PHẦN MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: THỊ TRƯỜNG DA - GIẦY THẾ GIỚI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM 7
1.1 Tình hình thị trường, đặc điểm và xu hướng phát triển của ngành Da - Giầy thế giới 7
1.1.1 Khái lược về thị trường Da giầy thế giới. 7
1.1.2 Đặc điểm ngành Da giầy thế giới 20
1.1.3 Xu hướng phát triển của ngành Da giầy thế giới. 22
1.2 Tiềm năng phát triển của ngành Da - Giầy việt nam 25
1.2.1 Vị trí của ngành Da – Giầy trong nền kinh tế Việt nam. 25
1.2.2 Những lợi thế và bất lợi của ngành Da - Giầy Việt nam. 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
30
2.1 Động thái phát triển ngành Da - Giầy trong những năm qua 31
2.1.1 Các nguồn lực ngành Da - Giầy Việt nam. 33
2.1.2 Cơ cấu ngành Da - Giầy Việt nam. 49
2.1.3 Tổ chức quản lý ngành Da - Giầy Việt nam. 53
2.1.4 Thị trường và khả năng cạnh tranh của ngành Da - Giầy Việt nam. 57
2.2 Đánh giá chung về thực trạng ngành Da - Giầy Việt Nam 63
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT 73
3.1 Bối cảnh mới - Những thách thức và cơ hội phát triển đối với ngành 73
3.1.1 Tình hình trong nước. 73
3.1.2 Tình hình quốc tế. 74
3.2 Những định hướng chủ yếu phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam 78
3.2.1 Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi hình thức gia công sang xuất khẩu trực tiếp. 78
3.2.2 Kết hợp sức mạnh của Doanh nghiệp với sự hỗ trợ của Nhà nước. 79
3.3 Các giải pháp nhằm phát triển ngành Da - Giầy Việt nam trong những năm tới. 81
3.3.1 Đào tạo nguồn nhân lực 82
3.3.2 Đầu tư phát triển sản xuất nguyên phụ liệu trong nước 83
3.3.3 Đầu tư phát triển khoa học công nghệ và đổi mới thiết bị 86
3.3.4 Đổi mới tổ chức quản lý 90
3.3.5 Củng cố và mở rộng thị trường 98
3.3.6 Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước 106
KẾT LUẬN 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
PHẦN MỞ ĐẦU
1- Sự cần thiết của đề tài
Quá trình đổi mới trên đất nước ta đã tác động sâu sắc và mạnh mẽ tới các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, tới các ngành kinh tế, ngành Công nghiệp Da - Giầy là một trong những ngành xuất khẩu có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân về nhiều mặt như: thu hút nhiều lao động trong xã hội và có điều kiện thuận lợi trong hợp tác Quốc tế, đồng thời có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu và tiềm năng xuất khẩu lớn thu nhiều ngoại tệ về cho đất nước.
Trong những năm qua, với những lợi thế của mình ngành Da - Giầy Việt nam đã tiếp nhận một cách có hiệu quả sự chuyển dịch của ngành Da - Giầy thế giới và đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên ngành còn bộc lộ nhiều nhược điểm như: Phát triển một cách tự phát, thiếu qui hoạch, mất cân đối dẫn tới hiệu quả mang lại chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Đặc biệt, khi chuyển sang cơ chế thị trường, hoà nhập với thế giới và khu vực, ngành Da - Giầy nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức lớn là làm thế nào để tồn tại và ngày càng phát triển trong cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế, sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội để xuất khẩu các mặt hàng của mình. Đó cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam, đặc biệt đối với ngành Da - Giầy, khi Trung Quốc một cường quốc về sản xuất da thuộc và giầy ra nhập WTO. Các nước trong khu vực hơn hẳn ta về trình độ công nghệ cũng như kỹ thuật, nên đòi hỏi sản phẩm của ngành sản xuất ra phải có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hợp với thị hiếu của người tiêu dùng và một điểm quan trọng hơn cả là phải hạ giá thành để tăng khả năng cạnh tranh trên trường Quốc tế. Nếu không khi hội nhập kinh tế khu vực và Quốc tế thì sản phẩm của ngành sẽ không có chỗ đứng ở ngay cả thị trường nội địa. Vì vậy, giá nhân công rẻ mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để cạnh tranh trên thị trường giầy và đồ da thế giới.
Trong bối cảnh đó, để tồn tại và phát triển vững chắc, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển ngành Da - Giầy trong điều kiện nền kinh tế hội nhập và phát triển là rất cần thiết, nhằm giúp ngành định hướng phát triển và khai thác có hiệu quả những nguồn lợi mà ngành công nghiệp mang lại.
Do đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài : "Ngành Da - Giầy Việt Nam trong tiến trình đổi mới " nhằm góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra cho ngành, để ngành Da giầy Việt nam ngày càng phát triển tương xứng với vị trí và tiềm năng của nó.
2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cho đến nay, ngoài Qui hoạch tổng thể phát triển ngành Da - Giầy đến năm 2010 của Bộ Công nghiệp - Tổng Công ty Da - Giầy mang tính chất quản lý.
Ngoài ra trong thời gian qua cũng có nhiều bài báo, bài viết đăng trên các tạp chí bàn về vấn đề này. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một đề tài nghiên cứu tổng thể về phát triển ngành Da - Giầy, những mặt còn tồn tại, những định hướng dài hạn và những giải pháp chiến lược.
Chính vì vậy, sau những đánh giá về thực trạng phát triển ngành Da - Giầy và phân tích những thách thức đối với ngành và cơ hội phát triển, luận văn sẽ cố gắng đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển không ngừng và nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
3- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Mục đích nghiên cứu là:
Từ việc làm rõ thực trạng phát triển ngành Da - Giầy hiện nay, những thách thức đối với ngành và cơ hội phát triển - luận văn đưa ra định hướng chiến lược và các giải pháp cơ bản để phát triển ngành Da - Giầy trong những năm tới.
4- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1-Đối tượng
Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu tình hình phát triển ngành Da - Giầy trong nền kinh tế thị trường Việt nam đang từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.
4.2 - Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình phát triển ngành Da - Giầy trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ nửa cuối thập niên 90 trở lại đây.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu mặt kỹ thuật, mà tập trung làm rõ các quan hệ kinh tế xã hội chi phối sự phát triển của ngành Da - Giầy.
5- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trong đó có các phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê toán học, phương pháp so sánh tổng hợp .
6- NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò và vị trí của ngành Da - Giầy trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Làm rõ thực trạng của ngành Da - Giầy Việt Nam, những thành công, những tồn tại trong phát triển ngành Da - Giầy trong những năm qua.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam trong những năm tới.
7- BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm ba chương.
CHƯƠNG 1: THỊ TRƯỜNG DA - GIẦY THẾ GIỚI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM
119 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3457 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngành da - Giầy Việt Nam trong tiến trình đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2000
2005
2010
Da
Triệu S/F
300,0
450,0
700,0
Giả da
Triệu Yard
40,0
60,0
90,0
Vải các loại
Triệu Yard
70.0
100,0
155,0
Đế giầy
Triệu đôi
244,0
370,0
550,0
Keo tổng hợp
Tấn
920,0
1.652,0
3.000,0
Phụ liệu
Tấn
16.350,0
41.325,0
98.960,0
Nguồn: Dự án qui hoạch tổng thể của ngành Da giầy đến 2010.
Về bước đi, bước đầu ngành giầy chỉ nên đầu tư cho thuộc da và sản xuất các loại nguyên phụ liệu như đế giầy ( đế ngoài, đế trong, đế lót), keo dán, các chi tiết bằng nhựa, kim loại (phụ liệu) hỗ trợ cho việc sản xuất và bảo quản giầy. Ngoài ra cần đầu tư nâng cao hơn nữa sản xuất khuôn mẫu.
Vải và gỉa da là nguyên liệu đáng kể trong sản xuất giầy và đồ da. So với các công dụng khác cũng như trong ngành may mặc, để làm giầy và hàng mềm, vải và giả da có những yêu cầu riêng. Những lĩnh vực này Việt nam còn yếu về kỹ thuật, vì vậy, bước đầu nên kêu gọi đầu tư nước ngoài bằng các hình thức liên doanh.
Hóa chất dùng trong cao su chiếm một lượng đáng kể, ở lĩnh vực này Việt nam chưa có đầu tư nghiên cứu sản xuất, trong thời gian tới phải học tập bước đi của ngành sản xuất nguyên phụ nước của các nước trong khu vực: kêu gọi đầu tư, chuyển giao công nghệ.
Vải để sản xuất giầy các loại, Ngành nên phối hợp với Tổng công ty Dệt may để tận dụng năng lực sản xuất của ngành này. Nhưng phải có kế hoạch cụ thể, và phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai ngành.
Bộ Công nghiệp và Hiệp hội Da giầy cần xây dựng ít nhất hai khu công nghiệp (1 ở phía Bắc, 1 ở phía Nam) để qui hoạch phát triển nguyên phụ liệu cho ngành Da giầy. Đồng thời phải đề nghị với Chính Phủ và các ngành hữu quan có những chính sách cụ thể ưu tiên, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực này. Hiệp hội Da giầy Việt nam sẽ là đầu mối tổ chức, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện qui hoạch này.
3.3.3 Đầu tư phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới thiết bị.
Khoa học - công nghệ luôn là khâu then chốt để phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật. Để đẩy mạnh công tác phát triển ngành Da giầy Việt nam một cách bền vững, lâu dài, để chuyển dần từ phương thức gia công sang mua bán trực tiếp, trong thời gian tới chúng ta cần chú trọng các giải pháp cơ bản về khoa học công nghệ và đổi mới máy móc thiết bị
* Về khoa học công nghệ
Dự kiến đến 2010, để đạt được các mục tiêu trong chiến lược phát triển ngành, vấn đề khoa học - công nghệ cần được sự quan tâm đồng thời các mặt sau:
- Công nghệ tự động hóa cả trong thiết kế và trong quá trình sản xuất giúp ngành rút ngắn khoảng cách và trình độ công nghệ sản xuất giầy, đồ da giữa Việt nam với các nước trong khu vực. Công nghệ tự động hóa còn giúp cho ngành sản xuất được nhiều mặt hàng chất lượng, có giá trị cao đáp ứng yêu cầu của thị trường trong vầ ngoài nước, tạo lợi thế cạnh tranh.
- Hiện nay nước ta đang có lợi thế về giá nhân công rẻ, đó là cơ hội cho công nghiệp da giầy phát triển hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, ta phải thấy ngay rằng lợi thế này kéo dài không đến hai thập kỷ như ở các nước Đông Nam á : Thái Lan, Malaixia, Singapo...Bởi vậy, chúng ta phải tiếp thu nhanh các công nghệ sản xuất, thiết kế giầy tiên tiến của thế giới để giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu, ở các khâu quyết định như: Cắt chặt nguyên liệu, gò ráp, thiết kế mẫu mốt, sản xuất đế giầy, sản xuất giầy da. Có như vậy mới đảm bảo tính cạnh tranh của sản phẩm ở các thị trường Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản.
Ngành Da giầy Việt nam từ nay đến 2010 vừa phải tiến hành hiện đại hóa công nghệ sản xuất giầy cổ truyền (thủ công), vừa áp dụng các công nghệ tiến bộ ở Tây Âu trên cơ sở một số máy có trình độ cơ giới hóa cao, có các bộ vi điện tử điều khhiển tự động ở các khâu tiết kiệm vật tư, nâng cao chất lượng sản phẩm. Mặt khác bước đầu áp dụng một số công nghệ cao từ một số modun trong các chương trình phần mềm thiết kế (CAD), trong điều khiển tự động các quá trình công nghệ (CAM), trong kiểm tra từng công đoạn (CAT), cũng như trong quản lý các cơ sở dữ liệu sản xuất kinh doanh. Tất cả các loại “ công nghệ nhiều tốc độ này” tùy theo điều kiện thực tế từng loại hình doanh nghiệp mà áp dụng thích hợp. Đảm bảo các nhu cầu cơ bản cho công nghệ nhiều trình độ được ứng dụng và chuyển giao.
* Phải gắn khoa học công nghệ với phát triển sản xuất:
Những quyết định về đầu tư phát triển các doanh nghiệp của các cấp phải được tính toán trên căn cứ khoa học. Cần có thể chế chung về vấn đề này. Hiện nay việc thẩm định dự án hoặc làm rất hình thức, hoặc rất kéo dài trì trệ. Tình trạng không bình thường hiện nay là các trường đại học, các viện nghiên cứu đang đứng ngoài cuộc thẩm định các đề tài và dự án R&D do thông tin không được đầy đủ về ngành nghề chuyên môn.
* Đầu tư cho khoa học và công nghệ :
Phải có các chính sách vĩ mô tạo điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp có các nguồn lực để phát triển các nghiên cứu triển khai, tiếp thu công nghệ và sáng chế công nghệ thiết thân với sự sống còn của các doanh nghiệp Da giầy Việt nam.
Đề nghị phần vốn Nhà nước, tức là vốn ngân sách dành cho việc củng cố tổ chức viện R&D da giầy, lập các xí nghiệp công ích và đưa công nghệ mới xử lý chất thải chống ô nhiễm môi trường. Trên thực tế, điều trước tiên là Nhà nước phải xem xét lại việc cấp vốn cho các dự án Nhà nước (kiểu đặt hàng) hướng về nhiệm vụ kinh tế - xã hội tầm dài hạn, trong đó có sản xuất hóa chất, nguyên vật liệu, máy móc, có các nhiệm vụ đặc biệt về xử lý chất thải chống ô nhiễm môi trường.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm đồng thời thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị hiếu, mẫu mốt, nhất là công nghệ cao thuộc về CAD/CAM, xây dựng hệ thống ISO 9000, ISO 14000...
Hỗ trợ đầu tư cho nghiên cứu, dự báo thị trường: Bộ công nghiệp, Hiệp hội da giầy Việt nam cần phối hợp hình thành một tổ chức chuyên nghiên cứu, dự báo về cung, cầu, giá cả, mẫu mốt, xu hướng thời trang về đồ da giầy dép trên thị trường, để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp thuộc da, sản xuất nguyên vật liệu giầy định hướng và điều chỉnh sản xuất phù hợp với tiêu dùng trên thị trường thế giới cũng như trong nước. Đồng thời kết hợp với Cục xúc tiến thương mại làm cầu nối cho các doanh nghiệp ký kết các hợp đồng sản xuất và cung ứng sản phẩm, trong điều kiện các doanh nghiệp Việt nam chưa đủ điều kiện và tiềm lực để xây dựng kênh lưu thông, phân phối trực tiếp.
* Về đổi mới máy móc thiết bị
Giải pháp này không tách rời giải pháp chuyển giao công nghệ. Để thực hiện được qui hoạch phát triển khoa học công nghệ, chúng ta phải đổi mới công nghệ theo hướng kết hợp sử dụng các thế hệ máy móc thiết bị trung bình sử dụng nhiều lao động (máy Đài Loan, Hàn Quốc) với việc tiếp cận các thế hệ máy móc hiện đại, tự động hóa cao ở các nước Tâu Âu (Italia, Pháp, Đức).
ở lĩnh vực này, chúng ta cần chú ý nâng cao trình độ thẩm định công nghệ, thẩm định chất lượng máy móc thiết bị nhập khẩu cho các cán bộ giám định chất lượng kỹ thuật.
Bước đi đổi mới máy móc thiết bị, được xác định như sau:
- Giai đoạn 2000 -2005: giai đoạn này do điều kiện vốn đầu tư của ta có hạn, lao động còn rẻ, trình độ công nhân còn hạn chế, nên tạm thời chúng ta phải sử dụng các thế hệ máy trung bình, rẻ tiền khấu hao nhanh, dễ sử dụng của Đài Loan, Hàn Quốc là chính. Nhưng ngay từ bây giờ, chúng ta phải chú trong đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao để tiếp cận dần với các thế hệ máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại, trình độ tụ động hóa cao. Nên đầu tư một vài doanh nghiệp có công nghệ hiện đại ở cuối giai đoạn này.
- Giai đoạn 2005 -2010: Giai đoạn này lợi thế về lao động rẻ đã mất dần, xuất hiện hàng loạt yêu cầu đổi mới máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Lúc này hầu hết các máy móc thiết bị thế hệ cũ đã hết khấu hao. Ta tiến hành đổi mới máy móc thiết bị có lựa chọn, trước hết là những khâu quan trọng quyết định tới năng suất lao động sau đó đến các khâu khác. Phấn đầu đảm bảo từ 30 -50% các doanh nghiệp được đổi mới thiết bị hiện đại trong giai đoạn này.
- Giai đoạn 2010 trở đi: Để cạnh tranh tồn tại và phát triển buộc tất cả các doanh nghiệp phải đổi mới các laọi máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ cao, trình độ tự động hóa cao, sử dụng ít lao động.
3.3.4 Đổi mới tổ chức quản lý
- Xác định vai trò của Hiệp hội da giầy trong một số lĩnh vực chủ yếu.
Chức năng xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển Ngành.
Cần có một cách nhìn tổng thể trong việc định hướng phát triển Ngành và phân công sản xuất, không bó hẹp trong phạm vi các doanh nghiệp trong cùng ngành kinh tế - kỹ thuật, trong các thành phần kinh tế, các miền đất nước, trên cơ sở đó xây dựng các vùng trọng điểm tập trung về da - giầy.
Rõ ràng là, công việc này không thể ai khác, ngoài người đại diện cho ngành là Hiệp hội Da giầy Việt nam thực hiện.
Trong quá trình xây dựng chiến lược và qui hoạch phát triển, cần có sự thống nhất cao giữa các bộ, ngành Trung ương trong việc phát triển các nguồn nguyên liệu và đặc biệt là với các địa phương trong việc đầu tư mới vào các cơ sở sản xuất.
Sau khi qui hoạch được phê duyệt, cần có phổ biến rộng rãi cho các ngành, các cấp. Có như vậy, việc thực hiện qui hoạch mới đạt hiệu quả cao. Hiện nay, thực hiện lộ trình cải cách Doanh nghiệp Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp của ngành, giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, thì các địa phương lại tiếp tục đầu tư các doanh nghiệp mới bằng chính ngân sách của địa phương. Tình trạng này xẩy ra đã phá vỡ qui hoạch phát triển chung của Ngành, đồng thời gây nên sự dư thừa năng lực, lãng phí của cải vật chất của xã hội.
Để khắc phục tình trạng này, cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Trong khi chiến lược và qui hoạch phát triển một số ngành công nghiệp trọng điểm đã được xây dựng đang chờ Chính Phủ phê duyệt thì qui hoạch phát triển công nghiệp các vùng cần phải nhanh chóng được xây dựng. Và từ đó, cùng với qui hoạch phát triển các ngành, qui hoạch phát triển công nghiệp của vùng sẽ là định hướng quan trọng cho việc phát triển công nghiệp của các địa phương.
- Quy hoạch phát triển công nghiệp của các địa phương chỉ được UBND tỉnh ( thành phố) phê duyệt khi có ý kiến của Bộ Công nghiệp và tốt nhất là tham khảo ý kiến của các ngành công nghiệp trọng điểm.
- Mặc dầu quy hoạch đã được phê duyệt, song trong quá trình triển khai thực hiện sẽ có điều chỉnh. Do vậy, trước khi các địa phương phê duyệt một dự án đầu tư mới, cần tham khảo ý kiến của các ngành kinh tế - kỹ thuật liên quan, để tránh các sự cố kiểu như xi măng lò đứng, mía đường....đã từng xảy ra.
Chức năng điều chỉnh mà không điều hành.
Hiện nay, các doanh nghiệp thành viên của Tổng Công ty hiện đang hoạch toán độc lập và tự chủ về tài chính. Với chức năng của mình, Tổng công ty sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của từng doanh nghiệp thành viên mà quản lý theo hướng tăng quyền chủ động về sản xuất kinh doanh cho các đơn vị cơ sở, nhưng có trách nhiệm điều chỉnh để tăng tốc độ tích tụ tập trung cho Tổng công ty để từng bước hình thành một tập đoàn kinh tế mạnh. Tuy nhiên, thời gian qua ở hầu hết các Tổng công ty được thành lập theo quyết định 90 và 91/CP của Chính phủ, việc quản lý tài chính ở dưới dạng: Nhà nước giao vốn cho Tổng công ty và Tổng công ty lại giao vốn cho các đơn vị thành viên. Các đơn vị thành viên tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của doanh nghiệp mình. Việc điều động vốn giữa các đơn vị là rất khó khăn, chủ yếu dưới dạng hình thức thương lượng, thỏa thuận giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên. Điều đó cản trở rất lớn cho việc huy động vốn cho một mục tiêu định sẵn. Qua đó, có thể thấy thời gian vừa qua Tổng công ty được giao nhiệm vụ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu của tất cả các thành viên thuộc Tổng công ty. Trong thực tế, điều đó chưa thể hiện được không chỉ với các thành viên độc lập mà còn với cả thành viên hạch toán phụ thuộc. Tổng công ty mới chỉ là “phép cộng” chứ chưa thực sự tổng hợp sức mạnh của các doanh nghiệp thành viên.
Chức năng tham mưu của các ban thuộc Tổng công ty chưa được thể hiện rõ, còn nặng về thu thập và tổng hợp số liệu từ các doanh nghiệp thành viên, sự phối hợp chưa được chặt chẽ và kịp thời. Điển hình là Công ty Giầy Hiệp Hưng là thành viên của Tổng công ty - từ chỗ là một công ty ăn nên làm ra, có thời điểm thu hút gần 6000 công nhân đến nay chỉ còn khoảng 1800 công nhân. Trong 3 năm qua, sản xuất kinh doanh không có hiệu quả. Trong đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến tình trạng làm cho sản xuất của công ty giảm sút, kinh doanh không hiệu quả, dẫn tới thua lỗ, tình hình tài chính mất cân đối nghiêm trọng. Nguyên nhân cụ thể như sau: Do quản lý điều hành kém, chi tiêu bất hợp lý, đầu tư tràn lan, không lường hết sự biến động của thị trường thế giới, dẫn đến các nhà máy mới xây dựng đều có sản lượng thấp hơn sản lượng và doanh thu hòa vốn. Các dự án đã làm xong và đưa vào sử dụng đều không huy động hết công suất (huy động được 61,5%).
Công tác phối hợp hỗ trợ trong công tác thị trường giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên còn quá ít và không thường xuyên. Tác dụng chỉ đạo công tác nhiên cứu khoa học công nghệ, môi trường từ phía Tổng công ty đối với các doanh nghiệp chưa thiết thực phục vụ sản xuất kinh doanh...Có thể nói, vai trò, tác dụng của Tổng công ty trong hoạt dộng xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp thành viên còn quá mờ nhạt, các doanh nghiệp vẫn “tự ai nấy lo”.
Trên đây là những bất cập đã xẩy ra đối với Tổng công ty da giầy và cũng là bài học kinh nghiệm để Hiệp hội da giầy và các doanh nghiệp da giầy Việt nam rút kinh nghiệm tránh những sai lầm đáng tiếc xẩy ra làm lãng phí của cải, mất việc làm của người lao động, nảy sinh các vấn đề xã hội đi kèm.
- Các điều chỉnh về thị trường và kế hoạch sản xuất.
+ Xác định chiến lược sản phẩm toàn ngành và có những điều chỉnh phù hợp cho từng giai đoạn: Do nắm được thông tin và có khả năng thiết kế thời trang và sáng tạo sản phẩm mới nên Hiệp hội có vai trò điều chỉnh chiến lược sản phẩm của ngành trong từng giai đoạn cụ thể. Đặc biệt, khi thâm nhập thị trường mới, Hiệp hội sẽ lựa chọn một vài doanh nghiệp có khả năng cùng tham gia và chỉ khi chất lượng ổn định mới tiếp tục mở rộng sản xuất sang các doanh nghiệp khác. Làm như vậy tránh được hiện tượng khi xuất hiện nhu cầu mới, mọi doanh nghiệp đổ xô vào khai thác, dẫn tới tình trạng có doanh nghiệp do chưa đủ năng lực lại phải đầu tư, dẫn đến hiện tượng dư thừa năng lực, hoặc các doanh nghiệp tự cạnh tranh nhau vô tổ chức, dẫn đến làm thua thiệt cho ngành, cho đất nước.
- Tăng cường hợp tác trong ngành thông qua Hiệp hội Da giầy Việt nam.
Đây là mối quan hệ không bị ràng buộc bởi các qui định về tổ chức hành chính. Thực tế sự hợp tác giữa các doanh nghiệp đã hình thành từ lâu và ngày càng đa dạng phong phú hơn.
Song để các hoạt động hợp tác đi vào nề nếp, thu hút được sự tham gia của mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần thông qua một tổ chức theo kiểu hiệp hội.
Hiện nay, Hiệp hội Da giầy Việt nam hoạt động với sự tham gia của hơn 100 doanh nghiệp, đại diện cho 70% năng lực sản xuất toàn ngành. Trong thời gian vừa qua, hoạt động của Hiệp hội, mà nòng cốt là các doanh nghiệp quốc doanh, đã thu được một số kết quả tốt. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn của các hội viên, Hiệp hội đã kiến nghị với Chính phủ một số giải pháp và chính sách nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của ngành phát triển tốt hơn, kể cả chính sách với người lao động. Hiệp hội Da giầy Việt nam cũng là đầu mối xúc tiến các quan hệ hợp tác Quốc tế, hỗ trợ kỹ thuật - công nghệ, đào tạo, cung cấp các thông tin chuyên ngành tới các doanh nghiệp hội viên và các doanh nghiệp khác trong ngành nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành.
Hiện nay Hiệp hội Da giầy Việt nam là thành viên của Hiệp hội các nhà sản xuất giầy khu vực Châu á (bao gồm các hiệp hội thành viên: Hongkong, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philipin, Hàn Quốc, Nhật, ấn Độ và Việt nam). Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh hoạt động của Hiệp hội, không dừng lại ở việc tập hợp và kiến nghị các khó khăn mà phải đẩy mạnh sự hợp tác, liên kết, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin trợ giúp kỹ thuật.
- Tăng cường hoạt động thương mại quốc tế.
Ngành Da giầy Việt nam, tuy đã có quan hệ với hơn 200 công ty của trên 40 nước trên thế giới, song mối quan hệ đó phần lớn chỉ là quan hệ song phương của từng doanh nghiệp với khách hàng mà chủ yếu là các doanh nghiệp nước ngoài đã chủ động tìm đến doanh nghiệp Việt nam. Trong thời gian tới, ngành Da giầy Việt nam cần chủ động mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, tham gia vào các Hiệp hội Da giầy quốc tế. Thông qua đó ngành sẽ có điều kiện mở rộng thị truờng, tham gia tốt hơn vào sự phân công hợp tác quốc tế, giao lưu học hỏi thêm kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới.
* Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000:
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa và hội nhập, với xu hướng tòan cầu hóa nền kinh tế thì việc hội nhập vào thị trường da giầy quốc tế là xu thế tất yếu đối với ngành Da giầy Việt nam. Vì vậy việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thương trường quốc tế là yếu tố sống còn đối với mỗi doanh nghiệp Da giầy xuất khẩu.
Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 sẽ giúp các doanh nghiệp kiểm soát và nâng cao được chất lượng sản phẩm, nâng cao uy tín của công ty trên thương trường. Điều này thực sự quan trọng nhất khi ta chuyển từ phương thức gia công sang phương thức mua bán trực tiếp. Đây là hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm tiên tiến được hầu hết các nước trên thế giới thừa nhận và áp dụng. Tiêu chuẩn ISO 9000 đòi hỏi yêu cầu đối với một công ty về các mặt chính sách chất lượng của công ty, hệ thống hồ sơ, thủ tục quy định chi tiết trình tự việc kiểm soát chất lượng ở từng khâu, từng công đoạn trong các quá trình từ thiết kế - sản xuất - bao gói - giao hàng. ISO 9000 quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của từng bộ phận, từng người trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giúp công ty quản lý được toàn bộ quá trình sản xuất, kiểm soát được chất lượng sản phẩm.
ISO 9000 giúp doanh nghiệp thiết lập đội hình quản lý kiểm tra chất lượng sản phẩm đủ mạnh tại doanh nghiệp. Bao gồm: giáo dục, trang bị kiến thức, các văn bản, tiêu chuẩn cần thiết để đội hình này thực thi nhiệm vụ được thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Đây là cả một hệ thống làm việc không sai lỗi, bao gồm từ khâu chuẩn bị ( từ thiết kế - nguyên vật liệu đầu vào) đến đầu ra sản phẩm. Tất cả đều phải được tổ chức giám sát công nghệ, kiểm tra giám sát trong quá trình đến kiểm tra đánh giá sản phẩm cuối cùng để không có sản phẩm có khuyết tật ra thị trường.
Để rút ngắn khoảng cách về chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Da giầy Việt nam với các nước xuất khẩu sản phẩm cùng loại, nhất là nước có công nghệ tiến tiến; để sản phẩm hàng hóa được chấp nhận trong quá trình lưu thông tự do thì sản phẩm phải thỏa mãn yêu cầu của mọi thị trường mà không cần thị trường đó kiểm tra lại. Muốn hòa nhập được điều này, chúng ta phải thiết lập một hệ thống phòng thử nghiệm, tiêu chuẩn, các tổ chức chứng nhận, chuyên gia đánh giá và bản thân các tổ chức này phải hoạt động theo những nguyên tắc và tập quán được các nước liên quan thừa nhận.
ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn quy định các chuẩn mực của hệ thống quản lý chất lượng quốc tế. Một khi có áp lực thị trường thì các doanh nghiệp sẽ buộc phải đăng ký xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000. Có điều, nếu lãnh đạo các doanh nghiệp “ nhìn xa trông rộng” thì nên bắt đầu càng sớm càng tốt vì cuộc chơi chất lượng đã được báo trước. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong kinh doanh cũng như trong xuất khẩu bởi vì họ tốn khá nhiều tiền và chất xám quản lý để được chứng nhận tiêu chuẩn.
Mặt khác, khi xây dựng hệ thống quản lý chất lượng cần tránh: động cơ chưa đúng, chưa xác định được vai trò chủ đạo của mình trong việc thực hiện dự án, hiểu sai về vai trò của chuyên gia tư vấn nên thường phó thác cho họ trong xây dựng ISO 9000, hoặc coi ISO 9000 như một cơ hội để cải tổ doanh nghiệp, rập khuôn hệ thống chất lượng của một công ty khác, nôn nóng trong quá trình xây dựng ISO, coi nguồn tài chính là đầu tư duy nhất trong xây dựng ISO 9000, coi chi phí xây dựng ISO 9000 là quá đắt che lấp mất lợi ích to lớn của nó.
Hiện nay các doanh nghiệp da giầy Việt nam được nhận chứng chỉ ISO 9000 còn rất ít. Vì vậy, ngay từ lúc này các doanh nghiệp da giầy Vệt nam cần có kế hoạch tìm hiểu và bắt tay ngay vào việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9000 để đạt được các yêu cầu khi hội nhập. Phấn đấu đến năm 2005 có 70 - 80 % các doanh nghiệp được cấp chứng chỉ. Để đạt được điều đó, Nhà nước nên thành lập ban tư vấn xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại Hiệp hội da giầy Việt nam để giúp các doanh nghiệp.
Đồng thời ngành da giầy Việt nam phải có các giải pháp đẩy mạnh toàn cầu hóa một số nhãn hiệu giầy dép Việt nam bằng cách tập trung thời gian, tiền bạc và tích lũy kiến thức, kinh nghiệm tiếp thị cho nó. Mặt khác phải đầu tư mạnh để đào tạo các nhà tạo mốt, nối kết họ với các nhà sản xuất. Cần dành tỉ lệ kinh phí thích đáng trong quảng cáo tiếp thị các mẫu mốt mới để kích thích tiêu dùng và càng làm tăng được nguồn tài chính cho công việc tạo mẫu.
* Các yêu cầu đối với Hiệp hội Da giầy Việt nam.
- Cần phải có sự tuyên truyền, hướng dẫn cho các doanh nghiệp về những qui định mới có liên quan đến thị truờng thế giới.
- Phải tăng cường cung cấp thông tin phục vụ sản xuất kinh doanh, thông tin về thay đổi nhu cầu sản phẩm, xu hướng cạnh tranh, thông tin về các kênh phân phối.
- Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức và tham gia Hội chợ triển lãm chuyên ngành, tổ chức các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài.
- Giúp đỡ các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện các kế hoạch tiếp thị xuất khẩu, xây dựng thương hiệu cho riêng mình nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường thế giới.
* Khuyến khích xây dựng và phát triển thương hiệu.
Trong cơ chế thị trường của thời kỳ hội nhập, Thương hiệu được coi là một tài sản quí gía cho các doanh nghiệp và là một công cụ cạnh tranh trên thị trường. Nhiều công ty hiện nay đã và đang phấn đấu nâng cao sức cạnh tranh bằng cách không ngừng củng cố nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hóa mẫu mã. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp ngày càng nhận ra một nhu cầu bức bách là phải có thương hiệu mạnh để củng cố vị trí và sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp da giầy Việt nam nên tự xây dựng chỗ đứng cho riêng mình. Đã có một số doanh nghiệp ý thức tự lực xây dựng thương hiệu như: Bita’s, Biti’s...Và cũng có nhiều doanh nghiệp ý thức được điều này nhưng không có lực. Do vậy, Nhà nước cần có chính sách, chế độ thích hợp để hỗ trợ một số doanh nghiệp giầy có uy tín đẩy mạnh thương hiệu hàng hóa của họ trên trường quốc tế.
3.3.5 Củng cố và mở rộng thị trường.
Xuất khẩu là lối ra của nền kinh tế, bởi xuất khẩu chẳng những là một kênh tiêu thụ lớn (khi kim ngạch xuất khẩu chiếm gần 50% GDP và 1/4 tổng giá trị sản xuất) mà còn là tiền đề để nhập khẩu thiết bị - công nghệ kỹ thuật, nhập nguyên nhiên vật liệu, cải thiện cán cân thanh toán, bình ổn tỉ giá góp phần tăng trưởng kinh tế chung.
Kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc vào thị trường, do đó có thể thấy thị trường là yếu tố quyết định tới việc tồn tại và phát triển của tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu, mà cả đối với các nhà hoạch định chính sách vĩ mô. Thị trường quyết định sản xuất, chứ sản xuất không thể quyết định được thị trường. Vì vậy, ngành Da giầy Việt nam muốn phát triển một cách vững chắc và có hiệu quả đòi hỏi phải nắm bắt được nhu cầu thị trường, có thị trường ổn định, vững chắc và ngày càng mở rộng, theo hướng sau:
- Đẩy mạnh công tác tiếp thị, từng bước giảm trung gian tiến tới xuất khẩu trực tiếp.
- Củng cố và phát triển vững chắc thị trường EU.
- Nhanh chóng tiếp cận, thâm nhập thị trường Mỹ.
- Khôi phục thị trường truyền thống SNG và các nước Đông Âu.
* Đẩy mạnh công tác tiếp thị, từng bước giảm trung gian tiến tới xuất khẩu trực tiếp.
Tiếp thị là một công tác quan trọng trong phân phối sản phẩm, đã có một thời gian dài nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế cấp phát và giao nộp nên hoạt động tiếp thị là không cần thiết. Những năm gần đây hoạt động này là được các doanh nghiệp quan tâm hơn. Hầu hết các doanh nghiệp đã thấy được tầm quan trọng của công tác này được hoạt động và phát triển đa dạng. Các phương thức tiếp thị hiện nay là: Cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng...Song cũng chính từ những hoạt động theo kiểu “trăm hoa đua nở” này mà hoạt động tiếp thị của các doanh nghiệp Việt nam nói chung và các doanh nghiệp Da giầy nói riêng không mấy hiệu quả, thậm chí còn rất tốn kém do sự phát triển một cách tự phát và manh mún.
Trong thời gian tới, hoạt động tiếp thị cần phải được tiến hành theo các phương pháp sau:
- Thứ nhất, hoạt động tiếp thị phải được tiến hành đồng thời ở cả 3 cấp: Cấp doanh nghiệp, cấp ngành và cấp Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp: Hoạt động tiếp thị phải được coi trọng và trở thành một công tác không thể thiếu trong hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần thành lập phòng hay một tổ chuyên trách về thị trường.
Hoạt động của nhóm thị trường chủ yếu là: nắm bắt những thay đổi về nhu cầu trong khúc thị trường mà doanh nghiệp đảm nhận, để xác định một cơ cấu sản phẩm hợp lý. Theo dõi các đối thủ cạnh tranh và có những phản ứng linh hoạt trong chiến lược điều chỉnh giá; chuẩn bị cho các hoạt động khuếch trương bao gồm quảng cáo giới thiệu sản phẩm và có các chính sách khuyến mại thích hợp mỗi khi có sản phẩm mới; tổ chức mạng lưới tiêu thụ, có các mối liên hệ với các khách hàng lớn ( tổ chức hội nghị khách hàng)...
Hạn chế lớn nhất của hoạt động tiếp thị ở các doanh nghiệp hiện nay là kinh phí. Chính vì vậy, dù doanh nghiệp có làm tốt đến mấy cũng chỉ đủ lực quanh quẩn với thị trường trong nước mà không thể vươn ra thị trường nước ngoài. Đảm nhận thị trường quốc tế phải là cấp ngành, cấp Hiệp hội.
Đối với cấp ngành: Nhờ uy tín trên thị trường quốc tế, Hiệp hội Da giầy Việt nam sẽ làm đầu mối tiếp thị cho các doanh nghiệp trong ngành, không phân biệt thành phần kinh tế, dưới các hình thức: Tổ chức các cuộc xúc tiến mậu dịch ở nước ngoài với nhiều qui mô khác nhau, tùy theo khả năng tham gia của các doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, các doanh nghiệp có thể ủy thác cho Hiệp hội trong việc chào hàng, mua phụ liệu và kể cả việc đàm phán ký kết hợp đồng theo những khung giá đã được thỏa thuận sẵn. Phí ủy thác sẽ được thỏa thuận giữa Hiệp hội và các doanh nghiệp trên cơ sở bảo đảm hoàn vốn cho các hoạt động. Hiệp hội trên cơ sở nắm vững nguồn lực sản xuất, thiết bị, năng lực của các doanh nghiệp trong nước, sẽ giới thiệu các bạn hàng nước ngoài và các đơn hàng phù hợp, bảo đảm uy tín và quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước.
Làm tốt được công tác này sẽ từng bước xóa bỏ được hiện trạng tranh hợp đồng, phá giá gia công đang diễn ra hiện nay giữa các doanh nghiệp.
Cấp Nhà nước: Cần nhanh chóng tổ chức mạng lưới thông tin kinh tế toàn quốc, không chỉ cho các doanh nghiệp da giầy, mà cho toàn bộ hệ thống các doanh nghiệp trên toàn quốc ( mỗi ngành có một Website riêng) , trên cơ sở khai thác tốt mạng Internet và các thông tin từ các cơ quan thương mại của Việt nam ở nước ngoài. Làm như vậy, đầu tư ban đầu có thể lớn song là đầu tư tập trung, tạo cơ sở cho việc thiết kế hệ thống mạng diện rộng sau này. Từ đó, các doanh nghiệp có thể kết nối vào mạng này mà không phải đầu tư nhiều, tránh được hiện tượng đầu tư manh mún, nhỏ lẻ ở từng ngành...
Nhà nước cần có một chế độ qui định chặt chẽ việc truy nạp thông tin định kỳ của các cơ quan thương vụ của Việt nam ở nước ngoài để cho thông tin trên mạng được cập nhật, đồng thời qui định các doanh nghiệp truy cập thông tin trên mạng cũng có trách nhiệm cung cấp các thông tin cơ bản về mình để giúp cho các cơ quan tổng hợp, các cấp có điều kiện xử lý thông tin và đưa ra những quyết định chính xác, kịp thời.
Về lâu dài, cần phối hợp tốt hoạt động của các cơ quan thương vụ, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt nam và các ngành công nghiệp trong việc cung cấp thông tin kinh tế quốc tế cho doanh nghiệp.
- Thứ hai: Hoạt động tiếp thị phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.
ở giai đoạn này, hoạt động tiếp thị không chỉ dừng lại ở các hoạt động truyền thống là giới thiệu và bán sản phẩm mà phải tiến hành một bước xa hơn nữa, đó là các doang nghiệp tự xây dựng cho một một trang Web site riêng và xây dựng thương hiệu sản phẩm cho riêng mình.
Với quan điểm tiếp thị như vậy, hoạt động thiết kế sản phẩm và tạo mẫu thời trang phải được đề cao và đầu tư đúng mức và phải được tiến hành cả các cấp cơ sở và cấp ngành.
ở cấp cơ sở, các doanh nghiệp dựa vào đội ngũ kỹ sư công nghệ, kỹ sư thiết kế mẫu trên cơ sở các sản phẩm chiến lược của mình, sẽ tự thiết kế các sản phẩm mới phù hợp với khu vực thị trường mà mình đang nắm giữ.
- Thứ ba, tiếp cận và đẩy mạnh công tác marketing hiện đại, từng bước giảm trung gian tiến tới xuất khẩu trực tiếp.
Hiện nay, đối với ngành Da giầy Việt nam, phương thức gia công qua các đối tác trung gian như: Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Thái Lan...và một số công ty thương mại ở Châu Âu có văn phòng đại diện ở Việt nam vẫn chiếm tới 70%, nhiều khi còn qua 2-3 lần trung gian. Chỉ có một số ít doanh nghiệp làm được trực tiếp với khách hàng, nhưng tỉ lệ rất nhỏ (khoảng 20 - 30 %, chủ yếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Như vậy để đến tay người tiêu dùng phải qua 4-6 khâu trung gian nên giá sản xuất ( xuất bán) rất thấp.
Vì vậy, trong thời gian tới thông qua sự hợp tác với các bạn hàng, các doanh nghiệp cần chú ý tiếp cận, xâm nhập và tìm hiểu thị trường da giầy thế giới, nắm bắt qui luật vận động của thị trường để điều chỉnh cơ cấu đầu tư, nhịp độ phát triển các mặt hàng cho phù hợp, từng bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường trực tiếp mà không phải thông qua đối tác trung gian. Phấn đấu để sản phẩm đến tay ngừơi tiêu dùng chỉ phải qua 3 đến 4 khâu. Phải làm được như vậy thì mới nâng cao được hiệu qủa kinh tế cho ngành và chúng ta mới nắm bắt được các thông tin về mẫu mốt, thị trường, khách hàng một cách nhanh chóng, kịp thời.
Để làm được điều đó trước hết các doanh nghiệp phải đẩy mạnh công tác quảng cáo tiếp thị, phải mạnh dạn đầu tư, tham gia các hội chợ triển lãm da giầy quốc tế và khu vực. Thông qua đó để học hỏi, tiếp cận khách hàng và tự giới thiệu doanh nghiệp mình, sản phẩm của mình ( ví như muốn bán hàng thì phải giới thiệu cho khách hàng xem hàng đã). Tuy nhiên hoạt dộng này đòi hỏi chi phí rất tốn kém và hiệu quả là lâu dài chứ không phải ngay lập tức. Nên không phải tự doanh nghiệp nào cũng tự làm được. Lúc này đòi hỏi vai trò của Hiệp hội Da giầy Việt nam đứng ra thu gom các đầu mối, tổ chức chung để giảm chi phí cho các đơn vị tham gia. Đồng thời các doanh nghiệp phải khai thác triệt để các phương tiện thông tin, quảng cáo, marketing hiện đại như: Website, e - mail, thương mại điện tử, internet....Đây là các phương tiện rất phổ biến và quen thuộc ở các nước phát triển. Nếu chúng ta biết khai thác tốt sẽ rất có hiệu quả mà chi phí ít.
Tiếp đến các doanh nghiệp phải đầu tư mạnh vào khâu thiết kế mẫu mốt. Chỉ khi nào chúng ta chủ động thiết kế được mẫu mốt, đáp ứng yêu cầu thị trường, thì chúng ta mới làm chủ được thị trường. Khi mà chúng ta còn phụ thuộc vào mẫu mốt của các đối tác trung gian thì buộc chúng ta phải nhận đơn hàng qua các đối tác trung gian. Để phát triển khâu thiết kế mẫu mốt đòi hỏi một loạt các giải pháp đồng bộ (giải pháp này sẽ được trình bày kỹ ở biện pháp sau).
Đồng thời ngành Da giầy phải nhanh chóng qui hoạch và có biện pháp khuyến khích thúc đẩy phát triển nguyên phụ liệu cho ngành giầy. Khi chúng ta có sẵn nguyên vật liệu trong nước thì chúng ta mới chủ động phát triển và đa dạng mẫu mã được (vật tư càng phong phú thì mẫu mã càng phong phú), và mới có điều kiện để hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, rút ngắn thời gian sản xuất, chủ động sản xuất để giao hàng đúng hạn. Đó là điều kiện quan trọng để chúng ta làm chủ thị trường.
Trong hoạt động thị trường cần xây dựng chiến lược tổng thể, được phát triển theo từng giai đoạn, trong đó:
+ Xác định rõ thị trường cơ bản cần chiếm lĩnh (trong và ngoài nước)
+ Xác định các mặt hàng chủ lực trong từng giai đoạn, tương ứng với từng thị trường (các mặt hàng chính này quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của toàn ngành).
+ Xây dựng các bước tiếp cận, xâm nhập và chiếm lĩnh đối với từng thị trường.
+ Có các giải pháp cạnh tranh (về giá cả, chất lượng, phương thưc thanh toán, chủng loại mặt hàng...).
+ Có bước chuẩn bị các giải pháp về thị trường để đáp ứng sau năm 2005 hòa nhập khu vực.
Trong thời gian tới, ngành Da giầy Việt nam vẫn tiếp tục có lợi thế trong tiếp nhận sự chuyển dịch:
+ Trong thời kỳ này, ngành cần chú trọng các giải pháp về hợp tác quốc tế, tiếp thu nhanh đổi mới công nghệ, hiện đại hóa thiết bị, nâng cao tay nghề công nhân.
+ Tranh thủ tối đa mối quan hệ hợp tác Quốc tế để mở rộng thị trường, vươn lên làm chủ và chiếm lĩnh, tiếp tục khuyến khích và duy trì các hình thức hợp tác để tiếp thu kinh nghiệm quản lý từ phía đối tác.
+ Thông qua quan hệ hợp tác, tiếp nhận sự đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý nhằm đóng góp thiết thực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thời kỳ sau 2010.
+ Tăng cường sự hợp tác giao lưu Quốc tế về các lĩnh vực chuyên ngành, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ kỹ thuật của ngành lên ngang tầm các nước trong khu vực, tiếp nhận sự phân công lao động chuyên môn hóa quá trình sản xuất đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của nền sản xuất công nghiệp.
Bên cạnh việc mở rộng thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp Da giầy cần phải coi trọng thị trường trong nước với hơn 80 triệu dân, với các lứa tuổi khác nhau và nhiều vùng khác nhau. Ngành cần có các giải pháp đồng bộ, lâu dài để sản phẩm của ngành chiếm lĩnh thị trường nội địa, có sức cạnh tranh trực tiếp với giầy Trung Quốc và các nước lân cận. Để hướng các doanh nghiệp tập trung sản xuất hàng nội địa, ngành cần kiến nghị bảo hộ sản xuất trong nước, có các biện pháp thiết thực đảm bảo khi chính thức hòa nhập không bị hàng hóa các nước trong khu vực cạnh tranh gay gắt.
* Củng cố và phát triển vững chắc thị trường EU.
Tính đến nay, sản phẩm giầy dép của Việt nam đã có mặt ở 160 nước và vùng lãnh thổ, trong đó lớn nhất là EU ( hơn 75%). Hiện nay, giầy dép của Việt nam xuất khẩu sang EU đang có những điều kiện thuận lợi do sản xuất giầy dép trong các nước thuộc EU ngày càng giảm, trong khi sức tiêu thụ ngày càng tăng. Tính bình quân đầu người trong các nước thuộc EU thì mức tiêu thụ 4-5 đôi/người/năm. Với số dân trên 365 triệu người hàng năn EU tiêu thụ trên 1 tỉ đôi giầy các loại.Vì vậy, việc nhập khẩu giầy dép từ các nước ngoài cộng đồng là tất lớn. Bên cạnh đó giầy dép của Việt nam nhập khẩu vào EU còn được hưởng ưu đãi thuế quan theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập ((GSP). Các sản phẩm giầy nếu có 40% nguyên liệu sản xuất từ Việt nam (có giấy chứng nhận xuất xứ C/O form A ) sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi 13,58%, nếu không mức thuế sẽ là 30 -35% tùy theo chủng loại sản phẩm. Trong 4 năm qua, kể từ khi EU áp dụng biện pháp bảo hộ mậu dịch bằng cách đánh thuế chống bán phá giá đối với một số loại giầy dép nhập khẩu từ Trung Quốc, Inđonesia và Thái Lan thì giầy dép Việt nam nhập khẩu vào EU dã tăng rất nhanh.
Có thể nói, với thị trường EU, việc xuất khẩu giầy dép của Việt nam đến nay còn rất nhiều thuận lợi. Vì vậy, để tranh thủ thời cơ trong khi giầy dép Việt nam xuất sang thị trường Mỹ tỉ trọng còn chưa cao, các doanh nghiệp Việt nam cần lưu ý đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, kiểu dáng, thời hạn giao hàng và các điều kiện về C/O form A để được hưởng ưu đãi thuế quan của EU và tránh sự nghi ngờ của EU về vấn đề xuất xứ. Đồng thời, các doanh nghiệp cần tìm các biện pháp để tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp mình. Bên cạnh việc làm gia công, các doanh nghiệp cần có biện pháp dần dần tiếp cận trực tiếp với khách hàng EU để chuyển dần từ phương thức gia công sang phương thức mua đứt bán đoạn (điều này một số ít doanh nghiệp đã làm được). Muốn vậy chúng ta phải mạnh dạn đầu tư tham gia vào các hội chợ Da giầy Quốc tế, tham gia tích cực vào hệ thống thương mại điện tử để từng bước quảng cáo sản phẩm của mình trên thị trường thế giới.
* Nhanh chóng tiếp cận, thâm nhập thị trường Mỹ.
Mỹ là thị trường nhập khẩu và tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế giới. Kể từ khi Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ có hiệu lực, tổng kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước trong cả năm 2002 tăng 95% so với cùng kỳ năm 2001. Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt nam vào Mỹ đã tăng nên nhanh chóng trong những năm gần đây. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ của ngành là 87,804 triệu USD, năm 2001 là 114,307 triệu USD, năm 2002 là 196,554 triệu USD, 5 tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đạt 119,4 triệu USD.
Đây là thị trường lớn đầy tiềm năng đối với Việt nam, song đó là thị trường mở cạnh tranh rất quyết liệt và đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh môi trường, luật pháp, điều kiện làm việc của người lao động, thời hạn giao hàng... . Vì vậy, ngay từ lúc này Ngành Da giầy Việt nam mà lòng cốt là Hiệp hội Da giầy phải có những chiến lược, sách lược phù hợp và có biện pháp chuẩn bị tích cực các điều kiện cần thiết thì mới có thể tranh thủ được thời cơ này để phát triển và mở rộng thị trường. Hơn nữa, Nước Mỹ là một nước thường dương cao ngọn cờ tự do thương mại, đồng thời lại có hệ thống luật pháp rất phức tạp, thậm chí ở mỗi bang lại có luật lệ riêng, nhằm bảo vệ lợi ích bản địa. Do vậy, để làm ăn với Mỹ các doanh nhân Việt nam cần dành công sức nghiên cứu luật lệ, phong tục tập quán kinh doanh của Mỹ để tránh bài học xuất khẩu thủy sản như hiện nay.
* Khôi phục thị trường truyền thống SNG và các nước Đông Âu
Thị trường SNG và Đông Âu cũ vẫn là thị trường truyền thống lớn, quen thuộc và dễ tính. Chúng ta có nhiều cán bộ giỏi tiến , có kinh nghiệm và mối quan hệ tốt với thị trường này. Hiện nay các doanh nghiệp đang tìm mọi cách khôi phục lại, nhưng đều vướng mắc ở phương thức thanh toán mà các doanh nghiệp không thể tự mình tìm cách giải bài toán này một cách triệt để. Vì vậy đề nghị chính phủ và ngân hàng hai nước phải ra tay mới có thể giúp các doanh nghiệp khôi phục được thị trường truyền thống này.
3.3.6 Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước
Để tạo điều kiện cho ngành Da - giầy Việt nam phát triển đúng với tiềm năng và vị trí của mình đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới, đặc biệt là tăng kim ngạch xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Tác giả xin đề xuất một số vấn đề sau:
- Chính sách khuyến khích đầu tư:
- Da giầy là ngành thu hút nhiều lao động xã hội, nhất là lao động nữ, có đóng góp lớn trong kim ngạch xuất khẩu, suất đầu tư nhỏ mà thu được hiệu quả xã hội lớn, do vậy đề nghị Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với ngành trong đầu tư phát triển nhằm khai thác tốt tiềm năng trong nước và nước ngoài.
- Những năm qua, tuy ngành có tốc độ phát triển cao, song không theo định hướng của Nhà nước, đầu tư manh mún, do đó có tác động không tốt đối với sự tồn tại chung của ngành, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa khai thác hết năng lực hiện có do đầu tư xong thiếu hoặc không có đơn hàng thì nhiều dự án mới vẫn tiếp tục ra đời cạnh tranh lẫn nhau, gây thiệt hại cho phía Việt nam và tạo lợi thế cho các đối tác nước ngoài. Đề nghị Nhà nước có biện pháp hạn chế đầu tư tràn lan, không hiệu quả. Chính phủ, Bộ Công nghiệp nên thông qua Hiệp hội Da giầy Việt nam, Viện nghiên cứu Da giầy để quy hoạch lại sự phát triển của ngành Da giầy Việt nam.
- Đề nghị Nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu làm giầy và hạn chế đầu tư nước ngoài ( nhất là 100% vốn nước ngoài) vào các sản phẩm giầy mà các doanh nghiệp Việt nam có thể tự đầu tư được.
- Trong một vài năm tới ngành Da giầy vẫn còn thời cơ thuận lợi trong tiếp cận sự chuyển dịch từ các nước trong khu vực, có lợi thế trong xuất khẩu. Đề nghị Nhà nước dành cho Ngành lượng vốn đầu tư thỏa đáng để có được một số dự án với quy mô đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngòai, tạo sức bật và nâng cao uy tín với các bạn hàng lớn.
- Chính sách xuất nhập khẩu
+ Các doanh nghiệp trong ngành thường gặp nhiều khó khăn trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt là doanh nghiệp làm gia công, đề nghị Nhà nước và các Bộ, ngành quản lý cải tiến và đơn giản hóa hơn nữa những qui định về thủ tục xuất nhập khẩu cho thông thoáng hơn nưa, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, tránh phiền hà, chậm chễ, tốn kém chi phí ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế cạnh tranh hiện nay, đề nghị các cơ quan Nhà nước có sự thống nhất phối hợp để ban hành một số chính sách về thuế, hải quan, thương mại hoàn chỉnh và đồng bộ để phù hợp thực tế hơn.
+ Để bảo hộ và phát triển sản xuất trong nước, đề nghị Nhà nước có biện pháp hữu hiệu, kiên quyết hơn nữa để ngăn chặn hàng nhập lậu từ Trung Quốc, hiện đang cạnh tranh bất bình đẳng về giá cả (do nhập lậu) với các sản phẩm trong nước. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nghành có đủ điều kiện tham gia vào hiệp định AFTA: giảm dần thuế suất nhập khẩu, để đến năm 2006 thỏa mãn được yêu cầu của hiệp định AFTA là thuế suất trung bình từ 0 - 5%.
+ Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích sản xuất các mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh tốt. Đồng thời Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ ngành trong tìm kiếm thị trường mới cho các doanh nghiệp, đặc biệt thông qua cơ quan đại diện thương mại của Việt nam ở nước ngoài.
- Giải pháp tài chính
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay các khoản tín dụng dài hạn với lãi suất thấp để phục vụ cho đầu tư sản xuất giầy. Nhà nước cần hỗ trợ tích cực và tạo điều kiện tối đa cho việc đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nguyên vật liệu ngành giầy, ưu đãi thuế thuê đất ở các khu công nghiệp, khu chế xuất để khuyến khích các doanh nghiệp di chuyển về đầu tư.
Khi các doanh nghiệp chuyển đổi sang phương thức xuất khẩu trực tiếp, đòi hỏi rất nhiều vốn trong khi các doanh nghiệp giầy thường xuyên phải đối phó với tình trạng thiếu vốn. Vì vậy, Nhà nước cần cân đối cấp bổ xung vốn lưu động cho doanh nghiệp đủ 30% (trên cơ sở vốn lưu động sản xuất - kinh doanh) để các doanh nghiệp có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhà nước cần có giải pháp thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước nhằm chuyển đổi một số doanh nghiệp và tập trung vốn cho đầu tư phát triển mới. Đôi khi cần thiết phải giảm bớt một phần lợi ích của Nhà nước để có thể bán cổ phiếu được dễ dàng hơn (nếu định giá cao, các cổ đông không chấp nhận mua, khó bán, không thực hiện được mục tiêu).
- Chính sách về khoa học công nghệ, đào tạo
+ Để chủ động trong sản xuất kinh doanh và tự vươn lên chiếm lĩnh thị trường trong và nước ngoài, ngành cần đầu tư hai trung tâm nghiên cứu thiết kế mẫu mốt (như đã nêu ở trên) với trang bị tiên tiến, đào tạo đội ngũ cán bộ thiết kế có trình độ và đủ mạnh đáp ứng dịch vụ cung cấp các mẫu mã chào hàng cho toàn ngành. Đề nghị Nhà nước ưu tiên cho dùng các nguồn tài trợ, tạo điều kiện để ngành chủ động trong sản xuất kinh doanh.
+ Các cơ quan quản lý nhà nước cần quan tâm hỗ trợ vốn cho ngành từ quĩ phát triển khoa học - kỹ thuật, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp thu, ứng dụng công nghệ mới: Công nghệ thiết kế mẫu mốt, công nghệ tạo phom hoàn thiện, công nghệ sản xuất các loại giầy dép...
+ Để đáp ứng sự phát triển chung của ngành, chủ động trong cung cấp các loại phụ tùng thay thế và các thiết bị đơn giản, ngành cần có một cơ sở cơ khí chuyên ngành. Đề nghị Nhà nước, Bộ Công nghiệp tạo điều kiện đầu tư hoặc chuyển cho ngành một cơ sở phù hợp.
Kết luận
Với chủ trương mở cửa và hội nhập nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, ngành Da giầy Việt nam cũng như các ngành kinh tế khác đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều khó khăn thử thách khắc nghiệt để tồn tại và phát triển. Trước sự chuyển dịch của ngành Da giầy thế giới từ các nước phát triển và các nước công nghiệp mới vào Việt nam, vấn đề tồn tại và phát triển ngành Da giầy ngang tầm thế giới đang đòi hỏi và bức xúc toàn ngành phải có chiến lược phát triển toàn ngành trên mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư máy móc thiết bị, khoa học công nghệ, đào tạo...nhằm hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Đẩy mạnh phát triển ngành Da giầy không còn là một công việc đơn thuần mà là một hoạt động mang tầm chiến lược lâu dài để phát triển một ngành công nghiệp quan trọng góp phần xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra.
Ngành da giầy là ngành thu hút nhiều lao động xã hội, có vốn dầu tư và suất đầu tư/ lao động thấp. Nên có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành Da giầy Việt nam nhận được sự chuyển dịch của ngành Da giầy thế giới. Ngành đã đạt được thành công rất lớn trong việc đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian qua. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngành cần phải phát huy hơn nữa nội lực của từng donh nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
Ngành da giầy Việt nam rất cần sự quan tâm của Nhà nước về vấn đề vốn, hỗ trợ xúc tiến thương mại. Để từng bước chuyển đổi từ hình thức gia công sản phẩm sang hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước nhàm tăng tính chủ động trong sản xuất kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của ngành trên trường quốc tế.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX cuả Đảng ( 2000), Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005.
Bộ Công nghiệp nhẹ ( 1995), Phương hướng chiến lược phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng đến năm 2005, Hà nội.
Bộ Công nghiệp ( 1999), Báo cáo tổng kết năm 1999, Hà Nội.
Bộ Công nghiệp (2000), Báo cáo tổng kết năm 2000, Hà Nội.
Bộ Công nghiệp (2001), Báo cáo tổng kết năm 2001, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch đầu tư (1999), Báo cáo về việc theo dõi thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - 1999, Hà Nội.
Bộ Thương Mại (2002), Báo cáo công tác xuất nhập khẩu năm 2002, Hà Nội.
Vũ Văn Cường ( 1994), “Ngành Da giầy với lợi ích và việc làm của người lao động” Tạp chí Lao động và xã hội, ( 6/1994), tr.7-9.
Vũ Văn Cường (1995),”Vấn đề nguyên liệu cho ngành công nghiệp da giầy ”Tạp chí Kinh tế và dự báo, (7/1995), tr 18-20.
Vũ Văn Cường ( 2000), Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Văn Cường ( 2000)” Ngành da giầy Việt nam - thời cơ và thách thức“, Tạp chí Công nghiệp, (12/2000), tr8-10.
Vũ Văn Cường (2001) “ Triển vọng ngành Da giầy Việt nam”, Tạp chí thông tin kinh tế Nhật - Việt, (2/2001), tr 20 -23.
Vũ Văn Cường ( 2001), “ Phát triển nguyên liệu cho ngành Da giầy Việt Nam” Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6/2001),tr 32 -33.
Đại học Kinh tế quốc dân (1996), Giáo trình thống kê kinh tế, NXB thống kê, Hà Nội.
Đại học Kinh tế quốc dân (1997), Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Đại học Kinh tế quốc dân ( 1998), Chiến lược và chính sách công nghiệp, Hà Nội.
F.ĂngGhen( 1991), “ Chống Duy - Rinh”, NXB Sự thật Hà Nội.
Hiệp hội Da giầy Việt Nam, Báo cáo tổng kết các năm 1998 - 2002.
Hiệp hội Da giầy Châu á (1999), Báo cáo năm 1999, Indonesia.
Hiệp hội Da giầy Việt Nam, Công nghiệp da giầy Việt Nam 2003
Nguyễn Hồng Liên (2000), Thực trạng và chiến lược phát triển nguyên phụ liệu cho ngành giầy, Tạp chí Công nghiệp Da giầy, (5/2000).
Thiếu Mai (2003),Ngành da giầy trước yêu cầu hội nhập, Báo Hà nội Mới 9/2003, tr3
Nhà xuất bản Thống kê ( 1998), Niên giám thống kê năm 1998.
Nhà xuất bản Thống kê ( 1999), Niên giám thống kê năm 1999.
Nhà xuất bản Thống kê ( 2002), Niên giám thống kê năm 2002.
Nhà xuất bản Sự thật (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng.
Nhà xuất bản Sự thật (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Lưu Thị Trúc Oanh (2000), “Triển vọng về thị trường xuất khẩu đối với sản phẩm giầy dép Việt Nam Tạp chí Công nghiệp Da giầy, (5/2000).
Tổng công ty Da giầy Việt Nam ( 2000), Báo cáo tổng kết năm 1995 - 2000.
Tổng công ty Da giầy Việt Nam ( 2000), Báo cáo tổng kết năm 2000 - Phương hướng nhiệm vụ 2001.
Tổng công ty Da giầy Việt Nam (1999), Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da - giầy đến năm 2010, (12/1999)
Tổng cục Hải quan (1998), “ Báo cáo Xuất - Nhập khẩu 1998”.
Tổng cục Hải quan (1999), “ Báo cáo Xuất - Nhập khẩu 1999”.
Tổng cục Hải quan (2000), “ Báo cáo Xuất - Nhập khẩu 2000”.
Tổng cục Hải quan (2001), “ Báo cáo Xuất - Nhập khẩu 2001”.
Tổng cục Hải quan (2002), “ Báo cáo Xuất - Nhập khẩu 2002”.
Tổng cục thống kê ( 1998), Niên giám thống kê - 1998.
Tổng cục thống kê ( 1999), Niên giám thống kê - 1999.
Tổng cục thống kê ( 2000), Niên giám thống kê - 2000.
Tổng cục thống kê ( 2001), Niên giám thống kê - 2001
Tổng cục thống kê ( 2002), Niên giám thống kê - 2002.
Thời Báo Kinh tế Việt Nam số [58] số[111] năm 2002.
Thời Báo Kinh tế Việt Nam số [1], số[11], số[166] năm 2003.
Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp - Bộ công nghiệp (2000) “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến 2010, tầm nhìn đến 2020”, 3/2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ngành da - giầy Việt Nam trong tiến trình đổi mới.DOC