MỤC LỤC
Nội dung Trang
Mục lục .1
Mở đầu .3
Chương I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền được chết 4
I. Khái niệm quyền được chết 4
1. Nguồn gốc hình thành ý tưởng về quyền được chết 4
2. Khái niệm quyền được chết 5
II. Các tiêu chí cần thiết để thực hiện quyền được chết 6
1. Tiêu chí về y học 6
2. Tiêu chí về luật pháp 8
III. Ý nghĩa của vấn đề thực hiện quyền được chết trong giai đoạn hiện nay .11
1. Ý nghĩa pháp lý 11
2. Ý nghĩa xã hội 12
Chương II. Tình hình quy định của pháp luật về quyền được chết trong giai đoạn hiện nay 13
I. Quy định của một số nước trên thế giới .13
1. Các quốc gia đã hợp pháp hóa quyền được chết và Luật An tử .13
2. Các quốc gia chưa hợp pháp hóa hay quy định một phần .14
II. Quy định của Việt Nam .15
III. Những quan điểm cơ bản đang tồn tại về ghi nhận quyền được chết trong giai đoạn hiện nay 16
1. Những quan điểm phản đối .16
2. Những quan điểm ủng hộ 22
3. Quan điểm của Việt Nam hiện nay .23
Chương III. Một số kiến nghị đề xuất về xây dựng Luật an tử ở Việt Nam .27
I. Đánh giá về xu hướng xây dựng Luật An tử ở Việt Nam.27
1. Một vấn đề còn nằm trong tương lai 27
2. Điều kiện để một quốc gia có thể ban hành Luật An tử .30
3. Nếu quyền được chết được ghi nhận trong hệ thống pháp
luật 30
II. Phác thảo một số nội dung cơ bản của Luật An tử 31
III. Kiến nghị một số biện pháp để thực hiện việc tiếp cận với vấn đề quyền được chết và xây dựng Luật An tử ở việt Nam .38
1. Để quyền được chết không còn quá mới mẻ .38
2. Một số kiến nghị trong quá trình xây dựng Luật An tử 41
Kết luận 43
Tài liệu tham khảo .44
Phụ lục 45
MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thế giới bất ổn
Chiến tranh, dịch bệnh, đói nghèo và toàn cầu hóa đang làm thay đổi bộ mặt chung của thực tại
Ranh giới giữa sự sống và cái chết đôi khi chỉ trong gang tấc.
Quyền được sống? Bình thường, dễ hiểu. Quyền được chết? Còn rất mới mẻ và xa lạ. Quyền được chết là một vấn đề còn để mở, bao hàm trong nó nhiều quan niệm khác nhau, đa phần là chống lại. Nó không chỉ còn là vấn đề của y học mà còn thuộc về chính trị, văn hóa, xã hội . Luật pháp xuất phát từ cuộc sống. Nhưng cuộc sống lại không đơn giản. Do đó, đôi khi luật dễ làm mà lại khó thực hiện. Nên gắn quyền được chết như là một quyền cơ bản của cá nhân và phải được ghi nhận trong các văn bản pháp luật như các quyền cơ bản khác. Chỉ khi nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa luật pháp và xã hội thì quyền được chết mới trở thành một vấn đề như bao vấn đề khác. Nếu không, sẽ mãi chỉ là đặc biệt và phức tạp .
Tại Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về quyền được chết. Người dân Việt hầu hết còn xa lạ với khái niệm này hoặc chỉ nghe mà chưa hiểu hết. Bên cạnh đó, truyền thống Á Đông đang chi phối từng ngày, từng giờ. Do vậy, công trình muốn góp phần tìm hiểu về quyền được chết hiện nay với mong muốn quyền được chết sẽ không còn xa lạ với mọi người, để mọi người hiểu rõ được bản chất của “cái chết êm ả”. Bên cạnh đó, công trình đề cập đến một số vấn đề trong quá trình xây dựng Luật An tử ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu được xác định ở Việt Nam và trên thế giới theo hai hướng chấp nhận và không chấp nhận quyền được chết, đặc biệt là các quốc gia đã hợp pháp hóa Luật An tử với phương pháp: tổng hợp, so sánh và rút ra quan điểm riên. Những tiếp xúc ban đầu bao giờ cũng mở ra chân trời mới. Có thể nó không thay đổi được một quan niệm cũ nhưng lại làm cho cái cũ chấp nhận cái mới. Quyền được chết là phải như thế, không thể khác.
46 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3739 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề về Quyền được chết đối với quá trình xây dựng Luật an tử ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oảng cách từ cái chết tự nguyện đến không tự nguyện rất hẹp, do đó không nên thông qua cái chết êm ả tự nguyện.
1.1.4. Sự thông qua cái chết êm ả tự nguyện sẽ khuyến khích hành động cái chết êm ả không tự nguyện theo 2 hướng như sau
Nó chứng tỏ rằng trong trường hợp đó, những người nói họ mong muốn hạn chế hành động của cái chết êm ả thành cái chết êm ả tự nguyện sẽ nghĩ rằng, nếu họ được cho cái chết êm ả tự nguyện thì không có lý do nào tồn tại cho việc không đồng ý cái chết êm ả không tự nguyện. Do đó, họ bắt đầu đặt kế hoạch cho hoạt động có tính hệ thống của cái chết êm ả không tự nguyện.
Tiêu chuẩn để phân định ranh giới hành động của cái chết êm ả và cái chết là yêu cầu của bệnh nhân phải chứng tỏ được sự minh bạch không thể cứu chữa của bệnh tình. Kinh nghiệm của Hà Lan đã chứng minh sự thật: bị chỉ trích về sự thích nghi của cái chết êm ả tự nguyện (kể cả bằng Luật của Quốc gia hay quy định của y tế), nghĩa là, nó sẽ dẫn đến hành động của cái chết êm ả không tự nguyện một cách rộng rãi.
1.1.5. Cái chết êm ả làm suy yếu dần những thiên chức của bác sỹ và vì thế có thể phá hỏng những truyền thống của y khoa
Mục đích của y khoa không thể thành công nếu bác sỹ không cố gắng bảo toàn sự sống của bệnh nhân đến phút cuối cùng. Lương tâm của bác sỹ không cho phép thực hiện cái chết êm ả.
1.1.6. Sự thông qua cái chết êm ả làm suy yếu đạo lý, thúc đẩy để phát triển sự tiếp cận lòng trắc ẩn thực sự đến sự đau khổ và cái chết
Đây là một điều hết sức nguy hiểm. Từ sự trắc ẩn, vì tình bạn đến mưu mô tính toán, đau khổ và cái chết là rất ngắn. Ban đầu có thể là ý tốt đẹp nhưng sau nó có thể là một âm mưu không lường trước.
1.1.7. Lý do này thuộc về hoạt động lập pháp của Hà Lan
Có 3 Hội đồng đã lập ra vào các năm 1994, 1995 nhưng thực tế đều chống lại cái chết êm ả vì cho rằng nó sẽ làm suy đồi đạo đức con người. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, năm 1993 Hà Lan đã cho phép tự tử trợ giúp, đến năm 2001 thì thông qua Luật An tử. Do đó, lý do này của Luke Gormally chỉ mang tính chất thời gian, không còn ý nghĩa nữa.
Qua những quan điểm trên đã cho thấy, Luke Gormally đã quan tâm đến vấn đề thống nhất pháp luật trong xã hội sẽ gặp khó khăn nếu thông qua cái chết êm ả. Ông đã dự liệu đến những hậu quả của cái chết êm ả và tự tử trợ giúp, mà quan trọng nhất là mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân của chính quốc gia đó. Cũng theo ông, người bác sỹ sẽ mất đi chức năng cơ bản của mình và những giáo lý cơ bản về quyền con người sẽ bị xói mòn. Tuy nhiên, qua đó cho thấy: ông chưa đánh giá vấn đề theo hướng đa chiều để phân tích, luận giải. Một số hậu quả mà ông nêu ra sẽ được khắc phục nếu Luật An tử quy định một cách nghiêm ngặt vấn đề đó. Nếu như ông thấu hiểu nỗi bức xúc của giới bác sỹ thì có lẽ ông sẽ nghĩ tích cực hơn.
1.2. Một số lý do khác
1.2.1. “Dù chúng ta luôn thương xót cho bệnh nhân phải chịu đựng như chị Pretty Diane Pretty - người bị liệt dây thần kinh vận động xin được chết năm 2001 tại Anh
, nhưng việc tạo ra quyền được chết sẽ xói mòn quyền cơ bản được sống, thông qua việc hình thành danh sách những người coi cuộc sống không đáng giá” Theo Vnexpress.net ngày 01/09/2001, trích bài phát biểu của Paul Tully, Tổng thư ký Hiệp hội Bảo vệ Thai nhi Anh Quốc.
:
Theo chủ quan của người viết, quyền được chết không làm xói mòn quyền cơ bản là được sống. Quyền được chết không chỉ liên quan đến bệnh nhân đó mà còn cả gia đình và xã hội. Người ở giai đoạn cuối của bệnh chịu nhiều đau đớn nếu có sống cũng chỉ thêm khổ, thậm chí nhiều người không biết mình sướng hay khổ nữa. Cho nên nếu họ không muốn gây thêm tốn kém không cần thiết cho gia đình, xã hội thì hãy nên tôn trọng họ. Hơn nữa, mục đích của quyền được chết là làm cho họ không phải sống đau đớn kéo dài, đó là mục đích nhân đạo. Họ không chối bỏ quyền được sống mà vì họ không còn đủ điều kiện đảm bảo sự sống. Điều này khác hẳn với người có điều kiện để sống, bị bệnh có thể cứu chữa được nhưng lại muốn chết, đó mới là trường hợp nên lên án.
Hồng Y Javier Lozano Barragan, người đứng đầu ủy Ban y tế Vaticang tuyên bố hành động gỡ bỏ ống truyền đạm tương đương với hành động giết người trong vụ T.Schiavo (Mỹ): “Cuộc sống con người không phụ thuộc vào cá nhân mà phụ thuộc đấng sáng tạo. Vì thế, chúng ta có điều răn thứ năm không cho phép giết người. Việc khiến người bệnh chết nhẹ nhàng chính là hành động giết người. Bản chất của nền văn minh là người mạnh có nghĩa vụ bảo vệ kẻ yếu. Trong những trường hợp có các nghi ngờ và câu hỏi nghiêm trọng, cơ sở nhận định của chúng ta cần hướng đến sự ủng hộ cuộc sống” Theo bbc.co.uk, Trích bài “Bệnh nhân Terri Schiavo qua đời”, 2005.
. Nói chung, hầu hết các Tôn giáo đều coi trọng sự sống nên việc họ phản đối quyền được chết là điều dễ hiểu. Cũng có nước như Bỉ đa phần dân số đều theo đạo Thiên chúa giáo và việc thông qua quyền được chết không bị phản đối quá gay gắt.
1.2.2. Nếu thông qua cái chết êm ả thì sẽ bị lạm dụng để thực hiện tội ác vô nhân đạo. Tình trạng sẽ lớn hơn ở các nước có hệ thống pháp luật lỏng lẻo, không kiểm soát được tình hình phạm tội
Lý do này đúng và đáng quan tâm khi xây dựng Luật An tử nhưng lại không toàn diện. Một khi đã xác nhận đồng ý nó là quyền nhân thân, tiến hành xây dựng Luật An tử thì tất nhiên phải quan tâm đến vấn đề xây dựng như thế nào để luật ít bị lạm dụng nhất. Bên cạnh đó cần có những văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể và theo dõi sát sao. Nếu đã xác định được tầm quan trọng và hậu quả có thể xảy ra ngay từ đầu thì tất nhiên phải vạch ra biện pháp phòng ngừa, giải quyết vấn đề có khả năng xảy ra. Tất nhiên không có luật nào mới ban hành cũng hoàn hảo và phù hợp với cuộc sống ngay tức khắc được, luật là cuộc sống nhưng cuộc sống lại luôn biến đổi không ngừng. Và phải có những điều kiện nhất định thì một quốc gia mới nên ban hành Luật An tử, ví dụ: không nên ban hành khi quốc gia đang có một hệ thống pháp luật lỏng lẻo, chưa đồng bộ, chồng chéo vì đây là điều hết sức nguy hiểm.
1.2.3. Nếu có Luật An tử, nhiều người bệnh sẽ giảm ý chí, mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống, cho rằng đã có Luật này thì không cần điều trị vô ích nữa
Đây là một quan điểm sai lầm. Luật An tử không bắt buộc người bệnh, nhất là bệnh giai đoạn cuối, chịu nhiều đau đớn phải chọn an tử. Muốn hay không muốn là quyền của họ. Họ có quyền được sống, được chữa bệnh nếu họ muốn. Không phải cứ muốn chết là được chết. An tử chỉ là biện pháp cuối cùng khi không còn cách nào khác, khi rơi vào tình huống y tế không lối thoát và chủ yếu phụ thuộc vào bệnh nhân.
1.2.4. Đa số bác sỹ cho rằng, thực hiện cái chết êm ả là giết người bởi chức năng của bác sỹ phải là cứu người
Quan điểm này chỉ đúng khi quyền được chết chưa được công nhận, cái chết êm ả chưa được hợp pháp hóa. Nếu có Luật thì bác sỹ sẽ không phải lo sợ mình sẽ phạm tội. Nếu họ không muốn thì cũng không ai bắt buộc vì bác sỹ có quyền từ chối thực hiện. Hành vi của bác sỹ trong quyền được chết mang tính chất nhân đạo chứ không thể mang toan tính, mưu lợi. Bởi vì xét cho cùng, cứu người hay giúp đỡ một bệnh nhân thoát khỏi đau đớn thì mục đích cuối cùng cũng là mang lại điều tốt đẹp cho bệnh nhân xuất phát từ lương tâm của họ. Do đó, điều mà giới bác sỹ và tất cả chúng ta cần nhìn ra là mục đích cuối cùng của hành vi chứ không nên chỉ đánh giá qua hình thức của hành vi đó. Thực ra, giúp bệnh nhân thoát khỏi đau đớn chính là cứu bệnh nhân khỏi sống khổ, đó cũng là cứu người chứ không phải giết người. Nếu cố giúp người bị bệnh vô phương cứu chữa thì chỉ làm họ thêm đau đớn, khi đó, an tử theo yêu cầu là việc đáng làm.
2. Những quan điểm ủng hộ
Những quan điểm chống lại Luật An tử ở trên có những điểm hợp lý và chưa hợp lý như đã phân tích. Từ những điểm chưa hợp lý đó, kết hợp với một số mục đích khác, chúng ta có thể đưa ra một số lý do nên ủng hộ quyền được chết và an tử như sau:
Thứ nhất, Hướng đến mục đích tốt đẹp là giúp những bệnh nhân ở trong tình trạng đau đớn kéo dài, bệnh nan y vô phương cứu chữa ở giai đoạn cuối mà sự sống của họ chỉ thêm đau khổ được “ra đi” thanh thản. Đó chính là một cái chết nhân đạo.
Thứ hai, Luật An tử ra đời sẽ giải tỏa nỗi bức xúc của giới bác sỹ trong hoàn cảnh: bệnh nhân đang phải chịu đau đớn kéo dài xin được chết mà họ thì không thể “giết người”. Nếu luật cho phép, họ sẽ có định hướng tốt và có thể yên tâm giúp đỡ bệnh nhân được toại nguyện nếu muốn. Điều này sẽ tốt cho cả bệnh nhân và bác sỹ điều trị.
Thứ ba, Nếu không công nhận quyền được chết, ban hành Luật An tử thì quyền được chết sẽ mãi nằm trong bế tắc và rối rắm bởi nó liên quan đến nhiều lĩnh vực: chính trị, tôn giáo,... Những đề nghị, yêu cầu xin được chết nhiều, thậm chí dai dẳng sẽ kéo cả Tòa án và chính quyền vào cuộc, trở thành “quả bóng” cho các Đảng phái nâng cao uy tín của mình... Tiêu biểu là vụ Schiavo ở Mỹ đã kéo cả Tòa án tối cao Bang Florida, tòa án Liên Bang Mỹ và cả Quốc hội Mỹ vào cuộc. Diễn biến Theo Vnexpress.net ngày 22/03/2005
: tháng 2/1990, Schiavo bị tổn thương não sau khi ngất tại nhà; 5/1998, chồng bà gửi đơn xin rút ống truyền dinh dưỡng cho vợ, gây nên một cuộc chiến pháp lý; 2/2000, Tòa án cho phép rút ống; 10/2003, Hạ Viện Florida thông qua “Luật Terri”, cho phép thống đốc ra lệnh ngừng truyền thức ăn cho Schiavo; 9/2004, Tòa án tối cao Florida bác bỏ Luật này; 12/2004 vụ việc đưa lên tòa án tối cao Mỹ; 1/2005, tòa án bác đơn; 3/2005, tòa án Florida một lần nữa cho rút ống; 20/03/2005, Quốc hội thông qua luật khẩn cấp cho phép cha mẹ Schiavo khiếu nại để nối ống truyền... Tất nhiên lý do này chỉ phổ biến ở những quốc gia chưa quy định an tử và thực tế có nhiều bệnh nhân xin được chết.
Khi phân tích những lý do ủng hộ an tử như trên thì không có nghĩa Luật an tử phải ban hành ngay. Không phải vậy. Điều đó còn phụ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia đã có những yêu cầu cấp thiết và những điều kiện phù hợp hay chưa nữa. Có nhiều nước không công nhận quyền được chết là quyền nhân thân và tất nhiên không ban hành Luật An tử. Có nước công nhận nó là quyền nhân thân nhưng chưa ban hành Luật vì chưa phù hợp hay chỉ chấp nhận hành vi tự tử dưới sự trợ giúp của bác sỹ.
3. Quan điểm của Việt Nam hiện nay
Thực tế, tuy Việt Nam không ban hành cụ thể văn bản nào công nhận quyền được chết là quyền nhân thân nhưng bản thân Việt Nam đã công nhận điều này khi đưa nó vào dự thảo sửa đổi Bộ Luật dân sự 2005. Tuy nhiên, quyền này đã không được thông qua. Ngoài những lý do đã nêu ở trên, có thể rút ra những lý do mang tính đặc trưng riêng của Việt Nam như sau:
3.1. Việc chấp thuận quyền được chết và ban hành Luật An tử sẽ đi ngược lại quan niệm truyền thống Phương Đông: coi trọng sự sống
Ở phương Tây, nơi mà truyền thống, đạo lý không quá nặng nề như các nước phương Đông thì quyền được chết phù hợp hơn về mặt thời gian. ở các nước phương Đông, vấn đề coi trọng sự sống còn ảnh hưởng sâu sắc và với thực tế số lượng người xin được chết chiếm số lượng còn ít so với các nước phương Tây thì khó mà chấp nhận cái chết êm ả.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần xác định rằng: sẽ thật là sai lầm nếu quan niệm không chấp nhận quyền được chết cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận nó là một quyền con người. Đa phần vì truyền thống, phong tục mà không chấp nhận nó cho dù nó là một quyền nhân thân. Việc chấp thuận cần có thời gian và phụ thuộc vào những điều kiện thực tế của xã hội tác động nữa. Nếu như không vượt qua được ngưỡng cửa của khái niệm quyền được chết thì sẽ không bao giờ công nhận và hợp pháp hóa nó được.
“Quyền được chết còn phải phụ thuộc tình cảm, đạo lý của mỗi người, mỗi gia đình. Có thể hiểu quyền được chết là quyền tự do của cá nhân. Nhưng vấn đề là người chết có đủ khả năng chịu trách nhiệm về hành vi của mình hay không? Bản thân vấn đề tự do chết còn rất nhiều mâu thuẫn. Thế nào là tự do chết? Khái niệm tự do chết là một khái niệm nằm giữa các mối quan hệ xã hội phức tạp, còn mập mờ giữa pháp luật, tình cảm, tôn giáo...” Xem chú thích 1 tại trang 11 của công trình
. Việc thay đổi quan niệm truyền thống, nhất là khi liên quan đến sự sống và cái chết thì không phải một sớm một chiều mà cần có thời gian. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam cũng chưa phù hợp với quyền được chết.
Do đó, quyền được chết là vấn đề nhạy cảm. Vào thời điểm hiện tại chưa phù hợp với đạo lý người Á Đông cho dù nó là bức xúc của một bộ phận không nhỏ giới bác sỹ.
3.2. Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn lỏng lẻo, không đồng bộ và chồng chéo
Trong khi đó, muốn ban hành Luật An tử một trong những yêu cầu là hệ thống pháp luật của nước đó phải nghiêm minh, chặt chẽ và đồng bộ. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Luật An tử tránh bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nếu trong một xã hội mà luật pháp nghiêm minh và người dân có ý thức tuân thủ chặt chẽ những điều được quy định trong pháp luật thì đây là một điều đáng nên làm.
3.3. Kỹ thuật lập pháp của Việt Nam còn thấp
Điều này thể hiện ở số lượng các văn bản luật được ban hành nhưng không áp dụng được hay bị lãng quên không phải là ít. Luật thiếu tính thực tế, chồng chéo, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật còn chậm. Để xây dựng các quy định về vấn đề khó như quyền được chết trong Luật An tử cần có kỹ thuật lập pháp cao thì mới hạn chế được việc luật bị lạm dụng vào mục đích xấu. Bên cạnh đó cần học hỏi kinh nghiệm các nước trong việc xây dựng và áp dụng Luật này. Đây là một lý do khách quan quan trọng để không nên quy định Quyền được chết hiện nay ở Việt Nam.
3.4. Nền kinh tế Việt Nam còn chậm phát triển, kéo theo điều kiện của các cơ sở chăm sóc, khám chữa bệnh y tế còn thấp
Chúng ta chưa thực sự quan tâm đến việc phát triển y tế cộng đồng. Trong khi đó, Hà Lan ban hành được Luật An tử một phần vì có nền kinh tế phát triển và họ quan tâm đến việc chăm sóc y tế cho nhân dân, do đó luật không bị lạm dụng nhiều. Nếu Luật An tử được ban hành ở Việt Nam vào thời điểm hiện tại thì mục đích xấu bị lợi dụng sẽ không chỉ dừng lại ở những bệnh nhân bị bệnh nan y mà đối tượng còn lan rộng sang: người già neo đơn, ốm yếu, người bị thiểu năng trí tuệ hay bị bệnh thần kinh...
3.5. Số lượng bệnh nhân xin được chết ở Việt Nam còn ít so với thế giới và quyền được chết cũng chưa phổ biến nên Luật An tử chưa cần thiết phải ban hành
Theo chủ quan của người viết, Việt Nam cũng là nơi tập trung nhiều điều bất ổn của thế giới: dịch bệnh, đói nghèo,... Những vùng dịch bệnh, y tế thấp kém đã làm cho ngành y tế Việt Nam đang đương đầu với những thử thách lớn. Nền kinh tế kém phát triển đã kéo theo những hậu quả tất yếu. Quả không sai khi nói rằng kinh tế quyết định chính trị, xã hội. Số lượng bệnh nhân rơi vào các tình huống y tế không lối thoát tuy không có số liệu cụ thể nhưng không phải là số ít. Đó là hậu quả thực tế mà bất cứ ai nếu quan tâm đến các vấn đề xã hội đều có thể nhận ra không quá khó khăn. Chỉ có điều, mọi người chưa biết nhiều, hiểu nhiều về quyền được chết, về an tử nên những trường hợp xin được chết chưa nhiều. Và thực tế, xét ở bất cứ khía cạnh nào thì số lượng các bệnh nhân ở trong các tình huống y tế không lối thoát của Việt Nam cũng còn rất ít so với thế giới. Giới bác sỹ Việt Nam cũng có những bức xúc nhất định, chiếm số lượng không ít. Ví dụ như, chưa có quy định chung về hồi sức tim phổi cho bệnh nhân (CPR), mỗi bệnh viện làm một kiểu, hầu hết không thể đồng ý theo ý kiến của gia đình bệnh nhân là không hồi sức nữa hay hồi sức thấp cho bệnh nhân khi bệnh trở nặng và cho về; nhiều trường hợp bác sỹ biết chắc không có kết quả gì nhưng phải làm cho dù tăng tải công việc không cần thiết, kéo dài đau khổ cho bệnh nhân, tăng chi phí điều trị... Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào lý do này để ban hành Luật An tử thì chưa đủ và chưa toàn diện bởi muốn ban hành Luật An tử cần nhiều điều kiện hơn thế.
Tóm lại, Việt Nam chưa hội tụ đủ những yếu tố cần thiết nên việc ban hành Luật An tử hiện nay là chưa phù hợp. Cũng vì thế mà công trình chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu về quyền được chết và cái chết êm ả với mong muốn thay đổi một phần quan niệm về vấn đề này. Hy vọng rằng quyền được chết sẽ không còn quá mới mẻ đối với Việt Nam.
Chương III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT VỀ XÂY DỰNG LUẬT AN TỬ Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, để công nhận quyền được chết là một vấn đề lâu dài. Phong tục, tập quán và truyền thống Á Đông đã chi phối điều này. Bên cạnh đó, sự lo sợ Luật An tử khi ban hành sẽ bị lạm dụng cũng góp phần vào những quan điểm chống lại an tử hiện nay. Điều cần làm bây giờ là thay đổi những quan niệm, những cách nhìn nhận sai lầm về quyền được chết và cái chết êm ả chứ không phải cố gắng ban hành Luật An tử trong điều kiện chưa phù hợp như hiện nay.
I. ĐÁNH GIÁ VỀ XU HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT AN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Một vấn đề còn nằm trong tương lai
Như đã phân tích ở các chương trên, việc nhìn nhận vấn đề chấp nhận quyền được chết ở Việt Nam còn trong tương lai là đúng đắn. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã có những yếu tố và điều kiện ban đầu cho việc xây dựng Luật An tử. Khi Việt Nam đưa quyền được chết vào dự thảo sửa đổi Bộ Luật Dân sự 2005 tại Quốc hội khóa XI (kỳ họp thứ 6 và 7) là đã bắt đầu cho một hành trình mới: xây dựng Luật An tử. Tuy quyền được chết chưa được thông qua tại kỳ họp này nhưng cũng là sự kiện đóng vai trò ghi dấu mốc đầu tiên cho hành trình này. Thiết nghĩ, xây dựng Luật An tử là xu hướng chung của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Tất cả còn phụ thuộc chủ yếu về mặt thời gian: thích hợp hay chưa thích hợp.
Một điều phải công nhận là truyền thống phương Đông chúng ta luôn coi trọng sự sống con người, xem nó là thứ quý giá nhất. Từ lâu, quan niệm này đã ăn sâu vào gốc rễ tâm hồn mỗi người dân. Tuy nhiên, có phải vì thế mà quyền được chết sẽ vĩnh viễn không được công nhận hay không? Không, chắc chắn là không phải như thế. Ngay cả phương Tây - nơi mà truyền thống, phong tục không quá nặng nề và tư tưởng thoáng hơn phương Đông thì cũng chỉ có vài nước công nhận quyền được chết và cái chết êm ả. Nhưng ở phương Tây thì lý do để đa phần các quốc gia không chấp nhận an tử lại không phải là phong tục, tập quán mà là vì các lý do thuộc về luật pháp, tôn giáo và chính trị... Còn ở phương Đông, vấn đề không chỉ dừng lại như thế. Làn sóng tư tưởng phương Tây ngày càng tràn vào Châu Á như vũ bão. Thế giới đã thay đổi, hòa nhập hay hòa tan vào dòng chảy toàn cầu hóa đang là bức xúc của nhiều quốc gia. Tuy vậy, quan niệm truyền thống cũng khó mà thay đổi ngay trước những tác động này, chí ít là ở thời điểm hiện tại. Do đó, phong tục, tập quán luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu khi xem xét quyền được chết.
Trở lại với câu hỏi ở trên: liệu có phải truyền thống phương Đông sẽ vĩnh viễn không chấp nhận an tử hay không? Chúng ta cần nhìn nhận rằng, trong thời điểm hiện tại không thể thay đổi được ngay quan niệm coi trọng sự sống như đã nói. Quan niệm coi trọng sự sống con người có những cơ sở hết sức tốt đẹp. Tuy nhiên, không vì thế mà không chấp nhận an tử bởi chấp nhận an tử đâu có nghĩa là không tôn trọng sự sống nữa. Khi đó, người bệnh đã tôn trọng cuộc sống của những người khác. Sẽ khó khăn như thế nào cho gia đình, xã hội khi họ còn sống và bản thân họ thì sự sống không được đảm bảo nữa. An tử ở đây là theo những điều kiện nhất định và với những mục đích nhân đạo. Nếu có một cái nhìn tổng quát, xem xét trên nhiều bình diện khác nhau thì quan niệm truyền thống đã đến lúc phải thích nghi với cái mới, nhưng là sự thích nghi dần dần. Nhiều người tuy cũng có suy nghĩ “con người có quyền được sống thì cũng có quyền được chết” nhưng do sức ép của quan niệm truyền thống chi phối nên dẫn đến không ủng hộ an tử. Cần phải hiểu rằng: công nhận quyền được chết nhưng không phải cứ muốn “chết” là được chết vì nó còn theo những quy định và cách thức nghiêm ngặt nhất định. Để xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp chúng ta cần rất nhiều thời gian nhưng để phá hủy nó thì chỉ trong tích tắc. Do đó, không thể tùy tiện cố gắng ban hành Luật An tử khi đang có nhiều quan điểm chống lại như thế. Nếu điều đó xảy ra, mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân đã bị rạn nứt bởi những phong tục, tập quán coi trọng sự sống. Bên cạnh đó, quyền được chết là một vấn đề mới mẻ, còn xa lạ với người dân Việt Nam. Mọi người chưa hiểu hết được về an tử, chưa tường tận về nó nên chống lại nó cũng là điều dễ hiểu. Nhưng không phải vì thế mà quyền được chết sẽ vĩnh viễn không được chấp nhận.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - chính trị, văn hóa nhân loại đang ngày càng có xu hướng toàn cầu hóa. Truyền thống á Đông muốn giữ vững và nâng cao bản sắc thì phải có sự thay đổi có chọn lựa và phù hợp với quốc gia của mình. Tiếp thu nhưng không mất đi bản sắc mới là điều đáng quý. Hiện tại, chúng ta không thay đổi ngay được quan niệm coi trọng sự sống bởi nó quá đột ngột, quá sớm. Tuy nhiên, chúng ta có thể đặt cơ sở để dần chấp nhận an tử bằng cách: làm cho mọi người tiếp cận những kiến thức về quyền được chết nhiều hơn, phổ biến sâu rộng hơn. Những phương pháp thuyết trình và chính trị bao giờ cũng an toàn hơn biện pháp cưỡng chế. Có thể truyền thống phương Đông vẫn coi trọng sự sống nhưng lại chấp nhận an tử nếu người dân hiểu rõ bản chất của nó và tất nhiên, đi kèm là một hệ thống pháp luật đảm bảo cho Luật An tử không bị lạm dụng. Vẫn tôn trọng sự sống mà lại chấp nhận an tử nghe có vẻ mâu thuẫn nhưng thực sự lại không như thế. Lý do rất đơn giản: nếu chấp nhận quyền được chết mà lại bỏ đi quan niệm coi trọng sự sống sẽ là một điều hết sức nguy hiểm. Như thế, bản sắc đã mất, truyền thống đã tiêu tan. Khi đó, con người ta dễ rơi vào những tình huống xấu gây ảnh hưởng đến gia đình, xã hội bằng chính hành vi của họ.
Như vậy, chúng ta không nên suy nghĩ làm thế nào để thay đổi truyền thống, quan niệm bởi đó là điều không thể mà hãy làm sao để truyền thống Á Đông chấp nhận an tử. Đó mới là giải pháp thích hợp nhất. Lúc đó, quan niệm coi trọng sự sống và quyền được chết cùng hòa hợp trong một quốc gia, như thế vừa giữ gìn bản sắc và vừa tiếp thu cái mới. Để làm được điều này có rất nhiều biện pháp phải thực hiện song song mà quan trọng nhất là thuộc về hệ thống pháp luật và các yếu tố chính trị, xã hội... Sự thích ứng dần dần của truyền thống với quyền được chết để đi đến chấp nhận an tử chính là câu trả lời cho câu hỏi trên.
Tóm lại, vấn đề xây dựng Luật An tử ở Việt nam hiện nay là vấn đề còn nằm trong tương lai và trước mắt cần quan tâm, giải quyết nhiều vấn đề xung quanh, nhất là truyền thống Phương đông trước khi muốn bước vào quá trình xây dựng Luật này.
2. Điều kiện để một Quốc gia có thể ban hành Luật An tử
Chúng ta có thể rút ra một số điều kiện để một quốc gia có thể ban hành Luật An tử như sau:
Nhu cầu xã hội: số lượng bệnh nhân giai đoạn cuối, mắc bệnh vô phương cứu chữa xin được chết lớn. Trong giới bác sỹ tồn tại nhiều bức xúc, bất cập mà cách giải quyết tốt nhất là ban hành Luật An tử.
Quốc gia đó có hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ, nghiêm minh. Kỹ thuật lập pháp của nước đó đủ để có thể xây dựng luật ít bị lạm dụng nhất.
Người dân nước đó có ý thức tôn trọng chặt chẽ những điều được quy định trong pháp luật.
Tại thời điểm muốn ban hành Luật An tử không có quá nhiều người của quốc gia đó phản đối (điều này sẽ được thể hiện qua những cuộc thăm dò dư luận). Ở những nước phương Đông, điều này càng quan trọng.
3. Nếu quyền được chết được ghi nhận trong hệ thống pháp luật
Phải được ghi nhận là một quyền dân sự cơ bản trong đạo luật gốc (Bộ Luật Dân sự) để quyền được chết được công nhận là quyền nhân thân chính thức về mặt khoa học pháp lý.
Sau khi được ghi nhận trong đạo luật gốc thì quyền được chết phải được cụ thể hóa trong một Luật chuyên ngành như Luật An tử. Điều này rất cần thiết vì trong đạo luật gốc, hầu như các vấn đề chỉ được quy định chung chung, không rõ ràng bằng 1, 2 điều luật. Với một vấn đề khó, dễ bị lạm dụng như quyền được chết thì việc cụ thể hóa thành một đạo luật riêng càng có ý nghĩa quan trọng.
II. PHÁC THẢO MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT AN TỬ
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đề cập đến vấn đề này. Sẽ có quan điểm cho rằng nói đến vấn đề này bây giờ là còn quá sớm, không cần thiết và không có tác dụng gì cả vì đa phần quan điểm chống lại an tử và Việt Nam cũng chưa thông qua. Nhưng lý do quan trọng để hầu hết mọi người chống lại an tử là: sợ nó sẽ bị lạm dụng vào những mục đích xấu. Do đó, để mọi người thay đổi quan niệm về vấn đề này và hiểu rõ hơn về an tử thì nên cho họ thấy được luật an tử sẽ quy định những vấn đề gì, quy định như thế nào. Có thể họ chỉ dừng lại ở mức độ tiếp cận, tìm hiểu về an tử nhưng cũng có thể họ sẽ tham gia đóng góp ý kiến cho nội dung của luật. Nhân dân tham gia vào việc xây dựng luật cũng là mong muốn của các nhà làm luật. Đây cũng là một bước để mọi người hiểu thêm về an tử. Hãy gạt vấn đề có ban hành hay không ban hành luật an tử sang một bên và nên tập trung cho câu hỏi: họ đã hiểu đến như thế nào về an tử. Trên cơ sở tham khảo Luật của một số nước đã thông qua Luật An tử (Hà Lan, Bỉ, Bang Florida và Oregon của Mỹ...) và phân tích thực trạng của quyền được chết, người viết xin phác thảo một số nội dung cơ bản của Luật An tử như sau:
1. Giải thích cặn kẽ các khái niệm ban đầu
Đây là phần không thể thiếu trong nội dung chính của bất kỳ luật nào. Đối với vấn đề quyền được chết, điều này càng quan trọng hơn bởi tính chất quan trọng và phức tạp của nó. Một số khái niệm mà Luật An tử nên giải thích như sau:
Người đã thành niên (adult)
Cái chết êm ả (an tử, euthanasia)
Bệnh nhân (patient)
Bác sỹ (doctor, physician)
Bệnh nan y, vô phương cứu chữa
Tình trạng giai đoạn cuối của bệnh (có 2 loại: thứ 1 là end-stage conditinon: tình trạng bệnh không thể thay đổi được, gây nên bởi những tại nạn hay do mắc bệnh, việc điều trị không mang lại kết quả gì; thứ 2 là terminal condition: tương tự như loại 1 nhưng nếu không chăm sóc điều trị sẽ hình thành nên cái chết).
Các biện pháp kéo dài sự sống (life-prolonging procedures)
Bác sỹ điều trị, bác sỹ thứ 2 (a second doctor) được hỏi ý kiến, hội đồng bác sỹ.
Chúc thư y tế (living will): rằng khi người bệnh bước vào giai đoạn cuối không chữa trị được nữa thì có quyền được chết, chỉ định một người khác là đại diện nếu lúc đó người bệnh không còn biểu lộ ý chí được và người đại diện sẽ quyết định việc chăm sóc, chữa trị của bệnh nhân.
Người giám hộ, người đại diện.
Người được ủy nhiệm bởi bệnh nhân (surrogate).
Người được ủy quyền, được chỉ định (bởi các cơ quan có thẩm quyền: như Tòa án) (proxy).
Người làm chứng cho chúc thư y tế (witness).
Trên đây chỉ là một số khái nịêm ban đầu có tính chất xây dựng. Quyền được chết còn liên quan đến nhiều khái niệm mà nhà làm luật cần lưu tâm.
2. Điều kiện của chủ thể thực hiện quyền được chết
Không phải có quyền được chết thì muốn “chết” là “được chết”. Để thể hiện đúng bản chất của an tử, cá nhân đó phải thỏa mãn các điều kiện sau:
Là người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên).
Đang chịu nhiều đau đớn về thể chất và tinh thần hay đang sống trong trạng thái thực vật dai dẳng, kéo dài sau một tai nạn hoặc mắc bệnh nan y, vô phương cứu chữa.
Tự nguyện đưa ra yêu cầu xin được chết, không chịu áp lực nào từ bên ngoài. Yêu cầu được lặp đi lặp lại nhiều lần.
Có chúc thư y tế (nếu bệnh nhân lúc lập chúc thư chưa bước vào giai đoạn cuối của bệnh tật). Xem phụ lục mẫu chúc thư y tế của bang Florida - Mỹ ở cuối công trình (trang 45).
Không có vấn đề nào về tâm thần khi đưa ra quyết định xin được chết (lúc xin chết tại thời điểm ở giai đoạn cuối) hay lập chúc thư y tế (khi chưa bước vào giai đoạn cuối).
Bệnh nhân có quyền thay đổi quyết định bất cứ lúc nào. Như vậy, chúng ta đã loại trừ các dạng bệnh nhân khác như: tâm thần, người già neo đơn không nơi nương tựa bị bệnh tật, người thiểu năng trí tuệ... và chỉ cho phép các bệnh nhân thỏa mãn điều kiện ở trên có quyền xin được chết. Hà Lan còn quy định an tử đối với trẻ em: bệnh nhân từ đủ 12 đến dưới 16 tuổi cần có ý kiến của gia đình, từ đủ 16 tuổi trở lên thì ý kiến gia đình là không cần thiết. Nhưng theo chủ quan của người viết đây là đối tượng có khả năng bị lạm dụng vào mục đích xấu nhiều nhất. Những hủ tục trọng nam khinh nữ hay những xô đẩy của cuộc sống sẽ góp phần làm cho luật bị đi chệch hướng. Nếu có quy định này phải giới hạn và quy định chặt chẽ. Thiết nghĩ, nếu có quy định an tử cho trẻ em thì phải có ý kiến của gia đình. Nếu gia đình không đồng ý thì không thể thực hiện an tử đối với trẻ em.
3. Những quy định đối với bác sỹ
Những quy định đối với bác sỹ sẽ có liên quan đến các loại sau: bác sỹ chăm sóc, bác sỹ điều trị, bác sỹ tâm thần.
Theo Khoản 2 Điều 293, Bộ Luật Dân sự Hà Lan Theo Dutch Civil Code, nguồn Hollandlaw.com. Bản dịch Tiếng Việt là của tác giả công trình.
thì yêu cầu đối với bác sỹ khi thực hiện an tử là:
Được thuyết phục rằng quyết định của bệnh nhân là tự nguyện, được xem xét một cách cẩn trọng và bền vững.
Được thuyết phục rằng sự đau khổ của bệnh nhân không giảm đi và không chịu đựng được.
Được thông báo khả năng tương lai của bệnh nhân: không tránh được cái chết.
Đã có kết luận cuối cùng là bệnh nhân không còn sự lựa chọn hợp lý nào khác.
Phải hỏi ý kiến của ít nhất 1 bác sỹ.
Phải thực hiện thủ tục theo một quy trình y khoa thích hợp, nghiêm ngặt.
Tuy nhiên, trên đây chỉ là những yêu cầu cơ bản của bác sỹ khi thực hiện an tử. Quy định này sẽ còn thay đổi trong nhiều trường hợp khác nhau nữa mà luật cần quy định rõ ràng. Cũng cần quy định thêm: bác sỹ đó phải có chứng chỉ hành nghề, làm việc trong các bệnh viện. Cần thiết có một bác sỹ chẩn đoán chính xác tình hình hiện tại của bệnh nhân là không thể cứu chữa nữa, nhiều đau đớn kéo dài. Khi bệnh nhân chưa vào giai đoạn cuối mà lập chúc thư y tế thì phải có một bác sỹ tâm thần khám và xác nhận bệnh nhân đó không có vấn đề gì về tâm thần, không chịu sức ép nào từ bên ngoài, hoàn toàn tự nguyện. Tất cả những hoạt động này cần được lập thành văn bản, có người làm chứng và chữ ký của bác sỹ, bệnh nhân và những người liên quan khác.
Việc ra quyết định kết luận cuối cùng về tình trạng bệnh nhân nên thông qua một Hội đồng bác sỹ để mang tính khách quan. Qua đó, kết luận sẽ chính xác và ít bị lợi dụng hơn. Bác sỹ có quyền từ chối thực hiện an tử cho bệnh nhân. Bên cạnh đó, bác sỹ cần thông báo đầy đủ tình trạng và những thông tin mới về phương pháp chữa trị cho bệnh nhân. Tại Bỉ, quốc gia này còn quy định luật “cứu bệnh nhân liệt giường”, có chính sách hỗ trợ bệnh nhân không có khả năng kinh tế và bác sỹ có trách nhiệm thông báo cho người bệnh biết quy định này.
4. Quy định đối với cơ sở khám, chữa bệnh
Cơ sở khám chữa bệnh ở đây chỉ nên khoanh vùng ở các bệnh viện. Còn các trạm xá, trung tâm y tế với quy mô nhỏ thì không có đủ các điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện tốt các yêu cầu của an tử.
Bệnh viện có quyền từ chối yêu cầu được an tử của bệnh nhân. Nếu bệnh viện đồng ý yêu cầu của bệnh nhân thì phải thực hiện theo những quy trình nghiêm ngặt do luật định. Bệnh viện cần có biện pháp đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho bệnh nhân trong khả năng có thể và phối hợp tốt với gia đình bệnh nhân. Các bác sỹ của bệnh viện phải có thẻ hành nghề. Hội đồng bác sỹ do bệnh viện lập ra và chịu trách nhiệm về hội đồng này.
5. Quy định đối với chúc thư y tế
Chúc thư tế được lập khi bệnh nhân còn tỉnh táo, chưa bước vào giai đoạn cuối, chưa chịu nhiều đau đớn. Trong chúc thư:
Bệnh nhân phải nêu rõ những yêu cầu và những quyết định của mình, chỉ định người được ủy nhiệm (nếu có) thay mình quyết định các vấn đề khi mất năng lực, ý chí. Người này phải tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật và yêu cầu của bệnh nhân. Tất nhiên, người này phải đồng ý làm người được ủy nhiệm bằng cách ký tên vào chúc thư của bệnh nhân thì chúc thư mới có giá trị.
Phải có chữ ký của bệnh nhân và 2 người làm chứng (những người này cũng phải đạt độ tuổi thành niên, không bị mất năng lực, ý chí). Bản chúc thư được lập thêm 4 bản nữa: 1 bản giao cho bệnh viện, 1 bản giao cho bác sỹ điều trị của bệnh nhân, 1 bản giao cho gia đình bệnh nhân, 2 bản còn lại giao cho 2 người làm chứng. Tất cả các bản sao phải được công chứng.
Tại Mỹ, theo quy định của Bang Florida thì chúc thư chỉ có hiệu lực trong vòng 1 tháng. Còn Bang Oregon, chúc thư có hiệu lực trong vòng 6 tháng. Chúc thư chỉ được thực hiện khi tại thời điểm đó vẫn còn hiệu lực và:
Bệnh nhân đó bước vào giai đoạn cuối, bệnh tình được kết luận là vô phương cứu chữa hay chịu nhiều đau đớn
Người được ủy nhiệm còn có đầy đủ ý chí, năng lực đề nghị yêu cầu an tử cho bệnh nhân đó (khi thấy thực tế đã thỏa mãn đầy đủ các điều kiện nêu ra trong chúc thư).
6. Quy định đối với người được ủy nhiệm, được ủy quyền
Người được ủy nhiệm là người đã thành niên có đầy đủ năng lực được bệnh nhân chỉ định trong chúc thư y tế. Người này có quyền quyết định việc chăm sóc, chữa trị của bệnh nhân khi bệnh nhân đã ở trong giai đoạn cuối và không thể biểu hiện ý chí của mình. Trường hợp này, chỉ có người được ủy nhiệm quyết định việc đề nghị bệnh nhân được “an tử” lúc nào khi bệnh nhân đã thỏa mãn các yêu cầu nêu trong chúc thư; có quyền đề nghị kiểm tra lại tình trạng của bệnh nhân có thỏa mãn các điều kiện của an tử hay không khi thấy có điều sai trái. Người được ủy nhiệm có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các yêu cầu được bệnh nhân ghi trong chúc thư y tế trước đó. Nếu bệnh nhân tại thời điểm đó có thể biểu hiện ý chí thì quyền quyết định hoàn toàn ở bệnh nhân, người được ủy nhiệm không có quyền hạn gì. Điều này phải ghi rõ trong chúc thư.
Người được chỉ định, được ủy quyền là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực, không được bệnh nhân chỉ định trong chúc thư y tế. Có 2 trường hợp để chỉ định người được ủy quyền: người được ủy nhiệm trong chúc thư đến thời điểm đó bị mất năng lực, ý chí hoặc trong chúc thư không chỉ định một ai làm người ủy nhiệm. Khi đến thời điểm nhất định, bệnh nhân vào giai đoạn cuối, không biểu hiện được ý chí thì Tòa án sẽ chỉ định một người hay vài người quyết định việc chăm sóc, chữa trị cho bệnh nhân. Người này có thể là bác sỹ điều trị, người thân, bạn bè thân thiết của bệnh nhân đó...
Tuy những người này đều có quyền quyết định việc chăm sóc, chữa trị của bệnh nhân nhưng phải tuân theo nội dung của chúc thư, quy định của bệnh viện và các quy định của pháp luật.
7. Quy định khi bệnh nhân không có chúc thư y tế
Vấn đề này khá phức tạp và khó có thể quy định một cách chặt chẽ nên có thể chia ra làm 2 trường hợp như sau:
7.1. Đến giai đoạn cuối mới xin được chết
Khi bệnh nhân bước vào giai đoạn cuối, chịu nhiều đau đớn, kéo dài, các biện pháp đều vô ích mới có ý định xin được chết (nghĩa là còn biểu hiện được ý chí). Trước đó họ không có chúc thư y tế, nghĩa là cũng không có người được ủy nhiệm. Trường hợp này họ có thể ký vào đơn yêu cầu theo mẫu của bệnh viện dưới sự giám sát của bác sỹ và người làm chứng để xin được chết. Bác sỹ phải đưa ra được bằng chứng bệnh nhân đã yêu cầu nhiều lần, được lặp đi lặp lại một cách tự nguyện, không bị sức ép nào từ bên ngoài. Cần thẩm định chữ ký đó là chữ ký thật của bệnh nhân. Tất cả các quy trình khác đối với trường hợp này cũng phải theo những quy định của người có chúc thư y tế như: việc lập hội đồng bác sỹ, quy trình thực hiện an tử…
7.2. Bệnh nhân đang ở trong tình trạng mất ý thức kéo dài, bị chết não (sống thực vật), gia đình yêu cầu thực hiện an tử đối với bệnh nhân
Đây là an tử không tự nguyện và là một khía cạnh khó, thậm chí bị chống đối nhiều nhất vì dễ bị lạm dụng nhất. Có nên chấp nhận an tử không tự nguyện hay không cần phải cân nhắc kỹ. Cũng cần phân biệt nó với trường hợp hiện nay: gia đình bệnh nhân không còn khả năng kinh tế và bệnh nhân vô phương cứu chữa (cũng có thể là vẫn còn cách chữa nhưng lại không có khả năng kinh tế) nên xin cho bệnh nhân về để chờ chết hay tìm cách chữa trị khác ở chỗ: an tử không tự nguyện gồm các cách thức đưa bệnh nhân ra đi sớm hơn so với tự nhiên (rút ống dẫn dinh dưỡng, oxy hay tiêm thuốc...).
Theo quan điểm riêng của tác giả, chúng ta hoàn toàn có thể quy định an tử không tự nguyện. Nếu gia đình bệnh nhân:
“xác nhận rõ ràng có bằng chứng thuyết phục về mong muốn thực tế của người bệnh, hoặc đó là mong muốn rõ ràng của người bệnh xét trong mọi mối quan hệ của người bệnh, tình trạng sức khỏe của người bệnh và việc chẩn đoán, tiên lượng bệnh. Bằng chứng chuẩn, rõ ràng, thuyết phục là tất cả ranh giới giữa người bệnh và một cái chết sai lầm” Xem: Stephen Hicks: “A Comparative case study euthanasia”, Workshop “How to teach Comparative Law”, Ha Noi, 21-23/04/2006, page 11.
;
không còn khả năng kinh tế để tiếp tục việc điều trị cho bệnh nhân
thì có thể yêu cầu an tử đối với bệnh nhân hay làm như cách thức hiện nay nhẹ nhàng hơn là xin về nhà. Nếu sự chứng minh là không đủ thì người bệnh có quyền tiếp tục được nhận thức ăn và nước uống.
Trong nhiều trường hợp sẽ là hợp đạo lý và hợp pháp, về mặt lý thuyết, khi ngừng cung cấp dinh dưỡng nhân tạo và khí thở cho bệnh nhân đã sống ở trạng thái thực vật liên tục, thường xuyên, kéo dài. Tuy nhiên, điều đó chỉ thực sự hợp lý, hợp pháp khi một hay những người được ủy quyền quyết định việc chữa trị cho người bệnh có bằng chứng hết sức rõ ràng, mạnh mẽ rằng họ đã bảo vệ cuộc sống của người bệnh, tôn trọng ý chí và quyền tự quyết của người bệnh Xem: Stephen Hicks: “A Comparative case study euthanasia”, đd, page 11.
.
8. Một số yêu cầu khác
Bên cạnh các vấn đề đã nêu ở trên, Luật An tử yêu cầu những quy định khác như:
Nêu rõ ràng, cụ thể các dạng bệnh nhân xin được chết và các cách thức thực hiện an tử như đã trình bày ở chương I ở phần đầu của Luật An tử.
Xây dựng quy trình xin được chết và thực hiện an tử phù hợp với những nội dung của Luật An tử. Quy định một cách nghiêm ngặt quy trình đối với từng trường hợp. Đây là một vấn đề rất quan trọng.
Quy định thêm các biện pháp xử phạt hành chính đối với các tổ chức, các cá nhân vi phạm các quy định của luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (tất nhiên Luật Hình sự cũng phải thay đổi, bổ sung thêm các tội liên quan đến Luật An tử của các cá nhân).
Xác định rõ thẩm quyền của các cá nhân, tổ chức trong quyền được chết. Từ đó có sở pháp lý chắc chắn khi giải quyết các vụ việc phát sinh.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG QUÁ TRÌNH TIẾP CẬN VỚI VẤN ĐỀ QUYỀN ĐƯỢC CHẾT VÀ XÂY DỰNG LUẬT AN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Để quyền được chết không còn quá mới mẻ
Ở Việt Nam, cần xác định quyền được chết là còn quá mới mẻ để từ đó có những biện pháp làm cho người dân tiếp cận, hiểu rõ bản chất quyền được chết bằng những hành động cụ thể. Phải tôn trọng truyền thống phương Đông và dần dần làm cho nó chấp nhận an tử bằng những cách thức khác nhau.
Như đã phân tích ở các chương trên, quyền được chết không chỉ thuộc lĩnh vực y khoa mà còn liên quan đến chính trị, xã hội, tôn giáo... Nếu giải quyết không tốt hay hành động vượt ra khỏi khuôn khổ cho phép thì xã hội sẽ bất ổn. Truyền thống Á Đông không chấp nhận an tử ngay nhưng phải được tiếp cận dần dần. Điều quan trọng là chúng ta phải hiểu rõ bản chất của an tử, còn việc thông qua hay ban hành lại phụ thuộc nhiều vấn đề không đơn giản. Một số ý kiến đưa ra sau đây để góp phần làm cho quyền được chết không còn quá mới mẻ ở Việt Nam.
1.1. Thông qua sách, báo chí, truyền thông... nên có những bài viết tìm hiểu về An tử cũng như tình hình ở Việt Nam
Nên đi sâu vào việc phản ánh thực trạng của quyền được chết hiện nay trên thế giới; phân tích những mục đích tốt đẹp, bản chất của quyền được chết. Bên cạnh đó, cần làm rõ những điều kiện để có thể ban hành Luật An tử, đặc biệt là những quốc gia phương Đông như Việt Nam. Điều này sẽ giúp cho mọi người tiếp cận dần với quyền được chết, họ sẽ tìm hiểu về nó nhiều hơn. Do đó, quyền được chết sẽ không còn quá xa lạ .
1.2. Thống kê tình hình số lượng bệnh nhân đang mắc bệnh giai đoạn cuối, xin được chết
Bộ Y tế nên quy định các bệnh viện phải thực hiện việc thống kê này. Có thể việc thống kê sẽ gặp khó khăn bởi nhiều bệnh nhân chuyển từ nơi này sang nơi khác,... nhưng những số liệu có được sẽ giúp cho việc đánh giá tình hình nhu cầu trong xã hội có cơ sở và thuyết phục hơn.
1.3. Tổ chức các cuộc thăm dò lấy ý kiến nhân dân
Phạm vi thăm dò cần theo diện rộng và trên nhiều thành phần xã hội để ý kiến được khách quan, toàn diện. Có nhiều quốc gia trên thế giới như Pháp, Đan Mạch... không chấp nhận và không thông qua an tử nhưng theo kết quả thăm dò thì phần lớn nhân dân lại ủng hộ an tử. Chúng ta nên học tập điều này. Các cuộc thăm dò sẽ có 2 mục đích:
Làm cho mọi người biết đến an tử, tiếp cận với nó;
Biết được nhu cầu cũng như tình hình quan điểm của quần chúng nhân dân
Vai trò của những cuộc thăm dò này rất quan trọng. Trong nhiều trường hợp nếu không tổ chức thăm dò sẽ dẫn đến tốn công sức và không hiệu quả trong xây dựng luật. Một ví dụ đơn giản: Quyền được chết đã được đề nghị đưa vào dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XI nhưng không có sự chuẩn bị chu đáo nên không được thông qua cũng là điều dễ hiểu. Sự không chuẩn bị ở đây phải hiểu là chưa có những cuộc thăm dò trong dân chúng. Các quốc gia trên thế giới bao giờ cũng thực hiện những công tác chính trị như thế nên họ có thể đánh giá được tình hình và vạch ra kế hoạch khi nào đưa ra dự thảo và như thế nào cho phù hợp. Tất nhiên, những cuộc thăm dò chỉ mang tính chất tham khảo chứ không có giá trị bắt buộc. Nhưng giá trị và ý nghĩa của nó rất lớn nên các nhà làm luật không thể không quan tâm đến vấn đề này. Luật phải phù hợp với thực tế, với nguyện vọng của nhân dân thì mới mong đi vào cuộc sống được.
Một vấn đề được đặt ra: nếu trong thực tế thực sự số lượng bệnh nhân giai đoạn cuối “xin được chết” có nhiều, cần thiết phải ban hành Luật An tử nhưng trong nhân dân vẫn phản đối nhiều thì chính quyền sẽ giải quyết như thế nào? Thời điểm này chính là lúc các biện pháp tuyên truyền, giáo dục phát huy được hiệu quả phần nào. Nếu nhà làm luật đưa ra được một dự thảo luật hợp lý và có khả năng thực thi cao thì sẽ góp phần thay đổi quan niệm của mọi người. Bên cạnh đó cần quan tâm đến vấn đề phản biện xã hội, đặc biệt là những phản biện của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Nếu người dân được trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến cho dự thảo thì chính bản thân họ đang góp phần làm cho Luật An tử hạn chế bị lạm dụng. Giải quyết được mối quan hệ giữa luật pháp và xã hội là con đường tốt nhất cho một đạo luật ra đời, tồn tại.
Quan niệm truyền thống cần có thời gian để thích nghi với cái mới. Cụ thể ở Việt Nam, quyền được chết là vấn đề còn quá sớm. Những cách thức và biện pháp đã đặt ra tuy chỉ để mọi người tiếp cận và hiểu rõ bản chất của an tử nhưng lại có giá trị to lớn. Điều này rất quan trọng bởi trong tình hình hiện tại, thay đổi ngay quan niệm truyền thống là điều không thể. Mọi vấn đề cần có thời gian và theo những bước tiến nhất định. Có thể vạch ra 2 bước quan trọng sau đây:
Người dân hiểu được quyền được chết là gì, bản chất của an tử và tình hình hiện nay trên thế giới hiện nay như thế nào;
Truyền thống Á Đông chấp nhận an tử theo những điều kiện nhất định.
Những vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự, đặc biệt là quyền nhân thân của con người thì nên đi theo hướng như thế để luật hợp lý và có tính thực tế cao. Chính trị, xã hội và phong tục tập quán có mối quan hệ rất chặt chẽ với luật pháp. Nếu mối quan hệ này không tốt thì luật pháp không đi được vào cuộc sống và tất nhiên, xã hội sẽ bất ổn.
2. Một số kiến nghị trong quá trình xây dựng Luật An tử
Tham khảo ý kiến của nhân dân. Nếu thực sự nhu cầu của xã hội chưa cao và còn nhiều quan điểm phản đối thì không nên ban hành Luật An tử
Chuẩn bị kỹ những điều kiện cần thiết để có thể xây dựng luật an tử (nâng cao kỹ thuật lập pháp, mời các chuyên gia nước ngoài giúp đỡ...)
Học hỏi kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt là ở các nước đã hợp pháp hóa an tử để tìm ra những quy định phù hợp với quốc gia của mình
Có thể ban đầu chỉ chấp nhận hành vi tự tử dưới sự hỗ trợ của bác sỹ để mọi người có thời gian quen dần, tìm hiểu. Sau đó mới đặt vấn đề hợp pháp hóa thành Luật An tử (Hà Lan là một ví dụ)
Luật An tử chỉ nên được cho phép ở bệnh viện, được thực hiện bởi các bác sỹ có chứng chỉ hành nghề
Thay đổi các luật khác cho phù hợp với quy định của an tử, đặc biệt là Luật Hình sự cần quy định thêm các tội danh vi phạm Luật An tử.
Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật An tử nên ban hành song song với thời điểm Luật An tử có hiệu lực để tránh những hiểu lầm, áp dụng sai không đáng có.
Tóm lại, hiện nay, Việt Nam chưa chấp nhận quyền được chết cũng như chưa xây dựng Luật An tử nên những phần trên, đặc biệt là phần những nội dung cơ bản của Luật An tử người viết chỉ nhấn vào những vấn đề quan trọng. Việc quy định cụ thể như thế nào xin dành cho những nhà làm luật trong tương lai khi xây dựng Luật An tử. Người viết là sinh viên luật năm thứ 2 và cũng nhận thấy nếu đi sâu quá vào những quy định của Luật An tử hiện tại là thực sự chưa phù hợp. Chỉ mong muốn được đóng góp ý kiến của mình chứ không có tham vọng được thực hiện và thực tế người viết cũng chưa có cơ hội để tham gia làm luật, ban hành luật. Mục đích của công trình khi đề cập đến những nội dung cơ bản của Luật An tử là để cho mọi người hiểu thêm về quyền được chết, góp phần thay đổi những quan niệm lo sợ luật sẽ bị lợi dụng. Nếu như một vấn đề mà biết chắc sẽ không được chấp nhận ở thời điểm hiện tại thì nên tìm hiểu thêm về nó, tiếp cận dần dần thì hơn. “Quen” bao giờ cũng dễ chấp nhận hơn là “mới, lạ, bất ngờ”. Truyền thống phương Đông sẽ chấp nhận an tử, chắc chắn là như thế. Hãy hy vọng và chờ câu trả lời ở phía trước.
KẾT LUẬN
1. Nhìn chung, khi đề cập đến vấn đề quyền được chết chúng ta cần thận trọng xem xét và đánh giá từ nhiều góc cạnh. Cuộc sống bao giờ cũng có những bề sâu, chìm lấp trong mớ hỗn độn mà ta không thể ngờ tới. An tử tuy không phải là vấn đề thời đại hiện nay nhưng là một vấn đề khó. Khó lý giải, khó thuyết phục và khó được chấp nhận.
2. Công trình đã xây dựng được khái niệm quyền được chết và thu được những kết quả nhất định cho mục đích tìm hiểu về quyền được chết. Chúng ta đã biết được tình hình quy định an tử hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam được đánh giá là còn chưa phù hợp, còn quá sớm. Bên cạnh đó, công trình cũng đưa ra được xu hướng đối với truyền thống phương Đông là chỉ nên tiếp cận dần quyền được chết để chấp nhận chứ không để thay đổi quan niệm. Đến thời điểm người ta vẫn tôn trọng sự sống đồng thời chấp nhận an tử thì quyền được chết mới hòa hợp với thực tại, phát huy được bản chất của mình. Trong tương lai, nếu xây dựng Luật An tử, người viết tin chắc rằng công trình này sẽ có giá trị về mặt thực tế hơn nữa bởi nó cũng chứa đựng những vấn đề cơ bản của Luật An tử. Đó là triển vọng của công trình.
3. Dưới góc nhìn và khả năng của một sinh viên Luật năm thứ 2, tác giả quan niệm: tìm hiểu một vấn đề không chỉ đơn giản là nêu thực trạng của vấn đề đó mà còn phải thể hiện được quan điểm của mình trên cơ sở các luận điểm khác nhau để đánh giá một cách đúng đắn. Nghiên cứu Quyền được chết nên như thế và phải như thế./.
PHỤ LỤC
Mẫu Chúc Thư Y tế của bang Florida, Mỹ năm 2006 Nguồn: Flsenate.gov/statue. Bản dịch Tiếng Việt là của tác giả công trình.
Lời tuyên bố này vào ngày...tháng...năm...; tôi..( tên)......, với tất cả ý chí và sự tự nguyện thể hiện mong muốn của tôi về cái chết nếu tại thời điểm nào tôi mất khả năng và trong các hoàn cảnh :
__(chọn X)_______Tôi ở thời kỳ cuối của bệnh
Hoặc__(chọn X)___Tôi ở trong tình trạng vô phương cứu chữa
Hoặc__(chọn X)___Tôi ở trong tình trạng sống thực vật
Và nếu bác sỹ điều trị hay chăm sóc của tôi và bác sỹ thứ hai được hỏi ý kiến có quyết định rằng không có loại thuốc nào có thể phục hồi sức khỏe cho những trường hợp như trên; tôi muốn rằng những biện pháp kéo dài sự sống được từ chối hay hủy bỏ khi đơn yêu cầu những thủ tục chỉ phục vụ để kéo dài sự sống nhân tạo trong quá trình của cái chết, và tôi được phép chết tự nhiên chỉ với sự quản lý của việc chữa bệnh bằng thuốc hay việc thực hiện bất kỳ loại thuốc nào cho rằng để làm cho tôi có sự chăm sóc nhẹ nhàng hay làm dịu đi sự đau đớn.
Đây là quyết định của tôi, rằng lời tuyên bố được tôn trọng bởi gia đình và bác sỹ như sự thể hiện cuối cùng quyền cơ bản của tôi từ chối thuốc hay sự điều trị bằng phẫu thuật và chấp nhận hậu quả từ sự từ chối đó.
Trong trường hợp tôi không thể biểu lộ ý chí và không được tôn trọng quyết định từ chối, từ bỏ hay tiếp tục những biện pháp kéo dài sự sống, tôi mong muốn được chỉ định người được ủy nhiệm của tôi để thực hiện những điều khoản của bản tuyên bố này:
Tên:__________________________________________________________Địa chỉ:_______________________________________________________
Điện thoại:_________________________
Tôi hiểu đầy đủ tầm quan trọng của bản tuyên bố này và tôi có đủ năng lực tinh thần và ý chí để lập bản tuyên bố này.
Những hướng dẫn thêm (không bắt buộc phải điền):
__________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
_______(Ký tên)_______
______Người làm chứng thứ nhất______
____Địa chỉ____
____Điện thoại____
______Người làm chứng thứ hai______
___Địa chỉ ___
___Điện thoại___
-------------&-------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005, NXB. Chính trị quốc gia năm 2006.
Bộ Luật Hình sự Việt Nam 1999, NXB. Chính trị quốc gia năm 2006.
Công ước nhân quyền Châu Âu.
Đại Học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật Hình sự, NXB.CAND, năm 2000.
Luật Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) của Việt Nam năm 2006.
Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác của Việt Nam ban hành ngày 29/11/2006.
Website Tuoitre.com.vn ngày 24/11/2004.
Website Vnexpress.net các ngày: 11/04/2001, 01/09/2001, 16/05/2002, 24/12/2002, 22/03/2005.
Văn bản pháp luật: vbqppl.moj.gov.vn
Tài liệu tiếng nước ngoài
Britton A, AKveld H, Euthanasia: Comparasion between the UK& the Nertherlands.
Dutch Civil Code .
In re karen Ann Quinlan, 355 A.2d, N.JSup 1976.
The 2006 Florida statutes, Civil rights, chapter XLIV.
The Oregon death with dignity act Oregon revised statutes, 2006
Stephen Hicks: A Comparative case study euthanasia, Workshop “How to teach Comparative Law”, Ha Noi, 21-23/04/2006.
Các trang web: bbc.co.uk; euthanasia.com; westlaw.com.
---------***---------
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số vấn đề về Quyền được chết đối với quá trình xây dựng Luật an tử ở Việt Nam hiện nay.doc