cuốn sách đó và theo bản in mới nhất. Qui định về cách ghi nguồn trích dẫn có thể theo các cách thức khác nhau, nhưng dù thế nào cũng phải đảm bảo đủ các yếu tố sau: Tên tác giả, tên tác phẩm, tên nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản và số trang (có 10 những loại sách nhiều tập cần phải chỉ rõ ở tập nào). Đó là nội dung không thể thiếu khi chỉ nguồn trích dẫn. Tóm lại, việc biên tập các câu trích dẫn là một trong những công đoạn khá quan trọng của quá trình biên tập bản thảo giáo trình. Biên tập viên cần phải cẩn trọng và đảm bảo độ chính xác. Trong quá trình biên tập sẽ còn nhiều những vấn đề phát sinh, vì vậy, cần đưa ra những quy định chuẩn cho biên tập trích dẫn là rất quan trọng. 1 MỘT SỐ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SÁCH GIÁO KHOA, GIÁO TRÌNH Nhà xuất bản Lý luận chính trị được thành lập ngày 1-11-2003 theo Quyết định số 650/QĐ ngày 20-10-2003 của Giám đốc Học viện, là đơn vị sự nghiệp có thu với các chức năng sau: - Xuất bản sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập theo chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị thuộc các hệ lớp của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học về chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. - Xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, kỷ yếu hội thảo khoa học mà Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các đơn vị thuộc Học viện là chủ đề tài. Như vậy, một trong những chức năng cơ bản của Nhà xuất bản Lý luận chính trị là tổ chức xuất bản sách giáo khoa, giáo trình phục vụ giảng dạy và học tập cho các hệ lớp thuộc hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bản thảo mà cán bộ, biên tập viên Nhà xuất bản thường xuyên tiếp cận và xử lý hiện nay chủ yếu là các bản thảo thuộc giáo trình, giáo khoa các môn học lý luận chính trị. Thao tác đầu tiên mà bất kỳ một cán bộ biên tập nào khi tiếp cận cũng phải thực hiện là đưa ra các nhận xét đánh giá tổng quát về bản thảo mà mình biên tập. Việc nhận xét đánh giá dựa trên Vũ Tiến Hùng Nhà xuất bản Lý luận chính trị 2 những tiêu chí nào, đây là vấn đề cần phải có nhận thức thống nhất. Đối với bản thảo sách giáo khoa, giáo trình có thể có rất nhiều tiêu chí để đánh giá. Về cơ bản, chúng ta có thể chia các tiêu chí đánh giá ra thành mấy loại sau đây: - Tiêu chí về nội dung; - Tiêu chí về phương pháp trình bày kiến thức; - Tiêu chí về việc thực hiện các chức năng cơ bản của sách giáo khoa, giáo trình. - Tiêu chí về ngôn ngữ sách giáo khoa, giáo trình. Mỗi loại tiêu chí trên lại bao gồm nhiều nội dung với các yêu cầu và đòi hỏi khác nhau. 1. Tiêu chí về nội dung Về nội dung, người ta thường xem xét đánh giá nội dung sách giáo khoa, giáo trình theo mấy tiêu chí sau đây: - Tính khoa học, chuẩn mực của sách giáo khoa, giáo trình; - Tính cập nhật tri thức của sách; - Tính sư phạm của sách; - Tính thực tiễn Việt Nam của sách giáo khoa, giáo trình. + Tính khoa học, chuẩn mực đòi hỏi nội dung sách giáo khoa, giáo trình phải thể hiện được nội dung tri thức khoa học mang tính chính thống, chuẩn mực, nhất quán. Đối với sách giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị, tiêu chí này đòi hỏi nội dung sách phải phản ánh trung thành các quan điểm tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm đường lối chính sách của Đảng cũng như những nguyên lý lý luận đã được khẳng định... 3 + Tính cập nhật tri thức lý luận đòi hỏi nội dung sách giáo khoa, giáo trình phải kế thừa những thành tựu nghiên cứu lý luận mới, tiếp cận kịp thời những vấn đề lý luận mới của thời đại, những yêu cầu, đòi hỏi mới của công tác tư tưởng lý luận hiện nay. Đồng thời tính cập nhật trong các sách giáo trình, giáo khoa lý luận chính trị còn đòi hỏi phải có quan điểm, thái độ rõ ràng, dứt khoát với những quan điểm lý luận sai trái, đả phá, phê phán một cách nghiêm túc khách quan trên cơ sở các luận cứ khoa học với sức thuyết phục cao... + Tính sư phạm của sách giáo khoa, giáo trình thể hiện ở việc bảo đảm những yêu cầu về khoa học sư phạm như tính tương thích, vừa sức phù hợp với trình độ, năng lực người học và yêu cầu phải đạt đến của bậc học, cấp học; tính sư phạm đòi hỏi sách giáo khoa, giáo trình phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý người học. Ngoài ra tính sư phạm còn đòi hỏi sách giáo khoa, giáo trình phải phù hợp với phương pháp giảng dạy và học tập, môi trường giảng dạy, học tập, cách thức tổ chức nghiên cứu giảng dạy và học tập của giảng viên và học viên... + Tính thực tiễn Việt Nam của sách giáo khoa, giáo trình thể hiện hai phương diện: Một là, phải phù hợp với thực tế đời sống xã hội Việt Nam, điều kiện dạy và học của thày và trò và các phương tiện vật chất hỗ trợ giảng dạy học tập khác... Hai là, tính thực tiễn Việt Nam phải có quan hệ hữu cơ với tính hiện đại. Mặc dù thực tế nước ta còn là nước nghèo, lạc hậu, chậm phát triển nhưng không vì thế mà sách giáo khoa, giáo trình của ta lại lạc hậu mà phải ngang tầm với giáo khoa, giáo trình của các nước phát triển. Đặc biệt giáo trình, giáo khoa sách lý luận chính trị còn thể hiện tính chiến đấu, tính vượt trội về tư tưởng lý luận bảo đảm yêu cầu của lý luận tiền phong, dẫn đường, thể hiện đầy đủ nhất hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại. 4 Những tiêu chí nội dung cụ thể trên phải được nghiên cứu, vận dụng phù hợp khi xem xét, đánh giá chất lượng sách giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị. 2. Tiêu chí về phương pháp trình bày kiến thức Về phương pháp trình bày kiến thức của sách giáo khoa, giáo trình người ta thường đề cập đến các nội dung cụ thể sau đây: - Hệ thống kiến thức được trình bày trong sách có nhất quán, lôgíc chặt chẽ không; - Phong cách thể hiện và cách diễn đạt có phù hợp không? - Kết cấu nội dung có hợp lý không? - Việc phân chia các phần, chương, mục, tiểu mục nội dung có thống nhất không? - Mối quan hệ và tính liên thông giữa các phần, chương, bài, mục, tiểu mục? Một trong những vấn đề quan trọng trong phương pháp trình bày sách giáo khoa, giáo trình là nội dung của sách có được trình bày theo quan điểm tích hợp hay không? Quan điểm tích hợp được nhìn nhận và hiểu trên nhiều góc độ. Ở đây, chúng tôi xin lưu ý đến ba điểm chủ yếu: + Một là tính hệ thống, chặt chẽ, nhất quán trong trình bày kiến thức; + Hai là phạm vi bao quát và tính khoa học, đầy đủ, tương thích của nội dung. Điểm này với sách giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị là rất quan trọng, vì trên thực tế việc phân định giới hạn nội dung của mỗi môn học rất khó khăn, khoảng giáp ranh, liên thông giữa các môn rất dễ bị lạm dụng nên thường dẫn đến trùng lặp nội dung giữa các môn. + Ba là, phương pháp bộ môn. Mỗi môn học có phương pháp trình 5 bày kiến thức riêng, vì vậy cần chú ý đến đặc điểm, tính chất và sắc thái riêng của từng môn học mà quyết định phương pháp trình bày kiến thức của môn đó như thế nào. 3. Tiêu chí thực hiện các chức năng của sách giáo khoa, giáo trình Bàn về chức năng của sách giáo khoa, giáo trình, người ta đưa ra các chức năng chủ yếu sau đây: - Giáo dục; - Thông tin; - Chỉ đạo và định hướng; - Kích thích hứng thú học tập. Đối với sách giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị những chức năng trên thể hiện rất rõ nét. Ở đây chúng tôi chỉ lưu ý đến một số điểm cần chú ý khi đánh giá sách giáo khoa, giáo trình, đó là: Chức năng thông tin của sách cần phải xem xét một cách toàn diện, đầy đủ và cụ thể. Ngoại trừ thông tin về nội dung tri thức, một vấn đề ít được quan tâm và quan tâm không đúng mức đối với sách giáo khoa, giáo trình là các kênh chữ và kênh hình, phương tiện chuyển tải nội dung. Sử dụng kênh chữ, kênh hình, cách trình bày minh hoạ ra sao là một nội dung rất quan trọng góp phần thực hiện tốt nhất chức năng thông tin của sách. Một vấn đề nữa cần lưu ý trong việc thực hiện chức năng kích thích hứng thú học tập của giáo khoa, giáo trình là sách đã kích thích được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập chưa? Sách có gây được cảm tình, ấn tượng với người học không? Sự hấp dẫn và khả năng kích thích hứng thú của người học. Cần tránh tình trạng sách giáo khoa, giáo trình chỉ đơn giản là “cái bồ chứa kiến thức”. 4. Tiêu chí về ngôn ngữ của sách giáo khoa, giáo trình Tiêu chí ngôn ngữ của sách giáo khoa, giáo trình thường thể hiện ở 6 tính trong sáng, tính chuẩn mực và phong cách chức năng. Đối với sách giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị, tiêu chí ngôn ngữ còn đòi hỏi ở đặc trưng văn phong lý luận chính trị, cách sử dụng ngôn từ, thuật ngữ, cách thức diễn đạt... Những vấn đề này đã có những bài viết riêng, chúng tôi không đi sâu mà chỉ nêu ra để khẳng định sử dụng ngôn ngữ trong sách giáo khoa, giáo trình như thế nào là một tiêu chí quan trọng để đánh giá.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_quan_ly_cac_nhiem_vu_nghien_cuu_kh_.pdf
Luận văn liên quan