Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp& phát triển quận Thanh Xuân

Các cơ quan có thẩm quyền cho phép Ngân hàng phối hợp cùng khách hàng bán tài sản thế chấp, tài sản gán nợ của khách hàng cho Ngân hàng không phải nộp lệ phí, sang tên chuyển nhượng tài sản, tạo điều kiện cho Ngân hàng làm thủ tục bán tài sản thế chấp của khách hàng được thuận lợi.

pdf93 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2108 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp& phát triển quận Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỏ chất lượng tín dụng tốt. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng. 2.3.2.2.1. Nợ quá hạn theo thời gian: biểu đồ: về nợ quá hạn theo thời gian của NHNo Thanh Xuân từ 2002-2004 0 2 4 6 8 10 12 Ng¾n h¹ n Trung h¹ n 2002 2003 2004 Như vạy ta thấy nợ quá hạn tại Chi nhánh chỉ tập trung ở trung hạn, còn ngắn hạn không có nợ quá hạn 2.3.2.1.2. Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế: Bảng 8: nợ quá hạn theo thành phần kinh tế của NHo Thanh Xuân từ 2002- 2004 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền % so với 2001 Số tiền % so với 2002 Số tiền % so với 2003 DN quốc doanh 0 0 0 0 0 0 DN ngoài quốc doanh 0 0 0 0 0 0 Tư nhân,cá thể, hộ gđình 15 14 6 -6 105 104 (Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2000, 2003, 2004 của NHNo Thanh Xuân) - Các món vay chuyển nợ quá hạn chủ yếu là vay tiêu dùng của các cá nhân là cán bộ công nhân viên có thu nhập không ổn định, bản thân bị ốm đau (cán bộ hưu trí) dẫn đến chậm trả. - Biện pháp thu hồi nợ quá hạn: Lãnh đạo phòng cùng cán bộ tín dụng kết hợp cùng với cơ quan quản lý người vay (Các doanh nghiệp, đơn vị, UBND phường xã), thu dần hàng tháng từ thu nhập của người vay. - Đối với nợ quá hạn đã XLRR: Chi nhánh kết hợp với chính quyền địa phương nơi người vay cư trú để đôn đốc thu hồi nợ dần hàng tháng. Tuy nhiên có một vấn đề là nợ quá hạn của các doanh nghiệp là không có hay thực chất là Ngân hàng chưa thu hút được một lượng doanh nghiệp đến với Ngân hàng. 2.3.1.3. Chỉ tiêu thu nhập: Để đánh giá chính xác hơn về hoạt động tín dụng của NHNo& PTNT quận Thanh Xuân ta phải xem xét đến lợi nhuận và lãi suất thu được từ hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Mặc dù điều kiện kinh doanh ngày càng khó khăn, chênh lệch lãi suất ngày càng thu hẹp nhưng Ngân hàng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập năm sau cao hơn năm trước. Bảng 9: Kết quả tài chính Đơn vị: Triệu đồng Năm Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tổng thu nhập 4.110 21.900 22.794 Tổng chi phí 6.810 15.959 14.045 Quỹ thu nhập -2.700 5.941 8.749 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002, 2003, 2004 của NHNo Thanh Xuân) Tổng thu nhập năm 2002 đạt 4.110 triệu đồng tăng 1.862 triệu đồng so với năm 2001 tuy nhiên tổng chi phí là 6.810 triệu đồng do đó quỹ thu nhập năm 2002 bị âm là 2.700 triệu đồng. Năm 2003 đạt 21.900 triệu đồng tăng 17.790 triệu đồng so với năm 2002, tổng chi phí là 15.959 triệu đồng do đó quỹ thu nhập năm 2003 là 5.941 triệu đồng. Năm 2004 đạt 22.794 triệu đồng tăng 894 triệu đồng so với năm 2003. tổng chi phí là 14.045 triệu đồng do đó quỹ thu nhập năm 2004 là 8.749 triệu đồng. Nguyên nhân quỹ thu nhập năm 2002"âm" chủ yếu là do Ngân hàng phải trả lãi trước cho các loại tiền gủi tiết kiệm và kỳ phiếu. Ngoài ra, sự mất cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, việc phải bù cho chi phí năm trước dồn sang, và do những năm gần đây NHNo&PTNT Thành phố Hà Nội chưa thực hiện cơ chế khoán đến các chi nhánh, chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra trong cơ chế cạnh tranh quyết liệt là rất thấp, không được phép tự chủ trong lãi suất huy động vốn. Nhưng đến năm 2003 đã có quĩ thu nhập 5.959 triệu đồng vì Ngân hàng phân bổ đều số tiền lãi trả trước cho các tháng thì quĩ thu nhập của Ngân hàng không bị âm mà vẫn đảm bảo quĩ thu nhập và quỹ tiền lương theo cơ chế khoán, mở rộng tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Dư nợ ngắn hạn có tốc độ tăng trưởng mạnh chiếm 71% trong tổng dư nợ, dư nợ trung và dài hạn tăng trưởng và đảm bảo cân bằng trong tổng dư nợ(chiếm 29% tổng dư nợ) tốc độ tăng trưởng phù hợp và bảo đảm chất lượng tốt, tỷ trọng thu dịch vụ ngày càng cao, thu lãi cho vay triệt để và có chênh lệch dương so với đầu vào, nên góp phần lớn trong việc tạo nên lợi nhuận lớn. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân: 2.3.2.1. Những hạn chế: Trong hoạt động tín dụng ngắn hạn, ngân hàng vẫn chưa khai thác triệt để thị phần tín dụng vốn ngắn hạn trên địa bàn Thủ đô. Nguồn vốn và dư nợ không đạt chỉ tiêu so với kế hoạch. Nguyên nhân do nguồn vốn không tăng dẫn đến không mở được dư nợ. Công tác khách hàng tại Ngân hàng đã được xem xét, cân nhắc nhưng vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Trong công tác phân tích, thẩm định khách hàng, phương án kinh doanh chưa khai thác hết các thông tin liên quan, do đó chưa đánh giá đúng vấn đề quan tâm. Hiện nay, các Tổng Công ty lớn, các dự án đang có nhu cầu đầu tư rất lớn, nhưng khả năng tìm kiếm các dự án của ngân hàng còn chưa triển khai, vẫn còn hạn chế. Cán bộ tín dụng còn chiếm tỷ lệ thấp (30%) so với tổng số cán bộ của Ngân hàng, trình độ và năng lực còn hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm trong chuyên môn. Đây cũng là một vấn đề còn tồn tại của Ngân hàng. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc, khác địa bàn với Chi nhánh Ngân hàng No cấp I nên việc ủng hộ của chính quyền địa phương, đoàn thể trong địa bàn về phát triển các mối quan hệ với các doanh nghiệp nhằm tăng nguồn vốn và tín dụng còn gặp khó khăn. Trên đây là một số tồn tại còn vướng mắc tại NHNo&PTNT quận Thanh Xuân tìm ra nguyên nhân để có các giải pháp phù hợp là rất cần thiết. 2.3.2.2. Nguyên nhân tồn tại những hạn chế đó: 2.3.2.2.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh tế chưa ổn định: Cơ chế và chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với nạn hàng giả và hàng nhập lậu. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh để theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô của nhà nước cũng như tình hình thực tế. Trên thị trường hiệm nay doanh nghiệp phải đối mặt với vô vàn khó khăn như: hàng giả. hàng tồn kho, không tiêu thụ được …dẫn đến tình hình sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, mất khả năng thanh toán. Ngay như biểu thuế suất đối với vật tư hàng hóa xuất khẩu mỗi năm cũng thay đổi nhiều lần và mỗi lần thay đổi đã làm cho nhiều doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi lại bị lỗ, ảnh hưởng đến công tác thanh toán chi trả của doanh nghiệp. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng trên thị trường tiền tệ tín dụng đã buộc ngân hàng đôi khi phải bỏ qua những nguyên tắc tín dụng cũng như hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để thu hút khách hàng. 2.3.2.2.2. Môi trường pháp lý trong lĩnh vực tín dụng chưa thực sự hoàn thiện: Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã được kỳ họp thứ 2 khóa X của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua vào tháng 12 năm 1997 và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/ 10/ 1998. Cả một thời gian dài trước khi Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng ra đời đã có sự tham gia đóng góp để hoàn chỉnh của rất nhiều các cấp, các ngành, song thực tế khi đã được thông qua vẫn còn rất nhiều vướng mắc và chưa thực sự hoàn thiện để tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Các văn bản pháp lý chưa đồng bộ nên khi thực hiện gặp nhiều khó khăn, trong đó nổi cộm lên là vấn đề cầm cố thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng của các DNNN. Trong thời gian trước, mặc dù đã có Thông tư liên bộ 01/ TT - LB ngày 03/ 07/ 1996 hướng dẫn về thủ tục thế chấp cầm cố tài sản đối với DNNN nhưng trong quá trình thực hiện cho đến nay, đây vẫn là vấn đề gặp nhiều khúc mắc nhất. Lý do là phần lớn các DNNN vẫn chưa được quyền sử dụng đất, một tài sản thế chấp để vay vốn phổ biến nhất. Hơn nữa, việc quy định vay vốn có tài sản thế chấp bắt buộc phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền là chưa cụ thể và chưa rõ ràng nên nhiều doanh nghiệp không thể xác định được cơ quan đó là cơ quan nào. Đối với ngân hàng, việc xem xét giấy tờ gốc về quyền sử hữu tài sản gặp nhiều khó khăn do thông tư chưa quy định rõ như tại điểm 1.2 nên đối với tài sản là bất động sản mà DNNN được sử dụng để cầm cố theo quy định của pháp luật thì lập danh mục riêng kèm theo các bản gốc giấy tờ về quyền sở hữu và quản lý nếu có. Cho nên nhiều DNNN thắc mắc giấy tờ gốc là loại giấy tờ nào và có thể coi hóa đơn xuất nhập kho là một loại giấy tờ gốc không. Đối với việc cho phép các dây chuyền sản xuất được là vật cầm cố thế chấp cũng rất nguy hiểm cho những khoản vay dài hạn bởi nó chỉ có giá trị tương đương ở thời điểm vay. Sau một thời gian sử dụng cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nó sẽ trở nên mất giá do đã bị lạc hậu, đó là chưa kể đến sự hao mòn hữu hình xảy ra trong quá trình sản xuất cho nên khi phát mại để thu hồi vốn sẽ là rất khó khăn. Hay như Quyết định số 198/ QĐ - NH ngày 16/ 9/ 1994 của NHNN về thể lệ tín dụng ngắn hạn và Quyết định số 02/ 07/QĐ - NH ngày 17/ 6/ 1996 của NHNN về việc ban hành quy chế thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn, ngân hàng đều quy định mức tiền vay tối đa là 70% giá trị tài sản thế chấp được xác định ghi trên hợp đồng. Căn cứ để xác định giá trị tài sản thế chấp cầm cố này lại quy định tổ chức và người có tài sản thế chấp thỏa thuận định giá trên cơ sở giá thị trường địa phương tại thời điểm đó. Nhưng mà ở mỗi địa phương không có một cơ quan nào quyết định giá cả của thị trường đối với từng loại tài sản. Nếu căn cứ vào Quyết định số 02/07/QĐ - NH1 ngày 17/8/1996 và Thông tư liên bộ số 01/TT - LB ngày 03/08/1996 và Quyết định số 198/QĐ - NH ngày 16/9/1994 thì việc chấp hành quy định cho vay phải tuân theo đúng chế độ. Do đó, NHNN đã có công văn 417/CV - NH14 ngày 31/05/1997 và công văn 02/04/CV - TD2 ngày 16/7/1997 để bổ sung, sửa đổi đảm bảo tính thực tiễn của các chính sách, chế độ nhằm tháo gỡ ách tắc rào cản trong quan hệ cung cầu về vốn giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Nhưng trong thực tế, khi thực hiện các công văn trên thì việc đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng lại có nhiều vướng mắc. Trước đây, DNNN khi vay vốn các tổ chức tín dụng phải thế chấp tài sản, điều này quy định cụ thể trong luật DNNN. Nay vay vốn không có điều kiện này, gặp rủi ro DNNN phá sản thì ngân hàng sẽ thu nợ như thế nào vì trong Nghị định 59/ CP của Chính phủ đã quy định DNNN chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về dân sự trong phạm vi vốn của mình và theo luật phá sản thì chỉ ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ có đảm bảo trước. Như vậy, chính môi trường pháp lý chưa đồng bộ trong khi môi trường xã hội còn nhiều nhức nhối đã gây không ít khó khăn cho hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM nói chung và NHNo & PTNT Thanh Xuân nói riêng. 2.3.2.2.3. Các nguyên nhân về phía khách hàng: Điều đầu tiên phải nói ở đây, đó vốn tự có của các doanh nghiệp. Mặc dù đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhưng nhìn chung thì vốn của các doanh nghiệp còn ít ỏi, nghèo nàn, để hoạt động được các nhà kinh doanh đều phải dựa vào vốn vay của Ngân hàng do đó chỉ cần một sự biến động nhỏ của thị trường… cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính. Cũng vì đồng vốn ít ỏi đã khiến cho các doanh nghiệp thiếu khả năng chủ động trong sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ. Sự yếu kém về trình độ kỹ thuật, máy móc thiết bị lạc hậu làm cho năng suất lao động thấp, chất lượng kém, giá thành cao dẫn đến hàng hóa ứ đọng, thua lỗ trong kinh doanh. Ngoài ra, chúng ta nhận thấy rằng không ít chủ doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của Ngân hàng không chỉ kém về năng lực quản lý điều hành kinh doanh mà còn yếu kém cả về tư cách, đạo đức khi xét theo góc độ ý muốn trả nợ Ngân hàng. Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng còn nhiều hạn chế. Trong nền kinh tế thị trường, muốn thành công trong kinh doanh thì các doanh nghiệp cần phải có kiến thức, kỹ năng quản trị kinh doanh chứ không thể thành đạt chỉ bởi lòng nhiệt tình và sự chịu đựng gian khổ. Nhưng ở nước ta, đặc biệt là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà quản lý chưa đáp ứng được những yêu cầu đó. Một số doanh nghiệp khi vay vốn, họ lập phương án kinh doanh có hiệu quả, chứng minh đầu vào, đầu ra khả thi nhưng do bỏ qua những biến động thị trường nên đã bị thua lỗ. 2.3.2.2.4. Các nguyên nhân về phía ngân hàng: Để thực hiện một khoản cho vay hoàn chỉnh, cán bộ tín dụng thường phải thực hiện kiểm tra đánh giá khoản vay trước, trong và sau khi cho vay. Đánh giá rủi ro trước khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. Mức độ rủi ro đối với những khoản vay sẽ là rất lớn nếu khâu này làm không chính xác. Để làm tốt việc này, các cán bộ tín dụng phải tập hợp và xử lý các thông tin về mọi mặt của khách hàng bao gồm cả tình hình tài chính, kinh doanh, tư cách đạo đức của khách hàng, nghĩa là cán bộ tín dụng phải hiểu rõ khách hàng trước khi có quyết định cho vay. Đánh giá rủi ro trong khi giải ngân giúp cho cán bộ tín dụng kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tình hình tài sản thế chấp và khả năng thanh toán của khách hàng. Cuối cùng, sau khi khách hàng trả nợ xong, ngân hàng sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng và đánh giá hiệu quả vốn vay. Đánh giá giai đoạn này giúp cán bộ tín dụng thấy được khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp. Từ các khâu đánh giá kiểm tra như vây, có thể rút ra một số thiếu sót từ phía cán bộ tín dụng của ngân hàng như sau: + Mặc dù đã được quan tâm đào tạo, song vẫn chưa đáp ứng được kịp với những diễn biến thay đổi liên tục của nền kinh tế thị trường: sự am hiểu về nền kinh tế còn hạn chế nên quá trình tính toán cho vay còn chưa sát. + Chưa quan tâm nhiều đến tính khả thi của dự án vay, mới chỉ chú trọng vào tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay của khách hàng dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. + Chưa phân tích hết được năng lực tài chính của khách hàng, thường là vốn tự có tham gia vào dự án thấp, dẫn đến hiệu quả của dự án không cao, khả năng trả nợ thấp. + Công tác kiểm tra, kiểm soát các khoản vay tuy đã được chú trọng và tăng cường nhưng công tác tự sửa sai còn chậm nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Chương III: giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại NHNo& PTNT Thanh Xuân 3.1. Định hướng phát triển đối với họat động tín dụng của NHNo Thanh Xuân 3.1.1. Định hướng phát triển năm 2005: Bằng mọi biện pháp nâng nguồn vốn huy động đối với các thành phần kinh tế như: Tổ chức kinh tế, đặc biệt là tiền gửi dân cư có tính ổn định cao. Thâm nhập vào các trường học, bệnh viện trên địa bàn tăng nguồn vốn và phát triển các dịch vụ ngân hàng như phát hành, thanh toán bằng thẻ ATM cho các học sinh, sinh viên. - Tổ chức màng lưới marketing một cách khoa học từ việc tiếp cận, tư vấn, chăm sóc khách hàng nhằm thu hút nhiều khách hàng về giao dịch tại Chi nhánh. Mở rộng các dịch vụ tiện ích như thẻ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán quốc tế, phonbanking. Lấy nguồn thu dịch vụ làm mũi nhọn. - Mở rộng đầu tư tín dụng một cách an toàn, có hiệu quả bằng nhiều hình thức. Chấp hành tốt quy trình tín dụng. Chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt sẽ quy hoạch lại tín dụng đối với từng phường, thông qua các tổ chức như Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ … - Tận thu các khoản thu nội bảng như thu lãi cho vay, thu nợ đã xử lý rủi ro, thu phí dịch vụ ngân hàng. - Tiếp tục giao khoán tài chính triệt để đến từng cán bộ nhằm đủ tạo ra quỹ thu nhập cho riêng từng cán bộ và toàn chi nhánh. - Cùng Thành phố cơ cấu lại ngân hàng, thực hiện tốt Văn hoá doanh nghiệp nhằm vươn lên ngang tầm với các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn Thủ đô. 3.1.2. Định hướng phát triển trong những năm tới: 3.1.2.1. Công tác nguồn vốn: Nguồn vốn lớn chính là thế mạnh, là động lực cho việc thực hiện thành công chiến lược phát triển của ngân hàng trong thời gian tới. Vì vậy, việc tiếp tục đa dạng hoá nguồn vốn huy động tối đa lượng tiền tệ nhàn rỗi trong toàn xã hội là hết sức cần thiết. Bên cạnh tăng trưởng nguồn chung, NHNo&PTNT quận Thanh Xuân đặc biệt chú trọng việc huy động nguồn vốn có chi phí thấp là nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn từ các tổ chức (đây là nguồn tiền làm cho chi phí đầu vào của Ngân hàng thấp) bằng cách nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng. Mặt khác trong huy động NHNo&PTNT quận Thanh Xuân sẽ thực hiện các giải pháp để tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn để gia tăng đầu tư vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển. 3.1.2.2. Công tác sử dụng vốn: Chiến lược huy động vốn đòi hỏi phải gắn liền với chiến lược sử dụng vốn - Một hoạt động rất quan trọng và có ý nghĩa đối với sự phát triển của xã hội. Ngân hàng phải chọn lọc và có bước đi thích hợp đối với việc áp dụng các sản phẩm dịch vụ, cho vay khép kín đồng bộ về vốn đối với doanh nghiệp được Ngân hàng cho vay đầu tư trung và dài hạn. Đa dạng hoá các sản phẩm, các loại hình đầu tư kinh doanh mở rộng thị trường vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ khác. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ về an toàn tín dụng bảo lãnh, hạch toán kế toán và chỉ tiêu tài chính đúng pháp luật. 3.1.2.3. Chiến lược khách hàng: Trong những năm tới chiến lược khách của Ngân hàng No &PTNT quận Thanh Xuân là: Củng cố, giữ vững và phát triển khách hàng truyền thống. Mở rộng từng bước có chọn lọc các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác, nhằm mục đích vừa mở rộng hoạt động tín dụng vừa đảm bảo độ an toàn. Đối với các Doanh nghiệp lớn, Ngân hàng phải giữ vững được mối quan hệ. Ngoài ra còn phải mở rộng đối tượng khách hàng, tự tìm đến với khách hàng, tư vấn cho khách hàng về phương án sản xuất kinh doanh. 3.1.2.4. Công nghệ Ngân hàng: Ngân hàng coi công nghệ Ngân hàng là phương tiện, là công cụ quan trọng để đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Vì thế NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân cần phải nhanh chóng hiện đại hoá, tin học hoá các nhiệm vụ Ngân hàng để cung cấp các dịch vụ một cách nhanh nhất, chất lượng tốt nhất, an toàn đối với khách hàng, đáp ứng yêu cầu quản lý, tăng sức cạnh tranh. 3.1.2.5. Nhân tố con người: Ngân hàng xác định con người là nhân tố mấu chốt của mọi thắng lợi. Việc xây dựng một mẫu hình con người có trình độ, có trí tuệ cao, am hiểu nghề nghiệp, có nhân cách, có tâm hồn tạo nên nhân tố quyết định cho sự phát triển bền vững. 3.1.2.6. Quản trị điều hành: Coi quản trị điều hành là khâu then chốt quyết định sự thành đạt trong kinh doanh, là yếu tố quyết định đổi mới và hội nhập. Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất, nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn nhất cho Ngân hàng. Vì vậy các định hướng này đồng nghĩa với việc tăng cường các yếu tố liên quan nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, tạo ra sự phát triển mới cho Ngân hàng trong những năm tới. Như vậy, thông qua định hướng hoạt động của NHNo&PTNT quận Thanh Xuân trong những năm tới, ta khẳng định được rằng, Ngân hàng đang nỗ lực vươn lên với tinh thần chủ động trên cả ba mặt: Nâng cao năng lực tài chính; đổi mới và nâng cao công nghệ; nâng cao trình độ cán bộ và kỹ năng nghiệp vụ. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại NHNo Thanh Xuân Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đứng trước những nguy cơ rủi ro và tín dụng là một trong những lĩnh vực có rủi ro cao nhất. Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo chiếm tỷ trọng từ 85-95% doanh thu nên việc đảm bảo tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu và là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng? Thông qua việc phân tích thực trạng tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng No Thanh Xuân trong chương II chúng ta thấy rằng tình trạng tín dụng tại Chi nhánh đang còn nhiều vấn đề cần khắc phục. Để chất lượng tín dụng tại Chi nhánh trong thời gian tới thực sự hiệu quả thì Chi nhánh cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây: 3.2.1. Công tác huy động vốn: Nguồn vốn mà ngân hàng huy động bao gồm có: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác như phát hành các giấy tờ có giá... Các loại tiền gửi này có thể được hưởng lãi hoặc không và Ngân hàng phải hoàn trả khi khách hàng yêu cầu. Đây là nguồn vốn cơ bản để Ngân hàng hoạt động cho vay và các dịch vụ khác mang lại lợi ích cho Ngân hàng. Trong công tác này khách hàng yêu cầu cần phải nhanh chóng dễ dàng, tạo thoải mái khi giao dịch... Do đó đòi hỏi sự hướng dẫn của cán bộ nhân viên ngân hàng. Chi nhánh là một đơn vị kinh doanh có nhiều ưu thế trong sự canh tranh giữa các ngân hàng như: +Là một Ngân hàng thương mại thuộc sở hữu Nhà nước: Đây là một ưu thế tâm lý bởi khách hàng rất tin tưởng vào các Ngân hàng thương mại quốc doanh, khi gửi vào họ không sợ bị mất nhất là sau khi hàng loạt các trung tâm tín dụng đổ vỡ. +Là một ngân hàng có uy tín, có địa điểm vị trí hoạt động thuận lợi địa bàn hoạt động ngay tại Thủ đô Hà Nội là nơi đông dân cư có đời sống cao. +Về công nghệ ngân hàng: Đã đưa vào sử dụng hệ thống máy vi tính cập nhật thông tin hàng ngày, sử dụng máy ATM (máy rút tiền tự động) Như vậy để phát huy được những thuận lợi trên nhằm thu hút tối đa lượng tiền gửi, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vay vốn của các đơn vị kinh tế trên địa bàn thì trong thời gian tới: Chi nhánh vẫn phải quan tâm hơn nữa đến trình độ cán bộ nhân viên, đặc biệt là đối với các nhân viên giao dịch có quan hệ trực tiếp với khách hàng gửi tiền Củng cố và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho trụ sở giao dịch. Việc nâng cấp, tân trang các phòng tiếp khách, điểm giao dịch sẽ khiến khách hàng cảm thấy thoải mái, tin tưởng hơn. Thực hiện nhiều hình thức huy động đa dạng phong phú hấp dẫn khách hàng như nhận tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân, tiền gửi tổ chức kinh tế, tổ chức các đợt phát hành kỳ phiếu trái phiếu bằng nội tệ, ngoại tệ ... Tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để Sở tự giới thiệu về mình với khách hàng. Có thể nói cho đến nay trong phần lớn bộ phận dân cư còn chưa hiểu biết đầy đủ về Chi nhánh nên việc làm trên sẽ tạo được ưu thế của Chi nhánh trên thị trường có như vậy các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư mới có thể tập trung về Chi nhánh. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nên lượng vốn để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế ngày càng lớn. Vì vậy nếu Chi nhánh thực hiện tốt những công tác trên sẽ thu hút được một lượng vốn đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng góp phần điều hoà vốn tốt nhất cho nền kinh tế. 3.2.2. Trong công tác cho vay và thu nợ: Đây là công tác quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của các khoản tín dụng và sự tồn tại của Ngân hàng do vậy mục tiêu của ở đây không chỉ là mở rộng doanh số cho vay mà phải thực hiện các khoản vay có hiệu quả trong công tác này Ngân hàng cần phải áp dụng các biện pháp như: 3.2.2.1. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngân hàng: Trong hoạt động tín dụng có vô số các rủi ro khác nhau có thể dẫn đến việc không trả được nợ khi đến hạn của khách hàng. Để có thể đưa ra được quyết định cho vay các nhà lãnh đạo ngân hàng phải cố gắng ước lượng những rủi ro. Rủi ro này có thể dự đoán được trong quá trình phân tích tín dụng hay thẩm định tín dụng. Thẩm định tín dụng là xác định khả năng hay ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay. Có rất nhiều yếu tố mà các nhà ngân hàng cần phải xem xét về khả năng và sự sẵn lòng hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Trong đó còn chú ý tới 5 nhân tố quan trọng đó là: Năng lực, uy tín, vốn, tài sản thế chấp, điều kiện hoạt động. Trong các nhân tố này uy tín nổi lên là nhân tố quan trọng nhất bởi nhiều khoản tín dụng được cấp với hy vọng sẽ được hoàn trả như thoả thuận. Nếu như khâu thẩm định được được thực hiện tốt thì các nhà quản trị ngân hàng sẽ đưa ra được những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên để làm được việc này các nhà ngân hàng phải: 3.2.2.2. Thực hiện thu thập và xử lí thông tin một cách chính xác: Trong điều kiện Chi nhánh hiện nay mới chỉ thực hiện cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân. Vì vậy việc thu thập, phân tích xử lý kịp thời chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, các thông tin về thị trường trước khi đưa ra quyết định cho vay luôn được coi trọng hàng đầu trong công tác thẩm định. Các thông tin thu thập được dùng để đánh giá chi phí tài sản, khả năng kiếm lời của người xin vay. Trong điều tra về đơn xin vay của doanh nghiệp, Ngân hàng cần phải biết về lịch sử của doanh nghiệp, sổ sách kế toán. Mối quan hệ của người lao động, kinh nghiệm trong việc phát triển và đưa vào thị trường các sản phảm mới, nguồn gốc của doanh thu và lợi nhuận. Ngân hàng cũng cần phải biết về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp những sản phẩm nào được buôn bán, sản xuất, những loại dịch vụ nào được đưa ra, hàng hoá nào là chính, là phụ, phục vụ tiêu dùng hay sản xuất. Ngoài ra Ngân hàng cũng cần thu thập các thông tin về tính ổn định của nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường nơi doanh nghiệp cung ứng sản phẩm. Các điều khoản mua bán, phương pháp phân phối lợi nhuận... Để có được đầy đủ thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, Ngân hàng phải xem xét báo cáo tài chính, phỏng vấn người xin vay để có được những thông tin về mục đích vay tiền, thu thập các thông tin về tình hình vay trả của đơn vị vay vốn trong quá khứ để từ đó đưa ra đánh giá về uy tín của đơn vị vay vốn. Bên cạnh đó Ngân hàng còn điều tra các thông tin từ bên ngoài như: thông tin điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh, điều tra từ các bạn hàng của đơn vị vay vốn, các nguồn thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước và Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của NHNo&PTNT...Tuy nhiên hoạt động của các trung tâm này mới chỉ đạt được một số kết quả nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của hoạt động tín dụng. Vì vậy ngân hàng cần trang bị các phương tiện thông tin hiện đại, tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác thu thập thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm trang bị phương pháp tìm kiếm, tra cứu tạo lập thông tin về doanh nghiệp một cách chính xác. Trong thời gian tới khi Chi nhánh thực hiện cho vay đối với hộ sản xuất thì nguồn thông tin thu thập chủ yếu ở đây là: Tên tuổi, địa chỉ của chủ hộ, trình độ học vấn, đạo đức... kinh nghiệm quản lý, tài sản hiện có, tình trạng gia đình(số lao động, số nhân khẩu), đối tượng xin vay vốn, diện tích canh tác, mức thu nhập bình quân/ tháng và một số tình hình khác . Trên cơ sở thông tin đã thu thập được tiến hành xử lý và phân tích các thông tin đó một cách chính xác và khoa học để từ đó đưa ra những quyết định chính xác. 3.2.2.3. Phân tích tài chính đơn vị vay vốn: Việc thường xuyên phân tích tài chính đơn vị vay vốn, để hiểu rõ về năng lực tài chính của đơn vị đó từ đó làm cơ sở đưa ra những phán quyết tín dụng là việc làm hết sức cần thiết. Mặt khác việc phân tích tài chính là việc phân tích tình hình hoạt động của đơn vị vay vốn từ đó biết được tình hình tài chính, khả năng trả nợ của người xin vay, các khoản thu, chi của đơn vị đó có hợp lý không, biết được các khoản phải trả, các khoản phải thu để có thể tính được các khoản mà đơn vị có thể trả trong tương lai cho Ngân hàng...Chính vì vậy các cán bộ tín dụng cần đi sâu phân tích các khoản phải trả, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Đồng thời tính toán được hệ thống các chỉ số, đặc biệt chú trọng các chỉ số đánh giá khả năng thanh toán, hệ thống tài trợ vốn... 3.2.2.4. Đánh giá tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và trình độ của người điều hành: Dựa vào hồ sơ xin vay của khách hàng và các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá phương án sản xuất mà khách hàng sử dụng vốn vay để đầu tư. Bởi phương thức kinh doanh có khả thi, có triển vọng tốt sẽ phần nào đảm bảo vốn vay của ngân hàng chắc chắn được hoàn trả. Hơn nữa, sự thành công hay thất bại của phương án sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng, trình độ và kinh nghiệm của người quản lý. Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào xẩy ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với một người quản lý năng động, sáng tạo và có kinh nghiệm sẽ có thể giải quyết một cách nhanh chóng, có hiệu quả. Đây có thể coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được trước khi xem xét có cho vay hay không. 3.2.3. Xử lý các khoản nợ quá hạn: Để nâng cao chất lượng tín dụng song song với việc thực hiện những giải pháp nhằm hạn chế phát sinh nợ qúa hạn mới thì việc xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó. Đây là một biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến thực hiện chu trình khép kín của khoản tín dụng Để tăng cường công tác quản lý nợ, Ngân hàng cần phải: - Chấp hành nghiêm túc các quy định hiện hành về hoạt động tín dụng, phát hiện và kiến nghị kịp thời những điều bất hợp lý, không phù hợp với Ngân hàng để có biện pháp khắc phục kịp thời. Mỗi khi đưa ra quyết định tín dụng phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, không được xem xét hời hợt và phê duyệt dễ dàng, phải đặt nó trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhân tố: Pháp luật, chủ trương chính sách, chu trình cho vay, quan trọng nhất là phải biết rõ khách hàng của mình là người như thế nào?… Ngân hàng nên kiên quyết không cho vay các dự án không có tính khả thi, kém hiệu quả kinh tế, mặc dù khách hàng có đầy đủ các tài sản thế chấp, vì mục đích cho vay không đơn thuần chỉ là thu nợ mà giúp khách hàng có vốn để duy trì hoặc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng, cho xã hội và chính bản thân Ngân hàng. - Thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi của khách hàng làm ảnh hưởng tới mức độ an toàn của khoản tiền đã cho vay. - Tổ chức đánh giá phân loại các khoản nợ để định hướng rủi ro trong quá trình cho vay. Việc đánh giá phân loại này được tiến hành ngay từ khi quyết định cho vay. Giải pháp trong công tác thu hồi nợ quá hạn: - Trước hết phải có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn nợ quá hạn như chấn chỉnh lại các thiếu sót ở các khâu trong quá trình cho vay, thiết lập bổ sung đầy đủ hồ sơ pháp lý, hạn chế đến mức tối đa những kẽ hở trong khâu nghiệp vụ để đề phòng lừa đảo, chiếm đoạt vốn của Ngân hàng. - Tổ chức kiểm tra sử dụng vốn chi tiết đến từng khách hàng, từng món vay kết hợp với đánh giá, phân loại nợ cụ thể. Qua đó phân tích chính xác những nguyên nhân dẫn đến không thu hồi được nợ. Có cơ chế khen thưởng kịp thời cho những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. - Những trường hợp khách hàng có tính dây dưa, để nợ quá hạn kéo dài, Ngân hàng cần sử dụng những biện pháp cứng rắn, kết hợp với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng để phát mại tài sản thế chấp, khởi kiện, cưỡng chế để thu hồi nợ. 3.2.4. Xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý: Khi quyết định cho vay đối với các doanh nghiệp, Cán bộ tín dụng cùng với doanh nghiệp cần phải xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Về nguyên tắc: Kỳ hạn nợ phải được xác định theo thời gian luân chuyển vốn. Nếu kỳ hạn nợ nhỏ hơn thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra sự gấp gáp cho khách hàng trong việc trả nợ, khiến cho doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn của đối tượng khác để hoàn trả, tạo nên sự rối loạn trong trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, nhiều khi làm tăng chi phí vốn. Ngược lại, xác định kỳ hạn nợ quá thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra khả năng sử dụng vốn vào mục đích khác, vận động của vốn tín dụng sẽ thoát ra khỏi chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sự kiểm soát của ngân hàng. Do đó việc xác định kỳ hạn nợ hợp lý là yếu tố quyết định đến việc khách hàng có trả nợ Ngân hàng khi đến hạn hay không. 3.2.4.1. Đối với các khoản vay ngắn hạn: Kỳ hạn nợ ban đầu: Được xây dựng trên cơ sở chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng căn cứ vào một năm doanh nghiệp quay được mấy vòng vốn tức là xác định một vòng quay vốn của Doanh nghiệp là mấy tháng và lấy số tháng đó để định ra kỳ hạn trả nợ. Muốn làm được điều này một mặt các Doanh nghiệp phải cung ứng đầy đủ số liệu để cùng với Ngân hàng xác định kỳ hạn trả nợ chính xác hoặc bản thân Doanh nghiệp phải tự tính các khoản và thu được trong tương lai để lên kế hoạch trả nợ Ngân hàng. Vì nếu không trả đúng hạn Doanh nghiệp sẽ phải chịu một mức lãi suất của khoản nợ quá hạn(150% lãi suất trên hợp đồng tín dụng). Do đó không chỉ Ngân hàng bị rủi ro là không thu được vốn mà Doanh nghiệp đương nhiên bị tăng chi phí do phải trả lãi suất cao hơn cho Ngân hàng. Kỳ gia hạn nợ: Không phải bất cứ Doanh nghiệp nào cũng được gia hạn nợ; mà Ngân hàng chỉ nên gia hạn cho các Doanh nghiệp thực sự khó khăn hoặc Doanh nghiệp phải chứng minh cho Ngân hàng thấy được là có những khoản thu mà Doanh nghiệp chắc chắn sẽ thu được trong tương lai và Ngân hàng phải đàm phán với Doanh nghiệp chắc chắn về kỳ hạn tới. 3.2.4.2. Đối với những khoản vay trung và dài hạn: Khi tính toán thời hạn trả nợ cuối cùng mà chưa hết thời hạn tối đa cho phép, thì thời gian gia hạn được phép tối đa bằng thời gian còn lại. Ví dụ: Thời gian cho vay dài hạn tối đa 10 năm. Nhưng khi tính toán dự án cho vay thời gian thu hồi vốn là 7 năm. Nếu thực tế khách hàng cần gia hạn nợ Ngân hàng có thể xem xét kéo dài thêm 3 năm nữa. 3.2.5 Tăng cường kiểm tra giám sát các khoản vay: Để các khoản tín dụng thực sự được hiệu quả, có nghĩa là các khoản cho vay ra phải thu hồi được. Muốn vậy các Cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, đây là một hoạt động rất quan trọng bởi có kiểm tra, giám sát mới có thể biết được khách hàng sử dụng vốn vay như thế nào? Có đúng mục đích không và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ra sao. Tuy nhiên trong thời gian qua công tác kiểm tra kiểm soát ở Chi nhánh còn kém hiệu quả vì thế đã xuất hiện nhiều khoản nợ quá hạn phát sinh do nguyên nhân từ phía khách hàng. Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian tới Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức các đợt kiểm tra bất ngờ nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng. Công tác kiểm tra giám sát, không chỉ đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà quan trọng ở chỗ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ lãnh đạo, cán bộ tín dụng. mất phẩm chất, tiêu cực, thiếu trách nhiệm gây thất thoát tài sản xã hội chủ nghĩa, làm mất uy tín của ngân hàng. 3.2.6. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng: Đa dạng hoá các hình thức cho vay là một biện pháp hữu hiệu nhằm phân tán rủi ro cho ngân hàng tránh tình trạng"bỏ tất cả trứng vào một rổ". Căn cứ vào việc phân loại các hình thức tín dụng trong chương I thì hiện nay Chi nhánh đã thực hiện cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, thực hiện cho vay gián tiếp thông qua chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho vay ngắn, trung, dài hạn... Trong thời gian Chi nhánh tới cần phải tập trung hơn nữa trong việc đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm thu hút khách hàng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Mặt khác đa dạng hoá các hình thức tín dụng đó cũng là một giải pháp nhằm phân tán cũng như giảm rủi ro tín dụng đôia với Ngân hàng. 3.2.7. Phân loại khách hàng: Để đánh giá các khách hàng Ngân hàng phải dựa vào một số tiêu chí nhất định, qua đó phân loại khách hàng ở các mức độ A,B,C khác nhau để từ đó đưa ra các giải pháp như: Tiến hành tập trung cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, tài chính lành mạnh, vay trả sòng phẳng. Các đơn vị hiện nay có khó khăn nếu ổn định được sản xuất kinh doanh có khả năng vượt lên, phản ánh kinh doanh hiệu quả thì nghiên cứu thẩm định kỹ lưỡng để có giải pháp tháo gỡ cho đơn vị vay vốn hoạt động nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, có điều kiện trả nợ ngân hàng. Từ chối, hạn chế cho vay khách hàng không có khả năng ổn định và phát triển trong sản xuất kinh doanh, không có các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả và khách hàng mới không hội đủ các nguyên tắc, điều kiện tín dụng, xu hướng phát triển không vững chắc. Tiếp tục xây dựng và kiên trì thực hiện chiến lược khách hàng, xây dựng các cơ chế ưu đãi, tăng cường tìm kiếm khách hàng có chất lượng tốt, quy mô hoạt động lớn. 3.2.8. Thực hiện các hoạt động Marketing ngân hàng: Đây là biện pháp quảng cáo để khách hàng có thể hiểu rõ hơn về ngân hàng và từ đó đến giao dịch với ngân hàng Marketing Ngân hàng có nhiều biện pháp như: Treo biểu lãi suất ra ngoài, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để Ngân hàng tự giới thiệu về mình, tổ chức các hội nghị khách hàng theo định kỳ hoặc nhân dịp nào đó. Các loại hình hội nghị khách hàng có thể tổ chức là: Hội nghị khách hàng lớn, hội nghị khách hàng truyền thống, hội nghị khách hàng mở rộng từ việc mở hôị nghị khách hàng Ngân hàng có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ những ý kiến đóng góp của khách hàng. Ngoài ra Ngân hàng có thể tác động vào tâm lý khách hàng qua việc trao đổi quà tặng cho khách hàng thứ bao nhiêu của mình hoặc có thể nhân một dịp nào đó trao quà tặng hay dành những ưu đãi riêng cho khách hàng... Những biện pháp này sẽ có tác dụng tâm lý tốt, có thể đem lại hiệu quả khi thực hiện. Hiện nay tại Chi nhánh thiết nghĩ việc thành lập ra phòng Marketing cũng rất quan trọng vì với một đội ngũ các bộ chuyên về công tác Marketing sẽ đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, giới thiệu về Chi nhánh, các dịch vụ của Chi nhánh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Chi nhánh. 3.2.9. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tín: Trong mọi lĩnh vực con người là yếu tốt quyết định đó là một chân lý, song ở đây xin được cụ thể là việc đảm bảo chất lượng tín dụng trước hết phải do chính những người trực tiếp làm tín dụng - cán bộ tín dụng quyết định. Cán bộ tín dụng hàng ngày phải xử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng, đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội có thể thực hiện những hành vi vụ lợi... Vì vậy người cán bộ tín dụng cần phải được tuyển chọn cẩn thận, được bố trí hợp lý được quan tâm giáo dục, rèn luyện... và phải đảm bảo một số tiêu chuẩn cơ bản sau: + Phải có kiến thức trình độ nghiệp vụ cơ bản: Cán bộ tín dụng cần phải được đào tạo kiến thức nghiệm vụ cơ bản về tín dụng ngân hàng một cách chính qui ở trình độ đại học hoặc cao đẳng. Trong quá trình làm việc Cán bộ tín dụng còn cần phải có tinh thần học hỏi, nghiên cứu học tập, nhằm cập nhật, bổ xung kiến thức để phù hợp và đáp ứng được sự vận động và phát triển của xã hội. + Phải có đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cao: Người cán bộ tín dụng hơn bao giờ hết phải có đạo đức tốt, không thể bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, phải coi sự nghiệp, danh dự bản thân và lợi ích của ngân hàng lên trên hết. Bên cạnh đó còn phải có trách nhiệm nghề nghiệp rất cao mới có thể xử lý tốt công việc được giao. Thể hiện có trách nhiệm cao trong việc tìm tòi, học hỏi nghiệp vụ, trách nhiệm cao trong từng công việc, dám làm dám chịu trách nhiệm với cách xử lý của mình. Thực tế đã có một số cán bộ tín dụng đã không có đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng cương vị quyền hạn để lừa đảo hoặc cấu kết với khách hàng để lừa đảo lấy tiền ngân hàng cũng có một số cán bộ tín dụng mặt dù không vụ lợi nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý nghiệp vụ làm theo chỉ đạo của người khác hoặc về cảm tình cá nhân mà bỏ qua các qui trình, tiêu chuẩn tín dụng nên gây thất thoát làm giảm chất lượng tín dụng. + Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp. Để có được kinh nghiệm và xác định được bản lĩnh nghề nghiệp của một cán bộ cần phải có thời gian. Vấn đề này đề cập đến việc cán bộ tín dụng cần phải có tinh thần học hỏi, rèn luyện và ngân hàng phải có chính sách đào tạo trong quá trình hoạt động thực tế. Đồng thời khi phân công giao việc cho cán bộ tín dụng cần chú ý đến kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp tương xứng với tính khó khăn phức tạp của công việc, lĩnh vực mà cán bộ tín dụng phụ trách... Trên cơ sở những tiêu chuẩn nêu trên Chi nhánh với tư cách là một Chi nhánh đầu mối của toàn ngành thì tiêu chuẩn của một người cán bộ tín dụng lại càng nên chặt chẽ hơn. Thấy được tầm quan trọng của người cán bộ nên trong năm vừa qua nhno&ptnt Việt Nam đã tổ chức ra cuộc thi tuyển chọn người tài để củng cố cán bộ nhno&ptnt Việt Nam nói chung và Chi nhánh nói riêng. Mặc dù vậy nhưng số lượng cán bộ tín dụng tại phòng kinh doanh Chi nhánh vẫn còn thiếu. 3.2.10. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng Xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá với những đặc trưng nổi bật là tự do hoá thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng phát triển mạnh mẽ đã và đang chi phối khuynh hướng cả cấu trúc vận động của hệ thống Tài chính-Ngân hàng từng Quốc gia. Từ khi đổi mới nền kinh tế, hệ thống NHTM Việt nam đã sớm bắt kịp quá trình hội nhập với cộng đồng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới. Do đó việc tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và công nghệ Ngân hàng ngày càng tiên tiến và hiện đại là phù hợp với xu thế chung. Đồng thời nó góp phần làm tăng năng suất lao động trong hoạt động Ngân hàng. Ngân Hàng No&PTNT quận Thanh Xuân cần tập trung hoàn thiện các chương trình phần mềm trong công tác huy động vốn và các nghiệp vụ khác. Phối hợp chặt chẽ các mặt nghiệp vụ khác với công tác huy động vốn theo nguyên tắc tính toán lãi suất hiệu quả do từng khách hàng mang lại như áp dụng chính sách lãi suất cho vay ưu đãi đối với khách hàng có số dư tiền gửi thường xuyên, thanh toán trước hạn các chứng từ có giá theo lãi suất, các mức phí dịch vụ phù hợp, công khai khả năng cung ứng ngoại tệ giao ngay, kỳ hạn đối với khách hàng…nhằm mở rộng khả năng giao dịch của khách hàng. Một khi cơ sở vật chất, trang thiết bị và công nghệ Ngân hàng tiên tiến, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng, với tốc độ nhanh, đảm bảo an toàn... sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng quy mô, số lượng khách hàng, khả năng hội nhập với cộng đồng tài chính Quốc tế nhanh hơn. 3.3. Kiến nghị Để hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT quận Thanh Xuân an toàn, tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết cho nền kinh tế thì ngoài sự nỗ lực phấn đấu cho bản thân toàn Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT quận Thanh Xuân cần có sự hỗ trợ, tạo điều kiện của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, Ngân hàng cấp trên về việc tạo lập hành lang pháp lý để hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngày càng có hiệu quả và chất lượng cao. Về vấn đề này tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau: 3.3.1. Đối với chính bản thân Ngân hàng No Thanh Xuân: - Củng cố tổ chức, thêm dần các Phòng hành chính, thanh toán quốc tế, bổ sung cán bộ lãnh đạo. - Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ cán chuyên môn của các nhân viên ngân hàng. - Tạo điều kiện trong mối quan hệ với Chính quyền địa phương (tham gia Đảng, Chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên tại quận). - Tạo ra môi trường làm việc đoàn kết, cùng nhau giúp đỡ làm việc- đó là một việc rất cần thiết. - Tiếp tục nâng cấp trụ sở Chi nhánh đẹp đẽ, khang trang hơn tạo vị thế cho Chi nhánh nói riêng và thương hiệu AGRIBANK nói chung. 3.3.2. Đối với Ngân Hàng No & PTNT Việt Nam Để hoạt động Ngân hàng có hiệu quả cao cần đảm bảo sự liên kết, hỗ trợ giữa NHNo & PTNTVN với các Chi nhánh về các chính sách, chế độ của Nhà nước, của ngành và được hướng dẫn thực hiện thống nhất trong cả hệ thống. - Quy trình nghiệp vụ phải đồng bộ, hỗ trợ nhau. - Thông tin phải luôn mở rộng, cập nhật trong các Ngân hàng. - NHNo& PTNT VN cần hỗ trợ nguồn vốn cho các chi nhánh thuộc hệ thống. - Hỗ trợ thông tin về các chủ trương, chính sách lớn của Chính phủ. - Hướng dẫn thực hiện việc bảo hiểm tín dụng, nhất là những khoản tín dụng mà rủi ro có thể dễ xảy ra. 3.3.3. Đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng là đầu mối các thông tin về kinh tế, thông tin về rủi ro trong kinh doanh do vậy Ngân hàng cần phải: - Ban hành cơ chế quy định về thiết lập quỹ bù đắp rủi ro để các tổ chức tín dụng có các cơ sở giải quyết các khoản rủi ro quá hạn. - Xem xét lại cơ chế các doanh nghiệp được vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng, đây là khó khăn trong việc kiểm tra, giám sát vốn vay của Ngân hàng - Nên có quy định bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng phải khai báo tất cả các doanh nghiệp và cá nhân có quan hệ với tổ chức tín dụng mình nhanh chóng và kịp thời để đảm bảo cung cấp thông tin nhanh, chính xác, đầy đủ cho các tổ chức tín dụng khác. - Thu thập các thông tin về quan hệ tín dụng từ các Ngân hàng trên toàn quốc để đảm bảo cung cấp thông tin nhanh, chính xác, đầy đủ cho các tổ chức tín dụng. - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét đề nghị Chính phủ về việc thành lập các tổ chức bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế để hệ thống văn bản của ngành mang tính pháp lý cao, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng có hiệu quả và chất lượng cao hơn. 3.3.4. Đối với Nhà nước Cần xác lập một hành lang pháp lý đầy đủ và an toàn cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Môi trường pháp lý không đầy đủ là một cản trở lớn đến sự phát triển các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung. Chúng ta đều biết rằng hoạt động Ngân hàng liên quan đến hầu hết các ngành trong nền kinh tế quốc dân, chính vì vậy mà việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế tạo ra hành lang pháp lý yểm trợ cho hoạt động Ngân hàng vừa là nhiệm vụ cấp bách vừa là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài. Để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động tín dụng Ngân hàng chúng tôi thấy rằng nhà nước cần sớm hoàn thiện về mặt pháp lý một số nội dung sau đây. + Quyền về tài sản của pháp nhân và cá nhân khi thế chấp vay vốn Ngân hàng. + Quyền sử lý tài sản thế chấp và tài sản đảm bảo nợ vay (hình thành từ vốn vay Ngân hàng ). + Trách nhiệm phối hợp hoạt động của các cơ quan chức năng trong hỗ trợ hoạt động tín dụng Ngân hàng. Xác định vị trí của các Ngân hàng thương mại như một loại hình doanh nghiệp kinh doanh có lỗ có lãi. Những rủi ro trong hoạt động tín dụng (ở mức cho phép) cần phải coi như các khoản chi phí. Các cơ quan có thẩm quyền cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các doanh nghiệp theo định kỳ để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng có cơ sở phân tích tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn chính xác, để các khoản tiền vay do Ngân hàng phát ra được an toàn. Các cơ quan có thẩm quyền cho phép Ngân hàng phối hợp cùng khách hàng bán tài sản thế chấp, tài sản gán nợ của khách hàng cho Ngân hàng không phải nộp lệ phí, sang tên chuyển nhượng tài sản, tạo điều kiện cho Ngân hàng làm thủ tục bán tài sản thế chấp của khách hàng được thuận lợi. Các cơ quan pháp luật như: Viện kiểm soát, Toà án, công an đã tạo điều kiện cho Ngân hàng thu giữ và quản lý tài sản thế chấp và giải quyết nhanh các vụ án để nhanh chóng thu hồi vốn cho Ngân hàng. Ngoài ra, đảm bảo môi trường kinh tế ổn định, góp phần đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng cấp cho nền kinh tế. Môi trường kinh tế không ổn định sẽ gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn vay Ngân hàng, dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc trả nợ Ngân hàng. Kết kuận Nghiệp vụ tín dụng luôn luôn chứa đựng nhiều rủi ro đối với Ngân hàng nó cũng mang lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Theo thời gian tín dụng Ngân hàng vẫn sẽ giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được trong nền kinh tế. Mặc dù Ngân hàng đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng phi Ngân hàng như: Quỹ bảo hiểm, Quỹ Đầu tư.. và đặc biệt là sự ra đời của thị trường chứng khoán trong thời gian gần đây. Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của một Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường chỉ tiêu này thể hiện tiềm lực kinh tế, vị thế của mỗi Ngân hàng trên thị trường. Chính vì vậy, công tác nâng cao chất lượng tín dụng luôn được chú trọng đối với hệ thống Ngân hàng Thương mại nói chung và NHNo&PTNT quận Thanh Xuân nói riêng. Trong khuôn khổ bản chuyên đề này, tôi đã trình bày một vài nét về hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT quận Thanh Xuân và đưa ra giải pháp, góp phần nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng mong rằng có thể góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng của Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Lê Vinh Danh, 1996, Tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, NXB Chính Trị Quốc gia 2. TS. Phan Thị Thu Hà(chủ biên),2004, Giáo trình Ngân hàng Thương mại, NXB Thống Kê 3. Frederic S. Mishkin, 2001, Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính, NXB Khoa học Kỹ thuật 4. Peter S.Rose, 2001, Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Tài Chính 5. Hoàng Xuân Quế, 2002, Giáo trình nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương, NXB Thống Kê 6. PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài(chủ biên), 2002, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống Kê 7. Sổ tay Tín dụng của Ngân hàng nông ngiệp& phát triển Việt Nam. Phụ lục Bảng 1: Biến động nguồn vốn huy động giai đoạn 2002-2004 Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn Bảng 3: Hoạt động tín dụng theo thời gian Bảng 4: Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế Bảng 5: Doanh số thu nợ Bảng 6: Hiệu suất sử dụng vốn Bảng 7: Tình hình nợ quá hạn tại NHNo Thanh Xuân Bảng 8: Tình hình nợ quá hạn tại NHNo Thanh Xuân Băng 9: Kết quả tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBáo cáo tốt nghiệp- Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp& phát triển quận Thanh Xuân..pdf
Luận văn liên quan