Thứ tư, việc tăng thẩm quyền cho toà
án cấp huyện không giải quyết triệt để
được tình trạng dồn án, đọng án ở toà án
các cấp hiện nay. Theo tính toán cho thấy,
quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS
năm 2003 sẽdẫn đến việc toà án cấp huyện
xét xử khoảng 75% tổng số khung hình
phạt của BLHS so với khoảng 51% theo
BLTTHS năm 1988 tính cảnhững tội loại
trừthuộc thẩm quyền cấp huyện, tăng 24%
so với Bộ luật cũ hiện hành. Tuy nhiên,
hiện nay, toà án cấp huyện thực tế xét x ử
khoảng 60-65% tổng sốán thụlí xét xửsơ
thẩm và theo một sốdự đoán, khi BLTTHS
năm 2003 có hiệu lực, toà án cấp huyện sẽ
xét xửvào khoảng 75-80% tổng sốán xét
xửsơthẩm,
(17)
tức tỉlệán thực tếsẽtăng
so với hiện nay khoảng 15%.
7 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về tăng thẩm quyền xét xử hình sự cho tòa án cấp huyện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003
74 T¹p chÝ luËt häc
ThS. TrÇn §¹i th¾ng*
1. Một số nhận định cho rằng tư tưởng
về tăng thẩm quyền cho các cơ quan tư
pháp cấp huyện đã được hình thành và phát
triển từ cách đây gần nửa thế kỉ.(1) Điều đó
có thể thấy rõ nếu xem xét cả quá trình
hình thành và phát triển về thẩm quyền của
các cơ quan tư pháp cấp huyện mà trực tiếp
là của hệ thống toà án. Ngay sau khi Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời,
hệ thống toà án nhân dân đã được hình
thành với một loạt các văn bản liên quan,
đặc biệt là Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh
số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức toà án và
ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày
17/4/1946 ấn định thẩm quyền các toà án
và sự phân công giữa các nhân viên trong
toà án. Hệ thống toà án khi đó gồm có: Toà
án tối cao, các toà phúc thẩm, các toà đệ
nhị cấp và toà sơ cấp. Toà sơ cấp là cơ chế
xét xử thấp nhất trong hệ thống toà án có
thẩm quyền xét xử chung thẩm những án
hình sự vi cảnh nhỏ, chẳng hạn án phạt bạc
dưới 9 đồng, xử sơ thẩm những án tiểu
hình có phạt giam đến năm ngày (tù).(2)
Toà án đệ nhị cấp xét xử phúc thẩm (chung
thẩm) những án hình sự vi cảnh mà toà sơ
cấp xử bị kháng cáo. Những vụ án hình sự
không thuộc thẩm quyền xét xử của toà sơ
cấp cũng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm
của toà án cấp này (Điều 10, Điều 11 Sắc
lệnh 51).
Với cách thức phân định thẩm quyền
như trên, toà sơ cấp, cấp toà thấp nhất
trong hệ thống toà án lúc đó chỉ có thẩm
quyền xét xử những vụ án hình sự đơn
giản, mang tính chất vi cảnh. Có hai loại
thủ tục xét xử được áp dụng: Thủ tục xét
xử chung thẩm đối với những án vi cảnh
nhỏ và thủ tục xét xử sơ thẩm đối với
những án tiểu hình có phạt tù dưới 5 ngày.
Đáng chú ý là toà sơ cấp có một số thẩm
quyền ngoài việc xét xử, mang tính chất tư
pháp hành chính để phục vụ các hoạt động
của toà án, công tố viên của cấp toà đệ nhị
cấp như thi hành các mệnh lệnh của biện lí
(chỉ có ở cấp toà đệ nhị cấp) hay phụ trách
tư pháp cảnh sát trong địa hạt, điều tra đối
với tội tiểu hình hay đại hình khi có vụ
việc xảy ra.(3)
Sau khi có Hiến pháp năm 1959, một
loạt văn bản liên quan tới hệ thống tư pháp
ra đời đã thay đổi cơ bản hệ thống tư pháp
nước ta trong thời gian đó. Toà sơ cấp đã
được đổi tên thành toà án huyện, quận, thị
xã... và đã có thay đổi theo hướng tăng một
bước về thẩm quyền. Theo điểm d Điều 12
của Pháp lệnh năm 1961 quy định cụ thể
* Viện khoa học kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003
T¹p chÝ luËt häc 75
về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và
tổ chức các tòa án nhân dân địa phương,
tòa án nhân dân cấp huyện có quyền phân
xử những vụ án hình sự nhỏ không phải
mở phiên toà và xét xử sơ thẩm những vụ
án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở
xuống. Cách thức phân định thẩm quyền
như trên tồn tại tận đến năm 1981, sau khi
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua Luật tổ chức toà án
nhân dân ngày 4/7/1981. Theo quy định tại
Điều 36 của Luật này, tòa án nhân dân cấp
huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tất cả
các vụ án hình sự, trừ những tội xâm phạm
an ninh quốc gia, những tội phạm hình sự
có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hay
gây hậu quả lớn.
Tiếp sau đó, khi BLTTHS đầu tiên của
Nhà nước ta được Quốc hội thông qua
ngày 28/6/1988, thẩm quyền xét xử của toà
án cấp huyện đã được thay đổi và quy định
rõ ràng hơn so với Luật tổ chức toà án
1981. Theo khoản 1 Điều 145 BLTTHS
năm 1988, tòa án nhân dân cấp huyện được
xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật
hình sự quy định từ 7 năm tù trở xuống, trừ
những tội đặc biệt xâm phạm an ninh quốc
gia và một số tội khác của Bộ luật hình sự.
Thẩm quyền này được giữ nguyên cho đến
khi BLTTHS năm 2003 được ban hành.
2. Như vậy, việc tăng thẩm quyền cho
toà án cấp huyện đã được thực hiện trong
suốt nửa thế kỉ đi cùng với tiến trình xây
dựng nền tư pháp hình sự riêng của một
chính thể mới trong lịch sử phát triển của
dân tộc. Hơn 10 năm trở lại đây, chủ
trương này đã được đề cập nhiều tại các
diễn đàn, hội nghị khác nhau và hàng loạt
chủ trương, chính sách của Đảng đã nhấn
mạnh về việc tăng thẩm quyền cho toà án
cấp huyện. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8
Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII
nêu rõ: "Tăng thẩm quyền xét xử cho toà
án nhân dân cấp huyện theo hướng việc xét
xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở tòa
án cấp này". Tiếp sau đó, Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII cũng chỉ
rõ: "Phân định lại thẩm quyền xét xử của
toà án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm
quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân
cấp huyện". Thể chế hoá đường lối, chủ
trương, quan điểm của Đảng trong xây
dựng pháp luật, BLTTHS được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI kì họp thứ 4 thông qua ngày
26/11/2003 đã thể hiện đầy đủ những tư
tưởng, quan điểm đó. Khoản 1 Điều 170
BLTTHS năm 2003 quy định tòa án nhân
dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực
xét xử những vụ án hình sự về những tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ
những tội xâm phạm an ninh quốc gia (14
tội), các tội phá hoại hoà bình, chống loài
người và tội phạm chiến tranh (4 tội) và 21
tội phạm khác mà BLHS quy định hình
phạt đến 15 năm tù nhưng có tính chất
phức tạp. Đồng thời vẫn giữ quy định toà
án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp
quân khu có thể lấy lên để xét xử những vụ
án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện.
Việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp
huyện cũng đồng thời dẫn đến yêu cầu phải
tăng thẩm quyền điều tra, truy tố cho cơ
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003
76 T¹p chÝ luËt häc
quan điều tra và viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện nhằm đảm bảo tính đồng bộ
trong hoạt động của các cơ quan tư pháp
cấp huyện. Để đảm bảo tính khả thi của
quy định tăng thẩm quyền cho các cơ quan
tư pháp cấp huyện, Nghị quyết của Quốc
hội quy định lộ trình thực hiện việc tăng
thẩm quyền của các cơ quan tư pháp cấp
huyện là 5 năm kể từ ngày Bộ luật có hiệu
lực (1/7/2004) để các cơ quan tư pháp có
thời gian sắp xếp, củng cố, tăng cường đội
ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và điều kiện
làm việc. Ngoài ra, đối với một số địa
phương có điều kiện cho phép tổ chức
thực hiện kể từ ngày Bộ luật có hiệu lực,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ ra nghị
quyết riêng.
3. So với BLTTHS năm 1988, việc
tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của toà án
cấp huyện từ 7 năm lên đến 15 năm tù là
một bước thay đổi lớn có ý nghĩa đột phá
trong tiến trình cải cách tư pháp. Có lẽ bức
xúc về thực trạng dồn án, đọng án ở các
toà án cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao
đã dẫn đến những đòi hỏi cần thiết phải
tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện và
hình thành ý tưởng thiết lập hệ thống toà
án theo mô hình sơ thẩm - phúc thẩm -
giám đốc thẩm tương ứng với toà án cấp
huyện - toà án cấp tỉnh - Toà án nhân dân
tối cao.
Thực tiễn xét xử những năm qua cho
thấy hàng năm tòa án cấp tỉnh thụ lí và giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm khoảng 32 đến
35% tổng số vụ án thực tế xảy ra. Trong
khi đó toà án cấp tỉnh còn phải thụ lí và xét
xử một số lượng lớn vụ án hình sự theo
thủ tục phúc thẩm, chiếm khoảng 46% số
vụ án thụ lí và 60% vụ án đã xét xử sơ
thẩm ở cấp huyện. Do vậy, toà án cấp tỉnh
không có điều kiện để tập trung làm tốt
công tác xét xử phúc thẩm và hướng dẫn
tòa án cấp huyện áp dụng thống nhất pháp
luật. Tương tự như vậy, số vụ án hình sự
xét xử theo thủ tục phúc thẩm ở các toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao còn
chiếm tỉ lệ rất lớn, bằng số vụ án phải xét
xử phúc thẩm ở tòa án cấp tỉnh (khoảng
7000 đến 8000 vụ/năm) do vậy, việc xét xử
bị kéo dài, quá hạn luật định, tồn đọng…(4)
Một yêu cầu nữa đặt ra là việc toà án
cấp tỉnh hiện nay vẫn phải xét xử phần lớn
những vụ án hình sự (sơ thẩm, phúc thẩm)
và các toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao vẫn phải xét xử quá nhiều các vụ án
hình sự theo thủ tục phúc thẩm đã gây khó
khăn nhất định đến việc tham gia phiên toà
của những người tham gia tố tụng (nhân
chứng, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan, nguyên đơn và bị đơn dân
sự…). Nếu những người này vắng mặt tại
phiên toà sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc
giải quyết vụ án nhanh chóng và kịp thời,
khách quan. Vì vậy, có nhiều hi vọng đối
với việc tăng thẩm quyền xét xử cho toà
án cấp huyện sẽ đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng và chống tội phạm trong giai
đoạn mới, đảm bảo quyền dân chủ của
công dân trong tố tụng hình sự, tạo điều
kiện cho các toà án và các cơ quan tiến
hành tố tụng khác có khả năng nâng cao
hiệu quả hoạt động.
4. Tuy nhiên, qua nghiên cứu xem xét
các mô hình tố tụng hình sự của hầu hết
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003
T¹p chÝ luËt häc 77
các nước trên thế giới thì thấy rằng không
có nước nào có hệ thống toà án theo cơ cấu
3 cấp: Sơ thẩm - phúc thẩm - giám đốc
thẩm và rất ít nước cho phép toà án cấp
thấp nhất được xử những tội phạm nghiêm
trọng có hình phạt đến 15 năm tù. Ba mô
hình tố tụng hình sự phân tích dưới đây,
điển hình cho 3 loại tố tụng đặc thù hiện
nay: Án lệ hay tranh tụng (adversarial
system) - Bang Victoria của Australia; dân
sự hay thẩm cứu (Inquisitorial system) -
Pháp và một mô hình có thể nói là hỗn hợp
ở một nước đông dân gần với nước ta -
Nhật Bản.
- Bang Victoria(5)
Hệ thống tư pháp hình sự của Bang
Victoria, nếu không nói đến hệ thống tư
pháp hình sự của Liên bang có thẩm quyền
đối với những tội phạm liên bang, hệ thống
toà án của Bang gồm ba cấp: Toà án tối
cao; toà án cấp quận (District court) - toà
án trung cấp và toà án địa phương - cấp
thấp nhất (Magistrate court). Toà án cấp
quận và các toà án địa phương không tổ
chức song song với hệ thống hành chính
mà theo khu vực, căn cứ vào số dân cư ở
các vùng, các địa phương. Toà án tối cao
của Bang có thẩm quyền giám đốc thẩm
những bản án của toà án cấp dưới nhưng
cũng được quyền xử sơ thẩm những vụ
phạm tội nghiêm trọng như giết người và
phản bội tổ quốc. Toà án cấp quận được
quyền xét xử phúc thẩm những bản án của
toà án địa phương, xử những tội nghiêm
trọng có mức hình phạt trên 3 hoặc 5 năm
tù.(6) Riêng toà án địa phương, cấp toà thấp
nhất trong hệ thống toà án chỉ được quyền
xét xử những tội vi cảnh, tội ít nghiêm
trọng dưới 3 hoặc 5 năm tù và cả những tội
nghiêm trọng nếu bị cáo đồng ý bị xét xử
theo thủ tục rút gọn.(7) Đặc biệt, cấp toà
này còn có một số thẩm quyền mang tính
chất tư pháp hành chính (Qua si - judicial)
như phê chuẩn giam giữ hay cho tại ngoại,
lấy lời khai của nhân chứng, bị hại và nhận
hồ sơ từ công tố viên, điều tra viên về vụ
án, quyết định chuyển vụ án cho toà cấp
quận. Những hoạt động này chiếm một
khối lượng lớn công việc của cấp toà địa
phương và nếu vụ án thuộc thẩm quyền toà
án cấp quận, toà án cấp quận hầu như chỉ
cần đưa vụ án ra xét xử. Tuy rằng không
có thẩm quyền xét xử những vụ án nghiêm
trọng, phức tạp, hầu như tất cả các hoạt
động điều tra, truy tố... trong tố tụng đều
diễn ra xoay quanh toà án cấp này.
- Pháp
Có 3 loại thủ tục chính trong tố tụng
hình sự Pháp và tương ứng là 3 cấp toà
án.(8) Đối với các tội đại hình như giết
người, hiếp dâm, hay cướp có vũ khí mà
hình phạt áp dụng là từ 5 năm tới chung
thân, vụ án sẽ được xét xử ở một trong 33
toà đại hình trên toàn nước Pháp, án xử có
hiệu lực ngay và không có thủ tục phúc
thẩm, trừ khi xin được xem xét lại ở Toà
tối cao - Toà phá án. Đối với các tội có
mức hình phạt có thể áp dụng từ 2 tháng
đến 5 năm tù hoặc phạt tiền tới và trên
25.000 france, vụ án sẽ được xét xử ở toà
tiểu hình (Tribunal correctionnel). Cấp toà
thấp nhất là toà vi cảnh xét xử những án
phạt tù từ một ngày đến dưới hai tháng tù
hoặc phạt tiền tối đa dưới 25.000 france.
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003
78 T¹p chÝ luËt häc
Tất cả các kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm đối với những bản án, quyết định đã
tuyên ở toà vi cảnh hay toà tiểu hình đều
được xử ở cấp toà phúc thẩm - cấp toà độc
lập không trực thuộc Toà án tối cao.(9) Mô
hình tố tụng Pháp cho thấy thẩm quyền xét
xử ở cấp toà thấp nhất chỉ hạn chế đối với
những vụ án không nghiêm trọng, đơn giản
và có sự phân định rõ thẩm quyền giữa các
toà để xét xử các loại tội: Vi cảnh, tiểu
hình, đại hình; giữa toà xét xử sơ thẩm và
toà phúc thẩm chuyên trách. Bên cạnh đó
sự phân loại tội phạm (tội đại hình, tiểu
hình và vi cảnh) có ý nghĩa cơ bản để xác
định thủ tục tố tụng và thẩm quyền tố tụng
tương ứng. Đây là điểm then chốt cần phải
tham khảo trong quá trình xây dựng pháp
luật hình sự và tố tụng hình sự của nước ta.
- Nhật Bản
Trong tố tụng hình sự, hệ thống toà án
được chia thành 4 cấp:(10) Toà án tối cao,
toà án cấp cao, toà án quận và toà án giản
lược (Supreme court, Hight court, District
court and Summary court). Toà án tối cao
có vai trò là toà phá án, toà án cấp cao có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án
có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án,
quyết định của toà án quận và toà án giản
lược. Ngoài ra, toà án này cũng có quyền
xét xử những vụ án liên quan đến bị cáo
phản bội tổ quốc. Toà án quận xét xử mọi
tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm
quyền của toà án cấp cao và toà án giản
lược. Toà án giản lược chỉ xử những vụ án
có bị cáo phạm tội có thể bị áp dụng hình
phạt dưới 3 năm tù. Như vậy, cấp toà thấp
nhất - toà án giản lược chỉ được xử những
vụ án đơn giản, ít nghiêm trọng và trung
tâm xét xử của hệ thống tố tụng hình sự
Nhật Bản là toà án cấp quận - cấp trung
gian của hệ thống toà án.(11)
5. Những phân tích trên cho thấy có
những bất cập trong hệ thống tư pháp hình
sự nước ta. Tất cả các toà án ở cấp thấp
nhất trong các hệ thống tố tụng nêu trên
đều không có thẩm quyền xử những vụ án
lớn, phức tạp mà chỉ xử những vụ án vi
cảnh, đơn giản, nhỏ mà hình phạt tù áp
dụng thường không quá 5 năm. Việc tăng
thẩm quyền cấp huyện và biến toà án cấp
huyện trở thành những pháo đài trong tố
tụng hình sự để hình thành mô hình xét xử
sơ thẩm - phúc thẩm - giám đốc thẩm trong
hệ thống tư pháp sẽ dẫn đến một loạt các
vấn đề khó có thể dự đoán hết, đó là:
Thứ nhất, điều đó sẽ đòi hỏi một số
lượng lớn thẩm phán cho cấp toà này. Một
thực tế là ở các toà án nhân dân cấp huyện
đang có tình trạng thiếu thẩm phán, chưa
tìm được người đủ tiêu chuẩn để bổ sung
cho một vài năm tới. Hiện nay, gần 100 toà
án huyện - chiếm khoảng gần 1/6 tổng số
toà án cấp huyện, chỉ có 1 hoặc 2 thẩm
phán (trong khi còn phải xử lí những loại
việc dân sự, kinh tế... khác).(12) Số thẩm
phán huyện còn thiếu khoảng 1.067 người,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thẩm
phán huyện còn rất hạn chế và không đồng
đều ở các khu vực.(13) Cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc của các cơ quan tư
pháp cấp huyện nhiều nơi còn thiếu thốn
và lạc hậu, chưa tương xứng với yêu cầu
của nhiệm vụ mới. Tất nhiên những cản trở
trên có thể được giải quyết trong khoảng
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003
T¹p chÝ luËt häc 79
thời gian nhất định nhưng còn rất nhiều
những vấn đề tồn tại khác.
Thứ hai, việc tăng thẩm quyền dẫn đến
việc cấp toà này sẽ xét xử những vụ án lớn,
phức tạp trong khi trình độ của đội ngũ cán
bộ thẩm phán cấp huyện hiện nay có nhiều
bất cập, chênh lệch giữa khả năng trình độ
và nhiệm vụ được giao. Hiện nay, trong số
thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện còn
một số lượng khá lớn chưa có trình độ cử
nhân luật, đội ngũ hội thẩm nhân dân ở tòa
án cấp huyện có trình độ pháp lí còn hạn
chế (chỉ có khoảng 14% có trình độ cử
nhân luật).(14) Tăng thẩm quyền cho toà án
cấp huyện đòi hỏi sự đồng bộ với các cơ
quan tư pháp khác nhưng thực tế chỉ có
khoảng 48% kiểm sát viên có trình độ cử
nhân luật và còn khoảng 50% điều tra viên
chưa có trình độ đại học.(15) Đất nước ta đã
thống nhất gần 30 năm, các trường đại học
có đào tạo trình độ đại học luật đã mở từ
cách đây hơn 20 năm nhưng chúng ta vẫn
chưa có đủ đội ngũ cán bộ tư pháp cấp
huyện để đáp ứng đòi hỏi nhiệm vụ theo
thẩm quyền hiện nay (theo BLTTHS năm
1988). Tuy có Nghị quyết của Quốc hội về
tăng cường đội ngũ cán bộ tư pháp cho cấp
huyện trong thời gian tới nhưng điều đó
khó có thể thực hiện trong thời gian ngắn
nếu so sánh với công tác tăng cường đội
ngũ cán bộ trong những năm qua.
Thứ ba, hiệu quả vận hành của hệ
thống tố tụng và hiệu quả kinh tế nói
chung cũng đặt ra yêu cầu cần cân nhắc.
Sự phân bố không đồng đều các cấp toà do
gắn với hệ thống hành chính dẫn đến tình
trạng là án của một tỉnh nhỏ chưa bằng số
án phải giải quyết của một quận ở nội
thành Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh.
Trong khi rất nhiều thẩm phán ở toà án
huyện, tỉnh không có việc hay đủ việc để
làm thì ở nơi khác số án quá nhiều gây tình
trạng tồn đọng... và đi theo đó là những vi
phạm trong tố tụng. Tăng thẩm quyền cho
toà án cấp huyện dẫn đến phải đầu tư cơ sở
vật chất, tăng cường đội ngũ cán bộ nhưng
quy mô của một toà án cấp huyện không thể
xây dựng như một toà án cấp tỉnh. Tình
trạng tương tự như vậy cũng diễn ra ở cơ
quan tư pháp cấp huyện khác như viện kiểm
sát, cơ quan điều tra. Xét đến hiệu quả vận
hành của hệ thống tố tụng trong tổng thể và
hiệu quả kinh tế có thể thấy rõ có những
vấn đề cần phải nghiên cứu, cân nhắc.(16)
Thứ tư, việc tăng thẩm quyền cho toà
án cấp huyện không giải quyết triệt để
được tình trạng dồn án, đọng án ở toà án
các cấp hiện nay. Theo tính toán cho thấy,
quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS
năm 2003 sẽ dẫn đến việc toà án cấp huyện
xét xử khoảng 75% tổng số khung hình
phạt của BLHS so với khoảng 51% theo
BLTTHS năm 1988 tính cả những tội loại
trừ thuộc thẩm quyền cấp huyện, tăng 24%
so với Bộ luật cũ hiện hành. Tuy nhiên,
hiện nay, toà án cấp huyện thực tế xét xử
khoảng 60-65% tổng số án thụ lí xét xử sơ
thẩm và theo một số dự đoán, khi BLTTHS
năm 2003 có hiệu lực, toà án cấp huyện sẽ
xét xử vào khoảng 75-80% tổng số án xét
xử sơ thẩm,(17) tức tỉ lệ án thực tế sẽ tăng
so với hiện nay khoảng 15%. Đó là một tỉ
lệ tăng đáng kể và nếu không giải quyết
thoả đáng những vấn đề liên quan như cơ
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003
80 T¹p chÝ luËt häc
sở vật chất, cán bộ sẽ tạo ra sức ép về số
lượng án phải giải quyết cùng với hàng
loạt các vấn đề phát sinh ở toà án cấp
huyện, nhất là ở những địa bàn trọng điểm
ở thành phố lớn. Hơn nữa, toà án cấp tỉnh
tuy giảm được một số lượng án xử sơ thẩm
nhưng lại phải xử nhiều án phúc thẩm hơn.
Toà án tối cao có thể giảm số án xét xử
phúc thẩm nhưng thực tế đây không phải là
vấn đề tồn tại chính của Toà án tối cao mà
ở số đơn kiến nghị các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm.(18) Hơn nữa, tỉ lệ án phải xử
phúc thẩm quá lớn (60% số án cấp huyện
đã xử sơ thẩm) và số lượng lớn đơn kiến
nghị xem xét lại các bản án và quyết định
đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm đặt ra những câu hỏi,
suy nghĩ về chất lượng xét xử và thủ tục
phúc thẩm, cơ chế giám đốc thẩm, tái thẩm
cũng như hiệu quả của hoạt động điều tra,
truy tố xét xử hiện nay./.
(1).Xem: Khuất Văn Nga, "Những tư tưởng mới của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", Tạp chí kiểm sát
4/2004, tr.13-18.
(2).Xem: Điều 5, 6 và 7 Sắc lệnh số 51 ngày
17/4/1946 ấn định thẩm quyền các toà án và sự phân
công giữa các nhân viên trong toà án.
(3).Xem: Điều 15 Sắc lệnh số 51.
(4), (12), (14).Xem: Ngô Quang Liễn, "Vấn đề tăng
thẩm quyền cho cơ quan tư pháp cấp huyện trong Bộ
luật tố tụng hình sự", tài liệu Hội thảo về phổ biến
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao ngày 22-23/3/2004.
(5). Theo R G Fox, Victorian Criminal Procedure,
state and federal law, 10th ed. Monash Law book co-
operative limited, 2000, page. 77-88.
(6).Xem: Điều 36A Đạo luật Courty court act 1958.
Nguyên nghĩa: Indictable offences. Không có quy
định cứng quy định từ bao nhiêu năm tù là tội nghiêm
trọng mà mỗi đạo luật khác nhau khi quy định một
hành vi nào đó là tội phạm thì sẽ định nghĩa đó là tội
nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng - Summary
offences. Ở Úc, các bang đều có đạo luật hình sự
riêng nhưng Quốc hội khi ban hành luật đều có thể
quy định một hành vi nào đó là tội phạm.
(7).Xem: Điều 25 Đạo luật Magistrate’s Court Act 1989.
(8). Theo Comparative criminal procedure, page. 21-23.
Và Bộ luật tố tụng hình sự Pháp 1958 (bản tiếng
Việt), Nhà pháp luật Việt Pháp, Nxb. Chính trị quốc
gia, H.1998. Quyển thứ hai: Các cơ quan xét xử.
(9).Xem: Điều 496, Điều 547 Bộ luật tố tụng hình
sự Pháp.
(10). Theo Luật tổ chức toà án Nhật Bản. In trong tập
Law Bulletin series, Japan,Volume II. Điều 16 - 33.
(11). Cần phân biệt, cấp quận đây không phải như
một địa bàn hành chính cấp quận huyện như ở Việt
Nam, việc phân bổ toà án của Nhật Bản cũng như hầu
hết các nước không gắn với hệ thống cơ quan quản lí
hành chính.
(13), (15). Uỷ ban pháp luật Quốc hội khoá XI, Báo
cáo thẩm tra Dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)
ngày 8/5/2003, tr. 16-17.
(16). Chính vì những lí do trên trong quá trình xây
dựng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, có những ý
kiến đưa ra là vẫn giữ thẩm quyền cho toà án cấp
huyện và toà án cấp tỉnh như hiện nay và thành lập các
toà phúc thẩm riêng, không trực thuộc toà án tối cao.
(17). Giải trình của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
với Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 26/4/2003 về
Dự án Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, tr.16.
(18). Tính trung bình một năm từ 1998 đến 2002, chỉ
riêng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận được khiếu
nại đối với khoảng trên dưới 4000 vụ kiện dân sự,
chiếm khoảng gần 40% số vụ án đã xét xử phúc thẩm.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở, "Một số giải pháp nâng
cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật tại
Viện kiểm sát nhân dân tối cao", Vụ KSXX dân sự,
2002, tr.16-17. Số liệu án hình sự tương đương là gần
2000 vụ việc trong tổng số 7-8000 vụ toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao xét xử.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ths_tran_dai_thang_tths_tang_tham_quyen_xet_xu_5847.pdf