Lời giới thiệu
1. Bối cảnh nghiên cứu
Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm khoảng 50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần 100.000 hộ do bão lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế giới thì tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với ngưỡng nghèo của thế giới.
2. Mục đích nghiên cứu
Với một tỷ lệ không nhỏ số dân đang sồng trong cảnh cùng cực, Việt Nam sẽ khó thực hiện được tiến trình CNH-HĐH đất nước. Vấn đề đặt ra là phải làm sao đẩy lùi được tình trạng đói nghèo xuống. Nhưng muốn có những chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo hiệu quả thì nhất thiết phải hiểu được những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng nghèo đói của Việt Nam. Nhận thức được yêu cầu bức thiết đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đi sâu vào thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, các nguyên nhân làm cho một số người rời vào cảnh khối cùng, các mối quan hệ giữa nghèo đói với công bằng xã hội, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng khác nhau. Nghiên cứu này còn giúp ta hiểu thêm mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo đói ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao đến chất lượng cuộc sống của người dân, cũng như sự cải thiện vị thế của quốc gia. Cuối cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng để giúp xoá đói giảm nghèo hiệu quả hơn.
50 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 26488 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghèo đói ở Việt Nam, thực trạng nguyên nhân và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áo của WB trong cuộc
toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội, 15-16/2/2000 thì
tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam năm 1993 là 58,1% giảm xuóng 34,4% năm 1998
và hiện nay còn khoảng 30%. Theo Bộ LĐTBXH thì tỷ lệ nghèo đói của Việt
Nam là 26,0% năm 1993 giảm xuống 15,7% năm 1998 và hiện nay còn
khoảng 11%. Qua các số liệu thống kê trên ta thấy, dù đánh giá tỷ lệ nghèo
đói của Việt Nam bằng phương pháp nào thì Việt Nam vẫn có tốc độ giảm
nghèo rất nhanh, đã từng được cộng đồng quốc đánh giá có một trong những
nước có, tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, xét trên tổng thể,
Việt Nam vẫn là một nước nghèo, phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa
các thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có xu hướng
gia tăng và gay gắt. Trong báo cáo chính trị tại đại hội VIII Đảng cộng sản
Việt Nam cũng đã chỉ rõ: “Đến nay nước ta vẫn là một trong những nước
nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu
quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần
nhiều, việc làm là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa
các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và
kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn”.
• So sánh nghèo đói theo vùng
Bảng 2.1. Diễn biến nghèo đói theo vùng ở Việt Nam
Vùng 1996 1997 1998
Số hộ nghèo
đói
Tỷ lệ Số hộ
nghèo đói
Tỷ lệ Số hộ
nghèo đói
Tỷ lệ
1. Miền núi và Trung
du Bắc bộ
695.503 27,24 638.400 25,32 570.445 22,89
2. Đồng bằng sông
Hồng
330.519 11,01 302.460 9,81 272.160 8,38
3. Bắc Trung bộ 609.372 30,80 544.926 27,84 500.225 24,62
4. Duyên hải miền
Trung
413.660 23,14 358.260 22,44 291.815 17,8
5. Tây Nguyên 188.876 29,45 180.400 27,84 172.915 25,65
6. Đông Nam Bộ 116.728 6,17 103.900 5,50 91.400 4,75
7. Đồng bằng sông
Cửu Long
502.912 16,25 190.750 15,60 189.090 15,37
Cả nước 2.857.122 19,23 2.622.906 17,68 2.387.050 15,7
Nguồn: Nguyễn Hải Hữu “Nghèo đói ở Việt Nam. Chính sách và giải
pháp”. Hội thảo, toạ đàm về chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam. Việc làm và
xoá đói giảm nghèo. Bộ LĐTB-XH, năm 1999.
Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ nghèo đói ở các vùng cũng có sự khác biệt
đáng kể. Vùng Bắc Trung Bộ (24,62%) và vùng Tây Nguyên (25,65%) là hai
vùng có tỷ lệ nghèo đói cao nhất, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo đói thấp
nhất 4,75%. ở đây có sự chênh lệch giữa các vùng có tỷ lệ nghèo đói cao với
vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp gần 5 lần. Đồng thời cũng dễ dàng nhận thấy
người nghèo tập trung nhiều nhất ở vùng trung du và miền núi phía Bắc
570.145 hộ chiếm 23,9%, tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ có 500.225 hộ chiếm
20,9%, Đồng bằng sông Cửu Long có 489.050 hộ chiếm 20,51%, cả bốn vùng
còn lại chỉ chiếm 34,7%.
Xét trong từng vùng, giữa các tỉnh tỷ lệ nghèo đói cũng sự khác biệt. Tại
vùng Tây Nguyên, tỷ lệ nghèo đói của Lâm Đồng là 15,89%; Đắc Lắc là
26,44%; nhưng Gia Lai là 44,85% và Kon Tum là 54,4%. Tỷ lệ này chênh
lệch tới 3,4 lần giữa tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất so với tỉnh có tỷ lệ nghèo
đói thấp nhất. Nếu lấy chuẩn mực tối thiểu để so sánh thì một số tỉnh như
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu có tỷ lệ nghèo đói đều
dưới 5% trong khi đó một số tỉnh có tỷ lê nghèo dói cao như Hoà Bình 55,7%;
Kon Tum 54,5%; Quảng Bình 46%; Gia Lai 44,85%; Lai Châu 42,4%; Sơn La
40%. Tỷ lệ nghèo đói chênh lệch giữa các thành phố gần 10 lần. Theo báo cáo
của địa phương, hiện nay mới có 10 tỉnh, thành phố (chiếm 16%) có tỷ lệ
nghèo đói dưới 10% phân bố ở đồng bằng Sông Hồng 5 tỉnh Đông Nam Bộ 4
tỉnh, Đồng bằng Sông Cửu Long 1 tỉnh. Trong khi đó có 11 tỉnh có tỷ lệ nghèo
đói từ 50% trở lên (chiếm 18%) tập trung ở miền núi phía Bắc 5 tỉnh, Bắc
Trung bộ 3 tỉnh, Duyên Hải miền Trung 1 tỉnh, Tây Nguyên 9 tỉnh. Một số
huyện thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên có tỷ lệ
hộ nghèo đói rất cao từ 60-70%.
Theo đánh giá cả nhóm công tác các chuyên gia chính phủ cho thấy 40%
người nghèo của Việt Nam sống tập trung tại ba khu vực: miền núi phía Bắc
28%; Đồng bằng sông Cửu Long là 21% và Bắc Trung Bộ là 18%. Như vậy sự
khác nhau về tỷ lệ nghèo ở các vùng, các tỉnh, thành phố cho thấy khả năng
bứt phá, vươn lên của các vùng, tỉnh, thành phố là khác nhau. Nơi nào có điều
kiện phát triển nhanh, nơi đó có tỷ lệ giảm nghèo nhanh.
• So sánh thu nhập bình quân đầu người tháng theo vùng ở Việt Nam
(tính theo giá hiện hành)
Đơn vị: 1000 đồng
Vùng 1994 1995 1996 Tỷ lệ hộ
nghèo 1996
Tỷ lệ hộ
giàu 1996
Cả nước 176,47 206,10 226,70 17,81 3,67
Miền núi và trung du Bắc Bộ 133,63 160,65 173,76 23,69 1,36
Đồng bằng sông Hồng 170,88 201,18 223,30 12,09 2,94
Bắc Trung bộ 135,02 160,21 174,05 23,31 1,42
Duyên hải miền Trung 154,96 176,03 194,66 16,37 1,63
Tây Nguyên 197,71 241,14 165,60 27,77 5,25
Đông Nam bộ 291,85 338,91 378,05 8,09 11,94
Đồng bằng sông Cửu Long 203,90 221,96 242,31 16,30 4,61
Nguồn: “Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm góp phần xoá đói giảm
nghèo trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”.
Đề tài cấp Bộ Khoa học quản lý kinh tế, Học viện CTQG HCM, Hà Nội 1997,
trang 43.
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy 2 miền có thu nhập bình quân đầu
người thấp nhất là miền núi và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung bộ cũng là nơi
có tỷ lệ nghèo đói cao và tỷ lệ hộ giàu thấp. Đông Nam bộ là vùng có thu nhập
bình quân đầu người cao nhất đồng thời cũng có tỷ lệ số hộ nghèo thấp nhất
và tỷ lệ số hộ giàu cao nhất. Tuy nhiên, không phải lúc nào thu nhập cũng tỷ
lệ thuận với mức giảm nghèo. ở đồng bằng sông Hồng, thu nhập đứng thứ 4
trong 7 vùng nhưng lại có tỷ lệ nghèo rất thấp, đứng thứ 2. Trong khi đó, Tây
Nguyên có mức thu nhập bình quân đứng thứ 2 nhưng lại có tỷ lệ nghèo đói
cao nhất trong 7 vùng. Như vậy, có sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm
dân cư trong 1 vùng.
• Chênh lệch thu nhập giữa các vùng và các nhóm dân cư.
Bảng 2.3. Thu nhập năm theo giá so sánh bình quân đầu người theo
nhóm hộ và theo vùng kinh tế
Đơn vị: 1000đ
Khu vực VùngChung
Thành thị Nông thôn Miền núi
và trung
du Bắc Bộ
ĐB Sông
Hồng
Bắc Trung
Bộ
Duyên hải
miền
Trung
Tây
Nguyên
Đông
Nam bộ
ĐB sông
Cửu Long
Tổng cộng
chung
Phân theo
nhóm hộ*
3146 7142 2188 2133 3189 2377 2619 2590 6004 2915
1 806 926 804 733 833 863 868 718 628 745
2 1489 1550 1487 1465 1512 1481 1494 1498 1506 1487
3 2177 2235 2173 2184 2190 2165 2180 2131 2218 2151
4 3272 3360 3257 3258 3234 3257 3200 3265 3382 3280
5 7914 9617 6625 6596 8282 6716 6436 7248 9351 6839
Nhóm 5 so
với nhóm 1
(lần)
9,9 10,39 8,24 8,11 9,94 7,79 7,12 10,09 14,89 9,18
Nguồn: TCTK - VLSS - 1998
* Phụ lục 2
Xét theo giá tại thời điểm điều tra, mức thu nhập của nhóm hộ 5 (nhóm
hộ giàu) nhiều gấp 6,73 lần so với nhóm hộ 1 (nhóm hộ nghèo). Tuy nhiên
nếu xét theo giá so sánh thì thấy mức thu nhập của nhóm 5 chung các vùng
lớn gấp 9,9 lần so với nhóm hộ 1. Theo các vùng kinh tế, vùng 1 là 8,11 lần;
vùng 2 là 9,91 lần; vùng 3 là 7,79 lần; vùng 4 là 7,42 lần; vùng 5 là 10,09 lần;
đặc biệt vùng 6 Đông Nam Bộ - có sự chênh lệch rất cao 14,89 lần; và vùng 7
là 9,18 lần. ở khu vực nông thôn là 8,21 lần và và ở khu vực thành thị là
10,39 lần.
Nhìn chung, sự phân tầng thu nhập giữa các nhóm hộ trong vùng với giữa
các vùng, giữa các khu vực có sự chênh lệch lớn so với các giai đoạn trước.
Bảng 2.4- Thu nhập bình quân đầu người/tháng
Nhóm 1994
(1000đ)
1995
(1000đ)
1996
(1000đ)
1995 so
với 1994
(%)
1996 so
với 1995
(%)
Nhóm 1 63,0 734,3 78,6 117,9 105,8
Nhóm 2 99,0 121,7 134,9 126,0 108,9
Nhóm 3 133,2 166,7 184,4 125,2 110,6
Nhóm 4 185,0 227,6 250,2 122,4 109,9
Nhóm 5 408,5 519,6 574,7 127,2 110,6
Nguồn: Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa “Kinh tế thị trường và sự phân
hoá giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” NXB
CTQG, 1998.
Theo bảng trên ta thấy, thu nhập bình quân đầu người/tháng của các
nhóm đều tăng lên nhưng nhóm 1 tăng chậm nhất. Làm cho khoảng cách về
thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày nay càng lớn tăng 5,8% hay 1,5 nghìn
đồng, nhóm 5 tăng 10,0% hay 55,7 nghìn đồng. Qua phân tích trên ta thấy khả
năng vươn lên để thoát ra khỏi sự tình trạng nghèo đói của nhóm 1 là rất khó
khăn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ rất lớn của Đảng, Nhà nước và cộng đồng.
• So sánh nghèo đói theo khu vực thành thị - nông thôn
Bảng 2.5 - Tỷ lệ nghèo ở thành thị và nông thôn
Đơn vị: %
Cả nước Thành thị Nông thôn
1993 1998 1993 1998 1993 1998
Tỷ lệ nghèo LTTP 24,9 15,0 7,9 2,3 29,1 18,3
Tỷ lệ nghèo chung* 58,1 37,4 25,1 9,0 66,4 44,9
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói (WB)
ở Việt Nam, nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, hiện
nay số người nghèo sống ở nông thôn là 90% (còn ở thành thị là 10%) trong
đó 45% sống ở dưới ngưỡng nghèo (theo WB) Việt Nam, tấn công nghèo đói).
Do thu nhập thấp, tăng trưởng kinh tế chậm nên chi tiêu thực tế của
người dân cũng tăng chậm. Ta có thể thấy điều này qua bảng sau.
• So sánh tăng trưởng chỉ tiêu theo vùng
Bảng 2.6- Tăng trưởng chi tiêu bình quân đầu người ở nông thôn và thành
thị (1993-1998)
Tăng trưởng chi
tiêu ở thành thị
(%)
Tăng trưởng chi
tiêu ở nông thôn
(%)
Chênh lệch
thành thị nông
thôn (%)
Chung cả nước 60,5 30,4 30,1
- Miền núi phía Bắc 65,8 26,9 38,9
- Đồng bằng sông Hồng 47,2 51,4 -4,2
- Bắc Trung bộ 86,4 37,2 49,2
- Duyên hải miền Trung 39,1 25,5 13,6
- Tây nguyên 24,8 -
- Đông Nam Bộ 78,1 59,1 19,0
- Đồng bằng sông Cửu Long 35,7 10,6 25,1
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói 12/1999. Ước tính của WB - dựa
vào số liệu VLSS93 và VLSS98.
Qua bảng trên có thể thấy tăng trưởng chi tiêu ở vùng nông thôn là tương
đối thấp (trừ đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ) Duyên Hải miền Trung
và Đồng bằng sông Cửu Long có mức tăng trưởng chi tiêu ở thành thị và cả ở
* Tỷ lệ nghèo chung bằng tỷ lệ nghèo LTTP + Tỷ lệ nghèo phi lương thực
nông thôn là thấp nhất. Chênh lệch thành thị và nông thôn ở Bắc Trung Bộ cao
nhất là 49,2%, ở đồng bằng sông Hồng thấp nhất -4,2%.
Mức tăng chi tiêu thể hiện chất lượng cuộc sống được cải thiện ở mức
nào chênh lệch giữa thành thị và nông thôn thể hiện khoảng cách chênh lệch
mức cải thiện đời sống giữa hai khu vực. Qua bảng trên ta thấy khoảng cách
này có nơi tương đối lớn thể hiện sự phân hoá giàu nghèo giữa 2 khu vực tăng.
Tóm lại, qua những phân tích ta thấy tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả
nước đã giảm nhưng vẫn ở mức cao 11%. Riêng ở nông thôn còn khoảng
20,87% hộ nghèo với khoảng 10 tiệu nông dân nghèo. Sự phân hoá giàu nghèo
giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng là tương đối phổ biến và có xu hướng
ngày càng tăng thu nhập bình quân của các nhóm dân cư tăng nhưng nhóm 2
tăng chưa đáng kể, cuộc sống của người dân nghèo đã được cải thiện nhưng
chưa nhiều. Ngưỡng nghèo của Việt Nam nói chung vẫn xa so với ngưỡng
nghèo của thế giới.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo
Để đánh giá được tình trạng đói nghèo ở nước ta, trước tiên cần phải tìm
hiểu các nhân tố tác động đến vấn đề nghèo đói. Có rất nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến nghèo đói, nó không chỉ đơn thuần là nhân tố về kinh tế hoặc thiên
tai, địch hoạ gây ra. Mà tình trạng đói nghèo ở nước ta có sự đan xen của cái
tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, của cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực
tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, cả tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội. Do đó cần
phải đánh giá đúng nguyên nhân, mức độ của từng nguyên nhân dẫn đến
nghèo đói đối với từng đối tượng cụ thể.
2.2.1. Nhóm nguyên tố thuộc về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội
• Vị trí địa lý không thuận lợi ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình phức
tạp (miền núi, hải đảo vùng sâu), không có đường giao thông. Đây cũng chính
là một nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng và địa
phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế
bị cô lập, tách biệt với bên ngoài, khó tiếp cận được các nguồn lực của phát
triển, như tín dụng, khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường... làm cho cuộc
sống của họ lạc hậu, khó phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cấp, tự túc là những
nhân tố khách quan tác động mạnh mẽ đến vấn đề nghèo đói.
• Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó, năng suất cây
trồng vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, làm cho thu nhập của người nông dân thấp,
việc tích luỹ và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc hầu như không có. Theo
các kết quả điều tra, đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân thì
thiếu đất canh tác hay đất đai khó làm ăn cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn
đến cảnh túng thiếu, đói ăn, đứt bữa của người dân đặc biệt là đối với các hộ
nghèo đói ở vùng núi. Hiện nay vấn đề thiếu đất sản xuất lương thực ở nước ta
(đặc biệt là đất lúa) ngày càng mang tính trầm trọng. Nguyên nhân này là do
dân số ngày càng đông nhưng đất nông nghiệp thì ngày càng bị thu hẹp làm
cho rất nhiều hộ nông dân không đủ tiềm lực để phát triển. Hiện nay nhiều nơi
ở vùng biển không có hoặc có không đáng kể đất trồng lúa, đây là nhân tố tác
động trực tiếp đến các hộ nghèo, có thể được coi là một trong những nhân tố
cơ bản làm cho những hộ này triền miên bị đói. Nhưng việc xoá đói không
phải bằng cách cấp đất sản xuất lương thực mà phải kết hợp nhiều biện pháp
khác. Đây cũng là một vấn đề đặt ra đối với các cấp lãnh đạo trong việc lựa
chọn các giải pháp thích họp giúp họ xoá đói, tức là phải làm gì để giúp họ có
thu nhập thì họ mới có khả năng tiếp cận được lương thực, thực phẩm.
• Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra đặc
biệt là bão, lut, hạn hán, cháy rừng, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời
sống của nhân dân. Trung bình 10 cơn bão, lụt một năm, lại thêm hạn hán,
mưa đá, cháy rừng, những cơn lốc xảy ra thường xuyên ở nhiều vùng đã là
nguyên nhân cơ bản làm cho khoảng 2 triệu người thiếu đói hàng năm. Tác
hại của bão lụt, hạn hán là rất lớn, nó luôn là kẻ thù đồng hành với những
người nghèo đói, nó có thể cướp đi cả tính mạng sống và tiền của con người.
Rất nhiều vùng và tỉnh đang trù phú nhưng chỉ sau một trận thiên tai gây ra
như lụt bão thì hàng nghìn hộ lại rơi vào cảnh thiếu đói, các công trình công
cộng, các cơ sở sản xuất và hạ tầng bị phá hỏng. Điển hình là trận lũ xảy ra
vào tháng 11 và tháng 12 năm 1999 ở các tỉnh miền Trung đã gây ra những
tổn thất to lớn về người và tài sản cho 7 triệu dân ở 7 tỉnh phá huỷ nhiều cơ sở
hạ tầng ở vungf này, ước tính thiệt hại do lũ lụt gây ra trên 3000 tỷ đồng, tác
độg trực tiếp đến đời sống vốn đã cơ hàn của người dân. Hậu quả của bão lụt
để lại là rất lớn không thể khôi phục lại được trong chốc lát mà phải trải qua
nhiều năm. Hiện nay hạnhán, thiếu nước, cháy rừng cũng được xem là vấn đề
nóng bỏng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng nghèo đói của người dân. Trong
cuối tháng 3 đầu tháng 4 vừa qua hạn hán xảy ra ở nhiều nơi tàn phá nhiều cây
lương thực và hoa màu. ở Đắc Lắc ước tính mỗi ngày có đến 250-300 ha bị
thiệt hại do hạn hán gây ra. ở tỉnh Kiên Giang ảnh hưởng của diện cháy rừng
là rất lớn hơn 4000 ha rừng U Minh Thượng bị tàn phá ảnh hưởng trực tiếp
đến 2700 hộ đói xung quanh vốn đã cơ cực, túng thiếu. Thêm vào đó tình
trạng thiếu nước sinh hoạt, thiếu nước tưới tiêu cũng là vấn đề rất khó khăn mà
những người dân nghèo gặp phải (hiện nay giá nước ở một số nơi lêntới trên
3000 đồng/1km với tình hình hiện nay, hiện tượng hạn hán, thiếu nước kéo
dài, cháy rừng xảy ra liên miên (như rừng Tràm, rừng U Minh Thượng, rừng
quốc gia Cà Mau) đang là vấn đề đặt ra rất cấp bách đối với các cấp chính
quyền là phải làm gì để cải thiện tình hình tốt hơn.
• Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém nhưng
không có thị trường, thị trường hoạt động yếu ớt hay thị trường không đầy đủ
cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình. Mặc dù
trong những năm gần đây chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư xây
dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, tuy nhiên cho
đến nay vẫn còn nhiều nơi xa. Đây là những nơi còn tiềm ẩn nhiều dấu hiệu
của đói nghèo lạc hậu. Những hộ ở đây không phải ai cũng được sử dụng điện.
Hệ thống tưới tiêu còn hạn chế, rất nhiều nơi chưa có trạm bơm. Việc tiếp cận
với nước sạch (nước máy) gần như không có, ngay cả nước giếng vẫn còn hạn
hẹp, rất nhiều hộ còn đang dùng nước sông, suối, nước mưa...
Trong sản xuất trồng trọt, khó khăn lớn nhất là hệ thống kênh mương
chưa phát triển nên không đủ nước tưới cho cây trồng, đặc biệt là cho lúa và
hoa mầu. Hiện nay ở nhiều nơi hệ thống kênh mương, cống đập, trạm bơm
chủ yếu vẫn còn tạm bợ, chưa kiên cố, có nơi xuống cấp nghiêm trọng tác
động trực tiếp đến việc giảm sản lượng năng suất cây trồng.
Về vấn đề cơ sở hạ tầng (như đường giao thông, điện, trường học, trạm y
tế, bệnh viện, bưu điện, chợ huyện...), thị trường (lao động, vốn, hàng hoá) vẫn
còn kém phát triển. Đặc biệt là các nhóm dân tộc thiểu số càng có ít cơ hội
tiếp cận với những dịch vụ trêngân hàng (theo hình.....). Điều này có thể thấy
rõ ở các vùng không có đường giao thông hoặc giao thông đi lại khó khăn thì
hầu như chưa có thị trường hoặc thị trường hoạt động quá yếu ớt. Nó đồng
nghĩa với việc họ bị đặt ra ngoài quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Từ những vấn đề trên, ta thấy, những người nghèo muốn vượt thoát khỏi
tình trạng nghèo đói trước hết phải được tiếp cận với thị trường, trên cơ sở đó
mới có thể tham gia vào sự vận động của kinh tế thị trường. Muốn thị trường
phát triển, bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế thì
việc phát triển giao thông cơ sở hạ tầng có ý nghĩa lớn góp phần nối các thị
trường trong nước lại với nhau, thúc đẩy thị trường phát triển tạo điều kiện cho
việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Hình 2.1.
• Nhân tố liên quan đến chiến tranh
Nhân tố chiến tranh có liên quan mật thiết đến yếu tố vị trí địa lý. Những
vùng trước đây là chiến tranh tàn phá nặng nề thì môi trường sống ở đây vẫn
chưa được phục hồi được hoàn toàn, đặc biệt các chất độc màu da cam, điôxin
do đế quốc Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh đã để lại di chứng nặng nề về
môi trường và con ngưoừi Việt Nam. Hơn 1,5 triệu người bị thương tật, hơn 1
triệu người già bị mất nguồn nuôi dưỡng do con cái thân nhân chết trong chiến
tranh. Trên 300.000 trẻ em bị mồ côi, hàng nghìn nạn nhân bị ảnh hưởng của
chất độc màu da cam. Đây là nhóm dân cư thường bị thiệt thòi và gặp rất
nhiều khó khăn trong cuộc sống. Họ dễ rơi vào tình cảnh nghèo đói. Không
một tỉnh, thành phố nào trong cả nước ta là không gánh chịu và phải giải
quyết hậu quả do chiến tranh để lại. Và việc giải quyết hậu quả này cũng
không thể một sớm mộtchiều mà có thể phải mất nhiều thập kỷ.
2.2.2. Nhóm nhân tố liên quan đến cộng đồng
• An ninh, trật tự:
Môi trường an ninh, trật tự có tác động đáng kể tới các hộ nghèo thực tế
cho thấy, tệ nạn xã hội thường đồng hành với nghèo đói. Nếu ở nơi nào tệ nạn
xã hội gia tăng, trật tự an ninh xã hội không đảm bảo thì ở đó khó có sự phát
triển kinh tế nói chung và của người nghèo nói riêng. Người nghèo nói chung
là nhóm người có mức sống dễ bị tổn thương cao. Họ có thu nhập thấp, tài sản
không đáng giá. Nếu bị rủi ro mất cắp vât dụng lao động thì họ rất dễ rơi vào
cảnh khốn cùng. Theo nghiên cứu cho thấy, các hộ nghèo khi bị mất tài sản
nhất là công cụ lao động, phương tiện kiếm sống của gia đình thì rất lâu sau,
vài tháng, một năm, thậm chí nhiều năm sau họ mới có thể phục hồi lại được
(trở lại mức khi chưa bị mất cắp). Khi người nghèo bị mất cắp thì cuộc sống
của họ vốn nghèo lại càng nghèo hơn, vốn đã khốn cùng lại càng cùng cực
hơn. Ngoài nguy cơ dễ bị mất cắp, cuộc sống ở khu vực trật tư, an ninh không
đảm bảo cũng là cho người nghèo luôn cảm thấy không yên tâm để sản xuất,
lao động, khi mua thêm những tài sản phục vụ cho cuộc sống, họ cũng phải
đắn đo rất nhiều. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của họ và
làm cho những cố gắng không xoá đói giảm nghèo gặp nhiều khó khăn.
• Tập quán:
Về một mặt nào đó, tập quán, lối sống cũng là một trở lực tới sự phát
triển của người nghèo. Tập quán du canh du cư của một số đồng bào vùng dân
tộc (nhất là Tây Bắc) đã làm cho tình trạng nghèo đói (đói kinh niên, đói gay
gắt) về lương thực thực phẩm xảy ra thường xuyên. Chính tập quán này đã đẩy
họ rơi vào tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo truyền kiếp. Cái vòng luẩn quẩn
“nghèo đói phải du canh du cư và vì du canh du cư càng thêm nghèo đói”
cộng thêm các hủ tục lạc hậu về văn hoá, lối sống bám chặt vào số phận của
một số đồng bào miền núi. Ví dụ, ở Lạng Sơn lương thực miền núi cần 500kg/
người mới gọi là đủ ăn nhưng hơn nửa số ấy không phải để ăn mà dùng để nấu
rượu “Người dân nghèo ⇒ uống rượu ⇒ năng suất lao động giảm ⇒ càng
nghèo. Chính cái vòng luẩn quẩn này đã gây nên tình trạng 89% trong số
người Dao và 100% người H’mông được coi là nghèo.
2.3. Nhóm nhân tố liên quan đến mỗi cá nhân và hộ gia đình
2.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về nhân khẩu học
• Quy mô và cơ cấu hộ gia đình
Qua nghiên cứu cho thấy quy mô hộ gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến
tình trạng nghèo đói. Người nghèo phổ biến ở những hộ gia đình có quy mô
lớn, mỗi hộ có rất nhiều con, tuổi còn nhỏ. Theo phỏng vấn đánh giá PPA
(1998) thì 72% số hộ cho rằng vì đông con nên dẫn đến tình trạng nghèo đói.
Mặc dù vậy, họ vẫn chưa ý thức được rõ về sự tác hại của tình trạng đông con.
Tình trạng sinh nhiều con, sinh quá dầy ở các cặp vợ chồng trẻ, vợ chồng đang
trong độ tuổi sinh đẻ là khá phổ biến. Bình quân các hộ này từ 3-5 con, thậm
chí 7 con. Điều này làm cho cuộc sống gia đình họ gặp rất nhiều khó khăn.
Cũng vì khó khăn mà hộ gia đình từ làm ăn khá hoặc trung bình đã trở thành
nghèo đói. Do số người trong gia đình là tương đối nhiều nên chi tiêu cho
những vấn đề thiết yếu hàng ngày là khá cao (chẳng hạn chi tiêu cho lương
thực, quần áo, thuốc men...) trong khi đó, tổng thu nhập của một hộ nghèo
thường không tăng nhiều hoặc có tăng nhưng cũng không thể đủ để trang trải
các khoản chi tiêu hàng ngày, hoặc làm ngày nào ăn hết ngày đó, không thể
có được các khoản tích luỹ và do vậy việc thoát khỏi nghèo đói trở nên bế tắc.
Bảng 2.4. Nhân khẩu bình quân 1 hộ theo nhóm chi tiêu
Đơn vị tính: người/hộ
Nhóm hộ (chi tiêu)Chung
1 (rất
nghèo)
2 3 4 5 (rất giàu)
Chung 4,7 5,6 5,1 4,6 4,3 4,1
Khu vực:
- Thành thị
- Nông thôn
4,4
4,8
5,7
5,6
5,4
5,1
4,8
4,6
4,6
4,3
4,1
4,0
1. Miền núi và
trung du Bắc bộ
4,9 5,8 5,2 4,6 4,1 3,7
2. ĐB sông Hồng 4,0 4,5 4,4 4,0 3,9 3,7
3. Bắc Trung bộ 4,7 5,6 4,9 4,5 4,0 3,8
4. Duyên hải
miền Trung
4,9 5,6 5,5 4,9 4,6 4,3
5. Tây Nguyên 5,7 6,4 5,6 5,4 5,3 4,5
6. Đông Nam bộ 4,8 6,1 5,2 5,3 5,4 4,5
7. ĐBSCL 5,0 6,2 5,9 5,1 4,4 3,8
Nguồn: TCTK VLSS 1988
Nhìn vào bảng trên ta thấy, hộ nghèo thường có số nhân khẩu bình quân
cao hơn hộ giàu từ 1,5 người trở lên, nhân khẩu bình quân trên hộ vùng nông
thôn thường cao hơn thành thị, cao nhất là đồng bằng sông Cửu Long, hộ
nghèo nhiều hơn hộ giàu gới 2,4 người. Vùng núi phía Bắc là 2,1 người; Tây
Nguyên là 1,9 người; Bắc Trung Bộ là 1,8 người; Tình trạng phổ biến của cả
nước là các hộ nghèo đói lại thường nhiều con, thiếu lao động. Điều này tạo
nên vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
• Tỷ lệ người sống phụ thuộc
Theo số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư của tổng cục thống
kê cho ta thấy, tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động ở nhóm hộ nghèo là rất
cao, và tỷ lệ này giảm dần khi nhóm mức chi tiêu bình quân đầu người tăng
dần.
Bảng 2.8. Số trẻ em dưới 15 tuổi theo nhóm hộ gia đình
Đơn vị: trẻ em/1 lao động
Nhóm hộ
1 (rất nghèo) 2 3 4 5 (rất giàu)
Chung 28 2,2 1,7 1,4 1,2
Nông thôn 2,8 2,2 1,8 1,4 1,3
Thành thị 2,7 2,1 1,6 1,3 1,1
Nguồn: Việt Nam - Tấn công đói nghèo. WB ước tính trên số liệu của
VLSS 98.
Theo bảng trên ta thấy nhóm (hộ nghèo nhất) thường là những hộ có số
người phụ thuộc cao nhất, chênh lệch giữa nhóm 1 và nhóm 5 là 1,6 người.
Trong đó, ở nông thôn, số người phụ thuộc cao hơn ở thành thị là 0,1 người
(nhóm 1) và 0,2 người (nhóm 5) số người phụ thuộc cao dẫn đến gánh nặng
của những người lao động chính tăng lên họ phải làm để không những nuôi
bản thân mình mà còn nuôi cả những người khác trong gia đình. Có nghĩa là 1
người nhóm 1 phải làm gấp 2,8;1,2 =2,3 lần so với 1 người thuộc nhóm 5. Có
thể nói tình trạng phụ thuộc của các gia đình là “người làm thì ít, người ăn thì
nhiều” và thường xảy ra ra tình trạng thiếu lao động (do số người trong gia
đình đông nhưng phần lớn vẫn chưa tự lao động để nuôi sống bản thân mình
mà phải phụ thuộc vào một vài lao động chính). Tình trạng thiếu lao động còn
thể hiện ở chỗ, người lao động chính, ngoài công việc kiếm tiền nuôi gia đình
còn phải gánh thêm nhiều công việc nhà do số người phụ thuộc tăng. Lao
động bỏ ra của họ cho công việc nhà cũng là đáng kể, vì làm việc nhà nên họ
không thể làm các công việc tạo ra thu nhập khác. Có thể thấy tình trạng hộ
nghèo có số người sống phụ thuộc cao là rất phổ biến, nó xảy ra ở hầu hết các
tỉnh thành trong cả nước. Đây là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng rát lớn,
thậm chí có tính chất quyết định, tới tình trạng nghèo đói của người dân, nó
cản trở việc thực hiện xoá đói giảm nghèo của người dân nói riêng và của
Đảng, Nhà nước nói chung. Cùng với mức sinh cao (gia đình đông con), tỷ lệ
người sống phụ thuộc cũng đã tạo nên một vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Đó
là: do sinh nhiều con nên lao động thiếu, số người phụ thuộc cao, gánh nặng
đè lên vai những người lao động chính, một người làm để phải nuôi mấy người
do đó làm không đủ ăn, vì vậy con cái không được hưởng một cách đầy đủ
những nhu cầu thiết yếu như y tế, giáo dục... dẫn đến vòng đời của chúng sẽ
lại rơi vào cảnh nghèo đói.
• Giới tính của người làm chủ gia đình:
Chính nhân tố giới tính của người làm chủ gia đình cũng quyết định lớn
đến mức độ nghèo đói cao của hộ gia đình. Thường những gia đình mà người
phụ nữ làm chủ thì dễ rơi vào cảnh nghèo đói và mức nghèo đói còn trầm
trọng hơn so với các hộ khác. Lời nói của chị T, quận 10 thành phố Hồ Chí
Minh là một minh chứng cho điều này: “Cuộc sống của chúng tôi rất chật vật.
Kể từ khi chồng tôi mất, tôi không thể nào kiếm được việc làm và các con tôi
cũng không thể đến trường được nữa” (Phỏng vấn, đánh giá PPA, 1998).
Những hộ gia đình có mức sống khá và trung bình mà trước đây có người
đàn ông làm chủ nhưng vì một nguyên nhân nào đó (rủi ro thiên tai, bệnh tật)
mà trụ cột gia đình này mất đi, người phụ nữ lại không đủ khả năng đảm
đương được trách nhiệm này thì hộ gia đình đó rất dễ bị một cú sốc lớn không
thể chống lại được và dễ rơi vào tình trạng nghèo đói. Người phụ nữ có đặc
điểm là không làm được những công việc nặng nhọc mà nam giới có thể làm,
thêm vào đó, họ còn phải chịu nhiều định kiến, sự bất bình đẳng xã hội nên
với cùng một côngivệc họ chỉ nhận được một khoản tiền công ít hơn so với
người nam giới. Công việc của người phụ nữ thường là bất ổn định và họ khó
kiếm việc hơn nam giới nên thu nhập làm ra thường rất thấp. Bên cạnh đó,
người phụ nữ còn phải lo toan công việc gia đình nên không thể dành hết thời
gian và công sức cho việc tạo thêm thu nhập. Đó là những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến tình trạng các hộ nghèo có người phụ nữ làm chủ thường có cuộc
sống khốn cùng hơn những hộ nghèo có người đàn ông làm chủ.
Hiện nay, nguyên nhân nghèo đói do giới tính cũng đáng được quan tâm
vì vẫn còn nhiều hộ do phụ nữ làm chủ, họ rất dễ bị tổn thương và lâm vào
cảnh đói nghèo. Qua cuộc điều tra chọn mẫu ở tỉnh Quảng Bình, chủ hộ là
nam có 1.488 hộ, tổng số nhân khẩu thuộc hộ nam là 8.465 người, bình quân
một hộ nam có 5,7 người/hộ. Trong khi đó, số hộ có chủ hộ là nữ: 562 hộ,
bình quân 1 hộ nữ chỉ có 3,9 người/hộ. Qua đó ta thấy số hộ gia đình ở Quảng
Bình đang thiếu vai trò của nam giới còn chiếm một tỷ lệ đáng kể: 562/1488 =
37,77%.
Bảng 2.9. Số khẩu trung bình của một hộ điều tra. Phân theo giới của chủ
hộ thuộc tỉnh Quảng Bình
Không nghèo Đói NghèoHuyện
Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam
1. Đồng Hới 4,3 5,1 5,8 7,0 4,7 6,1
2. Bố Trạch 3,8 5,1 3,9 6,0 3,4 5,2
3. Lệ Thuỷ 3,6 5,7 3,9 6,1 4,1 5,7
4. Minh Hoá 5,7 5,5 4,8 6,2 4,0 5,1
5. Quảng Ninh 3,5 5,2 3,9 6,1 3,0 6,8
6. Quảng Trạch 3,5 5,2 3,4 5,4 4,0 5,6
7. Tuyên Hoá 3,8 4,7 3,8 6,0 6,1 5,5
Chung 3,7 5,3 3,9 6,0 4,1 5,8
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân đình:
“Nghèo đói, xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” - NXB Nông nghiệp, Hà Nội,
2001.
2.2.3. Các nhân tố kinh tế
• Nghề nghiệp và mức độ đa dạng hoá của nghề nghiệp
Yếu tố nghề nghiệp có những ảnh hưởng nhất định tới sự nghèo đói của
người dân. Nghề nghiệp là nguồn cung cấp thu thập cho gia đình, vì vậy, tính
chất của nghề đó quyết định đến mức thu nhập và tính ổn định của thu nhập
thấp, bấp bênh. Thông thường, người dễ rơi vào tình trạng nghèo đói là những
người chỉ làm những công việc có thu nhập thấp, tỉnh rủi ro cao dẫn đến sự bất
ổn định về thu nhập. Thêm vào đó, họ chỉ có một nguồn thu duy nhất đưa vào
nghề đó. Thống kê cho thấy nghèo đói ở nước ta chủ yếu rơi vào các hộ nông
dân mà trong đó các hộ thuần nông chiếm tỷ lệ cao. Nông nghiệp là nghề phụ
thuộc nhiều vào thời tiết, nếu có rủi ro xảy ra (như hạn hán, lũ lụt) thì nguy cơ
mất trắng toàn bộ hoa mầu là rất cao. Nếu gia đình chỉ trông chờ vào thu nhập
do hoa mầu thì khi xảy ra những sự cố như vậy, nguy cơ rơi vào cảnh nghèo
đói của họ sẽ rất cao.
Để thấy rõ điều nay ta có thể phân tích tỷ lệ các ngành nghề trong từng
nhóm hộ. Nó cho chúng ta bức tranh rõ nét hơn về các nguyên nhân đói nghèo
gắn liền với tình trạng thuần nông không có thêm nghề phụ.
Bảng 2.10: Phân tích tỷ lệ các hộ đói và nghèo phân theo ngành nghề
hoạt động
Ngành nghề sản xuất Đói Nghèo Chung cho các hộ
Nông nghiệp thuần nông nghề khác 90,57 88,05 86,59
Nghề khác 2,49 1,61 2,59
Dịch vụ buôn bán nhỏ 0,10 0,92 0,69
Lâm nghiệp + nông nghiệp 4,76 1,61 3,32
Làm thuê 1,14 2,53 1,80
Nghề thủ công 0,21 0,46 0,20
Thủy sản 0,73 4,82 4,82
Tổng 100 100 100
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân đình:
“Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”, trang 167 - NXB Nông
nghiệp - 2001.
Nhìn vào bảng trên ta thấy các hộ thuộc nhóm đói có tới 90,57% là thuần
nông và tỷ lệ thuần nông giảm dần theo chiều tăng về mức thu nhập của
nhóm, hộ không nghèo có tỷ lệ thuần nông thấp hơn cả 79,69%. Như vậy,
phân tích nguồn thu nhập theo ngành nghề mà các hộ đang tham gia hoạt
động cho thấy một nét chung là: thuần nông là bạn đường của tình trạng
nghèo đói.
Do tính bấp bênh của việc phụ thuộc vào một nghề duy nhất nên nghèo
đói cũng có thể được xem xét dưới góc độ đa dạng hoá ngành nghề. Việc đa
dạng hoá ngành nghề có tỷ lệ thuận với mức độ giảm nghèo. Đa dạng hoá
ngành nghề đến đâu quyết định khả năng hạn chế rủi ro và tăng thu nhập của
người dân, do đó có thể giảm được đói nghèo. Vì vậy, có thể nói, khi xem xét
đến vấn đề đa dạng hoá thu nhập hay đa dạng hoá ngành nghề, nếu hộ chỉ phụ
thuộc vào một nghề duy nhất thì khả năng nghèo đói là cao, nếu hộ đa dạng
hoá ngành nghề thì khả năng này sẽ giảm.
Tình trạng không có hoặc thiếu việc làm
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề thất nghiệp ở thành thị và
thiếu việc làm ở nông thôn vẫn mang tính bức xúc. Chính tình trạng không có
việc làm, thiếu việc làm thường xuyên đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập
của người dân. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản làm cho các hộ gia
đình rơi vào cảnh đói nghèo.
Bảng 2.11- Số người thiếu việc làm trong 12 tháng chia theo nhóm tuổi
Chia theo nhóm tuổi (%)Tổng số
(người)
15-24 25-34 35-44 45-54 55-59 > 60
Cả nước 9.418.380 30,53 29,98 23,81 10,98 2,60 2,09
Thành thị 1.198.882 29,70 31,99 24,91 10,79 1,92 1,43
Nông thôn 8.219.498 30,65 29,68 2,38 11,01 2,70 2,19
Miền núi và trung du Bắc
Bộ
1.393.328 35,39 5,9 23,4 1,89 2,87 1,33
Đồng bằng sông Hồng 2.554.720 25,67 28,30 27,62 12,43 3,31 2,67
Bắc Trung bộ 1.465.462 27,47 28,35 25,03 12,72 3,67 2,76
Duyên hải miền Trung 879.623 30,53 32,57 19,56 9,73 3,13 3,38
Tây Nguyên 199.433 32,03 32,67 23,40 8,01 2,59 1,30
Đông Nam bộ 870.856 32,96 35,01 21,44 7,97 1,38 1,24
Đồng bằng sông Cửu Long 2.054,958 34,29 30,92 21,37 10,39 1,74 1,29
Nguồn: Theo số liệu của TCTK “Thực trạng lao động và việc làm ở Việt
Nam 1998”
Nhìn vào bảng trên ta thấy, tỷ lệ thiếu việc làm ở nước ta ở mức cao
(khoảng 22%) trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên (9,4% triệu/47 triệu).
Đáng chú ý tỷ lệ thiếu việc làm ở nhóm tuổi từ 25 đến 34 tuổi là: 29,98% và từ
35 tuổi đến 44 tuổi là 23,81%. Đây là độ tuổi sung sức nhất cả về thể lực và trí
lực nhưng lại có tỷ lệ thiếu việc làm khá cao (trên 50% trong tổng số người
thiếu việc làm).
Bảng 2.12. Tình trạng không có việc làm thường xuyên ở các vùng
Đơn vị: người
Từ 15 tuổi trở lên Trong tuổi lao độngVùng
Tổng số Nữ Tổng số Nữ
* Cả nước 1.338.849 640.435 1.334.936 618.487
- Thành thị 427.175 204.500 422.215 202.210
- Nông thôn 961.674 435.935 922.721 416.277
Miền núi và trung du Bắc Bộ 20.919 44.753 119.410 44.176
Đồng bằng sông Hồng 349.780 154.293 331.128 144.439
Bắc Trung Bộ 263.721 121.100 248.615 113.370
Duyên hải miền Trung 125.452 56.883 121.825 55.430
Tây Nguyên 15.393 8.769 15.393 8.769
Đông Nam Bộ 239.285 110.364 237.536 109.836
Đồng bằng sông Cửu Long 274.299 144.273 271.029 142.467
Nguồn: TCTK “Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam 1998” trang
518-520. NXB Thống kê 1999.
Qua 2 bảng trên ta thấy số người thiếu việc làm và có việc làm không
thường xuyên ở khu vực nông thôn chiếm số lượng lớn (8.219.498 người
không có việc làm và 961.674 người có việc làm không thường xuyên. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói ở nôg
thôn cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ nghèo ở thành thị.
• Cơ cấu chỉ tiêu:
Cơ cấu chi tiêu của các hộ nghèo thường rất eo hẹp. Họ chỉ có khả năng
trang trải với mức hạn chế, tối thiểu các chi phí lương thực và phí lương thực
thiết yếu khác, họ thường phải bỏ thêm chi phí không đáng có hoặc bị giảm
thu nhập vì khó tiếp cận các cơ hội tăng trưởng kinh tế. Thu nhập thấp nên mãi
dù họ chỉ có khả năng trang trải tối thiểu các chi phí lương thực nhưng nó
cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu của họ.
Bảng 2.13. Cơ cấu chi tiêu chia theo nhóm hộ
Đơn vị tính (%).
Chung Nhóm hộ
1 (rất
nghèo)
2 3 4 5 (rất giàu)
Chi đời sống 100 100 100 100 100 100
- Chi ăn uống 52,95 70,69 65,64 61,67 51,11 13,51
+ Lương thực 15,30 35,37 26,84 21,72 16,05 7,57
+ Thực phẩm 24,93 26,26 28,97 29,15 27,96 21,10
+ Chất đốt 3,77 4,11 4,08 4,02 3,89 3,52
+ Ăn uống ngoài gia đình 5,19 0,70 1,86 2,71 4,48 7,65
+ Uống và hút 3,76 4,23 3,89 3,81 3,71 3,64
- Chi khôngphải ăn uống 47,05 29,31 31,36 38,33 43,91 56,45
+ May mặc 4,31 5,79 5,71 5,38 4,76 3,34
+ ở 7,51 4,00 4,62 5,29 6,44 9,81
+ Đồ dùng bền lâu 12,10 4,08 6,26 8,79 10,84 16,47
+ Y tế 5,22 4,64 5,21 5,45 5,71 5,01
+ Giao thông bưu điện 1,26 0,48 0,65 0,77 0,91 1,71
+ Giáo dục 6,37 3,22 3,95 4,52 5,53 8,29
+ Văn hoá thể thao 0,65 0,08 0,10 0,17 0,37 1,12
+ Khác 9,54 7,03 7,87 8,77 9,32 10,61
Nguồn: TCTK VLSS 1998
Nhìn vào bảng trên ta thấy, người nghèo phải chi tới 70,69% tỷ trọng
ngân quỹ gia đình cho các khoản chi ăn uống. Trong đó 61,65% dành cho
lương thực thực phẩm. Chi ngoài ăn uống chỉ chiếm 29,31%, trong đó chi cho
các khoản giao thông bưu điện (0,48%), giáo dục (3,22%), văn hoá thể thao
(0,08%) chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Mặc dù tỷ trọng chi cho ăn uống cao như
vaỵa nhưng số lượng và chất lượng bữa ăn của họ vẫn không được đảm bảo,
tình trạng thiếu ăn, đứt bữa vẫn còn tồn tại. Khẩu phần ăn của họ không đảm
bảo được lượng Kcalo cần thiết cho cuộc sống bình thường nhằm tái sản xuất
sức lao động. Nói chung, bữa ăn của các hộ nghèo rât đạm bạc, không đủ dinh
dưỡng. Bình quân mỗi người/ngày mới đảm bảo được 1944 Kcalo, trong đó
lương thực bao gồm gạo, ngô, khoai, sắn chiếm 80%, thực phẩm khác chỉ
chiếm dưới 20%. Mặt khác, những người nghèo thường ít có cơ hội tiếp xúc
với các dịch vụ y tế. Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ.
Tình trạng sức khoẻ kém cũng là một nguyên nhân không kém phần quan
trọng dẫn đến nghèo đói, nó cũng làm người nghèo khó thoát khỏi vòng luẩn
quẩn của đói nghèo. Thu nhập thấp ⇒ ăn uống không đầy đủ ⇒ sức khoẻ kém
⇒ năng suất lao động thấp ⇒ làm không đủ ăn ⇒ thiếu đói ⇒ vay mượn nợ
nần nhiều ⇒ thu nhập thấp... đó chính là vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất
dễ mắc phải.
• Nhóm nhân tố về tài sản
- Nghèo do thiếu vốn: thiếu hạc không có vốn là nguyên nhân mà người
nghèo cho rằng có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghèo đói của họ. Không có vốn
để sản xuất kinh doanh chính là trở lực rất lớn đối với người lao động khi tham
gia vào kinh tế thị trường. Vốn là rất cần thiết, là điều kiện ban đầu cần phải
có để giúp cho các hộ nghèo thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vấn đề đặt ra ở đây là
làm thế nào các hộ nghèo có thể tiếp cận với các nguồn tín dụng để họ có
nhiều cơ hội hơn trong sản xuất kinh doanh. Hiện nay sự tiếp cận tín dụng của
các hộ nghèo còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ hộ vay vốn ngân hàng mới chỉ
chiếm 54,14%, lãi suất vay trung bình 1,18%. Còn hơn 455 số hộ không có
khả năng trả số nợ quá hạn. Sở dĩ hộ nghèo tiếp cận vốn còn khó khăn là do
cách sản xuất của hộ nghèo còn giản đơn, không biết thâm canh, thiếu kinh
nghiệm sản xuất, do lãi suất vay vốn cao và thủ tục vay còn rườm rà hoặc
cũng có thể do họ ngại rủi ro vay về không biết đầu tư vào đâu, có hoàn được
vốn không. Họ sợ đầu tư vào những cái mới vì không biết nó thế nào vì thế họ
vẫn cứ làm theo cách truyền thống, không có khoa học. Trong nông nghiệp thì
do không biết cách đầu tư, cải tạo đất cho tốt, không đưa các loại giống mới
vào trồng, không có các loại phân bón tăng trưởng hợp lý và cũng không sử
dụng các loại thuốc phòng tránh sâu bệnh dẫn đến năng suất cây trồng thấp và
nghèo lại hoàn nghèo. Hiện nay, rất nhiều hộ nghèo đã nhận thức được tầm
quan trọng và tính bức xúc của vốn, nhưng không phải ai muốn vay cũng được
cho vay. Có một nghịch lý là: vốn ngân hàng cho người nghèo vay còn nhiều,
nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo đói lại lớn, mà các hộ nghèo vẫn phải đi
vay mượn tư nhân, chịu cảnh vay nặng lãi. Thực tế nhu cầu vay vốn thường có
tính chất đột xuất trong số các hộ nghèo và nhu cầu phi sản xuất thường
không phù hợp với cơ chế vay vốn của ngân hàng. Hiện nay, đây là một bất
cập về cơ chế vay vốn, và là một thực tế nghiệt ngã trong cuộc sống của người
nghèo đói. Không ít hộ đã phải bán lúa non để lo lót các khoản chi tiêu không
thể chối từ trong gia đình... đang dồn họ vào thế bí: đã nghèo lại nghèo thêm .
Số liệu dưới đây phản ánh phần nào nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo và mức
độ đáp ứng trên thực tế.
Bảng 2.14: Lý do vay vốn của các hộ theo nhóm chỉ tiêu
Đơn vị đo: %
Các nhóm hộChung
1 2 3 4 5
Sản xuất và đầu tư cơ bản 66,32 15,53 63,25 69,23 69,25 65,77
Mua nhà, làm nhà 10,28 26,92 10,56 10,20 16,77 7,51
Mua sẵm đồ dùng 2,88 2,42 12,17 3,95 3,56 1,70
Tiêu dùng chung, ăn khi
giáp hạt
3,29 12,21 2,77 3,22 3,72 2,83
Chi tiêu khác 17,22 12,93 11,24 13,39 6,71 22,19
Tổng 100 100 100 100 100 100
Nguồn: TCTK: VLSS 1998
Bảng 2.14: Nhu cầu vốn của hộ giàu nghèo và mức độ đáp ứng vốn của
một số ngân hàng, tính bình quân một hộ vay.
Đơn vị tính: 1000đ
Hộ giàu Hộ nghèo
H. Lục Nam
(Bắc Giang)
Gia Lâm
(Hà Nội)
Yên Mỹ
(Hưng Yên)
H. Lục Nam
(Bắc Giang)
Gia Lâm (Hà
Nội)
Yên Mỹ
(Hưng Yên)
Số hộ điều tra 10 6 13 2 1 2
- Nhu cầu vốn/1 hộ 11806,5 16056,2 21151,6 4286,8 3820,5 4005,3
- Đáp ứng 10112,0 16189,5 23537,4 2819,9 2163,5 2886,1
- Tỷ lệ đáp ứng 85,65 100,64 75,46 65,76 56,62 72,06
Nguồn: Phạm Văn Khiêm- Những biện pháp huy động vốn và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn của hộ nông dân các tỉnh phía Bắc, Viện Kinh tế nông
nghiệp, 1999.
Nhìn vào bảng trên ta thấy hộ giàu có nhiều lợi thế hơn hộ nghèo trong
việc vay vốn ngân hàng. Các hộ giàu được đáp ứng với mức độ khá cao về nhu
cầu vay vốn từ 75,48% đến 100% thậm chí vượt nhu cầu. Trong lúc đó, hộ
nghèo đã thiếu vốn, cần vốn nhưng lại chưa được vay thoả đáng, mức độ đáp
ứng cao nhất cũng chỉ đến 72,0%. Theo đánh giá của ngân hàng phục vụ
người nghèo, tỷ lệ nợ quá hạn đối với hộ nghèo nhất chiếm tỷ trọng cao trong
tổng số nợ quá hạn nói chung. Trong khi điều kiện sản xuất còn gặp nhiều khó
khăn, các hộ nghèo có nhiều mặt hạn chế, thì nợ nần triền miên đối với họ là
điều khó tránh khỏi. Điều này đã góp phần làm bần cùng thêm cuộc sống của
họ. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho họ khó thoát khỏi cảnh nghèo
đói.
- Nghèo do thiếu tài sản vật chất:
Thiếu hoặc không có tài sản luôn là nguyên nhân gây ra nghèo đói đối
với các hộ gia đình. Như là các đôi vợ chồng trẻ, mới bước vào cuộc sống, có
xuất phát điểm thấp (giá trị tài sản ban đầu nhỏ) họ gặp rất nhiều khó khăn
trong sản xuất kinh doanh, trong việc tiếp cận với thị trường, nắm bắt các cơ
hội, nhạy bén với các xu thế của xã hội. Các hộ có xuất phát điểm thấp thì rất
dễ rơi vào cảnh nghèo đói nếu có rủi ro xảy ra. Vì tài sản có giá trị của họ, xét
cho cùng, chỉ có căn nhà và một đồ đạc sinh hoạt thiết yếu (điều quan trọng ở
đây không phải là tổng giá trị của tài sản là bao nhiêu mà chúng ta phải xem
xét khả năng có thể hoá giá các tài sản này để bù đắp cho các thiệt hại do các
rủi ro đem lại) chính vì không có tài sản để tự bảo hiểm nên nhiều hộ gia đình
đã phải sống chung với nghèo đói.
Thiếu tài sản còn thể hiện ở các hộ gia đình không có hoặc không đáng
kể các tư liệu sản xuất để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, họ
thường phải sống ở trong những căn nhà lán, lều tạm bợ. Ngay cả ở thành phố
một số gia đình nghèo vẫn phải sống trong các căn nhà ổ chuột, không đảm
bảo được các điều kiện hợp vệ sinh. Đây chính là nguyên nhân gây ra các dịch
bệnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của chính bản thân họ. Theo kết quả
điều tra năm 1993 của Bộ Nông nghiệp và CNTP về tình trạng giàu nghèo
trong nông thôn cho thấy: Nhà ở của hộ nghèo còn đơn sơ: mới chỉ có 15,7%
số hộ có nhà ngói, 72% còn ở nhà tranh vách đất, 11,7% số hộ ở lều tạm. Đồ
dùng sinh hoạt trong gia đình còn quá thiếu thốn, bình quân mỗi hộ có một
chiếc giường gỗ hoặc tre, 0,3 chiếc xe đạp. Về tư liệu sản xuất bình quân 10
hộ mới có một con trâu hoặc bò, ngay cả cày, bừa bằng gỗ vẫn còn thiếu thốn.
Trong lúc đó, các hô giàu đã tích luỹ khá lớn, đã mua sắm được nhiều loại
máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh, phương tiện sinh hoạt. Đã có 16,1% số
hộ giàu có nhà ở mái bằng hoặc từ 2 tầng trở lên; 77% số hộ có nhà ngói, chỉ
còn 6,9% ở nhà tranh. Số hộ có ti vi các loại là 17%, trong lúc đó 16,8% số hộ
có ti vi mầu, 79% số hộ có radiô các loại, 87,8% số hộ có xe đạp.
Bảng 2.16: Tình hình nhà ở theo 5 nhóm hộ phân theo mức chi tiêu 1997-
1998
Đơn vị tính: %
Theo nhóm Khu vựcChung
1 nghèo
nhất
2 3 4 5 giàu
nhất
Thành
thị
Nông
thôn
1. Nhà kiểu biệt thự 0,07 0,00 0,00 0,00 0,00 100,0 91,39 8,61
2. Nhà căn hộ cao tầng
khép kín
3,98 1,53 1,81 2,10 7,65 86,92 86,07 13,93
3. Nhà căn hộ cao tầng
không khép kín
2,19 0,63 11,72 10,24 34,08 43,34 97,38 52,62
4. Nhà căn hộ 1 tầng kiên
cố khép kín
1,74 1,61 0,68 5,33 18,99 73,40 85,91 14,09
5. Nhà căn hộ 1 tầng kiên
cố không khép kín
6,94 10,07 19,82 20,81 24,50 24,85 21,70 78,30
6. Nhà bán kiên cố 59,18 17,75 20,19 21,27 22,38 18,11 17,49 82,51
7. Nhà tạm khác 29,91 33,51 23,79 21,51 11,20 6,98 11,64 88,36
Nguồn: TCTK: VLSS 1998
Theo các số liệu điều tra ở trên ta thấy tỷ lệ hộ nghèo chủ yếu ở nhà bán
kiên cố, nhà tạm vẫn còn cao (33,51 nhà tạm và 17,75 nhà bán kiên cố). Và
hầu hết các hộ ở nông thôn hiện còn ở nhà bán kiên cố, nhà tạm. Qua đây ta
thấy được bức tranh khái quát cuộc sống khó khăn, túng thiếu của họ. Đây
cũng chính là nguyên nhân làm cho họ phải sống trong cảnh lam lũ, bần cùng,
cơ hàn và nghèo đói.
Ngoài ra mức độ tiếp cận của các thành viên trong hộ với các loại tài sản
cũng có tác động đáng kể đến tình trạng nghèo đói của bản thân họ.
Biểu 2.17: Giá trị tài sản bình quân theo đầu người
Đơn vị tính: 1000đ/người
Trị giá các loại tài sản Không nghèo Đói Nghèo Chung
1. Radio- Cassette 4,84 2,98 37,82 3,75
2. Tivi 7,78 1,68 3,88 4,08
3. Xe máy 3,2 1,50 2,32 2,3
4. Xe đạp 44,35 22,32 33,56 31,68
5. Bình bơm thuốc trừ sâu 2,48 2,34 0,99 1,16
6. Xe bò 8,18 4,68 8,40 6,58
7. Máy bơm nước 2,48 0,02 1,35 1,19
8. Nhà ở 736,03 373,13 560,93 527,84
9. Trâu 57,22 33,03 42,70 42,74
10. Bò 128,56 109,25 114,22 116,42
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình
“Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” trang 176, NXB Nông nghiệp
2201.
Ta thấy chính giá trị bình quân của các tài sản, vận dụng phản ánh mức
sống chung của các hộ. Đặc biệt là các hộ đói việc tiếp cận với các loại tài sản
còn rất nhiều hạn chế. Ví dụ bình quân mỗi người trong hộ đói chỉ có 1500
đồng so với mỗi cái xe trị giá vài chục triệu để thấy khoảng cách của họ đến
các phương tiện đi lại đắt tiền này còn xa vời, không biết trong đời có đạt
được không. Qua đây ta thấy chính sự thiếu thốn các loại tài sản trên làm cho
việc đi lại, nuôi trồng, sản xuất gặp nhiều khó khăn, là nguyên nhân phổ biến
gây ra tình trạng nghèo đói ở nhiều nơi.
2.3.3. Các nhân tố xã hội
• Nhóm nhân tố giáo dục
Người nghèo thường có trình độ học vấn tương đối thấp, thiếu kỹ năng
làm việc và thông tin, thiếu kinh nghiệm sản xuất, không có kinh nghiệm làm
ăn, cho nên không có được các giải pháp để tự thoát nghèo. Dân trí thấp, tự ti,
kém năng động, lại không đợc hướng dẫn cách thức làm ăn, đây là nguyên
nhân làm cho nhiều hộ rơi vào cảnh đói nghèo triền miên, đặc biệt là các hộ
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc miền núi, ít người.
Thực tế đã chứng minh, các hộ nghèo đói thì chủ hộ thường có học vấn
thấp. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên. Bảng 2.18 sẽ
minh chứng rõ thêm điều này.
Bảng 2.18: Trình độ học vấn của các hộ
Đơn vị (%)
Các nhóm hộChung
1 (rất nghèo) 2 3 4 5 (rất giàu)
Chung 100 19,98 20,00 20,01 20,01 20,00
- Chưa bao giờ đến trường 100 39,86 19,99 16,19 15,01 8,94
- Chưa tốt nghiệp cấp I 100 23,33 23,03 21,14 19,38 13,13
- Tốt nghiệp cấp I 100 21,27 21,24 19,75 19,60 18,11
- Chưa tốt nghiệp cấp II 100 17,63 20,96 23,57 20,87 16,97
- Chưa tốt nghiệp cấp III 100 10,54 13,03 20,33 19,55 36,55
- Nghề cơ sở 100 10,13 15,86 19,32 25,23 29,15
- THCN 100 6,98 14,31 15,41 23,60 39,69
- Đại học và cao đằng trở lên 100 1,45 4,57 3,59 20,21 70,15
Nguồn: TCTK : VLSS, 1998
Theo bảng trên, trong nhóm hộ nghèo nhất thì số người chưa bao giờ đến
trường chiếm tỷ lệ cao nhất, đáng chú ý là trình độ từ cấp III trở lên chiếm tỷ
lệ ít nhất. Người nghèo thường không được đào tạo nghề nghiệp. Đây là điều
đáng lo ngại nhất đối với người nghèo, họ rất ít có các cơ hội để kiếm được
việc làm tốt và tạo thu nhập cao, do đó nghèo đói là khó tránh khỏi.
Bảng 2.19: Trình độ học vấn của người nghèo (năm 1993)
Trình độ học vấn Tỷ lệ nghèo (%) Tỷ lệ trong tổng số
người nghèo (%)
Tỷ lệ trong tổng
số dân số (%)
- Không được đi học 57 12 8
- Tiểu học 42 39 35
- Phổ thông cơ sở 38 37 36
- Phố thông trung học 25 8 12
- Dạy nghề 19 3 6
- Đại học 4 0 3
- Tổng số 37 100 100
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói - WB.
Như vậy, tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, gần 90%
người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn tỷ lệ chưa hoàn
thành chương trình giáo dục tiểu học ở nhóm hộ nghèo cao nhất 57%, ngược
lại, tỷ lệ tốt nghiệp đại học thuộc diện nghèo đói chỉ chiếm 4%. Ta thấy sự
chênh lệch học vấn giữa người nghèo và người giàu là khá rõ ràng.
Bảng 20.2: Trình độ văn hoá của chủ hộ phân theo nhóm
Tỷ lệ (%) Giàu Nghèo
- Không biết chữ 0 24,3
- Học hết cấp I 28,1 53,6
- Học hết cấp II 44,2 20,3
- Học hết cấp III 27,7 1,8
Nguồn: Giàu - nghèo trong nông thôn hiện nay. NXB Nông nghiệp 1999.
Theo kết quả này thì nhóm hộ nghèo có tới 24,3% chưa biết chữ trên
53% chỉ có trình độ học vấn cấp I. Trong khi đó, nhóm hộ giàu phần lớn đạt
trình độ học vấn cấp II, cấp III. Các hộ nghèo không có điều kiện học tập văn
hoá, các con em họ không có nhiều cơ hội đến trường, nhất là con em vùng
dân tộc ít người, miền núi vùng sâu, vùng xa, đây cũng là một trong các
nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo từ đời này sang đời
khác, thực tế, bản thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là
chìa khoá quan trọng để thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Tuy nhiên, các con số thống kê được đã chỉ ra rằng, vấn đề lớn liên quan
đến việc tiếp thu các kỹ năng, các kiến thức chung, việc có được thông tin là
đặc biệt quan trọng. Các hộ sẽ được xếp vào nhóm khá giả hơn nếu như
những người trưởng thành trong gia đình có trình độ học vấn nhất định và trẻ
em được đến trường. Theo phỏng vấn, đánh giá PPA ở thành phố Hồ Chí
Minh, nhiều hộ cho rằng cần phải có trình độ cao hơn mức phổ thông cơ sở để
có cơ hội kiếm được một công việc ổn định. Như vậy, đời sống mới bớt nhọc
nhằn, khổ cực hơn.
• Nhóm nhân tố liên quan đến sức khoẻ
Hiện nay, cách đánh giá nghèo đói của WB không chỉ dựa vào thu nhập
mà còn dựa vào khía cạnh sức khoẻ của người dân.
*** Hình 2.1. Đánh giá nghèo đói qua các khía cạnh đa chiều
Ghi chú: H: là ngưỡng được xác định là người khoẻ mạnh.
Y: là thu nhập của người nghèo theo thu nhập.
ở bảng trên, đã biểu hiện được mối quan hệ giữa sức khoẻ và thu nhập,
nó phản ánh đầy đủ hơn tình trạng nghèo khó của con người. Người dân có thu
nhập thấp sẽ làm giảm khả năng cải thiện về sức khoẻ, thể hiện ở việc dễ ốm
đau và ít có cơ hội điều trị bệnh. Ngược lại, sức khoẻ không tốt cũng gây
những ảnh hưởng tiêu cực tới việc làm và thu nhập.
ở Việt Nam, mức độ nghèo đói về sức khoẻ thể hiện rất rõ nét, nó thể
hiện sự bần cùng hơn của những người nghèo khi không tiếp cận với các dịch
vụ y tế. Điều này rất phổ biến ở khu vực nông thôn, ở những vùng sâu, vùng
xa và nhất là ở nhóm các dân tộc thiểu số (hình 2,2)
Hình 2.2. Các nhóm thiẻu số ở Việt Nam ít được tiếp cận các dịch vụ y ế
hơn các nhóm không thiểu số
Nguồn: Phỏng theo Van de Walle và Gunewardena 2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghèo đói ở Việt Nam ,Thực trạng nguyên nhân và giải pháp.pdf