Có thể xem giễu nhại như một thủ pháp “lạ hóa” (defamiliarization) nhằm tra
vấn lại giá trị của hiện tồn văn chương trong quá khứ và thân trạng của cái cũ
trong hoàn cảnh lịch sử của cái mới. Đây là thủ pháp phổ biến trong tiểu
thuyết hậu hiện đại. Việc tái sử dụng những phương thức truyền thống bằng
giễu nhại chính là một trong những nguồn lực khiến cho tiểu thuyết không
những không chết mà ngày càng “nảy nở” thêm.
39 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2690 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghệ thuật siêu tiểu thuyết trong Nếu một đêm đông có người lữ khách của Italo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối nghịch hoàn toàn. Bảng phân loại những đặc trưng của I. Hassan
tuy cho chúng ta cái nhìn sáng rõ và hệ thống về những khác biệt giữa chủ
nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa hiện đại nhưng vô hình trung, gây nên một
sự hiểu lầm đối với tư duy hậu hiện đại. Tư duy của hậu hiện đại không phải
là tư duy lựa chọn hay phá bỏ theo kiểu cấu trúc “either/or” mà là tư duy tra
vấn, hoài nghi và nghĩ lại về mọi giá trị. Theo Linda Hutcheon, nó thích hợp
với kiểu cấu trúc “both/and” hơn. Chúng tôi sẽ dựa vào luận điểm này để xác
định bản chất và mục đích của siêu hư cấu hậu hiện đại, nhằm giải tỏa những
hiểu lầm về nó.
3.1. Mối quan hệ của hư cấu và thực tại: hư cấu về một thực tại và thực
tại như là hư cấu
Như đã luận bàn trong phần khái niệm “metafiction”, siêu hư cấu của chủ
nghĩa hậu hiện đại là một trò chơi giả vờ, trò diễn của hai thế giới bên trong
văn bản và bên ngoài văn bản rằng chúng có thể thay thế cho nhau. Ở đây
không hề có một ranh giới nào cả và sự thông đồng của chúng dựa trên bản
chất thực sự của cả hai, đều được xây dựng bằng một hệ thống ký hiệu. Nếu
một đêm đông có người lữ khách của Italo Calvino là một trong những siêu
tiểu thuyết hậu hiện đại làm cho thế giới thực tại lẫn thế giới hư cấu hiện lên
như là kiến tạo, giả tượng, nhưng theo một cách rất khác biệt so với nhiều
siêu tiểu thuyết hậu hiện đại khác. Ta có thể hình dung nét mặt của nó như
sau: một nụ cười tinh tế ẩn hiện và một ánh nhìn sâu sắc trầm tư, không phải
là bộ mặt hiển lộ sự sâu cay và hả hê khi vạch trần “sự thật” về thế giới.
3.1.1. Hư cấu về một thực tại
Calvino muốn viết một tác phẩm như thế nào? Tại sao ông lại viết một cuốn
tiểu thuyết chỉ bao gồm những chương khởi đầu? Không phải vì ông không
thể viết nốt những chương tiếp theo của một cuốn tiểu thuyết nào đó theo một
phong cách, thể loại nhất định, cũng không phải vì ông chán phải làm công
việc đó, mà vì ông nhìn thấy yếu tính tận cùng của thế giới: “cảm quan về thế
giới sau lúc tận cùng thế giới, cảm quan rằng thế giới là chỗ cáo chung của
tất cả mọi thứ có trong thế giới, rằng cái duy nhất có trong thế giới là tận
cùng thế giới” [10; tr.376]. Thế giới trong cái nhìn của Calvino là một thế
giới mà khả tính vô tận và đa bội của nó đã trở nên vô hạn, đó là một thế giới
đa tầng và đa diện. Thế nên chỉ có một loại tiểu thuyết mà ông gọi là “tiểu
thuyết thậm phồn” (hyper-novel) là có thể diễn đạt được yếu tính tận cùng
của thế giới. Nhưng làm thế nào để viết được một cuốn tiểu thuyết như thế?
Trong bài giảng Tính cách bội trương trong văn chương tương lai (Sáu bài
giảng cho thiên niên kỷ mới)[2], Calvino đã đưa ra những ví dụ về những
nhà văn có tham vọng xây dựng một cuốn tiểu thuyết như một “bộ từ điển
bách khoa” với một thế giới hư cấu là một mạng lưới hỗn độn, đa tạp những
mối liên hệ của con người, vật thể và sự kiện. Nhưng nghịch lý là khi tiểu
thuyết cố chạy theo thế giới bội trương bằng cách bội trương hóa chi tiết, sự
kiện, thời gian thì nó càng không thể kiểm soát nổi thế giới hư cấu của nó.
Cho nên Calvino đề xuất “tinh thể của tiểu thuyết đúng nghĩa” là “dạng thức
cô đọng” của nó. Không phải là hình thức đa bội mà chính tinh thể cô đọng
của tiểu thuyết mới có thể phát lộ yếu tính tận cùng của thế giới.
Thế nên ông viết một cuốn tiểu thuyết với mười mở đầu, cùng một nguyên lý
nhưng theo những lối khác nhau, và ông cho rằng Nếu một đêm đông có
người lữ khách của mình là một điển hình cho tiểu thuyết thậm phồn bởi ông
tin vào khả tính vô tận của một mở đầu. Một mở đầu luôn luôn chứa đựng
một sinh lực không bao giờ cạn cho tính vô hạn của khả thể diễn giải: “tôi
hẳn sẽ có thể viết một cuốn sách vốn chỉ là một khúc mào đầu, vốn duy trì từ
đầu đến cuối cái tiềm năng của sự khởi đầu, sự kỳ vọng vốn vẫn chưa tập
trung vào một đối tượng…Liệu những gì sơ khởi có thể kéo dài ra vô hạn
không?...” [10; tr.274]. Mỗi một khởi đầu là một bí ẩn cho tiềm năng của câu
chuyện và một câu chuyện lý tưởng là một câu chuyện cho ta thấy yếu tính
tận cùng của thế giới, sự sinh sôi đa tầng đa diện của thế giới mà không áp
đặt lên ta một cái nhìn trật tự: “phải là cuốn tiểu thuyết mà động lực duy nhất
là khát vọng kể chuyện, chất chồng truyện này lên trên truyện khác, không cố
áp đặt lên ta một cách nhìn thế giới, mà chỉ để ta quan sát sự lớn dần của nó,
như một cái cây, một sự xoắn xuýt vào nhau như cành với lá…” [10; tr.140,
141]. Khởi đầu bao giờ cũng là một thách thức, một sự khó khăn đối với
người viết, không phải chỉ bởi tính chất bắt đầu của nó mà còn nằm trong
tiềm năng bí ẩn của nó dành cho diễn giải.
Hư cấu về một thực tại chỉ bằng những khởi đầu và bàn về những khởi đầu
đó ngay trong tác phẩm, siêu tiểu thuyết của Calvino vạch trần tính chất đơn
diện và hữu hạn của thế giới được hư cấu bằng những thỏa ước của chủ nghĩa
hiện thực. Với chủ nghĩa hiện thực, thế giới hư cấu phải phản ánh được tính
khách quan và toàn diện của hiện thực, một hiện thực trật tự bề ngoài. Và câu
chuyện của nó bao giờ cũng có điểm khởi đầu và điểm chấm dứt (dù là kết
cấu mở hay đóng): “sự hấp dẫn đầy lãng mạn được tạo ra trong trạng thái
thuần khiết bởi những câu đầu của chương đầu, nhiều cuốn tiểu thuyết chẳng
mấy chốc mất đi khi câu chuyện tiếp diễn: nó là lời hứa hẹn về một quãng
thời gian đọc trải ra trước chúng ta và có thể bao hàm mọi sự phát triển có
thể xảy ra” [10; tr.274]. Điều này không giúp tác phẩm mở rộng khả thể diễn
giải đến tận cùng, không giữ được điều bí ẩn tiềm năng câu chuyện, sự kỳ
diệu giữ cho người đọc niềm vui và niềm hứng khởi đối với thế giới hư cấu
bên trong tác phẩm. Với những tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa, câu chuyện
bao giờ cũng mang lại cho người đọc một trong hai cảm xúc: thỏa mãn hoặc
thất vọng.
Thực ra, hành trình truy tìm những tác phẩm dang dở của Người đọc không
phải là một hành trình nối dài cuộc sống của anh ta mà đúng hơn là một hành
trình tìm kiếm sự đọc tròn đầy với những tác phẩm giống như một thế giới
toàn vẹn trong tính hữu hạn. Cái mà người đọc theo đuổi chính là cảm
nghiệm chân thật về một thế giới có thể dễ dàng nắm bắt được thông qua
những truyện kể có một khởi đầu và một kết thúc. Nhưng điều mỉa mai là
càng theo đuổi cảm nghiệm ấy, Người đọc càng lún sâu vào mạng lưới chằng
chịt những văn bản dang dở chất chồng lên nhau. Nhưng trong hành trình ấy,
thông qua những mối quan hệ với những nhân vật khác và những biến cố,
Người đọc nhận ra yếu tính của sự đọc và sự viết tiểu thuyết, bản chất của
truyện kể và khả tính bất tận của đời sống. Người đọc, đến cuối hành trình
của mình, hạnh phúc cùng Người đọc Nữ và hạnh phúc với sự đọc không bao
giờ là viên mãn, không bao giờ là hữu hạn, trong một thế giới khởi đi từ tận
cùng và kết thúc trong tận cùng.
3.1.2. Thực tại như là hư cấu
Nếu như những thỏa ước cố định của văn chương truyền thống có thể được
xem như là một ngôn ngữ (langue) hệ thống thì tiểu thuyết mang tính siêu hư
cấu tự ý thức được ví như là sự trỗi dậy của lời nói (parole) cá thể chống lại
ngôn ngữ ấy. Siêu tiểu thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại ngoài tính tự ý thức
còn mang tính tự phê bình. Nó không ngừng tra vấn những dạng thức tồn tại
của hư cấu thông qua việc phơi bày những thỏa ước của các loại hư cấu khác
nhau, đặc biệt là hư cấu của chủ nghĩa hiện thực. Từ đó, nó đặt ra câu hỏi về
mối quan hệ giữa hư cấu và thực tại cũng như bản chất của cả hai. Hư cấu về
một thực tại cuối cùng để đi đến việc phơi bày thực tại như là hư cấu.
Trong quan điểm của Italo Calvino về việc hư cấu một thực tại đã bộc lộ sự
tra vấn đối với những thỏa ước của chủ nghĩa hiện thực. Nhưng không chỉ
dừng lại ở đó, Nếu một đêm đông có người lữ khách còn đi xa hơn, bàn đến
thỏa ước hư cấu của chủ nghĩa hiện thực một cách rất xác đáng để cho thấy
bản chất của nó: “nhưng làm thế nào sáng lập đúng cái khoảnh khắc nơi một
câu chuyện bắt đầu? Mọi cái đều đã bắt đầu từ trước rồi, dòng đầu của trang
đầu của mỗi cuốn tiểu thuyết đều qui chiếu đến một cái gì đã xảy ra bên
ngoài cuốn sách. Hoặc câu chuyện thực là câu chuyện khởi đầu mười hay
một trăm trang sau đấy, còn mọi thứ đi trước nó chỉ là đoạn đề từ mà thôi.
Cuộc đời của các cá nhân thuộc giống người tạo thành một cốt truyện liên
tục không ngừng… mang trong mình một kết cấu phức tạp từ các sự kiện, môi
trường, những con người khác…” [10; tr. 236]. Chủ nghĩa hiện thực tạo nên
những ảo tượng giống như thực trong sự tiếp nhận của người đọc thông qua
một thỏa ước mà trong đó, người đọc phải qui chiếu cái biểu đạt trong văn
bản với cái được biểu đạt trong thế giới bên ngoài văn bản và tạo ra một trật
tự thống nhất, toàn diện trong kết cấu của thế giới hư cấu. Chủ nghĩa hiện
thực có một niềm tin vững chắc vào một hiện thực khách quan bên ngoài
đáng để soi chiếu và đó là một thế giới tồn tại như một hệ thống thứ bậc nhất
quán, toàn vẹn.
Trong chương Nếu một đêm đông có người lữ khách, Calvino đã phơi bày
thỏa ước trong cách xây dựng thế giới hư cấu của tiểu thuyết hiện thực chủ
nghĩa cũng như những thỏa ước của văn chương truyền thống, từ nhân vật,
miêu tả cho đến tình huống bằng giọng điệu hài hước: “Giờ bạn đã đọc được
đôi ba trang, hẳn đã đến lúc nói cho bạn rõ liệu cái nhà ga tôi vừa đặt chân
xuống đây là nhà ga của quá khứ hay nhà ga của hiện tại… Coi chừng; chắc
chắn đó là một phương pháp lôi cuốn bạn từ từ, tóm bạn vào trong câu
chuyện trước khi bạn kịp nhận ra – một cái bẫy” [10; tr.20, 21]; “cuốn tiểu
thuyết ở đây lặp lại những mẩu đối thoại hình như chả có chức năng nào
khác ngoài mô tả sinh hoạt hằng ngày của một thành phố tỉnh lẻ” [10; tr.29].
Sự khác biệt của siêu tiểu thuyết Nếu một đêm đông có người lữ khách của
Italo Calvino với siêu tiểu thuyết trong Bọn làm bạc giả của André Gide là ở
đây. Đó cũng là sự khác biệt cơ bản giữa siêu hư cấu của chủ nghĩa hậu hiện
đại và siêu hư cấu của chủ nghĩa hiện đại.
Bọn làm bạc giả là một cuốn tiểu thuyết bàn về tiểu thuyết nhưng nó
không giống siêu tiểu thuyết hậu hiện đại. Sự trầm tư của nó về bản thể tiểu
thuyết hướng đến sự kiến tạo thẩm mỹ của văn bản, chứ không phơi bày
những thủ pháp, thỏa ước, kỹ xảo xây dựng nên văn bản như một thế giới hư
cấu hoàn chỉnh. Những suy tư, trăn trở của nhân vật nhà văn Édouard trong
cuốn nhật ký của ông là làm cách nào để chuyển tải những cảm nghiệm hiện
tồn của ông về đời sống thực tại vào một cuốn tiểu thuyết. Vấn đề mà
Édouard thực sự quan tâm là một ý niệm thẩm mỹ chứ không phải là những
phương thức cụ thể. Chủ nghĩa hiện đại luôn mong muốn tái hiện thực tại
trong bề sâu của nó, một hiện thực siêu nghiệm. Có nhiều điểm tương đồng
với chủ nghĩa hậu hiện đại nhưng về bản chất, ta thấy chủ nghĩa hiện đại
hoàn toàn khác biệt, chẳng hạn thế giới hỗn độn, phân mảnh bên trong tiểu
thuyết hiện đại vẫn ẩn chứa một niềm tin hướng đến cái toàn thể và cái trật
tự. Thế giới hư cấu của nó vẫn ẩn chứa một chiếc “chìa khóa” để người đọc
có thể tìm thấy trật tự toàn thể ấy. Và những phương thức biểu hiện phong
phú của chủ nghĩa hiện đại đều xuất phát từ sự tìm tòi về ý niệm thẩm mỹ
nhằm biểu đạt một hiện thực bề sâu, ví dụ như thủ pháp “dòng ý thức” hay
thủ pháp mô tả đồ vật của Tiểu thuyết Mới.
Vì thế, chủ nghĩa hiện đại không tra vấn mối quan hệ giữa hư cấu và hiện
thực, không vạch trần tính hư cấu của thực tại bên ngoài văn bản. Bọn làm
bạc giả thực chất không xóa đi ranh giới giữa hư và thực. Sự tự quy chiếu
của nó thậm chí còn củng cố thêm một ảo tượng giống như thực. Nó có lẽ
nghiêng về loại tiểu thuyết tự sản sinh (self-begetting novel). Điểm giống
nhau giữa Bọn làm bạc giả và Nếu một đêm đông có người lữ khách là cả
hai cùng sáng tạo nên một nhân vật nhà văn tưởng tượng và để những nhân
vật này phát ngôn về cuốn tiểu thuyết trùng hợp với tác phẩm ở cấp độ bên
ngoài văn bản trần thuật (tức là tiểu thuyết Bọn làm bạc giả và Nếu một đêm
đông có người lữ khách mà chúng ta vừa đọc xong). Nhưng trong khi Italo
Calvino sử dụng trần thuật ở ngôi thứ hai để trò chuyện với người đọc thì
André Gide lại sáng tạo ra người trần thuật xưng “tôi” đưa ra những bình
luận siêu trần thuật (metanarrative narratorial comments/ statements).
Những bình luận này không những không vạch trần được tính chất giả tưởng,
không có thực của chính bản thân tiểu thuyết mà ngược lại nó còn tạo ấn
tượng sâu sắc thêm về một ảo tượng như thực dựa trên niềm tin vào người
trần thuật: “tôi không hài lòng với Édouard ở những lý lẽ biện bạch của ông”
[30; tr.280]; “nếu có bao giờ còn hư cấu ra một câu chuyện nữa, tôi sẽ chỉ
đưa vào đấy những tính cách được tôi luyện mà cuộc đời chẳng làm cùn nhụt
đi mà chỉ mài sắc thêm” [30; tr.283]; “Édouard đã trả Bernard lá thư kinh
khủng, chẳng nói một lời; chẳng nói một lời, Bernard cầm lại thư. Tôi đã bảo
rằng họ chẳng nói gì nhiều với nhau; một cái gì đó gượng gạo lạ lùng không
giải thích nổi đè nặng lên họ khi chỉ có hai người. Tôi chẳng thích cái từ
“không giải thích nổi”, và viết ra đây chỉ là do tạm thời chưa nghĩ được từ
nào khác)” [30; tr.265]. Những bình luận tương tự như thế ta có thể bắt gặp
rất nhiều trong tiểu thuyết này. Người trần thuật xưng “tôi” luôn song hành
và luận bàn về sự phát triển tâm lý và hành động của nhân vật. Từ đó, tạo
dựng cho mình một “uy tín”, một sự đáng tin. Người đọc có thể hoàn toàn đặt
hết niềm tin của mình vào sự đánh giá của người trần thuật như là một
“chứng nhân” cho toàn bộ câu chuyện, người nắm rõ mọi thứ về câu chuyện
trong tác phẩm và những nhân vật của nó.
Thêm vào đó, không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy cuốn tiểu thuyết Bọn
làm bạc giả của André Gide và tác phẩm Bọn làm bạc giả của nhà văn
Édouard là một. Những băn khoăn, trăn trở của nhân vật nhà văn này về cách
sử dụng chất liệu kinh nghiệm sống để viết một cuốn tiểu thuyết làm cho
người đọc khắc sâu thêm cảm nhận rằng cuốn tiểu thuyết mà Édouard dự
định viết chắc chắn không phải là Bọn làm bạc giả của Gide. Với Nếu một
đêm đông của người lữ khách thì lại khác, trong khi sử dụng trần thuật ở
ngôi thứ hai, ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm, Italo Calvino đã “cảnh tỉnh”
người đọc rằng những gì họ sắp đọc chỉ là một tiểu thuyết, một hư cấu của
chính ông: “bạn sắp bắt đầu đọc một cuốn tiểu thuyết mới Nếu một đêm đông
có người lữ khách của Italo Calvino” [10; tr.9]; “bạn lưu ý thấy trong một tờ
báo rằng Nếu một đêm đông có người lữ khách xuất hiện, cuốn sách mới của
Italo Calvino, ông ấy không in cuốn nào đã mấy năm nay” [10; tr.10]. Tác
giả của siêu hư cấu hậu hiện đại, bằng cách này hay cách khác đều cố nhắc
nhở người đọc rằng nhưng gì họ đang đọc chỉ là hư cấu, giả tưởng, đều không
có thực. “Thủ pháp vượt cấp”[3] (metalepsis), một thủ pháp được chủ nghĩa
hậu hiện đại sử dụng một cách phổ biến, ẩn hiện trong cuốn tiểu thuyết của
Calvino như một trò chơi xóa nhòa ranh giới thực và ảo. Về mặt bản chất, nó
khác hẳnvới bình luận siêu hư cấu của chủ nghĩa hiện đại hay chủ nghĩa hiện
thực.
Trò chơi của Calvino lộ diện khi ông với tư cách là người trần thuật đề nghị
người đọc đồng nhất với nhân vật trung tâm ở ngôi thứ hai “bạn”: “cho đến
giờ cuốn sách đã cẩn thận để ngỏ cho người đọc đang đọc cái khả năng đồng
nhất bản thân mình với người đọc đang được đọc: chính vì vậy anh ta không
được đặt tên bởi một cái tên sẽ tự động khiến anh ta trở nên tương đồng với
ngôi thứ ba, hay là một nhân vật (trong khi đó thì bạn, người ở ngôi thứ ba,
thì lại cần được đặt cho một cái tên, Ludmilla), thế nên anh ta vẫn được giữ
là một đại từ, trong trạng thái trừu tượng của các đại từ, thích hợp với bất cứ
thuộc tính và bất cứ hành vi nào” [10; tr.217]. Sự phá vỡ các cấp độ trần
thuật này làm cho người đọc bối rối. Người đọc sẽ rời bỏ thế giới thực tại
thường ngày để đi vào thế giới hư cấu bên trong tác phẩm hay đưa thế giới hư
cấu ấy bước ra cùng cái thường ngày của mình? Việc xóa nhòa ranh giới giữa
thực và ảo đặt ra câu hỏi về bản chất của hư cấu lẫn hiện thực.
Nếu một đêm đông có người lữ khách vừa vạch trần những thỏa ước
của văn chương hiện thực chủ nghĩa lại vừa vạch trần những thỏa ước của
văn chương truyền thống. Ta có thể thấy rõ điều này trong chương Ở ngoại vi
thành Malbork. Trong chương này, trần thuật ngôi thứ nhất với người kể
chuyện xưng “tôi” bộc lộ bản chất của chính nó: “Trong khi hắn và tôi siết
chặt lấy nhau, tôi có cảm tưởng rằng trong cuộc vật lộn này sự chuyển hóa
đang diễn ra, còn khi chúng tôi trở dậy thì hắn sẽ là tôi còn tôi là hắn, nhưng
có lẽ điều đó chỉ đến bây giờ tôi mới nghĩ, hoặc chính bạn, Người đọc mới là
người nghĩ thế chứ không phải tôi” [10; tr. 59]; “trang sách bạn đang đọc
cần chuyển tải cho được sự tiếp xúc bạo liệt này của những quả đấm thình
thịch và đau đớn” [10; tr.60]. Một cuốn tiểu thuyết với người kể chuyện là
nhân vật xưng “tôi” thường hướng đến một điểm nhìn nội quan, thể hiện nội
tâm bên trong nhân vật. Trong chương này, Nếu một đêm đông có người lữ
khách vừa miêu tả cuộc vật lộn của nhân vật xưng “tôi” cùng một nhân vật
khác vừa phơi bày những thỏa ước trong sự miêu tả từ điểm nhìn nội quan.
Đó là trò chơi yêu thích của những nhà văn viết siêu tiểu thuyết hậu hiện đại,
vừa xây dựng một tác phẩm theo những thỏa ước của một hình thức văn
chương nào đó vừa tuyên bố về tác phẩm mà mình xây dựng nhằm phơi bày
những thỏa ước ấy.
Chủ nghĩa hiện thực, dựa trên nền tảng của lý tính tin rằng thế giới bên trong
văn bản là cái biểu đạt vững chắc và ổn định cho thế giới sự vật được biểu đạt
bên ngoài. Nó tin tưởng vào quyền năng của ngôn ngữ trong việc nhận thức
toàn vẹn thế giới thực tại bên ngoài ý thức con người. Trong khi đó, chủ
nghĩa hiện đại, dù phủ nhận chủ nghĩa hiện thực nhưng nó vẫn tin rằng nghệ
thuật và văn chương có thể biểu đạt được “cái siêu việt” (sublime) và bề sâu
của thực tại. Cho nên về mặt cơ bản, siêu tiểu thuyết của chủ nghĩa hiện đại
vẫn thuộc về nhận thức luận (epistemology) hơn là bản thể luận (ontology).
Điều này xuất phát từ chính thái độ của chủ nghĩa hiện đại đối với đời sống.
Cả chủ nghĩa hiện đại lẫn chủ nghĩa hậu hiện đại đều nhìn thấy tính chất hỗn
độn, phân mảnh, phi lý, đa tạp của đời sống, nhưng trong khi chủ nghĩa hậu
hiện đại chấp nhận và vui đùa với đời sống như chính bản thân nó thì chủ
nghĩa hiện đại lúc nào cũng băn khoăn, trăn trở và lo âu về hiện tồn đời sống.
Cho nên chủ nghĩa hiện đại vẫn thuộc về nhận thức luận trong khi chủ nghĩa
hậu hiện đại lại đi vào bản thể luận, tức là nó không đặt ra vấn đề nhận thức
đời sống nữa mà tra vấn bản chất của đời sống: thế giới là có thực hay thế
giới chỉ là hư cấu? Bằng cách phơi bày thế giới bên trong văn bản tác phẩm
chỉ là một hư cấu, một giả tưởng bằng ngôn ngữ, là những cái biểu đạt không
hề có bất cứ mối liên hệ nào với thế giới bên ngoài, những tiểu thuyết như
Nếu một đêm đông có người lữ khách của Italo Calvino không ngừng tra
vấn bản chất của thực tại vốn luôn được lý tính gọi là “khách quan” và “tồn
tại độc lập bên ngoài ý thức”, bởi vì cái thực tại ấy cũng được xây dựng bằng
ngôn ngữ, mà ngôn ngữ chỉ là những cái biểu đạt không hơn không kém.
Siêu tiểu thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại mang tính bản thể luận
(ontology), tức là nó không ngừng truy vấn mối quan hệ giữa hư cấu và thực
tại cùng bản chất của cả hai. Theo đó, nó cho thấy thế giới hư cấu có thể thay
thế cho thế giới thực tại chứ không phải là “bản sao” của thế giới thực tại bởi
cả hai đều là những kiến tạo, những giả tưởng. Nói như Barthes thì thế giới
đã trở thành văn bản. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là siêu tiểu thuyết
hậu hiện đại phủ nhận hoàn toàn những thỏa ước của các hình thức văn
chương trước đó và thực tại khách quan, hay muốn phá vỡ toàn bộ hệ thống
cơ cấu trong xã hội. Nó đơn thuần chỉ nêu lên câu hỏi để người đọc không
ngừng suy nghĩ liệu con người có thể phản ánh được một thực tại khách quan
toàn vẹn bên ngoài ngôn ngữ hay không và liệu những cơ cấu của con người
trong xã hội có mang tính toàn thể, thứ bậc, ổn định, trường tồn? Hay nó chỉ
là những kiến tạo mang tính tạm thời, khiếm khuyết, lai tạp và bất ổn của
chính chúng ta? Từ những câu hỏi này, siêu hư cấu hậu hiện đại nói riêng và
chủ nghĩa hậu hiện đại nói chung đã bối cảnh hóa (contextualize) giá trị
“chân lý” của chúng và nhắc nhở chúng ta phải xem xét lại giá trị (cả quá khứ
lẫn hiện tại) và niềm tin của chính mình.
3.2. Đọc và diễn giải (interpretation)
Như chúng tôi đã phần nào đề cấp trong chương hai[4], đọc và “diễn giải”
(interpretation) là hai vấn đề luôn đi cùng với nhau, đọc tất yếu sẽ dẫn đến
diễn giải. Diễn giải là một khái niệm trọng tâm trong Ký hiệu học
(Semiotics), Thông diễn học (Hermeneutics) và Mỹ học tiếp nhận (Receptive
Aesthetics). Và cũng là một trong những vấn đề mà chủ nghĩa hậu hiện đại
quan tâm. Nếu một đêm đông có người lữ khách của Italo Calvino là một
tiểu thuyết cho ta thấy rõ quan điểm diễn giải mang tính hậu hiện đại. Nó
hướng vào người đọc, nhân tố mà lý thuyết văn học hiện nay đề cao. Cái nhìn
của Italo Calvino về bản chất và vai trò của người đọc phần nào chịu ảnh
hưởng từ quan điểm “cái chết của tác giả” của Roland Barthes.
Cuốn tiểu thuyết này được xây dựng dựa trên những chương mở đầu của
nhiều phong cách, thể loại tiểu thuyết khác nhau, xen lẫn vào đó là những
trần thuật ở ngôi thứ hai. Đây cũng có thể xem là một kiểu giao tiếp của nhà
văn với người đọc trong văn bản. Sự trò chuyện đảm bảo cho sự kết nối giữa
nhà văn và người đọc không bị phá vỡ do sự phức tạp về mặt kết cấu của văn
bản. Siêu tiểu thuyết trong Nếu một đêm đông có người lữ khách thể hiện
tính ưu việt trong kết nối giao tiếp giữa tác giả và người đọc trong thế giới
văn bản tác phẩm. Nó cũng thể hiện cái nhìn uyên bác, sâu sắc của Calvino
về vai trò của người đọc hiện nay.
Trong Nếu một đêm đông có người lữ khách, nhân vật nhà văn Silas
Flannery đã tự “khai tử” mình với tư cách là một tác giả - một cái “tôi” quyền
uy bên trong văn bản: “Cái gì đó trong tôi đã biến mất: có lẽ là cái tôi, có lẽ
là nội hàm của cái tôi. Nhưng chẳng phải đây là điều tôi muốn ư? Chẳng
phải phi cá tính hóa là điều tôi cố đạt tới hay sao” [10; tr.297]; “cũng như tác
giả, bởi ông ta không có ý định kể về bản thân mình, đã quyết định gọi nhân
vật là “tôi” như thể che giấu anh ta đi, không phải gọi tên anh ta hay miêu tả
anh ta, bởi bất kỳ cái tên hay thuộc tính nào khác đều sẽ xác định anh ta
nhiều hơn đại từ trơ trụi này” [10; tr.25]. Tuyên ngôn của Barthes về cái chết
của tác giả đã trao quyền chủ động cho người đọc trong mối quan hệ tác giả -
văn bản - người đọc. Cái chết ấy xuất phát từ cuộc khủng hoảng cá tính và sự
triệt tiêu cái “tôi” như là một cá nhân hay một cá tính trong phát ngôn. Ngôn
ngữ học sau Saussure đã vạch trần sự trống rỗng của “tôi” như là một ký hiệu
không hơn không kém. Ai cũng có thể sử dụng đại từ “tôi”, “tôi’ là tôi nhưng
cũng có thể là bất kỳ ai. Đằng sau đại từ “tôi” là một khoảng trắng hư vô. Thế
nên cái biểu đạt trong văn bản tác phẩm không hề quy chiếu ý thức hay tiếng
nói của tác giả. Sự phơi bày này giáng một đòn chí tử vào quyền năng tác giả
như là thượng đế, như là ý thức độc tôn ngự trị bên trong văn bản và điều
khiển mối quan hệ của người đọc với văn bản.
Nhân vật này cũng ý thức rất rõ về vai trò của người đọc trong thế giới mà tác
giả đã biến mất: “nếu ta giả định rằng sự viết là nhằm vượt ra ngoài các giới
hạn của tác giả thì nó chỉ tiếp tục có ý nghĩa khi nó được đọc bởi một người
duy nhất và đi ngang qua những mạch thần kinh của người này… Vũ trụ sẽ
tự biểu đạt về mình chừng nào một ai đó còn có khả năng nói, “tôi đọc, vì
vậy nó/cái đó viết” [10; tr.272]. Văn bản chỉ sản sinh ý nghĩa thông qua hành
vi đọc của người đọc bởi cái “tôi” chỉ là một ký hiệu văn bản mà chủ thể nó
quy chiếu đến chỉ có thể được xác định trong hành vi lời nói. Khi người đọc
tiến hành sự đọc thì cái “tôi” của tác giả không còn nữa. Đại từ ấy bây giờ
thuộc về người đọc. Tác giả đã biến mất, cho nên người ta không thể viện dẫn
mãi một ý nghĩa do tác giả “ban hành”. Do ngôn ngữ luôn sai biệt và trì hoãn
nên không có một diễn giải cuối cùng, cũng không có diễn giải là chân lý.
Văn bản mở rộng ra đến vô hạn, với thế giới và với văn bản khác. Và người
đọc chính là người “biệt hóa” mạng lưới liên văn bản, liên bối cảnh ấy.Từ
đây, người đọc nhận được quyền tự do diễn giải hoàn toàn.
Sau khi có được cái quyền ấy rồi, vấn đề mới nảy sinh với người đọc là: diễn
giải như thế nào đây? Ở đây, ta bắt gặp một nụ cười hài hước mà sâu sắc của
Italo Calvino. Trong Nếu một đêm đông có người lữ khách, Calvino đã đưa
ra hàng tá cách đọc văn bản khác nhau thông qua hình tượng nhân vật
Lotaria, một kiểu người đọc vô cùng tỉnh táo. Đầu tiên là cách đọc chuyên
nghiệp: “trong quá trình đọc ắt sẽ có ai đó nhấn mạnh những sự phản ánh về
phương thức sản xuất, người khác thì về quá trình chấn chỉnh, người khác
nữa thì về sự thăng hoa những cảm xúc dồn nén, người khác nữa thì về
những mã ngữ nghĩa hàm ý tính dục, người khác nữa thì về siêu ngôn ngữ
của cơ thể, người khác nữa thì sự vượt qua các vai trò, trong chính trị và
trong đời tư” [10; tr.116]; “để lại sau lưng mình những trang sách nát tươm
bởi sự phân tích đầy trí tuệ, bạn mơ phát hiện lại được trạng thái đọc tự
nhiên, thơ ngây, nguyên sơ…” [10; tr.141]. Cách đọc chuyên nghiệp là một
cách đọc quá tỉnh táo và những công cụ lý thuyết kia đe dọa niềm vui đọc vô
tư lự. Mục đích duy nhất của việc đọc là đắm mình vào trong sự đọc. Người
đọc có nguy cơ đánh mất bản chất và mục đích thực sự của việc đọc: niềm
vui. Cách đọc đó cũng sẽ dẫn đến một diễn giải đã được định hướng trước.
Những lý thuyết sẽ tạo nên những định hướng trong đầu khiến người đọc
không tìm thấy lối đi tự do, lối đi riêng mình vào văn bản tác phẩm như khi
đọc trong “chân không”: “song những cuốn sách của tôi nhìn qua mắt cô lại
trở thành không thể nhận ra đối với tôi. Tôi chắc rằng Lotaria đã đọc chúng
một cách thấu đáo, nhưng tôi tin rằng cô đọc chỉ để tìm ra ở chúng những gì
cô tin chắc từ trước khi đọc chúng” [10; tr.286].
Một kiểu đọc khác là đọc trong thời đại số hóa, một hệ quả tất yếu bởi sự
phát triền ồ ạt của khoa học công nghệ. Người đọc sẽ nhận được sự hỗ trợ
“tối đa” từ máy móc “tối tân”. Người ta sẽ không cần mất thời gian… để đọc
mà vẫn có thể “hiểu được” tác phẩm thông qua những từ cùng trường nghĩa
được máy móc thống kê một cách chính xác. Thực ra, máy tính cũng giống
như khái niệm, sự chính xác càng cao thì càng cho ta một ý niệm bất định vể
bản thể hiện tồn, bởi sự chính xác về mặt này sẽ dẫn đến sự sai lệch ở mặt
khác. Cuối cùng ta vẫn không nắm bắt được bản thể toàn vẹn của tồn hiện.
Sự chính xác của máy móc chính là khiếm khuyết lớn nhất của nó. Vấn đề là
cách đọc trên bề mặt, đọc theo kiểu máy móc, thống kê sẽ dẫn đến một diễn
giải chắc chắn, xác quyết, toàn thể và cực đoan. Một diễn giải như thế là một
diễn giải dựa vào niềm tin lý tính và nó sẽ tự cho mình là diễn giải trung tâm
cuối cùng.
Thế nhưng bất cứ văn bản nào cũng có tính vô hạn trong diễn giải và không
diễn giải nào đứng trên diễn giải nào. Không có câu trả lời cho câu hỏi: diễn
giải như thế nào đây? Có vô vàn cách diễn giải khác nhau tùy thuộc vào mỗi
người và không bao giờ có một diễn giải nào là chân lý cuối cùng. Thế giới
văn bản là thế giới tận cùng và sự chờ đợi điều mới mẻ, niềm vui đến từ sự
đọc sẽ đưa người đọc đến với đa diễn giải, sự diễn giải không ngừng: “tôi
chờ đợi độc giả đọc ra trong sách tôi những gì tôi không biết, nhưng tôi có
thể chờ đợi điều đó chỉ từ những ai chờ đợi đọc ra được một cái gì mà bản
thân họ không biết” [10; tr.287]. Diễn giải không phải là tìm kiếm một ý
nghĩa nhất định cho văn bản hay cố gắng giải mã thông điệp mà nhà văn
“cài” sẵn vào trong đó. Nói đúng hơn diễn giải là sự truy tìm những biểu
tượng nơi tác phẩm trong nghĩa kép của nó, những biểu tượng thay thế cho
một thế giới khác chứ không phải là truy tầm ý nghĩa của kí hiệu (bởi ký hiệu
trong văn bản chỉ là cái biểu đạt không hơn không kém). Xa hơn, mục đích
của diễn giải xét cho cùng không phải trả lời cho câu hỏi “là cái gì” (ý nghĩa
văn bản là gì) mà là câu hỏi “như thế nào” (văn bản được tổ chức như thế
nào). Như thế, khả năng diễn giải của văn bản sẽ kéo dài đến vô tận. Umberto
Eco cho rằng một “tác phẩm mở” là một tác phẩm mang khả tính vô hạn của
những mối liên hệ bên trong nó và mở ra cho người đọc một sự diễn giải văn
bản không ngừng. Diễn giải không chỉ mở rộng văn bản ra thế giới liên văn
bản rộng lớn (intertextuality): “mỗi cuốn sách mới mà tôi đọc đều hóa ra là
một phần của cuốn sách tổng thể và hợp nhất vốn là tổng hòa các sự đọc của
tôi” [10; tr.395], mà diễn giải còn tạo nên “thế giới”, đưa thế giới vượt thoát
khỏi những giới hạn chật hẹp.
Sự diễn giải không bao giờ là thuần nhất. Nó mang tính phức hợp cao độ,
nhất là trong những tác phẩm mà mối liên hệ bên trong của nó tạo thành một
thế giới đa phương và đa tầng, hỗn độn hơn là trật tự, đa thanh hơn là đơn
giọng, tối tăm hơn là sáng rỡ, mơ hồ hơn là cụ thể, vận động hơn là tĩnh tại…
Diễn giải vì thế trở thành một điều gì đó rất khó khăn: “Điều bạn muốn là
khơi mở một không gian và thời gian trừu tượng và tuyệt đối trong đó bạn có
thể dịch chuyển, dấn mình theo một quỹ đạo chính xác, rành mạch; nhưng
giữa khi có vẻ như đang dịch chuyển như mình muốn, bạn nhận ra rằng mình
bất động, bị chắn đường, buộc phải lặp lại tất cả từ đầu” [10; tr.44]. Sự diễn
giải đôi lúc khiến ta cảm thấy như nắm bắt được thế giới bên trong tác phẩm
theo một lối rõ ràng nhưng ngay sau đó lại bất lực cảm thấy thế giới ấy trôi
tuột qua kẽ tay. Vì thế, diễn giải không bao giờ là một lần duy nhất. Người
đọc có thể đọc nhiều lần cùng một tác phẩm hoặc có thể chỉ đọc một lần duy
nhất: “có lẽ đối với bạn, mỗi cuốn sách đều trở nên đồng nhất với việc bạn
đọc nó vào một thời điểm nhất định, một lần và mãi mãi. Và cũng như bạn
lưu giữ những cuốn sách đó trong ký ức” [10; tr.224], nhưng diễn giải thì
không bao giờ chỉ có một lần, diễn giải luôn là mãi mãi.
Tuy nhiên, tiến trình diễn giải không chỉ có người đọc. Người đọc hoàn toàn
tự do diễn giải trong trò chơi vô lượng của văn bản. Nhưng điều đó không có
nghĩa rằng tác phẩm không còn là tác phẩm của tác giả nữa. Khi tuyên bố
“tác giả đã chết”, Barthes giải phóng người đọc ra khỏi sự chi phối của một
cái “tôi” tác giả đầy quyền uy bên trong tác phẩm, trao cho người đọc quyền
tự do tuyệt đối trong quan hệ với văn bản, trong tính vô tận về diễn giải của
riêng mình. Nhưng điều đó không có nghĩa là tác phẩm là một cái gì đó thuộc
về hư vô, tác phẩm không thuộc về bất cứ tác giả nào cả. Eco khẳng định tác
giả mang đến cho người đọc một tác phẩm cần được “trình diễn”, cần được
hoàn thành nhưng tác giả vẫn biết đó là tác phẩm của mình. Khi người đọc
đưa ra vô vàn hình thức “trình diễn” tác phẩm thì vẫn có một hình thức thuộc
về tác giả.
Trong bối cảnh liên văn bản, tác giả - văn bản - người đọc hợp thành một
trường thống nhất cùng tham gia vào trò chơi của sự viết: “tôi tự nhủ rằng kết
quả của cái nỗ lực phi tự nhiên mà tôi tự buộc mình làm, sự viết, ắt phải là sự
hít thở của người độc giả này, hành động đọc trở thành một quá trình tự
nhiên, cái dòng chảy mang các câu đến nhập vào sự chú tâm của nàng như
một bộ lọc, dừng một thoáng trước khi được hấp thu bởi những mạch tuần
hoàn của tâm trí nàng rồi biến mất, chuyển hóa thành những bóng ma bên
trong nàng, thành cái mà ở trong nàng riêng tư nhất và khép kín nhất” [10;
tr.262]. Mối quan hệ giữa nhà văn và người đọc là một mối quan hệ vô cùng
phức tạp nhưng có một thực tế không thể phủ nhận được là cả hai là tiền đề
tồn tại của nhau.Viết và đọc trở thành hai tiến trình vừa song hành vừa giao
cắt trong trò chơi ngôn từ. Tác giả dù đã chết nhưng biểu tượng mà tác giả
sáng tạo vẫn còn lưu lại dấu vết trong thế giới văn bản và người đọc sẽ để lại
dấu vết của mình trên dấu vết ấy, những dấu vết chồng chất, đan xen vào
nhau tạo thành những diễn giải vô tận: “đôi khi lòng tôi choáng ngợp một ước
muốn phi lý: sao cho câu văn tôi sắp viết sẽ là câu văn người đàn bà kia đọc
ngay chính tại thời điểm đó” [10; tr.262, 263]; “nghĩa là không phải viết nàng
mà viết cái sự đọc của nàng, viết gì cũng được nhưng viết mà luôn nghĩ rằng
nó phải đi qua sự đọc của nàng” [10; tr.266]. Sự viết của nhà văn phải đi qua
thế giới của người đọc. Thực ra, trong sự viết của mình, nhà văn không thể
nào thiếu vắng hình ảnh của một “người đọc tiềm ẩn” (implied reader). Sự
viết ấy không hề cô độc hoàn toàn. Trong không gian huyễn tưởng của mình,
nhà văn hình dung ra người đọc, giống như nhân vật Silas Flannery ngắm
nhìn và tưởng tượng về Người đọc Nữ của mình. Hình ảnh ấy đã chuyển hóa
vào trong tác phẩm, làm nảy lên ước muốn nơi nhà văn là truyền đạt ngay
điều mình sáng tạo cho người đọc như một sự tương thông hoàn toàn trong
trò chơi viết và đọc. Từ đây, ta thấy trò chơi văn chương là một trò chơi sáng
tạo chung và niềm hứng khởi từ sự giao hòa trong trò chơi ấy sẽ mang lại cái
mà Barthes gọi là “khoái lạc văn bản” (plaisir du text).
Mỗi một tác phẩm là một “mẫu đời sống mới” (M. Kundera) và bất cứ một
diễn giải nào về nó cũng sẽ mở rộng thêm cho ta sự trải nghiệm đời sống.
Cho nên diễn giải, cũng giống như đời sống, không ngừng trôi chảy. Không
thể có một diễn giải là chân lý cuối cùng bởi bất kỳ sự ổn định và tĩnh tại nào
của diễn giải đều chứng minh nó đã nằm ngoài mọi sự sống. Và đa diễn giải
sẽ đảm bảo cho sự tồn tại của những “tiểu tự sự” (petits – récits), để cuối
cùng làm nên một thế giới đa nguyên, đa trị và dân chủ.
3.3. Giễu nhại (parody) và nghiêm trang (seriousness)
Một trong những đặc trưng của chủ nghĩa hiện đại là nỗ lực xây dựng chân
giá trị và tính nghiêm trang của tiểu thuyết. Vì thế, nó không ngừng tìm tòi
thủ pháp mới có thể diễn đạt được một thực tại bề sâu. Bọn làm bạc giả của
André Gide là một cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho tinh thần của chủ nghĩa hiện
đại. Thể nghiệm hình thức nhật ký và tiểu thuyết về tiểu thuyết, Gide bộc lộ
một suy tư về đời sống phức tạp, đa đoan và làm thế nào để thể hiện được đời
sống ấy trên trang giấy. Trong khi đó, tiểu thuyết hậu hiện đại lại mang bộ
mặt của cái hài và giễu nhại, một phần vì nó chấp nhận bản thân đời sống và
thích vui đùa với đời sống ấy, phần khác vì nó luôn chứa đựng một sinh lực
từ sự tra vấn lại những giá trị của quá khứ.
Sự giễu nhại trong tiểu thuyết Nếu một đêm đông có người lữ khách không
chỉ là sự bắt chước một cách hài hước phong cách hay thủ pháp của một tác
phẩm hay một trào lưu nào đó, nó còn đề cập đến những vấn đề có mối quan
hệ gắn bó với văn chương theo mối lối hài hước và châm biếm. Bên cạnh
việc giễu nhại thỏa ước của tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa và cả thỏa ước
của chính bản thân, tác phẩm này còn giễu nhại mối quan hệ của văn chương
với xuất bản, chính trị, xã hội tiêu dùng cùng nền sản xuất hàng loạt và nhất
là mối quan hệ của văn chương với dịch thuật như là những biểu trưng cho
“giả tượng” (simulacres).
Những bình luận về xuất bản của Italo Calvino trong cuốn tiểu thuyết này
cho thấy ngành thương mại xuất bản sách đã phát triển đến mức phì đại, đôi
lúc nó không thể tự kiểm soát nổi chính mình. Người đọc tìm đến nhà xuất
bản, hỏi về những cuốn tiểu thuyết mà anh ta đang đọc dang dở để yêu cầu
nhà xuất bản đáp ứng quyền lợi chính đáng của mình, nhưng cuối cùng, trải
qua một cuộc trò chuyện đầy khó khăn với người biên tập bị nhấn chìm trong
đống công việc in ấn bản thảo Cavedagna, anh ta chỉ nhận được một câu trả
lời bất lực và những giải thích dông dài về một tay dịch giả “siêu lừa đảo”
nào đó cùng một mớ bản thảo của một cuốn tiểu thuyết mới. Trong cái nhìn
của anh ta, ngành xuất bản ngày càng rời xa văn chương để đến với những
loại sách khác, mang tính thực dụng hơn và đó là một thực trạng đáng buồn.
Sự phì đại của thương mại xuất bản làm chúng ta sống trong một thế giới
ngập tràn đủ mọi loại sách. Biên độ lựa chọn của chúng ta ngày càng mở
rộng, kéo theo vấn đề là làm thế nào để chọn được một cuốn sách đúng?
Chúng ta đọc gì trong thế giới ngày hôm nay? Hay việc lựa chọn của chúng
ta không còn bất cứ sự định hướng nào nữa? Bằng giọng điệu hài hước, khích
lệ, Calvino chỉ dẫn Người đọc của mình đương đầu với mọi trở ngại trong
cuộc săn lùng sách, vượt qua hàng tá những cuốn sách đầy mời gọi và khiến
ta phân tâm để chọn được một cuốn sách đúng. Cuốn sách ấy còn gì khác hơn
một tiểu thuyết, tác phẩm mới Nếu một đêm đông có người lữ khách của
Italo Calvino!
Thế nhưng mối quan hệ của sách và văn chương với thương mại xuất
bản không đáng ngại như mối quan hệ với chính trị. Trong tác phẩm này,
chúng ta nhận thấy sự châm biếm của Calvino đối với sự kiểm duyệt sách và
sự đàn áp văn chương của những chế độ toàn trị, dù rằng ông vẫn giữ dáng vẻ
bình thản và thâm trầm trong giọng điệu tiết chế của mình, chứ không lên
giọng giật gân hay gay gắt. Cuộc trò chuyện của Người đọc với viên thống
đốc Arkadian Porphyrich cho thấy thân trạng đáng buồn của văn chương dưới
sự áp chế của chính trị: “có con số thống kê nào cho phép nhận diện những
đất nước nơi văn chương thực sự được lưu tâm một cách rõ ràng hơn là
những con số tổng gộp thích hợp cho việc kiểm soát văn chương và đàn áp
văn chương?” [10; tr.365]. Chi tiết tấm bản đồ phân chia các nước theo tiêu
chí mức độ kiểm duyệt sách và chi tiết cảnh sát giật lấy cuốn sách từ trong
tay Người đọc cho thấy tính hệ thống, quy mô và quyền uy tuyệt đối của chế
độ toàn trị trong việc kiểm soát và triệt tiêu tính tự do, dân chủ của văn
chương. Sự kiểm soát này còn có mưu đồ bắt văn chương phục vụ cho chính
trị và xem sách như là công cụ để thực hiện mục đích đó: “tổng thống yêu
cầu tác giả cam kết viết một cuốn tiểu thuyết ngõ hầu biện chính cho sự đăng
quang như bậc đế vương của nhà lãnh đạo này cũng như ý đồ của ngài là
chiếm cứ các lãnh thổ lân cận” [10; tr.184].
Một chế độ sẵn sàng bỏ tù bất cứ ai đọc một cuốn sách cấm (bị cấm
không vì bất cứ lý do gì), một chế độ khiến con người thờ ơ với sách, với văn
chương còn có thể được cứu vãn hay không và bằng cách nào? Dường như
Calvino không quá tuyệt vọng trước thực trạng đó bởi ông tin vào niềm vui
thích của sự đọc luôn ẩn chứa trong mỗi con người, được biểu lộ qua hình
ảnh nhân vật viên thống đốc đứng đầu cơ quan cảnh sát: “nếu con người này
vẫn tiếp tục nuôi dưỡng một khát vọng và một nỗi hiếu kỳ đối với sự đọc, thì
có nghĩa là bên trong những tờ giấy có chữ viết được lưu hành vẫn còn cái gì
đó không phải do các chính quyền quan liêu đầy quyền lực bịa tạc ra hay là
thao túng, rằng bên ngoài các văn phòng này có một cõi ngoài vẫn đang hiện
hữu…” [10; tr.368]. Thế giới vẫn tiếp tục tồn tại, bất chấp mọi áp chế chừng
nào con người không quay lưng với niềm vui của sự đọc, chừng nào con
người vẫn giữ được lòng nhiệt thành, hiếu kỳ đối với sách và văn chương.
Khác với chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại không bao giờ phủ nhận
mối quan hệ của nó với văn hóa đại chúng, xã hội tiêu dùng và khoa học công
nghệ nhưng liên tục truy vấn những giá trị của chúng và sự ảnh hưởng của
chúng đối với văn chương. Trong tác phẩm này, Calvino đã giễu nhại sự tác
động tiêu cực của xã hội tiêu dùng đối với văn chương: “tiểu thuyết mà ở đó
các nhãn hiệu rượu mà nhân vật cần uống, các điểm du lịch cần được ghé
thăm, các sáng tạo thời trang cao cấp, trang thiết bị, đồ dùng này nọ thảy
đều được ấn định trong các hợp đồng thông qua các công ty quảng cáo
chuyên nghiệp” [10; tr.185]. Tiểu thuyết trong xã hội tiêu dùng cũng không
tránh khỏi thân phận hàng hóa và buộc phải mang một giá trị thực dụng. Và
người đọc, trong một thế giới mà khoa học công nghệ phát triển vượt bậc và
máy móc chiếm vị trí quan trọng không kém gì con người, sẽ phải biến thành
vật “thí nghiệm” bất đắc dĩ: “ở New York, trong phòng đối chứng, độc giả bị
cột chặt hai cổ tay vào ghế, với áp kế và một cái đai để nghe ngóng những
âm thanh trong cơ thể…chủ thể phải là người có thị lực tốt và thần kinh
mạnh, để có thể đọc liên tục không ngừng các tiểu thuyết và dị bản tiểu
thuyết ngay khi chúng được máy tính sản xuất ra. Nếu sự chú ý đọc đạt đến
mức cao nhất định thì sản phẩm đủ chất lượng và có thể đưa ra thị trường”
[10; tr.196]. Calvino đã nhìn thấy thân phận của văn chương trong thời đại
của ông cũng như trong thời đại của chúng ta và ông đã không nén nổi một
cái cười giễu cợt, vạch ra một cách hài hước mà cũng đầy châm biếm “số
phận trớ trêu” của văn chương trong thế giới của xã hội tiêu dùng, văn hóa
đại chúng và khoa học công nghệ cao.
Không chỉ mang thân phận hàng hóa và vật thí nghiệm, văn chương còn là
nạn nhân của ngụy tạo. Thông qua hình ảnh của gã dịch giả Ermes Marana,
Calvino đã nói lên điều đó. Tất cả mọi sự xáo trộn, lầm lẫn đều do âm mưu
xảo trá của gã dịch giả. Nhưng hơn cả việc nói lên một tiểu thuyết cũng giống
như một thứ ngụy thư, nhà văn còn muốn bộc lộ quan niệm về thế giới như là
ngụy tạo của mình: “vì vậy tôi có thể là hiện thân cho cái mà với gã là tác giả
lý tưởng, nghĩa là, kẻ tác giả vốn đã phân tán vào đám mây những hư cấu
bao trùm thế giới bằng cái vỏ bọc dày của nó. Và bởi với gã sự trá ngụy là
chân tánh của mọi thứ, nên tác giả nào làm ra được một hệ thống hoàn hảo
những trá ngụy thì có thể hợp nhất mình với toàn thể” [10; tr.279]. Cái triết
lý ngụy biện cho hành động của gã dịch giả, sự trá ngụy là chân tánh của mọi
thứ, cũng không phải là hoàn toàn vô lý trong “hiện thực thậm phồn” (hyper
– reality) mà chúng ta đang sống. Cái biểu đạt xâm nhập và phá hủy hoàn
toàn cái được biểu đạt. Hình ảnh chất chồng lên nhau tạo thành thứ hình ảnh
“phi căn nguyên” (non – original). Cuối cùng chỉ còn lại thế giới của “giả
tượng” (simulacres): “quá trình giả hóa một khi nó được khởi sự vận hành là
sẽ không dừng lại. Chúng ta đang ở trong một đất nước cái gì làm giả được
thì đã làm giả rồi: tranh trong viện bảo tàng, vàng thỏi, vé xe buýt. Phản
cách mạng và cách mạng đánh nhau với những đòn giả hóa: hệ quả là không
còn ai biết chắc cái nào thực cái nào giả, cảnh sát chính trị bắt chước những
hành động cách mạng còn các nhà cách mạng thì ngụy trang làm cảnh sát”
[10; tr.328]. Điều đó khiến ta suy xét lại những giá trị của truyền thống siêu
hình học vốn luôn dựa trên các cặp nhị phân khái niệm và sự phân loại, đánh
giá rạch ròi chân giá trị của chúng. Chân – giả, cách mạng – phản cách mạng
hay những cặp giá trị tương tự như thế đều không còn có thể phân định được
trong thế giới thậm phồn. Nhưng đằng sau sự chất chồng của những ngụy tạo
ẩn chứa sự chi phối của toàn thể, quyền lực, cái dẫn con người đi đến chỗ cực
đoan: “chức năng của bạn đã bị nhanh chóng quy giản thành chức năng của
kẻ ghi nhận lại những hoàn cảnh do kẻ khác định đoạt, phó mình cho những
hành động bốc đồng, thấy mình bị cuốn vào những sự kiện ngoài khả năng
kiểm soát của mình” [10; tr.337]. Nhân vật Lotaria là một biểu trưng cho sự
cực đoan đó.
Siêu tiểu thuyết trong Nếu một đêm đông có người lữ khách tỏ ra thích thú
khi giễu nhại bản thân văn chương. Câu chuyện khôi hài về sự ganh đua giữa
nhà văn mắn chữ và nhà văn phu chữ dẫn đến hành động bắt chước phong
cách của nhau và sau đó, một loạt những tình huống kết thúc có thể xảy ra thể
hiện tiếng cười giễu cợt xóa nhòa ranh giới giữa văn chương “vì văn chương”
và văn chương “vì thị hiếu công chúng”. Sự giễu nhại càng lộ rõ khi siêu tiểu
thuyết trong tiểu thuyết này giễu nhại những thỏa ước của văn chương truyền
thống. Hành trình truy tìm những chương tiếp theo của cuốn tiểu thuyết dang
dở là một sự giễu nhại đối với thỏa ước truyện kể của chủ nghĩa hiện thực,
một truyện kể luôn có điểm bắt đầu và kết thúc. Thông qua việc nhái phỏng
tác phẩm Nghìn lẻ một đêm, tiểu thuyết này nhấn mạnh thêm sự giễu nhại
đó. Hình ảnh của Sultan phu nhân (gợi nhắc đến hình ảnh của nàng
Shahrazad) và câu chuyện bịa đặt về giáo chủ Haroun al-Rashid đã làm hiển
lộ tinh thần của truyện kể phương Đông, tinh thần không ngừng theo đuổi
truyện kể thông qua việc tạo lập nên yếu tính bất tận của những truyện kể
không có kết thúc bằng cách lồng ghép chúng vào nhau.
Thế nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Nếu một đêm đông có người lữ khách
còn giễu nhại cả chính bản thân mình, giễu nhại truyện kể ở ngôi thứ hai:
“chớ tin rằng cuốn sách đang buông lơi bạn, Người đọc ạ. Từ “bạn” mà nãy
giờ được chuyển sang người đọc nữ có thể lại chuyển sang nói về bạn ở bất
cứ câu nào. Bạn luôn luôn là một “bạn” khả hữu. Ai mà dám kết án bạn để
cho bạn mất đi cái “bạn” ấy, một tai họa kinh khủng chẳng khác gì mất đi
cái “tôi”. Để một diễn ngôn ở ngôi thứ hai trở thành tiểu thuyết thì ít nhất
cũng phải có hai bạn, vừa khác biệt vừa song hành, đứng hằn ra ngoài cái
đám đông những chàng, những nàng, những họ” [10; tr.226]. Sự giễu nhại
của siêu tiểu thuyết trong tiểu thuyết này đã đi đến chỗ tự giễu nhại, tức là tự
tra vấn và hoài nghi chính mình.
Có thể xem giễu nhại như một thủ pháp “lạ hóa” (defamiliarization) nhằm tra
vấn lại giá trị của hiện tồn văn chương trong quá khứ và thân trạng của cái cũ
trong hoàn cảnh lịch sử của cái mới. Đây là thủ pháp phổ biến trong tiểu
thuyết hậu hiện đại. Việc tái sử dụng những phương thức truyền thống bằng
giễu nhại chính là một trong những nguồn lực khiến cho tiểu thuyết không
những không chết mà ngày càng “nảy nở” thêm.
Thế giới như là hư cấu, sự đọc là đa diễn giải và giễu nhại là sự xét lại là
những gì mà siêu tiểu thuyết hậu hiện đại muốn bộc lộ thông qua tiểu thuyết
Nếu một đêm đông có người lữ khách của Italo Calvino. Từ đây, ta có thể
thấy siêu tiểu thuyết không chỉ đơn thuần biểu hiện khuynh hướng thích tự
ngắm vuốt mang tính tiêu cực. Vấn đề mà nó đặt ra là một câu hỏi lớn hơn ta
tưởng. Đó là sự tra vấn không ngừng bản chất của đời sống và hiện tồn của
xã hội. Mọi thứ đều là kiến tạo mang tính chất tương đối của con người,
không có bất kỳ một chân lý tuyệt đối nào. Phản tỉnh chúng ta về cái nhìn cực
đoan và xác tín bằng sự hoài nghi về bản thể đời sống, đó chính là sự hiền
minh của tiểu thuyết.
MỤC LỤC
DẪN NHẬP
1.Lý do chọn đề
tài.................................................................................................................. 4
2.Lịch sử nghiên cứu vấn
đề..................................................................................................... 5
3.Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu.......................................................................................... 7
4.Phương pháp nghiên
cứu....................................................................................................... 8
5.Kết cấu đề
tài.......................................................................................................................
8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1. Về nhà văn Italo Calvino và tiểu thuyết Nếu một đêm đông có người lữ
khách.............. 10
1.2. Về khái niệm “siêu hư cấu”
(metafiction).......................................................................... 12
CHƯƠNG 2: NẾU MỘT ĐÊM ĐÔNG CÓ NGƯỜI LỮ
KHÁCH VÀ HÀNH TRÌNH KHÁM PHÁ TỰ NGÃ CỦA
TIỂU THUYẾT
2.1. Tiểu thuyết và cuộc phiêu lưu vào xứ sở biến hình trong Nếu một đêm
đông có người lữ
khách..................................................................................................................
............................. 21
2.1.1. Cuộc du hành của tiểu
thuyết.................................................................................... 21
2.1.2. Nếu một đêm đông có người lữ khách và tiểu thuyết trong “sự biến
hình”
(metamorphoses).................................................................................................
.............. 26
2.2. Siêu tiểu thuyết trong Nếu một đêm đông có người lữ khách: tiểu thuyết
- tự ngắm mình trong gương hay đối thoại với tự
ngã?................................................................................................ 29
2.2.1. Nhà văn và trò chơi huyễn tưởng của
viết................................................................. 31
2.2.2. Đọc như một niềm vui và đọc trong niềm cô đơn - niềm ân
ái.................................... 36
2.2.2.1. Niềm vui (delight) của sự
đọc.......................................................................... 36
2.2.2.2. Đọc trong niềm cô đơn và đọc như niềm ân
ái................................................. 39
CHƯƠNG 3: NẾU MỘT ĐÊM ĐÔNG CÓ NGƯỜI LỮ
KHÁCH VÀ SIÊU TIỂU THUYẾT CỦA CHỦ NGHĨA
HẬU HIỆN ĐẠI
3.1. Mối quan hệ của hư cấu và thực tại: hư cấu về một thực tại và thực tại
như là hư cấu......... 43
3.1.1. Hư cấu về một thực
tại............................................................................................ 44
3.1.2. Thực tại như là hư
cấu............................................................................................. 46
3.2. Đọc và diễn giải
(interpretation)......................................................................................... 52
3.3. Giễu nhại (parody) và nghiêm trang
(seriousness)............................................................... 57
KẾT
LUẬN.........................................................................................
.................................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
[1] Linda Hutcheon (1988), A poetics of Postmodernism, History – Theory –
Fiction, Routledge, London and New York.
[2] Italo Calvino (Hoàng Ngọc Tuấn dịch), Tính cách bội trương trong văn
chương tương
lai,
work&artworkId=138
[3] Cách dịch khái niệm “metalepsis” của nhà văn, nhà nghiên cứu Nhật
Chiêu.
[4] Phần 2.2.2.1. Niềm vui (delight) của sự đọc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_ngon_ngu_hoc_13__4225.pdf