Nâng cao chất lượng lao động trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế

Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện đường lối “Đổi mới” nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Ngày nay, trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới, thì vấn đề chất lượng lao động ngày càng được quan tâm nhiều hơn và trở thành vấn đề chủ yếu trong cạnh tranh với các nước khác. Nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH, HĐH)nông nghiệp nông thôn (NNNT), chủ trương xây dựng nông thôn Việt Nam phát triển bền vững và thu hẹp khoảng cách khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Vì vậy, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lao động NNNT, tạo cơ hội để lao động tiếp cận được thị trường và có việc làm ổn định, tăng thu nhập là một trong các cách làm cho nông thôn ngày càng đổi mới và phát triển. Tuy nhiên, “Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ còn ít về số lượng và còn nhiều hạn chế về kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp làm việc hiện đại. Cơ cấu trình độ, ngành nghề của nhân lực khoa học và công nghệ không đồng bộ, bất hợp lý, chưa tiếp cận được với mặt bằng trí thức chung của thế giới, năng lực sáng tạo hạn chế và hầu như chưa được thế giới công nhận (Việt Nam có rất ít đơn đăng ký phát minh sáng chế được tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cấp và rất ít nhà khoa học Việt Nam có bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín được thế giới công nhận)” Lao động chất lượng cao đang thiếu hụt nhưng lại có xu hướng rời khu vực NNNT, tìm đến thành thị để mang lại thu nhập cao hơn. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng lao động NNNT nhằm bổ sung lượng nhân lực mất đi do di chuyển qua các ngành kinh tế khác đồng thời đưa mặt bằng chất lượng lao động của khu vực này lên Như vậy, có thể thấy rằng, chất lượng nguồn lao động NNNT còn ở mức thấp là vấn đề chung ở nhiều tỉnh thành của nước ta. Làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn lao động NNNT đã trở thành mối quan tâm của nhiều địa phương, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Huyện A Lưới là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong thời gian qua, huyện đang nổ lực phấn đấu, tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế để sớm trở thành thị xã vùng cao miền Tây Trường Sơn. Do những đặc thù kinh tế xã hội riêng của mình, nên chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện có nhiều điểm khác biệt so với tỉnh Thừa Thiên Huế và nhiều địa phương khác. Nhận thấy tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lao động, huyện đã có những chiến lược nhất định để phát triển nguồn lao động trong những năm qua. Tuy vậy, thực tế đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề thấp, lao động chất lượng cao chưa nhiều và lao động này thường không muốn ở lại địa bàn để làm việc. Lao động phần lớn là lao động chân tay phục vụ cho các ngành nông lâm nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó chính sách về nâng cao chất lượng nguồn lao động chưa cụ thể, chưa có những cuộc điều tra thống kê thực trạng nguồn lao động trên địa bàn huyện một cách sâu sắc.

docx75 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3103 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng lao động trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
òng với công việc hiện tại, và có khả năng chỉ làm công việc cầm chừng để mong muốn tìm một công việc khác tốt hơn. Nếu vậy, thì có khả năng hiệu quả mang lại do công việc hiện tại mang lại không cao do sự toàn tâm toàn ý không có. Mặt khác, họ không hài lòng công việc bởi họ có năng lực tốt hơn và họ muốn tìm công việc phù hợp với năng lực của họ, điều này thường gặp ở những lao động có tay nghề và có bằng cấp. TT Chỉ tiêu Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 1 Có 90 65,3 2 Không 48 34,8 Tổng số 138 100 Bảng 2.6: Số liệu điều tra mức độ hài lòng với công việc hiện tại của lao động trên địa bàn huyện A Lưới Nguồn: Số liệu điều tra Với lực lượng có trình độ, bằng cấp nhưng chưa được sử dụng phù hợp với năng lực của mình thì huyện nhà cần có chính sách nắm bắt lại để quy hoạch sử dụng tránh lãng phí trong điều kiện mặt bằng chất lượng lao động trên địa bàn chưa được cao. 2.2.3. Chất lượng lao động thể hiện trong năng suất và thu nhập của lao động Năng suất lao động phản ánh trình độ sử dụng lao động của nền kinh tế. Năng suất hàng năm của các loại cây trồng chủ yếu phản ánh năng suất lao động chủ yếu của ngành nông nghiệp trên địa bàn, chiếm xấp xỉ 50% giá trị tạo ra của ngành nông nghiệp. Loại cây trồng ĐVT 2006 2007 2008 2009 2010 Lúa nước tạ/ha 44,3 44,9 45,8 46,0 47,3 Ngô tạ/ha 48,4 44,8 43,4 40,8 41,9 Sắn tạ/ha 143,0 167,0 138,1 146,4 146,1 Khoai tạ/ha 62,5 62,9 63,3 63,8 63,2 Khoai lang tạ/ha 36,1 35,9 35,9 36,2 38,1 Rau tạ/ha 66,7 66,9 67,2 68,7 66,3 Đậu tạ/ha 5,0 5,0 5,0 4,9 5,0 Lạc tạ/ha 16,7 17,5 17,0 17,6 17,1 Bảng 2.7: Năng suất một số giống cây trồng nông nghiệp và cây công nghiệp ngắn ngày cơ bản thời kỳ 2006-2010 Nguồn: [1], [2], [9] Năng suất cây nông nghiệp ngắn ngày không có sự tiến triển rõ rệt qua các năm, điều này thể hiện, chưa có sự đầu tư chuyên sâu vào việc tăng năng năng suất cho một số cây trồng chủ lực mà địa bàn có thế mạnh như cây sắn, cây ngô đồi và rau. Một phần do điều kiện khí hậu khắc nghiệt, mặt khác do huyện chưa đầu tư vùng chuyên canh các loại cây này. Bên cạnh đó, những lao động trong ngành nông nghiệp trên địa bàn chỉ quen sử dụng phương pháp canh tác sản xuất truyền thống chưa có điều kiện áp dụng các kiến thức mới vào sản xuất. Hình 2.5: Biểu đồ mức độ tăng trưởng năng suất một số giống cây trồng chủ yếu giai đoạn 2006-2010 Nguồn: [1], [2], [9] So sánh với năng suất các cây trồng trên địa bàn tỉnh thì đa số các loại cây này đều có năng suất thấp hơn nhiều. Chỉ có ngô, cà phê và chuối là có năng suất xấp xỉ hoặc cao hơn mức trung bình của toàn tỉnh vì A Lưới là nơi cung cấp một lượng khá lớn chuối và cà phê cho tỉnh và gần như là nơi có điều kiện tốt nhất trong cả tỉnh về trông cà phê. Hình 2.6: Biểu đồ so sánh năng suất các cây trồng chủ yếu giữa huyện A Lưới với năng suất trung bình của tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2009 Nguồn: [1], [2], [9] Cây cà phê là cây trông chủ lực, nhiều hộ nông dân trở thành hộ khá, giàu từ thu nhập của cây cà phê, giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động trên địa phương tại các xã trồng cà phê. Thu nhập của lao động phản ánh hiệu quả của quá trình lao động. Điều này thể hiện khái quát trong mức sống chung của dân cư. Năm 2010, thu nhập bình quân của người dân huyện A Lưới là 8 triệu/người/năm, chỉ bằng 40% mức trung bình của toàn tỉnh. Ở mức như vậy, chứng tỏ giá trị lao động do người lao động tạo ra trên địa bàn chưa cao. TT Thu nhập Số lượng Tỷ lệ 1 < 500.000 đ 76 55,10% 2 500.000 đ - 1.000.000 đ 29 21,00% 3 1.000.000 đ - 2.000.000 đ 22 15,90% 4 2.000.000 đ- 5.000.000 đ 12 8,70% 5 > 5.000.000 đ 0 0,00% 138 100,00% Bảng 2.8: Số liệu điều tra thu nhập hàng tháng của lao động trên địa bàn huyện A Lưới năm 2010 Nguồn: Số liệu điều tra Tỷ lệ hộ có thu nhập hàng tháng dưới 500.000 đồng chiếm tới 55%, đây là một con số cao so với các khu vực trong tỉnh. Với mức thu nhập này họ chưa chắc đã có thể nuôi sống bản thân trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động, mặt hàng thiết yếu ngày càng tăng giá. Mức thu nhập từ 500 nghìn đồng đến 1 triệu đồng chiếm 21% , đây cũng là tỷ lệ cao, chiếm 1/5 số lao động được điều tra. Lượng lao động này đang ở mức lưng chừng giữa nghèo và mức thu nhập trung bình, cuộc sống vẫn chưa ổn định, chỉ lo được cuộc sống hàng ngày, khó có thể tích lũy để đảm bảo cuộc sống sung túc hơn. Số lao động có mức thu nhập từ 1 triệu đến 2 triệu đồng chiếm 15,9%, đây là lực lượng có thu nhập khá, có điều kiện để nuôi sống gia đình, tuy nhiên vẫn thấp vì thông thường, gia đình ở địa bàn huyện A Lưới có đông người và hầu hết trông chờ vào khả năng làm việc của một vài người chủ yếu. Lượng lao động có thu nhập từ 2 triệu đến 5 triệu đồng chiếm 8,7%. Đây là mức thu nhập cao của một người lao động vùng núi. Nhiều năm qua, huyện đã có những chính sách khả thi để nâng cao thu nhập của người dân. Đặc biệt là sự kết hợp giữa chính sách tăng thu nhập và chương trình xóa đói giảm nghèo. Hình 2.7: Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện A Lưới giai đoạn 2006-2010 Nguồn: [1], [2], [9] Tỷ lệ hộ nghèo trên toàn huyện đã giảm mạnh trong giai đoạn 2006-2010 (giảm 19,4%). Phản ánh nổ lực rất lớn của huyện nhà trong công tác xóa đói giảm nghèo, điều này cũng đồng thời chứng tỏ, lực lượng lao động đã có hiệu quả mang lại nguồn thu nhập khá cho gia đình. Trong giai đoạn 2007-2008 và 2008-2009 thì kết quả giảm nghèo có phần không ổn định, tỷ lệ hộ nghèo tăng lại 2,1% (giai đoạn 2007-2008) sau đó lại giảm mức đọ không lớn 2,4% (giai đoạn 2008-2009). Đến giai đoạn 2009-2010, kết quả giảm nghèo có bước tiến mạnh khi giảm tới 7,9%. Nền kinh tế huyện càng tăng trưởng thì tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm xuống nhờ vào lượng việc làm tạo ra ngày càng nhiều. Tuy thế, tỷ lệ nghèo vẫn còn khá cao, huyện nhà cần có nhiều biện pháp nổ lực hơn nữa trong việc tạo công ăn, việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. TT Lĩnh vực Số lượng Tỷ lệ 1 Nông nghiệp 122 88,40% 2 Lâm nghiệp 32 23,20% 3 Ngư nghiệp 1 0,70% 4 Làm thêm ( ngoài nông, lâm, ngư nghiệp) 24 17,40% 5 Lương công nhật 29 21,00% 6 Trợ cấp 22 15,90% 7 Lương hưu 14 10,10% 8 Do thành viên của gia đình hoặc người thân đi làm ăn xa gửi về 1 0,70% Bảng 2.9: thống kê kết quả điều tra các nguồn thu nhập trong gia đình Nguồn: Số liệu điều tra Ở huyện A Lưới, trong một gia đình thường có nhiều thế hệ sinh sống, từ ông bà, cha mẹ, con và có thể có cháu. Chính vì thế, trong một gia đình có nhiều lứa tuổi lao động khác nhau và lao động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Theo bảng điều tra các nguồn thu nhập trong gia đình của một lao động trên địa bàn huyện A Lưới thì có tới 88,4% hộ có nguồn thu nhập từ nông nghiệp, phần lớn họ tham gia vào việc làm lúa, ngô và một số nông sản khác như sắn, lạc. Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi nên họ trồng những giống cây trồng đặc trưng nhu lúa nương, sắn rẫy, ngô rẫy, những cây trồng này có chu kỳ sinh trưởng kéo dài, năng suất lại khá thấp nên giá trị kinh tế mang lại cho người lao động không cao, chỉ đủ để nuôi sống, chỉ một số hộ ở vùng nào thuận lợi hơn thì có đem đi bán. Có 23,2% hộ gia đình có thu nhập từ lâm nghiệp, chủ yếu là từ việc chặt cây thuê theo mùa vụ, đi củi, săn bắt, khá nhiều hộ có rừng canh tác nhưng dần cũng bán đi hoặc không trồng gì cả. Chỉ có 0,7% gia đình có thu nhập từ thủy sản. Ngoài ra 21% gia đình có người việc làm chính thức, thông thường là việc của nhà nước như chức vị trong thôn bản, xã, một số đi làm công nhân cho các nhà máy cao lanh, công ty khai thác gỗ, vàng, công ty cà phê, công nhân xây dựng, cầu đường. Số gia đình có lao động làm thêm theo mùa vụ hoặc buôn bán vặt chiếm 17,4% là tỷ lệ khá cao, đây cũng là một khoản thu nhập không nhỏ cho lao động thời kỳ nông nhàn. Đặc biệt, trợ cấp là nguồn thu của 15,9% số gia đình được hỏi. Do điều kiện kinh tế khó khăn, cũng như nhiều yếu tố khác nên có một số lượng khá lớn thuộc diện chính sách được hỗ trợ. Lương hưu cũng chiếm hơn 10,1% số gia đình được hỏi. Ngoài ra có nhiều gia đình có con làm xa gửi về. Như vậy, nguồn gốc thu nhập trong các gia đình trên địa bàn xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng đặc trưng là do lao động trong nông nghiệp lâm nghiệp là chủ yếu. Đây là một điểm đáng lưu ý trong việc điều chỉnh cơ cấu việc làm giữa các ngành trong quy hoạch kinh tế-xã hội của huyện. Cân đối lao động giữa các ngành nghề tương ứng với cơ cấu kinh tế chung của huyện. 2.3. Đánh giá chất lượng lao động ở huyện A Lưới 2.3.1. Những lợi thế của nguồn nhân lực Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng mang tính chất quyết định trong các hoạt động kinh tế- xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó, huyện A Lưới và tỉnh Thừa Thiên Huế luôn cố gắng đầu tư và các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, phát triển kinh tế nhằm ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng lao động trên địa bàn. Trong thời đại cạnh tranh hiện nay, với chất lượng lao động trung bình được đánh gia không cao nhưng vẫn có những lợi thế nhất định. - Sức khỏe của lao động cực kỳ tốt nhờ thích nghi trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt của huyện A Lưới. Chính vì thế, người lao động ở đây có lợi thế trong tham gia các hoạt động kinh tế tại địa bàn huyện nhà và những địa bàn tương tự. Sức khỏe dẻo dai của hoạt động lâm nghiệp, nông nghiệp phù hợp với việc nâng cấp chất lượng mặt bằng theo hướng đào tạo nghề, tham gia trực tiếp vào các khâu sản xuất. - Bên cạnh đó, sự cần cù, chịu khó, chịu khổ, sẳn sàng học hỏi là một đức tính cần thiết trong môi trường đầy cạnh tranh. Nhờ vậy có khả năng nắm bắt các công việc và làm việc hiệu quả. - Lao động trên địa bàn có nhiều kỹ năng về sản xuất các mặt hàng truyền thống, đây là những kỹ năng riêng có của những lực lượng lao động ở đây. Điều đó gợi ý khả năng điều chỉnh họ tham gia vào những nơi chế tác, sản xuất các sản phẩm truyền thống như, dệt dzèng, đan lát, mộc, sản xuất rượu Đoác. Đây là những tài sản vô hình có giá trị to lớn trong thị trường du lịch văn hóa, cơ hội tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. - Qua kết quả điều tra như bảng … chương.. cho thấy, tỷ lệ người lao động muốn tiếp tục làm việc tại địa bàn lên đến 93,5%, đây là điều đặc biệt, vì nền kinh tế huyện nhà không cao, nhưng người lao động vẫn tha thiết gắn bó với mong muốn xây dựng quê hương A Lưới ngày càng giàu đẹp. Vốn quý tinh thần này cần được tận dụng, tạo điều kiện cho người dân địa phương được đi học thêm để tham gia hiệu quả hơn vào nền kinh tế. - Nền kinh tế trong thời gian qua trên địa bàn ngày càng tăng trưởng mạnh, đời sống được nâng cao dần, đây là điều góp phần thu hút lượng lao động có chất lượng ở lại và thu hút thêm lao động có chất lượng ở các địa phương khác. Tạo ra một môi trường tràn ngập người lao động cho nền kinh tế. - Lực lượng lao động có cơ cấu dân số trẻ với số lượng lớn, đó là tiềm năng về lực lượng lao động, một có cấu dân số mang tính bùng nổ về năng lực. Được đào tạo, quy hoạch, định hướng và sử dụng tốt thì giá trị mang lại những giá trị vượt bậc. 2.3.2. Những hạn chế, khó khăn trong việc nâng cao chất lượng lao động Bên cạnh những ưu điểm trên, chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn cũng có nhiều hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới. - Trình độ học vấn, văn hóa của lao động vẫn còn thấp. Dù huyện nhà đã khá tích cực trong việc truyên truyền giáo dục, phổ cập dạy học, tuyên truyền văn hóa. Điều này chịu sự chi phối của đặc điểm lịch sử- xã hội, tự nhiên của địa bàn chi phối. Với nhiều địa bàn cách trở, kèm theo các hủ tục văn hóa và kinh tế khó khăn nên tiếp cận khó khăn với nền tri thức mới. Đây là những hạn chế lớn trong giai đoạn hội nhập kinh tế với nền kinh tế khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển. - Dù dức khỏe tốt nhưng bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên, tàn dư chiến tranh, tập quán lạc hậu, ý thức phòng bệnh chưa cao nên phần nào làm suy giảm khả năng lao động. - Sự chuyển biến chất lượng nhân lực trên địa bàn huyện trong những năm qua nhìn chung là khả quan nhưng chưa có sự đột phá thực sự. Nhất là về mặt văn hóa giáo dục, trong đó vấn đề đào tạo nghề vẫn là vấn đề nan giải. Năng suất lao động qua nhiều năm vẫn chưa tiến triển rõ ràng. - Sự khó khăn trong tìm việc vì lượng việc làm tại chổ trên địa bàn chủ yếu có thu nhập thấp. Trong khi đó chưa có sự hỗ trợ nhiều trong việc xuất khẩu lao động đi các địa phương khác có thu nhập tốt hơn. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và khó khăn trong việc nâng cao chất lượng lao động trên địa bàn huyện Những hạn chế, khó khăn trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân có cả khách quan và chủ quan, tựu chung gồm có một số nguyên nhân chính sau đây - Nguyên nhân khách quan: + Điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nhất là giao thông và thời tiết, làm hạn chế các hoạt động kinh tế trên địa bàn, ảnh hưởng đến sức khỏe của lao động. Bên cạnh đó tàn dư chiến tranh để lại trong môi trường từ các chất độc đến vũ khí vẫn còn nằm rải rác gây nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe của người dân. + Tập tục văn hóa xưa cũ vẫn còn tồn tại ở một số nơi, cản trở để phong cách làm việc mới. + Nền kinh tế đang ở trình độ chưa cao, chính vì thế không tạo ra được một đời sống tốt hơn cho người dân, chưa tạo ra nhiều việc làm cho lao động. - Nguyên nhân chủ quan: + Trước hết ở người lao động nhiều khi vẫn thụ động trước sự thay đổi của bối cảnh kinh tế mới, chưa có sự điều chỉnh kịp thời, chưa chủ động tham gia và các hoạt động học tập để nâng cao năng lực bản thân, tạo ra sự hạn chế trong việc tiếp cận công việc. + Chính sách của huyện vẫn còn nhiều hạn chế, dàn trãi trên nhiều lĩnh vực mà chưa có sự đầu tư chuyên sâu để tạo ra đột biến. Những ngành nghề truyền thống chưa được chú trọng đúng mức với tiềm năng của nó. Tóm lại, từ thực trạng lao động trên địa bàn cho thấy, những hạn chế chủ yếu của lao động xuất phát từ đặc thù lịch sử, xã hội và tự nhiên. Một phần từ trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa đi sâu, đi sát, mặt khác từ người lao động vẫn mang tâm lý thụ động của nền sản xuất cũ. Với những thế mạnh về sức khỏe, kinh nghiệm sản xuất truyền thống đặc thù và tinh thần cầu tiến, kèm theo sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới, chất lượng nhân lực sẽ ngày càng tiến bộ và góp phần khắc phục những hạn chế của mình, phát huy được được mặt mạnh. Chương 3- Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế 3.1. Phương hướng 3.1.1. Phương hướng nâng cao chất lượng lao động của tỉnh Thừa Thiên Huế Trong báo cáo chính trị của Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế khóa XIII trình đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIV, về phương hướng phát triển Thừa Thiên Huế 5 năm 2011-2015 và định hướng đến năm 2020 xác định, đào tạo và nâng cao chất lượng là một trong những giải pháp quan trọng nhằm góp phần thực hiện các định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế. Tập trung nguồn lực hoàn thiện hệ thống mạng lưới giáo dục phổ thông, các trường cao đẳng và đào tạo nghề theo hướng đạt chuẩn quốc gia; xây dựng một số cơ sở giáo dục và đào tạo đạt trình độ quốc tế. Hỗ trợ , đầu tư cho Đại học Huế xây dựng các thiết chế trung tâm đào tạo đa ngành, chất lượng cao ngang tầm khu vực và quốc tế. Củng cố và nâng cao chất lượng các trường cao đẳng trường đào tạo nghề, hoàn thành các trung tâm đào tạo mới để đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực có chất lượng cao, có tri thức hội nhập và nhất là am hiểu các thông lệ và luật pháp quốc tế. Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ các bộ khoa học- công nghệ đầu ngành, đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Gắn đào tạo với nghiên cứu khóa học và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật. Coi trọng cả đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Xây dựng và thực hiện chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các ngành, các lĩnh vực mủi nhọn, lợi thế của tỉnh; đẩy mạnh đào tạo nghề và nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Có chính sách ưu đãi, thu hút học sinh, sinh viên, nhất là học sinh, sinh viên giỏi sau khi tốt nghiệp trở về công tác tại tỉnh. Tạo điều kiện cho Đại học Huế xây dựng hoàn thành làng đại học để thu hút chất xám trong đào tạo. 3.1.2. Mục tiêu của huyện A Lưới đến năm 2020 Xuất phát từ thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn, từ tiềm năng và hạn chế của chất lượng nhân lực, huyện A Lưới đã xác định mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong giai đoạn 2010-2020 như sau: Mục tiêu tổng quát: - Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân - Văn hóa- xã hội phát triển toàn diện, gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Mục tiêu cụ thể đến năm 2015 - Đẩy nhanh các hoạt động y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, xây dựng nền tảng sức khỏe cho nguồn lao động từ trong bào thai. Phấn đấu đến năm 2015, một số chỉ tiêu cơ bản của dân số và y tế đạt chuẩn. Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1,40%; đưa tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 12%. Duy trì 100% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. - Đảm bảo hơn nữa hiệu quả công tác nâng cao chất lượng dân trí, trình độ văn hóa của dân cư. Đưa tỷ lệ huy động trẻ dưới 5 tuổi đến trường mầm non trên 88%; tiểu học trên 98%; trung học cơ sở trên 92%; trung học phổ thông trên 72%. Trường học đạt chuẩn quốc gia trên 20% (11 trường). Cơ quan, trường học đạt chuẩn văn hóa 100%; làng, thôn, tổ dân cư đạt chuẩn văn hóa trên 75%; hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa trên 70%. - Tăng cường tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề trên 25%; giải quyết việc làm mới 400-500 lao động/năm. - Tỷ lệ hộ dùng điện trên 99%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 12%, tỷ lệ đô thị hóa trên 30%. Tỷ lệ hộ dùng nước trên 95%; 80% rác thải của thị trấn mở rộng được thu gom và xử lý; trên 95% hộ gia đình nông thôn có chổ chôn lấp và xử lý rác thải và công trình vệ sinh; 100% chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường. 3.2. Giải pháp Để thực hiện được các phương hướng nâng cao chất lượng lao động, huyện A Lưới cần có những giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ, kết hợp cả giải pháp ngắn hạn và dài hạn. Qua phân tích thực trạng chất lượng lao động trên địa bàn, tôi nhận thấy cần tập trung những giải pháp sau đây. 3.2.1. Giải pháp lâu dài 3.1.2.1. Thực hiện hoàn thiện công tác giáo dục ở tất cả các bậc học và dạy nghề nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài Công tác giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực toàn diện. Mục tiêu của giáo dục- đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục đào tạo chính là con đường rút ngắn khoảng cách của sự nghèo nàn lạc hậu để vươn tới gặt hái những thành tựu của khoa học kỹ thuật và tiến nhanh tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH. Với đặc điểm khác biệt và khó khăn hơn những vùng khác của tỉnh nhà, thì huyện A Lưới cần chú trọng nhiều hơn nữa công tác giáo dục đào tạo và dạy nghề. - Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đạt chuẩn đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới. Để làm được điều này, huyện cần đẩy nhanh phổ cấp giáo dục, trung học cơ sở và phổ cập giáo dục trung học (trung học phổ thông, trung học dạy nghề, chuyên nghiệp) và nâng số năm đi học bình quân của người trong độ tuổi lao động. Song song với việc làm đó, cần phải giải quyết những vấn đề bức xúc trong đào tạo như sự mất cân đối giữa mở rộng quy mô với nâng cao chất lượng, giữa đào tạo nghề với đào tạo đại học. Khắc phục xu hướng chạy theo bằng cấp học vị một cách hình thức và những biểu hiện tiêu cực như mua bằng, bán điểm, dạy thêm học thêm tràn lan. Ngoài ra huyện cần phải thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục, huy động toàn diện sức mạnh của mọi tầng lớp tham gia phát triển giáo dục, hình thành một xã hội học tập, chế độ học tập suốt đời. Tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chăm sóc sức khỏe cho học sinh sinh viên, đồng thời giáo dục truyền thống văn hóa, cách mạng, bản lĩnh chính trị và giáo dục một thế hệ trẻ có bản lĩnh cao tự khẳng định mình và luôn vươn tới những đỉnh cao mới. Tăng cường vai trò trách nhiệm giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm làm giảm tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng ở các cấp học, nhất là cấp học trung học cơ sở, từng bước tạo được sự đồng đều về chất lượng giữa các vùng miền. Tăng số lượng học sinh khá giỏi hàng năm. - Đổi mới phương pháp lập và giao kế hoạch kinh phí cho giáo dục, thực hiện quyền tự chủ tài chính tại các đơn vị, trường học. Thực hiện chính sác ưu đãi về giáo dục, chính sách hỗ trợ học sinh khuyết tật, học sinh nghèo. Đầu tư hoàn chỉnh hệ thống trường học nhưng có trọng điểm, chú trọng xây dựng các trường điểm trên địa bàn để tạo đột phá trong chất lượng dạy học. Bên cạnh đó, đảm bảo chính sách cho các trường ở các khu vực xa, điều kiện đi lại khó khan. Khi đất nước bước vào kỉ nguyên của “toàn cầu hóa”, nền kinh tế tri thức thì vai trò của nhân tố con người càng được đặt lên vị trí hàng đầu. Để có được một nguồn nhân lực thực sự có chất lượng, việc làm cần thiết là nâng cao trình độ dân trí, năng lực trí tuệ và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đây là vấn đề không đơn giản, để thực hiện được cần phải kiện toàn và hoàn thiện vấn đề giáo dục từ giáo dục phổ thông đến giáo dục đại học. Do đó cần phải đổi mới nội dung trong các cấp học, về phương pháp dạy và học, chương trình học. Đồng thời xây dựng hệ thống trường lớp, hệ thống quản lí một cách hiệu quả. Đây là một giải pháp rất hợp lí và thiết thực đối với một huyện vùng cao như A Lưới. Là một huyện vùng sâu vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế, A Lưới có nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với thông tin, thiết bị hiện đại và sự hỗ trợ cần thiết. Vì vậy vấn đề GD-ĐT ở huyện còn nhiều bất cập và hạn chế. Nhưng với tinh thần ham học hỏi và ý chí vượt khó của người dân, huyện có thể phát triển và nâng cao chất lượng GD-ĐT nếu có sự quan tâm và hỗ trợ thiết thực của chính quyền các cấp ngành từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh những nỗ lực của người dân, huyện phải tích cực vạch ra những chương trình, chính sách để phát triển giáo dục và nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động: - Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong đội ngũ công nhân viên chức, chính sách khuyến khích đội ngũ giáo viên, tăng cường đội ngũ khuyến nông về tận vùng sâu vùng xa để công tác. - Kích thích và thúc đẩy sự đóng góp từ nhân dân cho sự nghiệp giáo dục. - Mời giáo viên giỏi về huyện để dạy cho các học sinh ở huyện và đồng thời để giáo viên học hỏi rút kinh nghiệm cho mình. - Đưa giáo viên của huyện tham gia các lớp bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia. Trên cơ sở đó cần tạo một nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lí, có khả năng tiếp thu những thành tựu KHCN, những tri thức tiên tiến đáp ứng đòi hỏi cao của tiến trình CNH HĐH ở huyện. Do cơ cấu lao động ở huyện còn bất hợp lí, nguồn lao động qua đào tạo nghề, trình độ chuyên môn còn thấp. Vì thế để xây dựng được một đội ngũ lao động với một cơ cấu hợp lí, vấn đề đào tạo nghề cần thực hiện những yêu cầu sau: - Xây dựng hệ thống đào tạo nghề có quy mô theo những phương thức ngắn hạn, dài hạn tùy theo đặc điểm từng ngành, nghề. Khuyến khích các cá nhân, các tổ chức tham gia đào tạo nghề. Nhưng trước mắt cần xây dựng các cơ sở đào tạo nghề ngay tại các xã vùng sâu vùng xa của huyện. Huy động các nguồn lực xã hội vào sự nghiệp đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu đào tạo nghề đa dạng của người lao động, từng bước đáp ứng nhu cầu xã hội về lao động kĩ thuật. - Các nghề đào tạo cần phải phù hợp với nhu cầu của người lao động: kỹ thuật nông nghiệp, chế biến nông lâm thủy sản, cơ khí, điện tử, may dân dụng. Thời gian đào tạo ngắn ngày để người học có thể theo học đầy đủ mà không bỏ lỡ nửa chừng. Vấn đề chủ yếu hiện nay là cần xây dựng các mô hình tập trung để tổ chức đào tạo những nghề truyền thống như: đan lác, dzeng, dệt may... - Huy động nguồn vốn đầu tư cho đào tạo nghề. Đây là việc làm rất thiết thực trong điều kiện còng nhiều khó khăn của huyện hiện nay. Thực tế từ trước đến nay ngân sách nhà nước chỉ chú trọng đến công tác phổ cập văn hóa mà chưa quan tâm đến công tác đào tạo nghề. Do vậy trong thời gian tới huyện cần: + Huy động sự đóng góp của nhân dân cả về thể chất lẫn tinh thần để xây dựng các cơ sở đào tạo nghề với quy mô cơ sở. + Thực hiện các chương trình kêu gọi sự ủng hộ của các tổ chức từ thiện cho sự nghiệp đào tạo nghề thanh niên ở huyện nói chung và đặc biệt là những người nghèo khó và tàn tật. + Tăng nguồn ngân sách huyện để xây mới và hoàn thiện các cơ sở đào tạo nghề còn nhỏ lẻ và manh mún. - Tổ chức các chương trình để đưa những thanh niên có tài năng đi học ở các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước và cả nước ngoài. Chỉ với việc làm này thì người lao động mới có điều kiện tiếp cận những KHKT hiện đại, những kiến thức và kinh nghiệm thiết thực trong thời đại mới. Như thế họ mới có thể đóng góp và cống hiến tài năng cho sự nghiệp CNH HĐH ở huyện nhà. - Tổ chức gặp gỡ các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề để làm cầu nối giới thiệu học nghề và việc làm cho thanh niên, phối hợp tổ chức hình thức, ngày hội việc làm cho thanh niên, tổ chức các hình thức cho thanh niên tham quan các cơ sở sản xuất, dạy nghề các hình thức giao lưu định hướng nghề nghiệp, việc làm cho thanh niên... Tổ chức các lớp khởi sự doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thanh niên... - Mở các lớp tập huấn chuyển giao KHCN, ngành nghề mới trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ tại cơ sở địa phương. Tiếp tục triển khai các hình thức tổ tiết kiệm vay vốn, hỗ trợ vốn học nghề, lập nghiệp, đi lao động nước ngoài cho thanh niên. Chú ý việc xây dựng và phát triển mô hình kinh tế hiệu quả. 3.1.2.2. Chú trọng vấn đề y tế và nâng cao sức khỏe dân cư - Thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân; công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình; bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số- kế hoạch hóa gia đình, coi trọng công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, đẩy mạnh công tác xã hội hóa về lĩnh vực y tế. Chủ động phòng chống các dịch bệnh nguy hiểm; nâng cao chất lượng khám, điều trị, thực hiện tốt chủ trương khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Xây dựng đội ngũ y, bác sĩ giỏi về chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp; quan tâm đào tạo bác sĩ tuyến cơ sở là người tại chỗ. Xây dựng mới và đầu tư trang thiết bị y tế cho trạm y tế xã, thị trấn. Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thông dân số, sức khỏe cộng đồng. Phấn đấu 100% trẻ em dưới 5 tuổi tiêm đầy đủ các lại vắc xin; phấn đấu tuyên truyền, giáo dục 100% đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ được tư vấn về các biện pháp tránh thai và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. 100% phụ nữ có điều kiện sinh được khám và điều trị phụ khoa. Vận động 100% phụ nữ mang thai được khám thai ít nhất 1 lần và 90% khám thai 3 lần, đồng thời tuyên truyền, vận động các bà mẹ đến sinh con tại các cơ sở y tế. Giảm dần tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,40%. 3.1.2.3. Đảm bảo sự phù hợp giữa phát triển nguồn nhân lực với điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Trong báo cáo định hướng kinh tế xã hội 5 năm 2010-2015 của huyện A Lưới, Đảng bộ của huyện đã đưa ra một số chỉ tiêu để phát triển nguồn nhân lực: Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên: 1,1%, thu nhập bình quân đầu người 7 -8 triệu đồng/năm, 100% ổn định định canh định cư, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 25%, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi: 20%. Phát triển nguồn nhân lực là chiến lược chung của toàn xã hội để đưa nền kinh tế tiến nhanh tiến mạnh, hòa cùng xu thế thời đại. Tuy vậy không có con đường chung nào cho tất cả các nền kinh tế mà phải cần đảm bảo sự phù hợp phát triển nguồn nhân lực với điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của mỗi vùng miền. Với đặc thù là một huyện có trình độ dân trí còn rất thấp nếu không nói là quá thấp so với mặt bằng chung của xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này là xuất phát từ đặc điểm tự nhiên của huyện là miền núi xa xôi khó tiếp cận thông tin, trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến, bên cạnh đó dân số chủ yếu là dân tộc thiểu số với đa ngôn ngữ. Thực tế đó buộc huyện phải có con đường phát triển nguồn nhân lực phải đi lên từ từ không được nóng vội và chủ quan. Mục tiêu và phương hướng đào tạo nguồn nhân lực phải đáp ứng ba mặt cả về quy mô, chất lượng, hiệu quả. Thực hiện được mục tiêu này không chỉ tiết kiệm được kinh phí và sức lực mà còn nâng cao trình độ cho người lao động một cách hợp lí và hiệu quả. Bên cạnh đó, do hoàn cảnh khó khăn như vậy nên công tác giáo dục không chỉ bằng tuyên truyền mà cần phải động viên, khuyến khích tận nhà và hỗ trợ một cách thiết thực để nâng cao thể lực và chất lượng cho người dân. 3.1.2.4. Cần chú trọng yếu tố truyền thống văn hóa trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực Ngày nay, khi mà thế giới đều hòa cùng xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế hội nhập là con đường tất yếu của mọi quốc gia, mỗi vùng miền, ít nhiều vấn đề “hòa tan” là không thể tránh khỏi. Vì thế, yếu tố truyền thống văn hóa ngày càng được chú trọng và được xem như là một trong những động lực cho phát triển KTXH và là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững. Huyện A Lưới được xem là một mảnh đất màu mỡ cho sự sinh tồn và phát triển của các giá trị văn hóa truyền thống. Lý do để khẳng định điều này là vị trí huyện giáp ranh với nhiều vùng, miền, đa dạng các dân tộc anh em sinh sống. Nên có sự phong phú về văn hóa, đa dạng về tập quán tồn tại đan xen tạo thành một vườn hoa đầy màu sắc của các giá trị văn hóa. Hơn thế nữa, đây là vùng đất có dãy Trường Sơn hùng vĩ đi qua, vùng đất của cách mạng và với những con người có tinh thần yêu nước mãnh liệt. Đây là một trong những lợi thế để khơi gợi những truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam và cũng là một trong những động lực cho sự phát triển của nguồn nhân lực. Từ những tập quán và những giá trị văn hóa truyền thống đã sinh ra những con người xứ sở miền núi với những phẩm chất cần cù, siêng năng, chịu khó và có tinh thần học hỏi cao. Vì thế cần phải phát huy những thế mạnh này động thời kết hợp những phẩm chất của con người thời đại mới là năng động, thông minh, sáng tạo để tạo lập con người phát triển toàn diện, thích nghi với xu thế chung của thế giới mà không làm mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp. Góp phần xây dựng một huyện A Lưới hùng mạnh trong tương lai, vững bền trên con đường tiến tới thành công trong sự nghiệp CNH HĐH. - Bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển văn hóa thông tin, truyền thanh, truyền hình. Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao ở cơ sở. Tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa đồng bào các dân tộc: sưu tầm, khôi phục các lễ hội tiêu biểu của đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát huy tốt các thiết chế văn hóa ở cơ sở. Nâng cao tỷ lệ hộ nghe nhìn; tăng thời lượng và chất lượng thu,phát truyền thanh, truyền hình, nhất là hệ thống truyền thanh và trạm phát lại truyền hình cấp xã; 100% xã có hệ thống phát thanh: duy trì chương trình phát sóng tiếng dân tộc, củng cố và duy trì hoạt động của đội thông tin lưu động huyện, phát huy hiệu quả tủ sách pháp luật, thư viện. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vậ động (toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa). Phấn đấu đến năm 2015 có trên 70% gia đình, 75% làng, cụm, tổ dân cư và 100% cơ quan trường học đạt chuẩn văn hóa; ngăn chặn và đẩy lùi các tập tục lạc hậu, mê tin dị đoan. Củng cố và phát huy mạnh mẻ các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Sưu tầm và trưng bày các hiện vật bảo tồn, bảo tàng giữ gìn và tôn tạo các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. 3.2.2.6. Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, thu hút đầu tư, tạo việc làm - Thực hiện tốt công tác chính sách xã hội, các chương trình mục tiêu về giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân và bảo đảm an sinh xã hội. Quan tâm và thực hiện tốt chính sách xã hội, chính sách đối với các đối tượng, gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Huy động các nguồn lực, lồng ghép các dự án, các giải pháp đồng bộ để đẩy mạnh sản xuất, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Hướng dẫn giúp đở nhân dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, đồng thời vận động đồng bào biết tổ chức cuộc sống mới. Lồng ghép các chương trình sự án để hỗ trợ đầu tư sản xuất cho các hộ nghèo, nâng cao thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 12%. Tạo điều kiện cho các hộ vương lên làm giàu, nâng dần tỷ lệ hộ khá, tích lũy trong nhân dân. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề theo hướng nhu cầu việc làm tại chổ, Nhất là doanh nghiệp trên địa bàn; tiếp tục thực hiện các biện pháp tạo thêm việc làm cho người lao động từ các chương trình phát triển kinh tế, chương trình mục tiêu, chương trình phát triển cộng đồng, chương trình xuất khẩu lao động. - Khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống, tạo công ăn việc làm và tăng cường thu nhập đồng thời bảo tồn các giá trị văn hóa Ở huyện A Lưới được xác định có khá nhiều nghề truyền thống như dệt dzèng, làm rượu Đoác, đan lát, … Những ngành nghề này gắn liền với điều kiện tự nhiên và những nguyên vật liệu tự nhiên, sẵn có của huyện nhà. Một thời gian hầu như người dân đã sinh sống và làm giàu từ chính những công việc thiết thực đó. Nhưng bước vào những năm đổi mới, dường như những ngành nghề truyền thống ngày một mai một đi và thậm chí không còn tồn tại nữa thay vào đó là những loại hình kinh doanh khác với xu thế phát triển xã hội hơn. Trong thời buổi hiện nay, các ngành nghề truyền thống mang trong mình những giá trị lịch sử to lớn, trước ngưỡng cửa giao lưu quốc tế thì đó còn là một cơ hội mang lại những giá trị kinh tế lớn hơn. Vì vậy, cần phải khôi phục các làng nghề, ngành nghề truyền thống. Bởi lẽ nó chính là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa truyền thống và hiện đại. Hơn thế nữa, những vật phẩm truyền thống trong con mắt của những người khách tứ xứ lả những tác phẩm vô cùng quý giá để nói lên những đặc trưng nào đó của những vùng miền mà họ đã đi qua. Lưu giữ những ngành nghề truyền thống là không chỉ với mục đích để thu hút khách du lịch, xuất khẩu ra nước ngoài để tăng nguồn lợi nhuận, tạo việc làm và tăng mức sống cho người dân mà còn là lưu giữ những quý báu, thiêng liêng của ông bà tổ tiên. Chính những lí do trên, huyện A Lưới, vùng đất tập trung đa dạng các đồng bào dân tộc anh em sinh sống, tồn tại về văn hóa phong phú và đậm đà bản sắc...thì việc làm này càng trở nên thiết thực hơn. Vì vậy huyện cần thực hiện các biện pháp sau: - Đào tạo những ngành nghề truyền thống cho lực lượng thanh niên đang thất nghiệp và đặc biệt là các chị em phụ nữ. - Huy động vốn vay để hỗ trợ cho việc mở rộng và khôi phục các ngành nghề đã trở thành máu thịt của người dân: đan lác, dzèng, thêu thùa... - Thực hiện các chương trình quảng bá các làng nghề ngành nghề truyền thống qua các phương tiện thông tin đại chúng như: internet, báo chí, truyền thanh truyền hình..., đặc biệt là qua lễ hội festival. - Chính quyền địa phương cần phải có những chính sách bảo trợ và bảo hộ các ngành nghề đang có nguy cơ bị mai một dần theo năm tháng. - Xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lí cải cách có hiệu quả về vấn đề khôi phục và phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống. - Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho công tác này được tiến hành và hoàn thiện cả chiều sâu và bề rộng. Một trong những nguyên nhân chung và cơ bản gây nên tình trạng thất nghiệp đó là vấn đề thiếu vốn. Thiếu vốn hiện nay không phải là vấn nạn của riêng một cá nhân hay tập thể nào mà là thực trạng chung của toàn xã hội. Giải quyết tốt vấn đề này là điều kiện cơ bản giải quyết hàng loạt các mắc xích trong cơ cấu việc làm nói riêng và tiền đề phát triển kinh tế nói chung. Trong những năm qua, tuy huyện A Lưới đã nhận được không ít sự hỗ trợ từ bên ngoài thông qua các tổ chức từ thiện và của nhà nước. Nhưng thực tế số vốn hỗ trợ đó quá thấp so với nhu cầu của huyện. Xuất phát từ yêu cầu vốn tạo điều kiện cho người lao động nói chung và những người thất nghiệp, thiếu việc làm nói riêng có thể tạo lập được việc làm và mở rộng sản xuất kinh doanh. Huyện cần phải tranh thủ tối đa mọi nguồn lực vốn được huy động trong nước cũng như ngoài nước. Song song với việc làm đó, cần phải thay đổi cơ chế cho vay một cách hợp lí tùy vào những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, như là thay đổi thời gian cho vay, không nên thu hồi vốn sớm, hoặc có những khoản cho vay khác nhau đối với những đối tượng khác nhau. Đồng thời huyện phải mở các lớp tập huấn, các chương trình cho người lao động có thể sử dụng vốn vay chất lượng và hiệu quả để tránh tình trạng không thể thu hồi vốn. Những việc làm này đang là giải pháp thiết thực trong hoàn cảnh và điều kiện của huyện A Lưới trong thời điểm hiện nay để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Tuy vốn thực sự là nguồn lực quan trọng trong tiến trình nâng cao nguồn nhân lực. Nhưng sẽ không hiệu quả nếu không có giải pháp đi cùng đó là tạo thêm việc làm cho người lao động. Đây là vấn đề không hề đơn giản, bởi nó cần một quá trình, một chặn đường chứ không phải là một hai ngày có thể giải quyết được. Huyện cần phải xây dựng những mô hình tạo việc làm thích hợp: - Phát triển kinh tế hộ gia đình. Tuy kinh tế hộ gia đình là một trong những thành phần kinh tế cơ bản ở huyện nhưng hiện tại vẫn chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức. Để phát triển thành phần kinh tế này, huyện cần tổ chức những chương trình để tôn vinh những gia đình điển hình làm kinh tế giỏi, không những để khuyến khích những hộ kinh tế này ngày càng phát triển mà còn tạo điều kiện cho những hộ khác học hỏi và rút kinh nghiệp cho mình. Đây là hoạt động phù hợp với khả năng và điều kiện của người dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. - Đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài hoặc tại chỗ. Đây là giải pháp đã được nhiều tỉnh trong nước cũng như một số quốc gia trên thế giới thực hiện và mang đến những kết quả tốt trong vấn để giải quyết việc làm cho người lao động. Giải pháp này tuy không phải là định hướng lâu dài nhưng giải quyết được những vấn đề trước mắt. Một phần người lao động có thể nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của mình. Đồng thời học hỏi kinh nghiệm ở bên ngoài để nâng cao tay nghề và trình độ đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn ở huyện trong tương lai. 3.2.2.2. Hoàn thiện công tác bố trí và quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ, đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng bộ, Mặt trân tổ quốc và các đoàn thể. - Công tác bố trí, quy hoạch và bồi dưỡng cán bộ chính là một phần trong việc sử dụng hiệu quả hơn những nguồn nhân lực có kinh nghiệm, có trình độ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên có tư duy đổi mới, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật cao, có phong cách làm việc khóa học, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới và hội nhập. Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tac đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo quản lý. Củng cố, nâng cao chất lượng về mọi mặt của hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Huy động mọi nguồn lực và tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tiếp tục triển khai sâu rộng Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn hệ thống chính trị và mỗi Đảng viên về việc “làm theo” tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với việc kiểm điểm, phê bình và tự phê bình, đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và Đảng viên cuối năm. - Kiện toàn bộ máy tổ chức, các bộ hoạt động chuyên trách của Mặt trận và các đoàn thể theo hướng tinh gọn. Mặt trận và đoàn thể làm nòng cốt trong xây dựng Đảng. Quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và kiện toàn đội ngũ cán bộ Mặt trân và các đoàn thể có phẩm chất, năng lực và kỹ năng, nghiệp vụ công tác vận động nhân dân. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh; bổ sung chế độ, chính sách đối với cán bộ Mặt trận và các đoàn thể, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới. 3.2.2.5. Tăng cường phát triển văn hóa, hợp tác giao lưu với những địa phương trong nước cũng như quốc tế Hợp tác giao lưu với các địa phương trong nước và quốc tế góp phần tăng cường tình cảm giữa nhân dân các địa phương, bên cạnh đó giúp cho việc học hỏi những tiến bộ, chia sẻ khó khăn, hợp tác và phát triển kinh tế- xã hội cũng như nhiều vấn đề khác mà các bên quan tâm. A Lưới có diện tích rộng và đường ranh giới giáp với nhiều huyện trong địa bàn tỉnh như Nam Đông, Hương Trà và giáp các tỉnh bên cạnh như Quảng Trị, Quảng Nam, có đường biên giới với huyện Kà Lùm và Sa Muội của Lào. Có các tuyến đường bộ thông suốt, đường 9, đường 42, đường Hồ Chí Minh và hai cửa khẩu với Lào chính là những điều kiện thuận lợi trong việc phát triển các mối quan hệ kinh tế-văn hóa- xã hội với các địa bàn lân cận. Chính vì thế, huyện A Lưới cần tranh thủ với các địa phương bạn hợp tác nhất là trong việc trao đổi những kinh nghiệm về phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường giao lưu. Tăng cường kêu gọi đầu tư nước ngoài từ các tổ chức quốc tế của các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs), sử dụng hiệu quả các nguồn đầu tư này để góp phần cải thiện đời sống dân cư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn. 3.2.2. Giải pháp ngắn hạn Bên cạnh các giải pháp mang tính chất lâu dài thì cần có những giải pháp ngắn hạn để giải quyết nhanh chóng những khó khăn trước mắt của huyện nhà, bên cạnh đó tạo ra nền tảng cho việc thực hiện định hướng dài lâu. Theo tôi, trong thời gian trước mắt cần chú trọng vào các giải pháp sau. 3.2.1.1. Chính sách thu hút cán bộ, giáo viên, y bác sỹ, cán bộ khuyến nông khuyến lâm .. từ vùng xuôi lên công tác lâu dài hoặc định cư tại A Lưới. Với một huyện vùng cao, có nhiều địa bàn ở những vùng xa, cách trở giao thông, đời sống kinh tế chưa phát triển thì luôn gặp vấn đề thiếu hụt cán bộ, nhất là các các bộ trong các ngành giáo dục, y tế và khuyến nông khuyến lâm ở các tuyến cơ sở. Để giải quyết tình trạng thiếu hụt lực lượng lao động ở các ngành yêu cầu cao này thì huyện nhà ngoài các hệ thống chính sách đáp ứng dài lâu thì cần các chính sách ngắn hạn. Trước tiên đó là các chính sách về ưu đãi cho những người đang công tác và công tác lâu năm trên địa bàn. Những người này có quá trình đóng góp cho huyện từ những lúc khó khăn ban đầu, họ là những tấm gương tiêu biểu cho những thế hệ sau nối tiếp truyền thống, đến những vùng sâu vùng xa, tham gia vào các hoạt động nâng cao đời sống kinh tế-xã hội. Bên cạnh đó cần có những chính sách bổ trợ thêm cho những cán bộ, giáo viên, y bác sĩ để nâng cao đời sống trong điều kiện khó khăn. Một khi chính sách đã được đảm bảo thì những lực lượng đạt yêu cầu sẽ an tâm lên công tác. Ngoài ra cần thực hiện chính sách kêu gọi những người trên địa bàn đã đi học ơ các nơi về đóng góp sức lực phát triển quê hương. Họ là những người con của vùng đất A Lưới, và luôn có tinh thần sẳn sàng đóng góp nếu được thỏa đáng. Liên kết với các trường, trung tâm đào tạo có chất lượng để họ có thể cung cấp một lượng lao động phù hợp lên địa bàn, vừa tạo công ăn việc làm, vừa nâng tầm chất lượng nhân lực chung trên địa bàn huyện. 3.2.1.2. Quy hoạch cán bộ thông qua công việc để lựa chọn, bố trí, sử dụng phát huy tốt năng lực nội tại của cán bộ, chuyên viên, lao động trong bộ máy Nhà nước và các tổ chức xã hội Quy hoạch cán bộ thông qua tuyển chọn, bố trí, sử dụng chính là việc sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực cán bộ sẳn có. Ngoài việc kêu gọi thêm lượng cán bộ mới thì cũng cần xem xét cơ cấu lại công việc cho phù hợp với năng lực. Đồng thời có những quy chế làm việc ngày càng chuẩn mực tạo ra môi trường làm việc chú trọng đến hiệu quả hơn. Có thể tham khảo mô hình làm việc, phương thức cải cách hành chính ở các địa phương khác để áp dụng phù hợp với huyện nhà. Những cán bộ Đảng viên hiện có là những người tiêu biểu qua những thử thách gian khó của huyện nhà những năm qua, cần được xem xét để bố trí vào những vị trí cần kinh nghiệm và bản lĩnh. Dùng lớp cán bộ đi trước để đào tạo lại hệ thống cán bộ mới trong việc bắt nhịp với tình hình địa bàn và công việc. 3.2.1.3. Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ am hiểu sâu về pháp luật; tri thức về quản lý kinh tế, quản lý hành chính, quản lý nhà nước Trong bối cảnh mới, lượng kiến thức ngày càng khổng lồ, phương pháp làm việc, tình hình kinh tế-xã hội có nhiều biến động thì việc cập nhật các tri thức mới trở thành yêu cầu bắt buộc. Do vậy, phải thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo bổ thức các kiến thức mới trong các lĩnh vực liên quan, nhất là các kiến thức mới trong quản lý, pháp luật cho cán bộ cấp cao, kiến thức chuyên môn cho những cán bộ chuyên môn. Tạo thành hệ thống học tập và tự học tập để không ngừng nâng cao năng lực bản thân cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Đẩy mạnh phong trào học tập và làm việc theo tấm gương Hồ Chí Minh. Cử cán bộ đi học tập tuyến trên và các địa phương tiến bộ, tạo các hạt mầm cán bộ tiên tiến, gây dựng các phong trào. Tóm lại, cần chú trọng trong ba yếu tố căn bản trong các giải pháp ngắn hạn, đó là bổ sung lực lượng từ lao động trình độ cao từ các nguồn trong và ngoài huyện thông qua chính sách thu hút và giữ chân; đào tạo tốt hơn lực lượng lao động hiện có, chú trọng vào lực lượng quản lý nhà nước và các co quan trọng yếu để tạo nền tảng cho các giai đoạn sau; bố trí lại hệ thống cán bộ theo hướng phù hợp với năng lực và tạo lớp kế cận, sử dụng hiệu quả nguồn lao động hiện có. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Huyện A Lưới là một huyện miền núi còn nghèo nàn lạc hậu, muốn rút ngắn quãng đường tiến tới thành công trong CNH, HĐH không còn con đường nào khác là phải huy động mọi nguồn lực một cách tối đa, trong đó yếu tố quyết định là tài nguyên con người, đặc biệt chú trọng đến chất lượng nguồn nhân lực, một nội dung mà huyện đang gặp nhiều khó khăn. Vì vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề trọng tâm và quan trọng của huyện trong hiện tại và tương lai để phục vụ cho sự nghiệp CNH HĐH. Qua khảo sát thực tế tại địa bàn thực tập cùng với việc tích cực tham khảo tài liệu, tôi đã phân tích, đánh giá những vấn đè trọng tâm của đề tài: Nâng cao chất lượng lao động trong tiến trình CNH HĐH ở huyện A Lưới và xin được kết luận ở một vài điểm sau: - Đề tài làm rõ những vấn đề về lí luận và thực tiễn của chất lượng nguồn nhân lực trong tiến trình CNH HĐH. Đồng thời đóng góp những kinh nghiệm nâng cao chất lượng lao động ở Việt Nam và một số nước trên thế giới làm tiền đề và bài học cho phát triển nguồn nhân lực ở huyện A Lưới. - Phân tích thực trạng nguồn nhân lực ở huyện A Lưới về nhiều phương diện và khía cạnh như: Điều kiện kinh tế xã hội của huyện, thực trạng sức khỏe lao động, trình độ văn hóa, giáo dục, mặt thái độ, đạo đức, tinh thần của lao động.Bên cạnh đó đề tài nêu bật những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển nguồn nhân lực ở huyện một cách cụ thể. Từ thực trạng về chất lượng nguồn lao động, đặc biệt là những hạn chế đã được đánh giá và phân tích, đề tài đã đưa ra những phương hướng nâng cao chất lượng lao động của huyện trong hiện tại và trong thời gian tới. Và đưa ra những giải pháp chủ yếu có tính thực tiễn và khả thi cao góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ cho sự nghiệp CNH HĐH ở huyện. 2. Kiến nghị Trên cơ sở tìm hiểu thực tế, quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài một cách tích cực và tâm huyết. Tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau: + Đối với tỉnh Thừa Thiên Huế Trong các tỉnh trên địa bàn thì huyện A Lưới được sự quan tâm rất đặc biệt. Tuy vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho huyện nâng cao chất lượng lao động và KHKT cần phải thực hiện các biện pháp sau: - Hỗ trợ huyện A Lưới khắc phục các tàn dư chiến tranh để lại như các vùng trũng dioxin, giúp giữ gìn sức khỏe người dân trên địa bàn. - Xây dựng mới cơ sở hạ tầng: Xí nghiệp, nhà máy hoặc những công trình dân sinh như điện đường trường trạm ở huyện, đặc biệt là ở các xã vùng sâu vùng xa tạo cho người dân có những điều kiện và môi trường thuận lợi để sinh sống và sản xuất kinh doanh đồng thời tạo thêm nhiều việc làm mới cho thanh niên. - Thực hiện các biện pháp có tính khả thi cao về giải quyết việc làm cho người lao động như: liên kết với các tổ chức để giải quyết vấn đề xuất khẩu lao động tại chỗ và nước ngoài, mở các cơ sở đào tạo nghề tập trung để nâng cao trình độ và chuyên môn kĩ thuật cho người lao động. - Tích cực huy động các nguồn vốn có thể từ chính phủ hoặc các tổ chức cá nhân để hỗ trợ cho những hoạt động liên quan đến vấn đề lao động và việc làm là vấn đề bức xúc hiện nay của huyện - Đẩy mạnh tốc độ đô thị hóa thị trấn và đặc biệt các xã bằng các chương trình, dự án hợp lí và khả thi nhằm đẩy mạnh cơ cấu chuyển dịch cơ cấu lao động, ngành nghề của huyện thích ứng với nhịp độ phát triển của tỉnh nói riêng và đất nước nói chung. + Đối với huyện A Lưới - Huyện cần thường xuyên cập nhật thông tin trong nước cũng như quốc tế để có thể vạch ra các chương trình, chính sách phù hợp với thời đại mới và tránh tình trạng tụt hậu. - Tích cực huy động mọi nguồn lực tối đa từ nhà nước và nhân dân để xây dựng các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề. Đồng thời liên kết với một số tổ chức có quy mô cấp tỉnh, cấp quốc gia để thành lập các trung tâm đào tạo, tư vấn và tuyển dụng việc làm. Liên kết với các địa phương khác để giải quyết vấn đề này - Thực hiện các chương trình tín dụng một cách hợp lí tùy vào từng đối tượng, cá nhân để cho vay với lãi suất ưu đãi. - Thường xuyên tổ chức các phong trào cho thanh niên để hạn chế tệ nạn xã hội và khơi gợi những giá trị truyền thống tốt đẹp cho thanh niên. Đồng thời đẩy mạnh chương trình XĐGN và kế hoạch hóa gia đình trong từng gia đình, thôn bản. - Đầu tư vào phát triển ngành nghề truyền thống, nâng tầm trở thành giá trị văn hóa du lịch vừa tạo công văn việc làm, vừa mang lại những mảng giá trị to lớn cho huyện nhà. - Xem phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm giúp giải quyết đại đa phần các vấn đề quan trọng khác, đồng thời chú trong chính sách nâng cao chất lượng lao động trên địa bàn, tạo sức dài lâu cho nền kinh tế huyện nhà.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNâng cao chất lượng lao động trong tiến trình CNH, HĐH ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.docx
Luận văn liên quan