Một số giải pháp tìm kiếm thị trường đầu ra cho cá tra và cá basa Việt Nam

MỤC LỤC Lời mở đầu Chương I: Những lí luận cơ bản về thị trường 3 I. Khái niệm về thị trường 3 1. Định nghĩa 3 2. Đặc trưng 4 II. Sự cần thiết của thị trường 5 1. Từ hiện tượng đến khoa học 5 2. Từ truyền thống đến hiện đại 6 3. Từ quan điểm sản xuất đến quan điểm Marketing 7 4. Từ quốc gia đến quốc tế 10 III. Công tác nghiên cứu thị trường 12 1. Khái niệm 12 2. Chức năng, nhiệm vụ 12 3. Nội dung 14 4. Vận dụng kết quả nghiên cứu thị trường vào hoạt động kinh tế đối ngoại 16 Chương II: Thực trạng về thị trường tiêu thụ cá tra, basa của Việt Nam trong thời gian qua 22 I. Tình hình nuôi trồng và chế biến 22 1. Giới thiệu chung cá tra, basa của Việt Nam 22 2. Tình hình nuôi trồng 24 3. Tình hình chế biến 27 II. Tình hình xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam 31 1. Tình hình chung 31 2. Tình hình xuất khẩu sang một số thị trường trọng điểm 35 III. Tình hình tiêu thụ cá tra, basa tại thị trường nội địa 56 1. Trước vụ kiện bán phá giá cá tra, basa vào thị trường Mỹ 56 2. Sau vụ kiện bán phá giá cá tra, basa vào thị trường Mỹ 58 Chương III: Giải pháp mở rộng thị trường đầu ra cho cá tra, basa 62 I. Định hướng phát triển thị trường 62 1. Thị trường nước ngoài 62 2. Thị trường nội địa 68 II. Biện pháp mở rộng thị trường 71 1. Một số biện pháp chung mở rộng xuất khẩu 71 2. Một số biện pháp mở rộng các thị trường trọng điểm 85 3. Một số biện pháp phát triển thị trường nội địa 94 Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục

doc97 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2514 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp tìm kiếm thị trường đầu ra cho cá tra và cá basa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n toàn vệ sinh như EU, Mĩ; có khả năng chủ động điều chỉnh được cơ cấu thị trường, khi thị trường truyền thống có biến đổi bất lợi. 1.1. Về phía Nhà nước 1.1.1. Phấn đấu hoàn thành mục tiêu gia nhập WTO vào năm 2005 Khi Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, hàng hóa Việt Nam sẽ được hưởng thuận lợi trước tiên bằng việc hưởng chế độ MFN (Tối Huệ Quốc) với mức thuế suất rất ưu đãi khi xuất khẩu vào các thị trường thành viên của tổ chức, là điều kiện để kích thích xuất khẩu. Hơn nữa, tiếng nói của Việt Nam sẽ mạnh hơn và được bảo vệ nhiều hơn dưới cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, bởi khi đó, tranh chấp được giải quyết theo cơ chế thống nhất và công bằng của WTO theo đúng mục tiêu của tổ chức này. Ví dụ: vấn đề về bán phá giá và chống bán phá giá đã được thống nhất lại khi các quốc gia thành viên của GATT cùng nhau đặt bút ký vào “Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994”. Trong đó có nhiều quy định chi tiết và chặt chẽ từ việc xác định vấn đề phá giá, trình tự một cuộc điều tra về bán phá giá đến các biện pháp tạm thời và các biện pháp cuối cùng trong trường hợp xác định có bán phá giá. Hiệp định làm cơ sở cho các luật chống bán phá giá của các quốc gia cũng như Luật mẫu về chống bán phá giá của WTO. Nếu tranh chấp về bán phá giá xẩy ra, chúng ta sẽ dựa vào quy định trong Luật mẫu về chống bán phá giá của WTO cũng như giải quyết vấn đề trong cơ chế tự nguyện và thoả thuận của tổ chức này. 1.1.2. Hoàn thiện luật lệ, nâng cấp đổi mới các cơ quan Tiếp thu, sửa đổi các quy định pháp luật, nâng cấp đổi mới các cơ quan quản lý hành chính nhà nước phù hợp với những yêu cầu quản lí mới, nhanh chóng xây dựng Luật Thuỷ Sản, Luật chống bán phá giá cũng như kiện toàn năng lực của các cơ quan hữu quan, cơ quan quản lí hành chính Nhà Nước, tách bạch việc quản lí Nhà Nước với những dịch vụ khác. Bộ, Sở Thuỷ sản cùng các cơ quan hữu quan thuộc Bộ, ngành khác hoạt động phối hợp, tránh chồng chéo. Bộ Thuỷ sản nhanh chóng xây dựng danh mục tên gọi cho sản phẩm thuỷ sản nói chung và cá tra, basa nói riêng: tên khoa học, tên thương mại và tên thường dùng, trong đó tên thương mại phải theo đúng truyền thống, tập quán của người tiêu dùng và quy định của các nước nhập khẩu. 1.1.3. Cập nhật thay đổi về luật pháp, cơ chế chính sách thương mại của những nước liên quan Thực hiện linh hoạt chính sách khuyến khích mở rộng thị trường phù hợp với những thay đổi của thị trường và luật pháp của các nước nhập khẩu. Cập nhật kịp thời những thay đổi, các động thái mới về luật pháp của các nước xuất khẩu có liên quan đến sản xuất và thị trường, cơ chế chính sách thương mại, đặc biệt là chính sách nhập khẩu; những điều kiện mới, xu thế mới và những thành tựu mới về công nghệ của khu vực và thế giới. Kịp thời phản ứng khi có sự thay đổi về luật pháp của các nước nhập khẩu hoặc có những biến động lớn về thị trường. Tạo điều kiện cho các đơn vị liên quan cập nhật những thay đổi này. 1.1.4. Tích cực quan hệ và hội nhập quốc tế, đấu tranh chống hàng rào phi thuế Phối hợp chặt chẽ các hoạt động mở rộng thị trường với hoạt động ngoại giao. Bộ Thủy sản đã tích cực chủ động phối hợp với các Bộ Thương mại, Ngoại giao trong công tác xúc tiến thương mại, tăng cường thông tin thị trường, đặc biệt là các hoạt động ngoại giao để giải quyết các tranh chấp nảy sinh. Qua kinh nghiệm thực tiễn vụ kiện bán phá giá cá tra, basa Việt Nam cho thấy, nhiệm vụ trước hết của Nhà nước, Chính phủ, của bộ ngành sản xuất là tập trung xây dựng và củng cố phát triển mối quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế đối với các nước, đặc biệt là các nước nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam và các nước có nền công nghệ tiên tiến mà Việt Nam có nhu cầu, thậm chí tăng cường cho Quỹ hỗ trợ ngoại giao phục vụ kinh tế. Quan hệ quốc tế với các nước nhập khẩu cần tăng cường và đi vào chiều sâu để đạt đến việc công nhận lẫn nhau thất sự trong việc kiểm tra chất lượng, tránh kiểm tra hai lần. Khuyến khích và mở rộng các quan hệ hợp tác giao lưu văn hoá xã hội có tác động lớn đến hoạt động trên thị trường đẩy mạnh đàm phán quốc tế nhằm hội nhập sâu hơn vào các tổ chức thương mại để có thể tham gia rà soát hiệp định, xây dựng tiêu chuẩn quốc tế và tận dụng quyền nhận xét các tiêu chuẩn và qui định quốc tế về tạo điều kiện buôn bán nông thuỷ sản cho các nước đang phát triển v.v… Liên kết với hệ thống các nước nhập khẩu để hội nhập sâu rộng hơn vào các tổ chức trong và ngoài khu vực, làm mạnh lên tiếng nói và phản ứng của các quốc gia đang phát triển trong việc dựng lên hàng rào phi thuế của các thị trường lớn như EU, Mĩ… 1.1.5. Phối hợp, hỗ trợ hiệp hội, doanh nghiệp trong việc nắm bắt thông tin thị trường, xúc tiến thương mại Trợ giúp và đào tạo kỹ thuật cho cán bộ thị trường tại các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nắm bắt thông tin thị trường. Giải quyết tốt vấn đề thị trường là nhân tố trực tiếp nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện nay, lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế đang thay đổi, lợi thế chi phí lao động thấp đang giảm dần ý nghĩa trong khi lợi thế về chất lượng cao nhờ phát huy nội lực và tiếp nhận tiến bộ công nghệ và tri thức nhằm đáp ứng yêu cầu của các thị trường ngày càng có ý nghĩa quyết định, nhất là đối với các sản phẩm thủy sản ở nước ta. Đặc biệt, Nhà nước cần hướng dẫn, tư vấn, đào tạo và hỗ trợ cả về mặt tài chính và phi tài chính cho các doanh nghiệp, chủ thể của ngành sản xuất kinh doanh, nhanh chóng tiếp cận và áp dụng những hiểu biết chung và riêng về thị trường, đặc điểm, cơ hội và rủi ro, cơ chế chính sách thương mại và các yêu cầu tại thị trường trọng điểm cũng như phương thức hoạt động và chiến lược tại đó. Chủ động xúc tiến thương mại, phát triển công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Việc đầu tiên cần làm là hiệu quả hoá cơ quan đầu mối thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại. Các tham tán thương mại, các Thương vụ Việt nam tại Nước ngoài hiện đã tích cực hơn trong công tác hỗ trợ thông tin tiếp thị thị trường. Phát triển thị trường hiện nay đòi hỏi việc chủ động xúc tiến thương mại, bao gồm tổ chức thông tin thị trường, nâng cao kỹ thuật marketing, quảng cáo, tiếp thị khuyến mại, tham gia các hội chợ chuyên ngành thế giới,... Khi nói đến xúc tiến thương mại, người ta thường nghĩ rằng đó là nhiệm vụ của doanh nghiệp, quan niệm đó là đúng nhưng chưa đủ. Hoạt động xúc tiến thương mại càng đòi hỏi phải có sự phối hợp của Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp. Năm tới, bên cạnh đóng góp của doanh nghiệp, Nhà nước nên dành nhiều tỷ đồng hơn hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương mại thủy sản, để nhờ đó tăng mạnh số lượng các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xuất khẩu cá da trơn đang cần tìm đầu ra mới, tham gia các hội chợ, triển lãm hàng thủy sản tại EU, Trung Quốc và các nước Châu á cũng như các thị trường mới. Thực tiễn chỉ ra rằng để phát triển thị trường, Nhà nước, hiệp hội ngành nghề và doanh nghiệp có vai trò không thể thay thế trong mối quan hệ phối hợp tác động, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nhà nước đã hỗ trợ về tài chính, phương tiện kỹ thuật và đào tạo cán bộ trong giai đoạn hoạt động ban đầu của VASEP (Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam), cơ quan có một trong những vai trò quan trọng là thông tin tiếp thị thủy sản. Rõ ràng, những kết quả đạt được trong xuất khẩu những năm qua không thể tách rời việc tập trung chỉ đạo công tác phát triển thị trường từ Bộ ngành chủ quản. Bộ Thủy sản đã, đang và sẽ tổ chức nhiều hội thảo về thị trường, tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức các kênh thông tin và hội thảo về thị trường. Các hoạt động thực sự đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn phương thức chỉ đạo ở Bộ, các tỉnh và doanh nghiệp trong công tác thị trường, nhiều doanh nghiệp đã chuyển hẳn từ tiếp thị thụ động sang tiếp thị chủ động. Ngoài chức năng quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện xúc tiến xuất khẩu, nghiên cứu thị trường thủy sản thế giới,... Bộ Thương mại và Bộ Thủy sản cũng cần cung cấp thêm các dịch vụ có phí cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, tiến hành các chiến dịch quảng cáo sản phẩm Việt Nam ở nước ngoài, phối hợp với các nhà nhập khẩu và phân phối ở thị trường tiềm năng để quảng cáo, khuyếch trương hàng thủy sản Việt Nam nói chung và cá tra, basa nói riêng ở thị trường cụ thể... 1.1.6. Thúc đẩy các doanh nghiệp thuỷ sản xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn ISO, HACCP, quản lí và nâng cao chất lượng vệ sinh thực phẩm Thực hiện các biện pháp mạnh, đồng bộ, từ các Bộ, ngành đến UBND các tỉnh, các Sở triệt để chống đưa tạp chất vào nguyên liệu thủy sản. Trên cơ sở triển khai Nghị định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thủy sản, đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức cơ quan Kiểm soát An toàn vệ sinh để đủ năng lực kiểm soát vùng nuôi và các cơ sở sản xuất nguyên liệu. Bộ sẽ tiếp tục làm việc với các địa phương để tập trung sức chỉ đạo thực hiện có kết quả nội dung quan trọng này. Làm tốt công tác kiểm tra chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là kiểm soát dư lượng kháng sinh từ khâu nguyên liệu đến sản phẩm chế biến theo qui định của các thị trường chính; xác định rõ danh mục các kháng sinh bị cấm, thanh tra các nhà sản xuất, nhập khẩu và phân phối thuốc kháng sinh. Việc đổi mới chất lượng, quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm theo yêu cầu khắt khe nhất của thị trường là một lựa chọn đúng đắn của ngành thủy sản. Trong thực tế, đổi mới quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm phải cải cách hàng loạt vấn đề như công nghệ, quản lý, nền nếp làm việc và kỷ luật lao động của công nhân trong mỗi cơ sở sản xuất, đòi hỏi sự đổi mới toàn diện tại các cơ sở chế biến. Hỗ trợ về mặt kĩ thuật - tài chính trong nâng cấp hệ thống quản lí chất lượng, đầu tư mua sắm thiết bị, đào tạo cán bộ kĩ thuật, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng công tác quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO, HACCP. Từ đó, Nhà nước nhanh chóng đổi mới phương thức quản lí chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt với các doanh nghiệp đã đạt tiêu chuẩn ngành hoặc quốc tế, để doanh nghiệp chủ động; công nhận kết quả phòng thí nghiệm tại doanh nghiệp, không bắt buộc lấy mẫu sản phẩm cuối cùng như điều kiện để cấp chứng thư. Cụ thể, để phục vụ tốt hơn công tác đảm bảo chất lượng và giảm chi phí cho doanh nghiệp, NAFIQACEN – Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thực phẩm – cải tiến hoạt động như sau: (i) Xây dựng hệ thống thông tin nóng về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cho doanh nghiệp, (ii) Cấp giấy chứng nhận đã đạt HACCP cho doanh nghiệp, (iii) Giảm tần số kiểm tra điều kiện sản xuất với các doanh nghiệp đã đạt tiêu chuẩn trên các thị trường lớn như EU, (iv) Giảm số lượng mẫu và tần suất lấy mẫu kiểm tra trước khi cấp chứng thư cho lô hàng. Hỗ trợ đầu tư đổi mới tăng cường công nghệ của bản thân ngành sản xuất, giúp các doanh nghiệp và người sản xuất cập nhật kịp thời những tiến bộ trong công tác nuôi trồng, chế biến, song song trợ giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, hiện đại hóa sản xuất, tạo ra các mặt hàng mới có hàm lượng chế biến cao hơn. Tổng thể, Nhà nước phải tạo diều kiện và khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác, liên kết mọi mặt giữa các thành phần kinh tế, các loại hình đơn vị sản xuất kinh doanh, cả theo chiều dọc (từ tạo nguyên liệu đến chế biến xuất khẩu) lẫn chiều ngang, định hướng quy hoạch phát triển trong sản xuất và chế biến, giúp cạnh tranh lành mạnh trên thị trường nội địa, thị trường khu vực và quốc tế từ đó tạo sức mạnh cạnh tranh tổng thể. Tạo nhiều ưu đãi hơn cho mặt hàng có tiềm năng, ví dụ tăng thưởng xuất khẩu cho cá da trơn Việt Nam từ 300 lên 500 đồng cho 1 USD giá trị xuất khẩu; giảm hoặc miễn hẳn thuế trực thu, gián thu (thuế sử dụng mặt đất, mặt nước, tài nguyên), giảm phí thu tiền điện, nước trong một số năm đầu cho sản phẩm thâm nhập vào thị trường mới. Tóm lại, bên cạnh việc tạo lập đồng bộ cơ chế cho kinh tế thị trường như đã nêu trong các văn kiện của Đại hội Đảng, cần nhấn mạnh hơn nữa việc phải coi nhu cầu thị trường là mục tiêu của sản xuất, của đầu tư. Sản xuất chỉ có thể phát triển, đầu tư chỉ có thể hiệu quả, sản phẩm chỉ có thể cạnh tranh khi vấn đề thị trường được quán triệt ngay từ định hướng phát triển, xác định chủ trương đầu tư, lựa chọn công nghệ, đào tạo nhân lực, được thực hiện một cách đồng bộ và nhất quán trong tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất ra sản phẩm và lưu thông, tiêu thụ trên thị trường. 1.2. Về phía hiệp hội, ngành 1.2.1. Phối hợp đoàn kết các đơn vị đẩy mạnh hoạt động thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, hoạch định chiến lược và đăng kí thương hiệu Phát huy vai trò của Hiệp hội, các Câu lạc bộ nhóm sản phẩm (VASEP, Hội nghề cá, Câu lạc bộ sản xuất và xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam) trong việc cung cấp thông tin thị trường, nghiên cứu dự báo nhu cầu và diễn biến thị trường cho doanh nghiệp và người sản xuất. VASEP (Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam) tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin thủy sản, tiến hành nghiên cứu có hệ thống các thị trường truyền thống, thị trường mới, thị trường nội địa; thu thập, phân tích, xử lý, dự đoán tình hình thị trường, thông tin về luật pháp của các nước nhập khẩu có liên quan, các cơ chế chính sách thương mại, kịp thời cung cấp thông tin tin cậy cho các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước. Song song việc xử lí và phát hành thông tin thị trường, Hiệp Hội cần tổ chức các khoá đào tạo tìm hiểu về tranh chấp thương mại như khiếu kiện bán phá giá, tìm hiểu quy định mới trên các thị trường trọng điểm - đặc biệt hướng dẫn tập huấn và cung cấp thông tin về các quy định an toàn thực phẩm, tổ chức các hội thảo tìm hiểu xuất khẩu vào các thị trường lớn…để nâng cao khả năng thích ứng của doanh nghiệp thành viên trước những thay đổi trên thị trường xuất khẩu. Hỗ trợ đẩy mạnh công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Có những hoạt động không thuộc chức năng của Nhà nước mà từng doanh nghiệp riêng rẽ cũng không thể thực hiện được, đó chính là nhiệm vụ của các hội nghề nghiệp. VASEP cần tăng cường hơn nữa hiệu quả của việc tổ chức cho các doanh nghiệp hội viên tham gia hội chợ về thủy sản trong và ngoài nước, phối hợp - tổ chức các gian hàng Việt Nam tại các hội chợ quốc tế chuyên ngành, tích cực giới thiệu khách hàng; tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin trong nước và các tạp chí chuyên ngành ở nước ngoài; từng bước đưa thương mại điện tử vào ngành thủy sản bằng nguồn tài chính do các doanh nghiệp hội viên đóng góp. Thời gian tới Hiệp Hội phải nhanh chóng huy động tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu quả Quỹ phát triển thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam (thành lập 9/4/2002), nhằm hỗ trợ các hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu cho sản phẩm thủy sản, sử dụng kinh phí ngân sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, tăng cường cho vay tín dụng ngắn hạn với các hợp đồng xuất khẩu. Quỹ dựa trên cơ sở hỗ trợ ban đầu của Nhà nước và nguồn thu chủ yếu từ các doanh nghiệp, chủ động thực hiện công tác xúc tiến thương mại, xử lý tranh chấp thương mại khi xảy ra. Khuyến khích, tạo điều kiện, đóng vai trò điều hoà trong việc tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra và cá basa, giữa các doanh nghiệp này với các hộ nuôi cá. VASEP cùng các doanh nghiệp hoạch định chiến lược và các giải pháp phát triển trên thị trường, nhằm giảm bớt sự phát triển tự phát, thống nhất giá và nâng cao chất lượng sản phẩm, trong đó Hiệp hội có thể cung cấp danh mục các chế phẩm hiệu quả, an toàn cho cả thuỷ sản, con người và môi trường. Đặc biệt Hiệp hội phải tích cực giúp đỡ doanh nghiệp chứng nhận vùng sản xuất sạch, xí nghiệp chế biến an toàn và liên hệ những cơ quan nghiên cứu độc lập trên thế giới để chứng nhận chất lượng cũng như trong việc đăng ký thương hiệu sản phẩm trên thị trường toàn cầu. Từ đó bảo vệ doanh nghiệp trước những tranh chấp thương mại, giảm cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường trong nước, tạo nên tiếng nói chung và sức mạnh cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Tiếp tục phối hợp với Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan để giải quyết và rút kinh nghiệm từ vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa vào thị trường Mỹ. 1.2.2. Thành lập văn phòng đại diện thương mại thuỷ sản ở nước ngoài Thành lập Văn phòng đại diện thương mại thủy sản Việt Nam tại một số thị trường lớn. Trước mắt thành lập Văn phòng đại diện tại EU, Mỹ và Trung Quốc để rút kinh nghiệm tổ chức cho các thị trường khác. Văn phòng này sẽ có nhiệm vụ thu thập thông tin thị trường, giúp các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm, tạo hình ảnh cho sản phẩm, cho quốc gia, hỗ trợ liên hệ vận động cho lợi ích quốc gia, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp thương mại. Cơ quan này đóng vai trò cầu nối hiệu quả giữa doanh nghiệp với thị trường nước ngoài bao gồm người tiêu dùng, nhà nhập khẩu và phân phối, những cá nhân tổ chức có chung quyền lợi và mối quan tâm với nhà xuất khẩu Việt Nam, thậm chí đóng vai trò làm đại lí phân phối hàng hóa. 1.2.3. Phối hợp với hiệp hội các nước xuất khẩu, chống áp đặt hàng rào phi thuế Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cần chủ động phối hợp tốt hơn với hiệp hội các nước xuất khẩu để đấu tranh chống lại việc áp đặt các hàng rào phi thuế quan của các nước nhập khẩu, đấu tranh vận động để các nước thống nhất xây dựng những tiêu chuẩn về các mức dư lượng tối đa cho phép (MRLs) thích hợp trên cơ sở khoa học. Phải phối hợp chặt chẽ như vậy như vậy mới có thể tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường. VASEP đã tham gia thành lập và giữ chức Phó chủ tịch Liên đoàn nuôi thuỷ sản ASEAN (AAF), cũng là bước phối hợp hành động đầu tiên để thiết lập sự công bằng cho xuất nhập khẩu thuỷ sản, chống lại sự lạm dụng các qui định SPS và TBT của một số nước nhập khẩu để hạn chế xuất khẩu sản phẩm nông thuỷ sản từ các nước đang phát triển. 1.3. Về phía doanh nghiệp Các doanh nghiệp mở rộng và đa dạng hóa thị trường, giữ vững các thị trường truyền thống, tăng nhanh tỷ trọng thị trường các nước Châu Âu, Châu á có khả năng và các thị trường nhiều tiềm năng khác, tạo thế cân bằng với thị trường truyền thống, coi trọng xuất khẩu tại chỗ và thị trường trong nước, từng bước vươn ra làm chủ một số thị trường thế giới về một số mặt hàng chủ lực nhất định. Công tác thông tin, dự báo thị trường, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường phải được quan tâm đi trước để làm cơ sở cho việc định hướng phát triển sản xuất từ nguyên liệu đến cơ cấu mặt hàng chế biến đáp ứng yêu cầu thị trường. 1.3.1. Xây dựng chiến lược thị trường đúng đắn, chủ động phòng ngừa đột biến thị trường Chiến lược thị trường bao gồm định vị thị trường, tìm hiểu các nhân tố thuộc về hay ảnh hưởng đến thị trường, từ đó đưa ra sản phẩm phù hợp về chất lượng, thị hiếu, giá phải chăng, xác lập thương hiệu uy tín, phân phối tốt và xúc tiến thương mại mạnh mẽ. Nhìn chung, cần mở rộng thị trường phù hợp với những thay đổi của thị trường và luật pháp của các nước nhập khẩu; đa dạng hóa thị trường, không lệ thuộc quá nhiều vào một số thị trường, mở rộng các thị trường mới, tăng cường thị trường nội địa. Công tác nghiên cứu phát triển thị trường và thông tin thị trường phải chuyển hẳn từ thế thụ động sang thế chủ động. Doanh nghiệp cần nhanh chóng tăng cường công tác thông tin về thị trường thế giới và các cơ chế chính sách thương mại của các nước; Đẩy mạnh công tác quảng cáo, tiếp thị, hướng dẫn tiêu dùng, tham gia các hội chợ trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm và tìm đối tác kinh doanh; Chú trọng các thị trường có sức mua lớn đi đôi với khảo sát thăm dò mở thêm thị trường mới, chủ động phòng ngừa những đột biến thị trường. Để thâm nhập vững chắc, trước tiên doanh nghiệp phải hiểu rõ luật lệ, tập quán kinh doanh, nhu cầu thị trường, hành vi mua sắm của người tiêu dùng, nghiêm túc chấp hành qui định về nhãn sản phẩm và yêu cầu chất lượng. Sau đó quan trọng nhất là việc mở rộng tối đa hiệu quả các hoạt động tiếp thị quảng cáo, tiếp cận thị trường cho sản phẩm cá tra, basa Việt Nam, như quảng cáo sản phẩm trực tiếp đối với người tiêu dùng tại các thị trường tiêu thụ chính, thông qua các hệ thống nhà hàng, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời tiếp tục tiến hành các hoạt động nghiên cứu phân tích thị trường tại các thị trường tiêu thụ, cập nhật những động thái mới. Song song với tập trung đầu tư cho xuất khẩu và chế biến xuất khẩu, cần tăng cường đầu tư và xúc tiến cho tiêu thụ nội địa. Các doanh nghiệp phải coi chế biến tiêu thụ nội địa là hướng lâu dài phục vụ dân sinh, đồng thời là cán cân đối trọng bảo đảm sự ổn định, an toàn cho xuất khẩu. Để thực hiện chỉ tiêu xuất khẩu trong năm 2003 và những năm tới, cần tăng cường mạnh hơn công tác xúc tiến thương mại, tiếp tục nâng cao năng lực tiếp cận thị trường của doanh nghiệp. Duy trì cơ cấu các thị trường hiện có, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Châu á và thị trường EU, trong đó tiếp tục đầu tư khai thác thị trường chính ngạch Trung Quốc và mở rộng tìm kiếm các thị trường khác như úc, Nga, Trung Đông, Mỹ la tinh,… Đặc biệt đẩy mạnh khâu phân phối, mở rộng kênh tiêu thụ sản phẩm, tăng cường khả năng tiếp cận của người tiêu dùng ở mọi sở thích và tầng lớp với sản phẩm, không ngừng mở rộng hệ thống đại lí, thắt chặt quan hệ với các nhà nhập khẩu cũng như các nhà phân phối chính. Từ đó các doanh nghiệp chế biến có thể nâng cao khả năng thâm nhập của sản phẩm, tạo cảm giác sẵn có và tiện dụng cho người mua, nhất là thế hệ trẻ trong đời sống công nghiệp hiện đại. Xây dựng chiến lược cạnh tranh hợp lí hiệu quả lành mạnh về sản phẩm và giá cả sao cho phù hợp với tình hình sản xuất chế biến, đảm bảo chất lượng và tình hình thị trường. Đặc biệt xây dựng thương hiệu sản phẩm ngay từ khi sản phẩm xâm nhập thị trường, tránh lặp lại bài học trên thị trường Mĩ, nâng cao sức cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 1.3.2. Đổi mới chất lượng và sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm theo yêu cầu thị trường Kiểm soát chất lượng chặt chẽ trong toàn bộ quá trình tiếp nhận cho đến xử lí chế biến sản phẩm, áp dụng tiêu chuẩn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của Bộ Thuỷ sản và của thị trường thế giới, nhận nguyên liệu từ các nguồn cung ứng đạt tiêu chuẩn, tiến tới hỗ trợ xây dựng HACCP cho người nuôi. Doanh nghiệp phải không ngừng cập nhật các tiêu chuẩn quản lí chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm như HACCP, ISO 9001, trên hết nâng cao tính an toàn vệ sinh thực phẩm một cách nghiêm túc theo đúng tiêu chuẩn và yêu cầu ngày càng khắt khe của các thị trường nhập khẩu lớn, tiếp tục đầu tư hoàn thiện công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn Quốc tế để nâng số lượng doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường này. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, đa dạng hóa và nâng cao giá trị sản phẩm. Doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến và nâng cấp các mặt hàng truyền thống, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm mới có giá trị và chất lượng cao, chuyển dần từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang xuất khẩu các sản phẩm sống, tươi, sản phẩm ăn liền và sản phẩm bán lẻ siêu thị, chú trọng phát triển những mặt hàng hàm lượng chế biến cao với yếu tố giá trị gia tăng, phù hợp thị hiếu tiêu dùng của các thị trường. Cụ thể là phát triển mạnh xuất khẩu các mặt hàng phục vụ cuộc sống công nghiệp như đồ hộp, các mặt hàng giá trị gia tăng (chế biến sẵn), các sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ, song song các mặt hàng tươi, sống, đông lạnh. Trung thực trong việc phân loại và ghi nhãn sản phẩm: cá tra hay cá basa, cá thịt trắng hay thịt vàng, tỉ lệ mỡ, tránh tình trạng một số doanh nghiệp ghi nhãn cá tra là cá basa để bán giá cao hơn, dẫn đến mất uy tín trong đảm bảo chất lượng sản phẩm và thương hiệu cá da trơn Việt Nam. 1.3.3. Tăng cường liên kết dọc và ngang các doanh nghiệp nhằm quy hoạch phát triển, thống nhất giá, chất lượng và tạo dựng thương hiệu Phối hợp với người sản xuất: Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cần triển khai thêm nhiều giải pháp cụ thể thực hiện Quyết định 80/2002/QĐ-TTg (24/6/2002), thực hiện sản xuất theo hợp đồng, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm cho ngư dân, thống nhất trong quy hoạch chung theo thị trường. Trên hết, doanh nghiệp tăng hiệu quả liên kết với người nuôi khi đồng thuận với người nuôi qua các câu lạc bộ sản xuất. Bên cạnh đó, hệ thống thị trường gồm người nuôi và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cần tăng khả năng tự điều tiết và tìm cơ chế chung để có thể điều chỉnh hữu hiệu, khi thị trường biến động sẽ chủ động giảm thiệt hại, điều tiết phù hợp sự phát triển của sản xuất theo khả năng thị trường và theo các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế “từ ao nuôi đến bàn ăn”, tránh tạo ra khủng hoảng thiếu/ thừa dẫn đến giá bán bất ổn. Phối hợp với địa phương liên quan: Có kế hoạch cùng các địa phương tìm giải pháp khuyến khích nâng cấp và đổi mới công nghệ các cơ sở chế biến, đặc biệt trong số 2/3 lượng doanh nghiệp hiện chưa đáp ứng các yêu cầu thị trường về công nghệ và chất lượng; Tận dụng công tác qui hoạch về quản lí nuôi cá tra, basa, giá thành và điều kiện ưu đãi của một số địa phương. Phối hợp giữa các doanh nghiệp: Phối hợp giữa các doanh nghiệp để thống nhất nâng cao giá bình quân mặt hàng cá tra, basa, đưa giá bán cá ba sa lên cao tương xứng với đẳng cấp chất lượng thực tế của sản phẩm này, tối thiểu lên ngang giá bình quân của các mặt hàng cùng chủng loại trên thị trường thế giới, chủ yếu thống nhất giá sàn đối với sản phẩm cá da trơn philê và cá nguyên con đông lạnh là những sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Các doanh nghiệp cạnh tranh trong đầu tư cho chất lượng, bao bì, nhãn mác nhưng đoàn kết trong đăng ký bản quyền thương hiệu sản phẩm. Điều này có nghĩa là thực hiện thống nhất việc ghi tên thương mại đối với sản phẩm cá tra, ba sa Việt Nam trên tất cả các thị trường xuất khẩu, quảng bá hình ảnh quốc gia và sản xuất đặc trưng quốc gia. Phối hợp với các cơ quan chủ quản: Phối hợp với Nhà nước, các hiệp hội trong công tác thị trường, giữ vững thị trường truyền thống, tham gia tích cực thị trường khu vực, tìm hiểu cơ hội thị trường ở các khu vực khác, song song với phát triển và hướng dẫn các nhu cầu tiêu dùng sản phẩm chế biến trên thị trường nội địa. Tận dụng vai trò của Hiệp hội, các Câu lạc bộ nhóm sản phẩm trong việc cung cấp thông tin thị trường, dự báo nhu cầu và diễn biến thị trường cho doanh nghiệp và người sản xuất. Tiếp tục tham gia nhiều hội thảo về thị trường, các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, các kênh thông tin về thị trường trong và ngoài nước do Bộ Thuỷ sản, hiệp hội, ngành hàng liên quan tổ chức. Kịp thời thay đổi chính sách phù hợp khi có sự thay đổi về luật pháp của các nước nhập khẩu hoặc có những biến động lớn về thị trường. Tranh thủ các quan hệ cấp quốc gia về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội để xây dựng, bảo vệ và quảng bá thương hiệu cho cá da trơn Việt Nam. Tận dụng và sử dụng có hiệu quả Quỹ phát triển thị trường xuất khẩu chẳng hạn với những hợp đồng xuất khẩu lớn có thể xin hỗ trợ về tài chính từ Quỹ. Kết hợp với VASEP tìm hiểu điều kiện và xúc tiến thành lập văn phòng đại diện thương mại thủy sản Việt Nam tại một số thị trường lớn như Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc. Chủ động phối hợp với Bộ Thương mại và các Bộ, ngành, hiệp hội để giải quyết hậu quả sau vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa vào thị trường Mỹ. 2. Một số biện pháp mở rộng các thị trường trọng điểm: Việt Nam có ưu thế về nguồn lợi lớn từ khai thác và nuôi trồng thủy sản, hệ thống các xí nghiệp và cơ sở chế biến thủy sản đông đảo dọc suốt chiều dài đất nước, các doanh nghiệp xuất khẩu càng ngày càng được đầu tư, đáp ứng với nhu cầu khắt khe của thị trường và chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản tới năm 2005. Để đạt được kết quả xuất khẩu cao hơn, ngành Thủy sản cần phải có nguồn nguyên liệu ổn định đồng nhất, càng đồng nhất về chủng loại và kích cỡ càng tốt, đồng thời phải giữ được độ tươi và thỏa mãn những yêu cầu khác về phẩm chất sau thu hoạch; Các chuẩn quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm xây dựng trên cơ sở HACCP, có chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế GMP hoặc SSOP. Ngoài ra Việt Nam phải tiếp tục mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế và thương mại từ cấp quốc gia, các ngành tới cấp cơ sở để tranh thủ thời cơ hội nhập thị trường thế giới, cung cấp thủy sản nhiều hơn cho mọi khách hàng. Tất cả những yếu tố trên đều là những điều kiện cần và đủ để đưa xuất khẩu thủy sản Việt Nam tiến nhanh, vững chắc và tiến xa hơn trong tương lai. 2.1. EU Về phía Nhà nước: Thực hiện các biện pháp mạnh, đồng bộ, từ các Bộ, ngành đến UBND các tỉnh, các Sở triệt để kiểm tra chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, chống đưa tạp chất vào nguyên liệu thủy sản, đặc biệt là kiểm soát dư lượng kháng sinh, đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức cơ quan Kiểm soát An toàn vệ sinh, thực hiện đúng HACCP và yêu cầu của EU. Tăng cường quan hệ hợp tác thương mại song phương và đa phương với EU, thúc đẩy hợp tác trong xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung và cá tra, basa nói riêng. Các đại sứ quán sẵn sàng cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp hai bên, sẵn sàng làm chức năng môi giới trong việc thiết lập quan hệ bạn hàng, giới thiệu sản phẩm và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Về phía Hiệp Hội: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cần phối hợp tốt hơn với Liên đoàn nuôi thuỷ sản ASEAN (AAF) gây sức ép, đấu tranh, đàm phán chống lại việc áp đặt các hàng rào phi thuế quan của EU. NAFIQACEN tích cực đấu tranh trước vấn đề dư lượng kháng sinh với “mức cho phép bằng 0” như tiếp tục gửi thư tới Uỷ ban Châu âu, cử đoàn công tác trực tiếp, gặp Đại sứ EU tại Việt Nam và sử dụng các diễn đàn hội nghị quốc tế để tham gia tranh luận và lập luận. Về phía doanh nghiệp: Tham dự hội chợ triển lãm về thủy hải sản hàng năm ở châu Âu, tìm hiểu thị hiếu tiêu dùng, nhu cầu của thị trường. Từ đó, doanh nghiệp đẩy mạnh xúc tiến thương mại tại đây, đăng kí thương hiệu sớm trên thị trường. Không ngừng cải tiến kỹ thuật, áp dụng quy trình quản lý chất lượng HACCP và theo sát yêu cầu của EU để sản phẩm có thể tiến mạnh vào thị trường này. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phẩm, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch để nhận dạng lô hàng, đặc biệt tránh sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc tố do tác động của môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng. Với thị trường Đức, bạn hàng lớn trong EU Về phía Nhà Nước: Bộ Thương mại Việt Nam xem xét việc mở kho ngoại quan và trung tâm hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại Đức. Đại sứ quán Việt Nam tại đức tổ chức năng động hơn nữa công tác thông tin tiếp thị thị trường. Về phía doanh nghiệp: Xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng cao, đặc biệt sản phẩm chế biến sẵn phù hợp thị hiếu, tạo ra những mặt hàng có thế mạnh ổn định trên thị trường. Doanh nghiệp cần xem xét các tiêu chuẩn kỹ thuật, hàng rào phi quan thuế do luật lệ và quy định của EU đặt ra, lưu ý những quy định mới của Cơ quan quản lí chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm Đức thắt chặt kiểm soát những mặt hàng thực phẩm, liên quan đến sức khỏe của người tiêu dùng, đặc biệt là hàng thuỷ sản nhập khẩu ; tôn trọng luật lệ và thói quen tiêu dùng của người Châu Âu nói chung và người Đức nói riêng, ví dụ hàng hóa lưu thông phải có nhãn mác, xuất xứ, nơi sản xuất, ngày sản xuất và thời hạn rõ ràng. Đối với các mặt hàng thực phẩm lần đầu tiên thâm nhập thị trường cần phải có chiến lược quảng cáo, giới thiệu và hướng dẫn cho người tiêu dùng Đức với truyền thống chuộng phi lê cá thịt trắng biết và làm quen; Tận dụng doanh nghiệp cộng đồng người Việt bán lẻ ở khắp các vùng, miền nước này, đề nghị họ làm cầu nối giới thiệu sản phẩm trong nước cho thị trường Đức, gây dựng quan hệ bạn hàng tin cậy, lâu dài. Trong hợp tác kinh doanh với các công ty Đức cần phải hiểu biết và tôn trọng đặc tính của người Đức, đó là: tính thận trọng; tính cụ thể và chi tiết trong giao dịch, đàm phán, tính kỷ luật trong làm việc như đến điểm hẹn đúng giờ, đúng nơi quy định; tôn trọng các thỏa thuận và cam kết, đặc biệt là cam kết về thương mại như giao hàng đúng hẹn, đúng chất lượng, giá cả và chủng loại theo hợp đồng đã ký. Nếu có thay đổi phải thông báo kịp thời theo hạn định. Nhìn chung, người Đức quan tâm rất nhiều đến chữ Tín trong thương mại. 2.2. Châu á 2.2.1. Nhật Bản Về phía doanh nghiệp: Triển khai mạnh các chương trình phát triển những nhóm sản phẩm chủ lực, chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và nghiên cứu khách hàng để lựa chọn những đối tác làm ăn lâu dài, cung cấp cho họ những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu thụ. Tranh thủ những hội thảo chuyên đề về cá tra, basa tổ chức ở đây để quảng bá sản phẩm. Sản phẩm xuất khẩu phải được dán nhãn, cung cấp những thông tin tối thiểu là: tên sản phẩm, hạn dùng, tên và địa chỉ công ty sản xuất, tên và địa chỉ của công ty nhập khẩu, các phụ gia đã sử dụng (nếu có), phương pháp bảo quản phải ghi rõ sản phẩm đã nấu chín hay còn sống, ghi rõ “rã đông” nếu phải rã đông và “nhập khẩu” nếu là hàng nhập khẩu và xuất xứ. Quan tâm và cập nhật đòi hỏi chất lượng và vệ sinh thực phẩm. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, doanh nghiệp cần gắn khâu chế biến với việc nâng cao chất lượng nguyên liệu, hình thành các vùng chuyên canh có khả năng cung cấp một lượng thủy sản nguyên liệu lớn với chất lượng ổn định, quan tâm kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch để hạn chế tỷ lệ phế phẩm, tăng cường kiểm soát các yếu tố độc hại trong khâu chế biến sản phẩm, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng của thị trường này. Trong quá trình xuất khẩu, việc lấy được “Xác nhận trước về chất lượng” là rất quan trọng, hàng hóa có thể được thông quan ngay trong ngày, tiết kiệm được nhiều chi phí. Tận dụng kênh phân phối hiệu quả là thị trường bán sỉ để họ phân phối đến các cửa hàng lớn, cửa hàng bán lẻ và các cơ sở phục vụ ăn uống hoặc phân phối trực tiếp đến các công ty chế biến thực phẩm… Các doanh nghiệp có thể liên kết một công ty nào đó ở Nhật có thể là một công ty kinh doanh, công ty chế biến hay nhà phân phối thuộc Hiệp hội nhập khẩu thủy sản Nhật Bản (The Japan Marine Products Imorters Association) hoặc các nhà phân phối ngoài hiệp hội, để thực hiện công đoạn này. Các doanh nghiệp cũng cần tận dụng các triển lãm, các hội nghị để xây dựng các mối quan hệ làm ăn, trao đổi kinh nghiệm thâm nhập thị trường… Giới thiệu doanh nghiệp và các sản phẩm trên mạng và tiếp cận với thương mại điện tử (Ecommerce). Nghiên cứu kỹ và tuân thủ “Luật kiểm dịch” và “Luật vệ sinh thực phẩm” của Nhật Bản. Thành lập chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Nhật Bản để xâm nhập thị trường tốt hơn. 2.2.2. Trung Quốc Về phía Nhà nước: Bộ ngành liên quan xúc tiến Hiệp Định Thương Mại chính thức giữa hai nước, tiến tới thoả thuận chung về hoạt động kiểm dịch và yêu cầu vệ sinh thực phẩm, phương thức thanh toán, phát triển xuất khẩu chính ngạch. Ngành Đường sắt Việt Nam phát triển dịch vụ vận chuyển container lạnh để tạo điều kiện vận chuyển hàng thủy sản từ các tỉnh phía Nam nước ta sang Trung Quốc được thuận tiện. Về phía Hiệp Hội: Đặt văn phòng đại diện của mình ở Trung Quốc. Văn phòng đại diện VASEP sẽ liên kết các nhà xuất khẩu thủy sản trong một tổ chức thống nhất. Việc chuyển dịch thị trường đòi hỏi phải nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại các sản phẩm cũng như phải thiết lập mạng lưới phân phối ở Trung Quốc. Sau khi gia nhập WTO 3 năm, Trung Quốc sẽ cho phép mọi công ty nước ngoài thành lập các văn phòng đại diện và các đại lý phân phối hàng hóa ở Trung Quốc một cách thông thoáng hơn. Vì vậy, VASEP có thể lập đại lý phân phối để chủ động hơn trong việc cung cấp hàng cho thị trường Trung Quốc. Tổ chức một số đoàn doanh nghiệp Việt Nam tham dự các Hội chợ triển lãm thủy sản quốc tế ở Trung Quốc, các hội chợ này đều được Bộ Nông nghiệp Trung Quốc hỗ trợ. VASEP cần tiến hành xúc tiến thương mại bằng cách sử dụng nhiều phương pháp để quảng bá sản phẩm của Việt Nam như: tăng cường các ấn phẩm, mở các lễ hội thủy sản với các hình thức mời nếm tại chỗ cho khách hàng, cung cấp miễn phí quảng cáo cho khách hàng tiềm năng và quảng cáo trên truyền hình, các phương tiện thông tin đại chúng, có thể xuất bản lịch bằng tiếng Anh để quảng cáo sản phẩm cá catfish. Về phía doanh nghiệp: Nghiên cứu kĩ thị trường, tập quán buôn bán, chính sách quản lí thương mại và hệ thống phân phối của Trung Quốc; bên cạnh cơ chế buôn bán qua biên mậu phải đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch; lựa chọn một số đại lý, các tư nhân hay các Công ty địa phương của Trung Quốc có uy tín làm đối tác. Tham dự các hội chợ thủy sản quốc tế tổ chức ở Trung Quốc, tranh thủ các cơ hội quảng bá sản phẩm và xúc tiến thương mại. Xây dựng hồ sơ tín dụng minh bạch và hệ thống bán hàng tốt. Xây dựng thương hiệu thủy sản trên chính bao gói của Việt Nam. Khách hàng Trung Quốc rất hoan nghênh nếu chất lượng hàng thủy sản tốt và có nguồn cung cấp ổn định. Thương hiệu và các thông tin về mặt hàng đều được khách hàng đón nhận từ các nguồn tạp chí và quảng cáo. Các sản phẩm thủy sản bao gói nhỏ có thể được đưa thẳng vào hệ thống siêu thị và các chuỗi nhà hàng lớn. Triển vọng phương thức này sẽ chiếm lĩnh thị phần lớn hơn. Tận dụng công cụ thương mại điện tử, mở các website riêng. Nếu giao dịch trên thị trường Trung Quốc nên thiết lập trên 2 ngôn ngữ, tiếng Anh và tiếng Trung. Để nắm được tình hình chung về ngành thủy sản Trung Quốc, có thể truy cập vào một số địa chỉ trên mạng. 2.3. úc Về phía Hiệp Hội: Tổ chức đoàn đi khảo sát và nghiên cứu thị trường Ôxtrâylia để tìm hiểu cụ thể nhu cầu đối với các mặt hàng tiềm năng cá tra, basa của Việt Nam. Về phía doanh nghiệp: Thâm nhập và giữ vững thị phần bắt đầu từ thành phố Sydney, nơi tiêu thụ nhiều thủy hải sản nhất do dân số đông lại có tập quán ăn ngoài, nơi đầu nguồn cung cấp thủy hải sản chính cho những thành phố lân cận, là thị trường rất quan trọng và nhiều hứa hẹn. Giảm 5% so với giá thị trường cho các mặt hàng mới theo đúng tập quán tại đây. Bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế HACCP về vệ sinh an toàn thực phẩm, sản phẩm ngon và thời gian giao hàng nhanh. Nghiên cứu cải tiến sản phẩm sao cho phù hợp những thói quen về ẩm thực cùng nếp sống của người dân. Các mặt hàng chế biến sẵn, ăn liền, chế biến tinh và giá trị gia tăng dễ thu hút khách hàng nhất, cùng với việc bao gói tiện dụng và nhỏ lẻ phù hợp. Hết sức chú ý khâu bao bì và nhãn mác. Trên các sản phẩm thủy sản phải in rõ, chính xác chỉ dẫn hàng tươi hay hàng đông lạnh. Bao gói chắc chắn để bảo vệ hàng bên trong không bị hư hỏng. Nên áp dụng các kỹ thuật mới để thể hiện sản phẩm qua việc đóng gói bao bì nhằm thu hút khách hàng. Tất cả các loại thủy hải sản phải có tên sản phẩm, tên nước xuất xứ, liệt kê thành phần, ngày đóng gói và hạn sử dụng. Nghiên cứu và tuân thủ Luật Tiêu chuẩn thực phẩm úc – New Zealand và quy định của AQIS trong đó yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản phải có giấy chứng nhận chất lượng của cơ quan có thẩm quyền ở nước xuất xứ. Các nhà xuất khẩu Việt Nam cần lưu ý về Luật Chống bán phá giá, vì khi hiện tượng trên được chứng minh là gây tác hại về mặt vật chất cho các nhà sản xuất úc thì việc nhập khẩu phải nộp thuế bán phá giá. Không nên để bài học vụ kiện cá tra, cá basa Việt Nam tại Mỹ lặp lại trên thị trường úc. 2.4. Nga và các nước Đông âu Về phía doanh nghiệp: Trong công tác thị trường và sản phẩm, doanh nghiệp phải nghiên cứu kĩ thị trường, tìm hiểu tâm lý người tiêu dùng, từ đó đưa vào thị trường những thương hiệu tốt nhất với nhiều chủng loại hàng phù hợp. Mỗi doanh nghiệp có thể đưa ra nhiều thương hiệu cho loạt sản phẩm của mình, ví dụ: Basa kho tộ Agifish, Basa cắt khúc Agifish…song phải tạo nên ấn tượng riêng biệt cho tổng thể tất cả các sản phẩm của mình và phải được dịch sang tiếng Nga sao cho dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ. Chất lượng hàng cần đồng đều hơn. Giá cả phải ổn định để thị trường Nga dễ thích ứng, doanh nghiệp có thể ký hợp đồng với hội doanh nghiệp tại Nga với giá cả ổn định ít nhất theo từng quý. Trong thanh toán, nếu làm ăn những doanh nghiệp nhỏ ít vốn phải bán chịu hoặc cho họ trả chậm, hoặc bán qua các công ty Việt Nam tại Nga, tận dụng lực lượng đông đảo vài trăm công ty của người Việt ở Nga, trong đó có hàng chục công ty chuyên nhập khẩu hàng từ Việt Nam. Chủ động đầu tư vào mạng lưới tiêu thụ, đưa hàng bán thử vào các siêu thị, mở được kho ngoại quan để đảm bảo nguồn cung cấp ổn định. Nếu mặt hàng nào bán chạy, tốt nhất trong kho lúc nào cũng nên có vài container. Các doanh nghiệp phải liên kết chặt chẽ với nhau, không nên đi đơn lẻ, có thể kết hợp với các doanh nghiệp Việt Nam tại Nga đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất tại Nga vì việc kinh doanh thương mại hiện nay lãi suất rất thấp và rủi ro cao, thuế nhập khẩu rất cao. Chọn nhà cung cấp để đảm bảo nguồn hàng ổn định. Một khi đã chuẩn bị xong, chỉ cần lập kế hoạch, xác định nhu cầu, loại hàng, thời gian giao hàng, phát triển mạnh các kênh phân phối để hàng của mình có mặt ở mọi siêu thị. 2.5. Mĩ: Về phía Hiệp Hội: Tiếp tục đại diện cho các doanh nghiệp, phối hợp với cơ quan nhà nước hữu quan yêu cầu US ITC xem xét lại phán quyết một cách công bằng. Tổ chức hội thảo nghiên cứu những quy định mới của Luật Khủng Bố Sinh Học và hướng dẫn doanh nghiệp đăng kí với FDA. Về phía doanh nghiệp: Tích cực phối hợp với Bộ ngành liên quan và VASEP đấu tranh đòi điều chỉnh lại mức thuế hiện thời lên sản phẩm cá tra, basa phi lê tại thị trường Mĩ. Mở rộng các mặt hàng chế biến cao cấp không nằm trong danh mục bị áp thuế chống bán phá giá để xuất khẩu sang thị trường này, song song duy trì một lượng nhất định cá tra, basa phi lê đông lạnh xuất khẩu sang đây để giữ thị phần. Nhanh chóng cập nhật Luật Khủng Bố Sinh Học, nghiên cứu kỹ các quy định của FDA để tham gia tìm hiểu về vấn đề này cũng như đăng ký với FDA. Nhãn mác phải ghi rõ cá tra, basa, nguồn gốc xuất xứ theo quy định mới của FDA; chất lượng cá tiếp tục được đảm bảo theo tiêu chuẩn HACCP Tiếp tục quảng bá mặt hàng cá tra, basa phi lê và chế biến tinh trên các phương tiện thông tin đại chúng, tích cực tranh thủ vụ kiện để làm cá tra, basa Việt Nam nổi tiếng hơn. 3. Một số biện pháp phát triển thị trường nội địa Về phía các doanh nghiệp: Tìm các nhà tư vấn, chuyên gia tiếp thị, những người am hiểu thị trường, học theo phương cách của các doanh nghiệp tiên phong để xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ở trong nước, với những bước đi bài bản, vững chắc. Chủ động đưa cá đến với người tiêu dùng một cách trực tiếp thông qua hệ thống đại lí, tổ chức mạng lưới phân phối sâu rộng hơn nữa đến các tỉnh thành trong cả nước. Có thể áp dụng mô hình tiên phong của công ty Agifish: Các tổng đại lí phân phối sản phẩm có trụ sở tại miền Bắc, Trung, Nam, đồng thời trải rộng mạng lưới đại lí cấp I, II đến từng vùng miền toàn quốc. Tạo điều kiện và công bố các chế độ đãi ngộ để thu hút doanh nhân địa phương tham gia phân phối sản phẩm, như áp dụng mức hoa hồng 15 – 20% cho đại lí cấp I. Tổ chức nhiều hơn các điểm phân phối, quảng bá, hướng dẫn chế biến cá tra, basa đến với những đơn vị có nhu cầu cao như nhà hàng, khách sạn, doanh trại quân đội, khu công nghiệp, vườn trẻ, bếp ăn tập thể, các nông trường cao su, cà phê, các chợ đầu mối… Tại các khu vực nông thôn, vùng khó khăn hoặc cao nguyên, trong cơ cấu mặt hàng, có thể phân phối theo hai dạng: các sản phẩm giá trị gia tăng (đã qua chế biến) bán cho các nhà hàng, khách sạn, người tiêu dùng có thu nhập trung bình và cao; các sản phẩm basa philê, cắt khúc, nguyên con bán cho các đối tượng bình dân. Định ra mức giá hợp lí để hấp dẫn người mua. Giá cả là yếu tố cạnh tranh hàng đầu của doanh nghiệp, trong thời gian tới, một mức giá hợp lí, đặc biệt cho người tiêu dùng phía Bắc, sẽ giúp doanh nghiệp xâm nhập thị trường mạnh mẽ hơn. Doanh nghiệp có thể cân nhắc việc giảm giá vài phần trăm để có thêm khách hàng mới, bởi người tiêu dùng thị trường Việt Nam rất dễ bị thu hút bởi các chính sách khuyến mại, giảm giá, bán hàng có thưởng hoặc tặng quà của các công ty. Đẩy mạnh bán hàng khu vực phía Bắc, quảng bá sản phẩm một cách hiệu quả thông qua các hội chợ, phương tiện thông tin; tích cực tổ chức các chương trình giới thiệu thiết thực như họp báo, hướng dẫn chế biến... Năm tới, từ 1/1 - 5 /1/2004, Hội chợ thuỷ sản Việt nam được tổ chức lần thứ hai tại Hà Nội là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp cá tra, basa quảng bá sản phẩm đến với người tiêu dùng miền Bắc, tận dụng tâm lí của người tiêu dùng tò mò trước sản phẩm, bên cạnh đó phải nhấn mạnh tinh thần dân tộc: Cá tra, basa gặp khó khăn và bất công khi vào thị trường Mĩ, chính người tiêu dùng nội địa sẽ góp phần giải quyết đầu ra và thị trường quốc gia trở thành một trong những tiêu thụ chính. Ngoài ra, nên tổ chức các đợt khuyến mại, mời ăn thử, phát tờ rơi về loài cá và cách chế biến trong và ngoài thời gian hội chợ để thêm sức hút và kích thích thói quen mua hàng lâu dài. Một phương pháp quảng cáo sản phẩm rất hiệu quả khác là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như TV, báo, đài. Nếu cần, doanh nghiệp có thể tổ chức một phóng sự chuyên đề về cá tra, basa trong chương trình Tvad (chuyên mục quảng cáo truyền hình giới thiệu các doanh nghiệp) để giúp người tiêu dùng hiện tại và tiềm năng nhận thức đầy đủ và chính xác về cá tra, basa Việt Nam, phân biệt nó với loài cá da trơn khác là trê, lăng, bông lau… Một phương pháp khác vừa có tác dụng quảng bá khuyếch trương sản phẩm vừa trợ giúp người tiêu dùng là việc hỗ trợ và tư vấn phương pháp chế biến món ăn từ cá tra, cá basa cho người tiêu dùng, các đơn vị tiêu thụ, đại lí cấp II, các khách hàng qua các buổi họp báo, giới thiệu, qua báo, đài, TV… Cho đến nay, cá tra, basa mới chỉ thu hút ít người tiêu dùng ưa ăn mỡ (1/4 trọng lượng cá là mỡ). Vì vậy, doanh nghiệp nên tận dụng các báo, tạp chí thực phẩm và dành cho phụ nữ như ăn&Uống, Thế giới phụ nữ…; các chương trình TV có sức thu hút với nhiều người nội trợ để quảng bá sản phẩm và hướng dẫn phương pháp chế biến cá sao cho đúng kiểu và hợp khẩu vị như: Thường thức trong gia đình, Vào bếp cùng bạn (HTV), ở nhà chủ nhật (VTV3), các chương trình dạy nấu ăn khác (VTV1, VTV2)…Ví dụ, cá nguyên con hay cắt khúc không nên rán (rất nhiều mỡ) mà nên kho tộ, theo kiểu Miền Nam (nêm nước hàng, nước dừa). Yêu cầu đa dạng hoá sản phẩm phải được cấp thiết thoả mãn , bên cạnh đó vẫn tăng mặt hàng cá tươi ướp đá cho phù hợp thị hiếu tiêu dùng thuỷ sản của thị trường. Mẫu mã, bao bì phải phù hợp và bắt mắt, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cũng được đề cao. Thị trường Việt Nam khác với thị trường nước ngoài ở chỗ không thể một mặt hàng phi lê đã thoả mãn người tiêu dùng, ngược lại, sản phẩm phải đáp ứng từ truyền thống tự chế biến bữa ăn cho gia đình của người Việt (các mặt hàng tươi sống ướp đá, philê, nguyên con, cắt khúc phục vụ đối tượng này) đến nhu cầu thưởng thức bữa ăn ngon, nhanh, tiện, có giá hợp lí trong cuộc sống hiện đại (các mặt hàng chế biến). Thị trường nội địa, với tư cách là sân nhà cho các doanh nghiệp, rất hấp dẫn và tiềm năng. Song cũng như xu hướng chung của thị trường thế giới, thị trường Việt Nam đòi hỏi càng ngày càng cao các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, mẫu mã, bao bì. Hơn nữa, nhiều người tiêu dùng còn có tư tưởng “hàng ngoại tốt hơn hàng nội” nên các sản phẩm “Made in Vietnam” phải thật sự thuyết phục về nội dung lẫn hình thức để giữ chỗ trên sân nhà. Song song với việc đa dạng hoá sản phẩm, doanh nghiệp phải đa dạng hoá bao bì và mẫu mã, đặc biệt cho khu vực miền Bắc vốn rất trọng hình thức bao gói. Nếu có thể, trong dịp Tết, doanh nghiệp đưa ra những bao gói tiện dụng, bảo quản hàng hóa tốt nhưng đồng thời đẹp mắt và lịch sự để người tiêu dùng đem biếu tặng. Có thể nói thị trường nội địa nói chung và miền Bắc nói riêng đã mở cửa chào đón doanh nghiệp chế biến cá tra, basa. Vấn đề là chỉ còn chờ các doanh nghiệp có năng động và hiệu quả xúc tiến thương mại trên chính sân nhà hay không mà thôi. Lời kết Vụ kiện các sản phẩm phi lê đông lạnh cá tra, basa Việt nam trên thị trường Mĩ đã tạm khép lại. Trước mắt, các doanh nghiệp Việt nam xuất khẩu loại cá này đang gặp khó khăn do thị trường xuất khẩu chính là Mỹ gây nhiều cản trở suốt hai năm qua. Tuy nhiên, khó khăn về xuất khẩu chỉ là tạm thời. Con cá tra, basa Việt Nam với giá trị dinh dưỡng cao, giá hợp lý chắc chắn sẽ tìm được đầu ra hiệu quả trong thời gian tới. Có thể nói, nỗ lực hết mình của Nhà nước, hiệp hội và các doanh nghiệp trong thời gian qua đã làm cho hoạt động xuất khẩu hai loại cá này không những không sụt giảm mà còn tìm được cơ hội mở rộng sang các thị trường mới. Bài học cần rút ra ở đây không chỉ là sự chuẩn bị và phản ứng của phía Việt Nam trước những tranh chấp thương mại trên thị trường quốc tế mà còn xác lập những định hướng đúng đắn trong công tác xuất khẩu, định vị thị trường và phát triển thị trường. Hơn lúc nào hết các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần đoàn kết chặt chẽ hơn nữa trong công tác thông tin và tiếp thị thị trường, chủ động phối hợp với các đơn vị hữu quan và các cơ quan chủ quản để tạo sức mạnh cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam nói chung và cá da trơn nói riêng trên thị trường quốc tế. Từ tình hình xuất khẩu cá tra, basa thời gian qua, với những khó khăn cũng như thuận lợi chung khi xâm nhập các thị trường, chúng ta có thể nhìn nhận lại và đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu cũng như công tác chuẩn bị của doanh nghiệp trước những yêu cầu và thay đổi của thị trường. Tuy công tác này còn nhiều điều bất cập nhưng các doanh nghiệp thực sự đã thay đổi tầm nhìn và nghiên cứu thị trường cùng phương pháp tiếp cận kĩ càng hơn trước khi xâm nhập bất cứ thị trường nào. Trong thời gian tới, để tránh lặp lại bài học trên thị trường Mĩ và đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành sản xuất và xuất khẩu cá da trơn Việt Nam, bản thân người sản xuất, doanh nghiệp, hiệp hội và cơ quan Nhà nước cần phối hợp hoạt động trong một cơ chế thống nhất, hiệu quả, linh hoạt và chủ động. Trong một tương lai không xa, con cá da trơn của Việt Nam sẽ trở thành thực phẩm thuỷ sản quen thuộc trên thế giới và tại Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa Luan Tot Nghiep-Trieu Thi My Chau-A9 K38 KTNT-Mot so Gi.doc
  • docbia tot nghiep.doc
  • docMUCLUC.doc
  • xlsPhu luc 7,8,9,10,11.xls
  • doctai lieu tham khao_phu luc 1,2,3,4,5,6.doc
Luận văn liên quan