Hệ thống xe buýt với một mức phí vô cùng rẻ nếu là xe buýt hạng hai, chỉ 2 peso
trong cùng một vùng, và 15 peso cho việc di chuyển trong vòng 100 dặm giữa các
thành phố và các tỉnh. X e buýt thì cũ và không được bảo trì một cách thỏa đáng,
những người tài xế được trả lương rất thấp nhưng hệ thống vẫn cần được trợ cấp từ
phía chính phủ. M ột tuyến đường sắt nối thủ đô với vùng biển và các vùng lân cận
của Andaria; nó chỉ cung cấp một dịch vụ chở hành khách có giới hạn và chuyên
chở hàng hoá đúng mức. Các phí chuyên chở hành khách trên tàu hỏa được tính
toán đủ để bù đắp chi phí, mặc dù đa số hành khách có thu nhập thấp lựa chọn xe
bus bởi vì có sự trợ cấp lớn hơn cho dịch vụ này. H àng hoá chuyên chở trên tàu thì
lại được trợ giá nhiều hơn. Vì trợ cấp cho tàu hỏa cũng có giới hạn, nên tổng trợ cấp
cho xe lửa tương đối ít, nhưng nhiều đầu máy xe lửa thì quá cũ và cần phải thay thế.
24 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu chi tiêu công của quốc gia Lafr Asia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g
khu dân lao động tự do.
CHỈ SỐ XÃ HỘI
Lafrasia nằm trong những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp dưới mức
trung bình, nhưng một số chỉ số xã hội cho thấy không đáp ứng các nhu cầu cơ bản
về y tế, giáo dục và các dịch vu khác. Bảng 1- 1 liệt kê các chỉ số xã hội của
Lafrasia và một nhóm các quốc gia tương tự, những nước ở cùng khu vực và có
cũng mức thu nhập.
AN NINH TRẬT TỰ
Chính quyền trước sử dung quân đội để kiểm soát tình hình trong nước và kẻ thù
ngoài nước. Ít nhất là một trong những nước láng giềng của Lafrasia, Andaria, có
bản phác hoạ lãnh thỗ về phía tỉnh miền nam của Lafrasia bởi có một lượng lớn
người dân tộc thiểu số người Andaria sống ớ đó. Tôn giáo và tình hình dân tộc là
nguồn quan tâm gần đây.
Dù nhà nước dân chủ, với hệ thống nhiều đảng phái, một số đảng phái nhỏ sẽ không
thích chống đối. Chính phủ vẫn thích duy trì một lực lượng quân đội mạnh như là
một hàng rào phòng thủ chống lại cả Andaria và các thế lực đe doạ trong nước.
ĐIỀU KIỆN VĨ MÔ
Đồng tiền của Lafrasia là đồng peso, đã được tái hình thành năm 1985; giá trị của
đồng peso mới (bằng 100 peso cũ) đã được ấn định 3 peso 1 đô la. Tỷ giá hối đoái
rớt xuống nhanh chóng là kết quả của lạm phát kéo dài, năm 1989 tỷ giá hối đoái là
7.5 peso 1 USD. Thu nhập bình quân đầu người 1989 là khoảng 750 USD, tương
đương 5,625 peso. GDP thực tăng trung bình từ 3 đến 4 % 1 năm trong gần suốt
thập niên 80, nhưng tỷ lệ sinh cao, đặc biệt là các vùng nông thôn. Do đó, thu nhập
bình quân đầu người thực tăng ở tỷ lệ chỉ 1 phần trăm gần suốt thập niên 80. Lạm
phát ước tính chính thức khoảng 22% vào năm 1988, xuống từ mức 41% năm 1985.
Số liệu các khoản thu nhập quốc gia từ năm 1985 đến 1989 được cho ở bảng 1-2.
Hầu hết các công chức nhận lương tăng chỉ khoảng 4%/1 năm từ 1985 đến 1989, vì
vậy sức mua giảm do lương thấp. Thất nghiệp ước tính khoảng 20 phần trăm ở
thành thị, mặc dù ước tính không đáng tin cậy. Thất nghiệp trá hình và nữa thất
nghiêp ở nông thôn, được ghi nhận bởi tình trạng di cư lên thành thị. Trong khi nỗ
lực để giải quyết vấn đề này, chính phủ đã thuê nhiều công nhân không có kỹ năng
làm những việc không đòi hỏi kỹ năng, dù có ít việc cho họ làm.
Bảng 1- 1. Các chỉ số x ã hội của La frasia và các nước tương đồng.
1988 – 89
Chỉ số Lafrasia Mức trung bình, các nước tương đồng
GDP bình quân đầu người US$ 750 US$ 825
Tỷ lệ tử vong ở trẻ em 8.00% 4.50%
Tỷ lệ tử vong ở người mẹ 3/1000 1.2/1000
Tỷ lệ trẻ từ 1- 3 tuổi đươc 5 tiêm chủng ngừa 58.00% 87.00%
Tỷ lệ nhiểm HIV 10.00% 11.00%
Tuổi tho trung bình 55.00% 59.00%
Tỷ lệ trẻ đến trường tiểu học 92.00% 93.00%
Tỷ lệ tốt nghiệp t iểu học 40.00% 72.00%
Tỷ lệ biết chữ ở người lớ n 27.00% 22.00%
Tỷ lệ hộ có điện 35.00% 25.00%
Tỷ lệ hộ có điện thoại 6.40% 9.20%
Bảng 1-2 Tài khoản thu nhập quốc gia, 1985 – 89
(million peso)
Danh m ục 1985 1986 1987 1988 1989 1989 (US$)
GDP 71,204 99,762 133,982 177,373 225,132 30,018
Consumption 3,012 83,095 106,473 136,758 164,997 22,000
Chi tiêu chính phủ 14,695 21,307 30,257 41,755 57,621 7,683
Chi tiêu vãng lai 10,906 15,814 22,457 30,990 42,767 5,702
Chi tiêu xây dựng cơ bản 3,788 5,493 7,800 10,764 14,854 1,980
Chi khu vực tư 2,422 3,817 5,649 6,597 9,903 1,320
Xuất khẩu 9,991 15,186 21,868 30,396 39,516 5,269
Nhập khẩu -18,916 -23,645 -30,266 -38,135 -46,906 -6,254
GDP bình quân đầu người 1,959 2,691 3,509 4,545 5,625 750
Dân số (triệu) 36.3 37.1 38.2 39 40 n.a
Tỷ lệ lạm phát (%) 41 36 30 28 22 n.a
Tốc độ tăng GDP bq đầu người thực 0.5 1 0.3 1.2 1.5 n.a
PHẦN II: KHU VỰC CÔNG
CHÍNH QUYỀN TRUNG ƯƠ NG
Chính quyền trung ương bao gồm quốc hội, với 1 thủ tướng và 1 nội các, và 1 tổng
thống đã được bầu để kết hợp vừa quản lý chung vừa làm những nhiệm vụ quan
trọng khác. Chính quyền TW chịu trách nhiệm về mặt giáo dục ở tất cả các cấp
(ngoại trừ xây dựng hệ thống trường tiểu học); Quốc phòng; Các bệnh viện và
những trung tâm y tế; Các trường y; cơ sở hạ tầng; công an và hệ thống luật pháp;
quan hệ quốc tế; những công viên công cộng và nhà bảo tàng; Ngân hàng TW; Hệ
thống bảo hiểm xã hội; Sự giám sát của hệ thống ngân hàng và hệ thống kinh
doanh; Nghiên cứu và mở rộng ngành nông nghiệp; và những quy định về nông
nghiệp, công nghiệp và hệ thống tài chính.
5 trường ĐH công cộng, mỗi cái ở 1 tỉnh, được tài trợ bởi chính phủ. Ngoài ra cũng
có những học viện kỹ thuật ở 1 số trung tâm của các tỉnh. Tất cả các trường trung
học thì được tài trợ riêng. Chính quyền TW quản lý 1 số doanh nghiệp nhà nước
(SOEs), kể cả sân bay và phương tiện vận chuyển hàng không, thành phố cảng, hệ
thống năng lượng điện, hệ thống phân phối và xử lý nước, bưu điện, hệ thống xe
bus, và vài nhà máy xi-măng. Trong vai trò đánh thuế chính, chính quyền TW giám
sát việc thi hành thuế ở các chính quyền địa phương.
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠN G
Các tỉnh không được quyền độc lập riêng; họ hoạt động như phân khu hành chính
của chính quyền TW, chính quyền địa phương trong thành phố và làng xã chịu trách
nhiệm trong việc phân phối nguồn nước, xử lý hệ thống nước thải và cống, rãnh, rác
thải, dọn dẹp đường phố, thực thi luật pháp, chợ trời, xây dựng và duy trì hệ thống
giáo dục.Khi mà nguồn quỹ được cung cấp cho các trung tâm sức khỏe địa phương
không đồng đều, chính quyền địa phương thường phải bù đắp vào các lỗ hổng hay
là hỗ trợ cho các dịch vụ cơ bản khác. Hội đồng địa phương nhận được phần lớn
quỹ hỗ trợ từ chính phủ (khoảng 80%), con số này được bổ sung bởi các khoản thuế
ít ỏi của địa phương cùng với 1 vài khoản phí và lệ phí (khoảng 15%). Những thành
phố lớn hơn cung cấp hệ thống giao thông công cộng chủ yếu là xe bus và sửa sang
các công viên thành phố.
CHI PHÍ ĐIỀU HÀNH
Các chi phí quản lý hỗn hợp của chính quyền TW và địa phương chiếm khoảng
19% GDP, chính quyền TW sử dụng 42,8 tỷ pesos một năm. Bao gồm cả những
khoản chuyển giao cho chính quyền địa phương. Mặc dù những số liệu về tổng thu
nhập và chi tiêu còn sơ xài, nhưng có những ước tính cho rằng tỉ lệ chi tiêu tại địa
phương hàng năm khoảng 77 triệu pesos. Mức độ chi tiêu tổng hợp này còn khá
thấp so với tiêu chuẩn trong khu vực là gần 20% GDP. Ước lượng sự phân bổ ngân
qũy của chính phủ được liệt kê chi tiết trong từng khoản mục tại bảng 2-1.
Bảng 2-1: Phân bổ ngân sách của Chính phủ năm 1988-1989
Chỉ tiêu Pesos (triệu) Tỷ trọng %
Dịch vụ công tổng quát 9,759 22.4
Quốc phòng 8,725 20.4
Xã hội 12,702 29.7
+ Giáo dục 6,843 16.0
+ Y tế 3,207 7.5
+ Văn hóa 513 1.2
Các dịch vụ XH khác 2,138 5.0
Kinh tế 11,761 27.5
+ Nông nghiệp và các ngành
liên quan
769 1.8
+ Cấp nước 609 6.1
+ Điện 6,116 14.3
Vận tải và truyền thông 2,267 5.3
+ Vận tải hàng không 642 1.5
+ Chủ quyền cảng 427 1.0
+ Đường sắt và xe buýt 385 0.9
+ Truyền thông 470 1.1
+ Bảo trì đường xá 342 0.8
Tổng cộng 42,767 100.0
CHI ĐẦU TƯ
Những khoản đầu tư công cộng tại Lafrasia, bao gồm các dự án viện trợ tài chính là
khoảng 7% GDP và chiếm 60% tổng vốn đầu tư của cả khu vực công lẫn khu vực tư
nhân. M ặc dù con số này nghe có vẻ hợp lý, nhưng đã có những cuộc tranh luận
đáng kể về nguồn quỹ hỗ trợ hiện tại giữa các khu vực và sự cân bằng thích hợp
giữa đầu tư công cộng và đầu tư cá nhân. Việc khôi phục thành phố bị xao lãng, đặc
biệt là trong các công trình công cộng như đường xá, trường học, tưới tiêu, thủy
điện nhận được phần lớn sự đầu tư gần 43%, bởi vì thủ tướng đã cam kết sẽ mang
điện tới từng hộ gia đình ở Lafrasian. Ở những lĩnh vực khác có sự ùn tắc về nhu
cầu đầu tư. Không có báo cáo nào về sự đầu tư của chính quyền địa phương, nhưng
có thể tin tưởng rằng hầu hết các quỹ hỗ trợ địa phương đều được đầu tư trực tiếp
vào việc phục hồi hơn là đầu tư xây dựng mới. Việc ưu tiên cấp bách cho đầu tư lúc
này là hỗ trợ cho chính quyền địa phương để xây dựng trường học, trung tâm sức
khỏe,phục hồi đường xá, trồng cây cà phê, xây dựng đường xe lửa, phát triển hệ
thống điện nước để phục vụ cho nhiều người hơn. Phục hồi các công trình công
cộng và phát triển sân bay, cầu cảng. Nhiều dự án hiện nay được tài trợ bởi các
nguồn quỹ bên ngoài. Vì thế cơ cấu của quỹ đầu tư công cộng được sắp xếp tài trợ.
Bảng 2-2 cho thấy đánh giá việc sử dụng vốn trong khu vực công cộng trong năm
1988-1989, bao gồm những dự án tài trợ.
Bảng 2-2: Chi đầu tư khu vực công, 1988-1989
Chỉ tiêu Pesos (triệu) Tỷ trọng %
Dịch vụ công tổng quát 609 4.1
Quốc phòng 1,807 12.5
Xã hội 2,629 17.7
+ Giáo dục 1,129 7.6
+ Y tế 921 6.2
+ Văn hóa 82 1.9
Các dịch vụ XH khác 297 2.0
Kinh tế 9,760 65.7
+ Nông nghiệp 59 0.4
+ Cấp nước 1,322 8.9
+ Điện 6,299 42.4
Vận tải và truyền thông 2,080 14.0
+ Vận tải hàng không 520 3.5
+ Cảng biển 327 2.2
+ Đường sắt và xe buýt 297 2.0
+ Bảo trì đường xá 787 5.3
+ Truyền thông 149 1.1
Tổng cộng 14,854 100.0
CHI PHÍ VẬN HÀNH CÁC DỰ ÁN
Khi những dự án mới như đường xá, các dự án năng lượng điện, trung tâm chăm
sóc sức khỏe ở nông thôn, hệ thống cung cấp nước, đi đến giới hạn, Lafrasia phải
chấp nhận gánh nặng trong chi phí quản lý và điều hành, bao gồm chi phí nhân lực,
trang thiết bị. Bộ Tài Chính (dựa trên những nghiên cứu của tổ chức Phi Chính Phủ)
đánh giá rằng cứ 100pesos của quỹ tài trợ đầu tư vào 1 dự án sẽ dẫn đến việc quay
vòng chi phí ngân sách khoảng 25pesos mỗi năm cho việc điều hành và quản lý. Sự
cảnh báo cho những gánh năng tài chính trong tương lai này đã dẫn đến sự miễn
cưỡng phải nhận thêm những dự án tài chính trong nước.
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
Việc quản lý các nguồn lực công là một quy trình kỹ thuật cao đòi hỏi cấu trúc thể
chế có khả năng tốt và sự kết hợp nhiều kỹ năng của người thực hiện. Trọng tâm
của quy trình này là hệ thống hoạch định và dự toán ngân sách, với sự kết hợp chặt
chẽ của 3 yếu tố chính:
Lập kế hoạch thực hiện và dự toán ngân sách phải phân chia các nguồn lực có giới
hạn trong số các chương trình mang tính cạnh tranh theo cách phù hợp với các mục
tiêu chung và chính sách vĩ mô
Các khoản chi tiêu do các nhà hoạch định chính sách đưa ra phải nằm trong dự toán
ngân sách và phải được trang trải cho các chương trình định sẵn.
Các khoản tiền chi tiêu phải được ghi chép lại để giúp cho việc sử dụng các nguồn
lực công được báo cáo đúng thời gian và thể hiện tính rõ ràng minh bạch.
Ở Lafrasia, cơ chế lập kế hoạch ngân sách không theo cách thức như vậy. Nước này
đang cố gắng kết hợp lập ngân sách 3 năm một, liên quan đến chương trình đầu tư
công, nhưng những tranh cãi chủ yếu lại xảy ra giữa Ủy ban đầu tư, chịu trách
nhiệm chuẩn bị chương trình chi đầu tư hàng năm và Bộ tài chính, chịu trách nhiệm
tiến hành kế hoạch ngân sách định kỳ. Không có những chi phí không được công
khai định kỳ trong trung hạn hoặc dài hạn của các chương trình đầu tư công được
đưa vào sổ sách kế toán khi những dự án mới được bắt đầu chẳng hạn như theo tính
toán cứ mỗi 100 pesos của một dự án thì có 25 pesos được sử dụng cho quá trình
hoạt động và trợ cấp một năm.
Việc thực thi ngân sách vài năm gần đây là quá trình tranh cãi giữa bộ tài chính và
những nhà tài trợ để xác định các lĩnh vực chi tiêu. Mối liên hệ giữa hệ thống chính
sách và dự toán ngân sách rất kém là do sự quan tâm của Bộ tài chính chủ yếu nhằm
vào việc cắt giảm chi tiêu trong khi những nỗ lực của những nhà tài trợ là gia tăng
sự kiểm soát của họ trong hoạt động đầu tư của ngân sách. Ngân sách hàng năm
được lập theo nguyên tắc ngày càng tăng lên, và thông thường vào giữa năm, việc
cắt giảm thông qua bộ được tiến hành nếu các khoản thu nhập từ thuế không thực
hiện đủ theo kế hoạch. Kết quả là việc thực hiện chi tiêu cho các kế hoạch đã định
(chẳng hạn như thực hiện dự án) thường bị chậm trễ. Hơn nữa, các dự án đầu tư
công thường phải trải qua rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện do sự hạn
chế về kỹ thuật và kỹ năng quản lý.
CƠ S Ở HẠ TẦNG ĐÔ THỊ
Ở Lafrasia sự di trú ra các thành phố là rất mạnh mẽ, đặt biệt là ra thủ đô. Phương
tiện giao thông công cộng thì lại không tương thích và rất ọp ẹp. chỉ khoảng 60%
dân số ở thành thị (và một tỷ lệ thấp hơn ở nông thôn) có cơ hội được cung cấp
nước sạch, và hệ thống cung cấp nước đang rất tồi tệ và cần được sửa chữa. Việc
khan hiếm nhà ở diễn ra thường xuyên trên cả nước và các khu nhà ổ chuột đang
mọc lên xung quanh các thành phố lớn. M ột hậu quả của việc tập trung đông người,
sự khan hiếm nước sạch là sự gia tăng hơn thường lệ các bệnh truyền nhiễm, là do
sự thiếu vắng của các phương tiện chăm sóc sức khỏe công cộng ở thành thị. Các
công trình công cộng, nhà bảo tàng, thư viện cũng cần được duy trì và khôi phục lại.
ĐƯỜN G XÁ
Quốc gia này có 2.600 dặm đường quốc lộ, 8600 dặm đường thứ cấp và khoảng
11000 miles đường phụ trợ, thường không được trải đá. Ngân sách thủ đô có các
quỹ riêng dành cho việc xây dựng mới và phục hồi các tuyến đường chủ yếu nhưng
để duy trì và phục hồi các tuyến đường phụ (khoảng 11.200 miles đường xấu và
11.000 miles đường phụ trợ) đòi hỏi một khoản ngân quỹ thực hiện là 342 triệu
pesos, theo tỷ giá hiện tại là khoảng 45,6 triệu USD.Những quỹ này được sử dụng
để trả lương cho người lao động, nhập khẩu nguyên vật liệu, phương tiện vận tải và
máy móc thiết bị. Do có sự ùn tắc trong việc thực hiện các dự án, với mức độ chi
tiêu này nghĩa là các con đường trung bình sẽ được sửa chữa 10 năm một lần, đối
với đường quốc lộ là 5 năm một lần; các con đường phụ trợ và đường thứ cấp
khoảng từ 6 đến 8 năm một lần.
Những con đường phụ trợ thường không được rải đá nhưng nó có thể vẫn qua lại
được nếu như những chiếc xe tải nặng nhất không thường xuyên đi qua. Tuy nhiên,
việc bỏ mặc các con đường này suốt các mùa trong năm làm cho khoảng ba phần tư
những con đường này không một loại phương tiện nào có thể qua lại được cho bất
cứ loại phương tiện nào, trừ xe đạp. Các con đường chính cũng trong tình trạng tồi
tệ cần được sửa lại mặt đường hoặc cần được phục hồi nhiều hơn nữa. Hai con
đường chính, một nối liền thủ đô tới thành phố cảng Bahia Linda và một dẫn đến
khu trang trại trồng mía và dừa đều có những đoạn đường vòng và đều trong tình
trạng tồi tệ. Một số cây cầu phải giới hạn trọng tải qua cầu và cần được xây dựng lại
hay ít nhất cần được gia cố lớn để có thể cho phép các xe tải lưu thông. Theo tính
toán của Bộ Tài chính, chi phí cho việc phục hồi tất cả các con đường sẽ gấp
khoảng 10 lần chi phí cho việc cung cấp sách giáo khoa cho tất cả học sinh ở tám
cấp học trong hơn 10 năm tới. Mùa mưa đến tương đối trễ đã làm phức tạp thêm
cho việc xây dựng các con đường bởi nó làm gián đoạn thời gian để bảo trì và sửa
chữa đường xá.
QUẢN LÝ TÀI SẢN
M ột vấn đề chủ yếu trong lĩnh vực quản lý đường xá là sự thiếu vắng của việc kiểm
kê nhưng không chỉ lĩnh vực này mà các lĩnh vực khác cũng tương tự. Việc thiếu
hụt các cơ quan quản lý tài sản đặc biệt là điều kiện quản lý và quy trình quản lý
xảy ra ở tất cả các lĩnh vực. Ngoại trừ các tòa nhà của chính phủ và các bệnh viện ở
trung ương được quản lý kê khai tốt còn hầu hết các tài sản công đều không được
giám sát và lên kế hoạch tài trợ.
VẤN ĐỀ CHI TIÊU NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG
Tiếp tục trì hoãn các khoản chi sẽ dẫn đến kết quả là sự hư hỏng đáng kể của toàn
bộ cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường xá, hệ thống tưới tiêu và các tòa nhà của chính
phủ. việc chi tiêu không đúng tiến độ sẽ dẫn đến sự ùn tắc các công trình, theo tính
toán thiệt hại khoảng 2,5%GDP hay khoảng 9% tổng chi tiêu hàng năm của chính
phủ. Việc thực hiện các dự án đã tụt lại khá xa so với kế hoạch, đòi hỏi phải có sự
khôi phục mạnh mẽ hơn nữa. Vấn đề để bắt kịp tiến độ đối với việc ùn tắc các dự án
không chỉ là cấp phát ngân sách mà còn cần quan tâm đến vấn đề quản lý. Kỹ thuật
và nhân lực quản lý được đào tạo không thỏa đáng và các quy trình xây dựng ngân
sách không nhận được bất cứ nhập liệu nào từ dự án hay các nhà quản lý doanh
nghiệp nhà nước liệu có thể ước lượng đúng nhu cầu ngân quỹ cho hoạt động
thường xuyên và đầu tư. Các xung đột thường nảy sinh trong quá trình giám sát các
khoản chi vì phần lớn quỹ ngân sách đều tập trung từ chính quyền trung ương
nhưng chịu trách nhiệm tiến hành các khoản chi lại được thực hiện ở cấp tỉnh và các
cấp địa phương.
SO S ÁNH CÁC MÔ HÌNH CHI TIÊU
So với các nước khác trong khu vực, việc kết hợp chi tiêu của Lafrasia giữa ngân
sách địa phương và trung ương cho sức khỏe và giáo dục phổ thông là khá thấp.
M ặc dù sau 10 năm thực hiện quy chế dân chủ và duy trì mối quan hệ hữu nghị với
các nước láng giềng nhưng chi tiêu cho quốc phòng vẫn còn duy trì ở mức cao. Việc
trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước và người lao động làm việc trong khu vực
công làm kiệt quệ thêm ngân sách. Số liệu so sánh chi tiêu, sử dụng những công cụ
so sánh tại các quốc gia láng giềng tương tự được đưa ra trong bảng 1-1 và bảng 2-
3.
THU NGÂN SÁCH
Các khoản thu nội địa đã tăng khoảng 10% trong vài năm gần đây là do kết quả của
các chính sách cải cách thuế. Cùng với các khoản viện trợ và các khoản vay nước
ngoài được sử dụng cho các dự án trung ương, thâm hụt ngân sách đã giảm trong
vòng năm năm từ 40% xuống còn khoảng 16% tổng chi tiêu (khoảng 3,7% GDP).
Con số này cho thấy sự cải thiện hơn nhiều so với số liệu cách đây 5 năm, khi nền
dân chủ vẫn còn phải khắc phục nhưng hậu quả của các chính sách sai lầm trong 30
năm qua, hướng đến sự hợp tác đa phương. Các lời khuyên của chuyên gia nước
ngoài cũng như sự hỗ trợ về kỹ thuật, tài trợ ngân sách làm cho quá trình phân phối
các nguồn lực hiệu quả hơn và làm giảm thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều vấn đề cần phải làm ở cả hai lĩnh vực thuế và chi tiêu công. Bảng 2-4 cung
cấp tổng thể quy mô thu ngân sách năm 1989.
CHI HOẠT ĐỘN G VÀ TRỢ CẤP
M ột vấn đề phụ nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối liên quan đến
nhiều khu vực khác nhau là chi cho việc duy trì hoạt động, đặc biệt là đường xá, các
hoạt động xã hội và các DNNN. Các khoản phải trả cho các dịch vụ trong một số
DNNN là khá thấp nhưng vẫn còn là gánh nặng cho những người nghèo. Các khoản
phải trả cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe vẫn còn khá thấp và thường không phải trả
(đặc biệt là dịch vụ chữa bệnh cho công chức chính phủ thường không phải trả phí).
Bộ Giáo dục đang xem xét kỹ lưỡng việc phân bổ chi phí cho giáo dục cho tất cả
các cấp từ chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các nhà cung cấp dịch
vụ giáo dục tư nhân cho đến sinh viên và gia đình họ, tuy nhiên Bộ vẫn chưa có bất
cứ đề xuất nào. Thuế xăng dầu và phí đăng ký mô tô xe máy là các khoản chủ yếu
được sử dụng cho việc duy tu bảo dưỡng đường xá nhưng các khoản thu này chỉ
chiếm khoảng 60% các khoản chi duy tu bảo dưỡng, không đủ để duy trì cho các
con đường này khỏi xuống cấp. Các khoản trợ cấp cho cây mía và chuyển giao công
là những vấn để được đưa ra trong bảng. M ột số khoản trợ cấp cho các D NNN dẫn
đến sự dư thừa lao động, những cơ quan này trở thành nơi tập trung của những
người thất nghiệp với các kỹ năng hạn chế.
Bảng 2-3 So sánh các khoản chi tính theo đầu người ở một số khu vực, Năm 1989
Đơn vị: USD
Khoản mục Lafrasia Các quốc gia
tương đồng
Lĩnh vực đường xá 3.76 7.5
Chi duy trì hoạt động 1.14 3.15
Chi phục hồi/xây dựng mới 2.62 4.35
Lĩnh vực giáo dục 26.6 32.67
Chi xây dựng 3.76 10.25
Chi hoạt động 22.81 21.92
Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe 13.76 15.79
Bảng 2-4 Các khoản thu Ngân sách nhà nước 1988 -1989
Khoản mục Triệu pesos Tỷ lệ %
Thu từ thuế 27,305 55.3
Thuế xuất khẩu 9,370 19.0
Thuế nhập khẩu 6,625 13.4
Thuế thu nhập 5,687 11.5
Các khoản thuế khác 5,623 11.4
Phí và lệ phí 8,904 18.0
Lĩnh vực giao thông 672 1.4
Lĩnh vực điện lực 1,042 2.1
Lĩnh vực thông tin liên lạc 1,946 3.9
Lĩnh vực nước 1,762 3.6
Lĩnh vực giáo dục 322 0.7
Lĩnh vực sức khỏe 389 0.8
Các lĩnh vực khác 2,771 5.6
Các khoản viện trợ và vay nợ 12,150 24.6
Các khoản thu khác 1,023 2.1
Tổng thu ngân sách 49,383 100.00
Tổng chi ngân sách 57,622 116.7
Thâm hụt ngân sách -8,239
TIỀN LƯƠ NG VÀ LAO ĐỘN G Ở KHU VỰC CÔNG
Thật khó xác định chính xác số lượng người lao động ở khu vực công ở Lafrasia bởi
vì có một số lượng lớn người lao động tạm thời và không có cơ quan đăng ký kiểm
soát việc trả công cho người lao động. Tuy nhiên, theo các tính toán sơ bộ cho thấy
con số này xấp xỉ 1 triệu người, trừ những người làm việc trong quân đội, giáo dục
và các DNNN. Số lượng người này chiếm khoảng 2,5% dân số và 6% số người
trong độ tuổi lao động. Nếu tính cả số người làm việc trong quân đội, giáo dục và
DNNN thì con số này tăng lên khoảng 1,8 triệu người, khoảng 11% dân số trong độ
tuổi lao động, cao hơn 3% so với các quốc gia tương đồng. Sự gia tăng lực lượng
lao động ở khu vực công xảy ra vào thời kỳ vào năm 1978 khi đó chính phủ muốn
tiến ngay đến chế độ dân chủ và nỗ lực xây dựng sức mạnh tổng hợp để tiến đến chế
độ mới. Với đất nước nghèo nàn, chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp và nông thôn,
số lượng người lao động ở khu vực công như vậy là rất cao. Việc dư thừa lao động
làm cho mức sống của người dân ngày càng thấp hơn. Có rất nhiều người lao động
ở khu vực công phục vụ như một phần của hệ thống dịch vụ dân sự để được nhận
lương ví dụ như các tài xế và những người phục vụ trong các gia đình quan chức.
CÁC ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH
Các định chế tài chính đa phương và các nước tài trợ đang gây áp lực buộc phải
giảm tiền lương để làm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách, nhưng các khoản cắt
giảm phải tập trung vào tiền lương chứ không phải cắt giảm số người lao động. Với
tỷ lệ là 10%, việc cắt giảm nhân viên trên mọi lĩnh vực đã bị trì hoãn nhưng các ý
kiến phản đối cho rằng điều này sẽ dẫn đến việc một số lĩnh vực thiết yếu như giáo
dục phổ thông, trung tâm chăm sóc sức khỏe và khuyến nông sẽ bị thiếu nhân viên,
trong khi một số lĩnh vực khác vẫn còn tình trạng dư thừa lao động. Việc cắt giảm
nhân viên đòi hỏi một sự nỗ lực hơn nữa của các công chức chứ không phải là giải
pháp mang tính tạm thời.
CÁC KỸ NĂNG VÀ ĐÀO TẠO
Có rất nhiều người lao động tạm thời không có kỹ năng làm việc được thuê để làm
giảm tình trạng thất nghiệp, nhưng hầu hết trong số họ có năng suất lao động thấp.
Họ coi những khoản tiền lương thấp mà chính phủ trả cho họ như là khoản trợ cấp
và phải làm thêm giờ vào ban đêm đông thời thường xuyên nghỉ việc. Không có sự
giám sát khiến cho những người lao động dễ dàng làm việc thêm một công việc
nữa. Ở đây có sự khan hiếm về nhân sự trong lĩnh vực quản lý (như các kế toán
viên, nhà kinh tế và các nhà quản lý hành chính) và lĩnh vực kỹ thuật (như các kỹ
sư, người lao động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, thư ký và các giáo viên giỏi)
kết hợp với sự thiếu hụt các phương tiện và chương trình đào tạo trong nước để phát
triển các kỹ năng này. Rất nhiều người được đào tạo bài bản đã rời khỏi đất nước
trong suốt thời kỳ chế độ độc tài quân sự và các điều kiện hiện tại chưa đủ hấp dẫn
để thu hút họ quay về. Thêm vào đó, việc thiếu các khoản trợ cấp và máy móc thiết
bị (như máy vi tính, máy đánh chữ, máy xử lý văn bản, thiết bị thông tin liên lạc và
máy photo) làm hạn chế hiệu quả lao động của những người được đào tạo tốt.
TIỀN CÔN G
Những vấn đề về dịch vụ công càng trầm trọng hơn là do quy mô tiền lương đã
không được xem xét đúng mức kể từ khi đất nước giành được độc lập.Tiền lương
thực tế bị giảm xuống do tiền lương danh nghĩa phải chịu tác động của lạm phát.
Đồng thời sự gia tăng đối với việc hưởng các bổng lộc (như nhà ở, xe hơi có tài xế
riêng, du lịch nước ngoài) như là sự thay thế cho việc thanh toán các khoản lương
đối với các quan chức cấp cao. Ngay cả khi được hưởng bổng lộc nhưng những
người được giáo dục và đào tạo bài bản vẫn muốn tìm kiếm những cơ hội ở lĩnh vực
tư nhân với sức hấp dẫn hơn về thu nhập và môi trường làm việc thoải mái. M ức
lương trung bình hàng năm của một quan chức cấp cao chỉ khoảng 18,000 pesos
(khoảng 200 USD/tháng). Cộng thêm các bổng lộc như nhà ở, xe hơi có tài xế riêng
làm giảm đi phần nào nhưng tiền lương vẫn còn ở mức quá thấp để giữ những
người thông minh, có năng lực, được đào tạo tốt làm việc trong các cơ quan nhà
nước lâu dài. Với người lao động có trình độ thấp, tiền lương trung bình chỉ khoảng
3,000 -9,000 pesos một năm (khoảng 33$ - 100$ một tháng), còn những người lao
động có trình độ cao được hưởng rất ít các khoản phúc lợi. Rất nhiều công chức có
trình độ thấp phải kiếm thêm thu nhập bằng những công việc khác để có thể nuôi
sống gia đình. Trong hoàn cảnh như vậy, thật dễ hiểu khi có rất nhiều công chức coi
công việc chính của mình như là một việc làm thêm.
CÁC VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ
Những người lao động làm việc trong khu vực công thường xuyên tiếp xúc với công
chúng và bị mang tiếng là không nhiệt tình, không quan tâm tâm đến công việc
nhưng đó chỉ là cách nhìn nhận đơn giản nhất của toàn thể công dân. Ngoại trừ một
lĩnh vực đó là hệ thống bưu điện. Một người phụ nữ được đào tạo ở nước ngoài đã
đưa ra sáng kiến nhằm khuyến khích và thưởng cho người lao động theo cách có hệ
thống. Thành công của bà ấy mặc dù bị hạn chế bởi quỹ lương có giới hạn nhưng
những nỗ lực trong việc bán các con tem kỷ niệm và các dịch vụ đặc biệt đã giúp bà
ta tạo được những khoản ngân sách thêm được sử dụng để thưởng cho những người
lao động có năng suất cao và tận tâm với công việc. Kết quả là số người vắng mặt
không có lý do giảm đáng kể và doanh thu cũng tăng lên cao hơn so với các đại lý
của nhà nước mặc dù hoạt động bà ấy bị thiếu hụt các phương tiện và nguồn lực cho
đào tạo. Nói chung, thật khó có thể kiểm soát các dịch vụ công một cách hiệu quả vì
không có một cơ quan trung ương nào có thể liệt kê chi tiết từng công việc và xác
định rõ từng mức lương, và không có một dây chuyền hoạt động nào đủ rành mạch
để cho phép việc giám sát được thực hiện đầy đủ, cũng như không có một hệ thống
đánh giá nào có thể kiểm soát việc gia tăng hiệu suất làm việc. Chính phủ đang cố
gắng đưa ra một danh sách người lao động và trách nhiệm của họ, cùng lúc đó chính
phủ đã cắt giảm lực lượng lao động ở khu vực công xuống còn 3% trong hai năm
vừa qua. Rõ ràng là cần phải làm nhiều việc hơn nữa để đem lại hệ thống khu vực
công hiệu quả ở Lafrasia.
PHẦN III: CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ: NÔN G NGHIỆP & CÔN G NGHIỆP
Ở Lafrasia, 46% GDP là bắt nguồn từ nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh bắt cá. 26%
là công nghiệp (bao gồm công nghiệp mỏ); và 18% là hệ thống dịch vụ. Những sản
phẩm xuất khẩu tài nguyên cơ bản chủ yếu là cây dừa, cây mía, & gỗ cứng vùng
nhiệt đới. Toàn bộ cơ cấu xuất khẩu & nhập khẩu được trình bày chi tiết trong bảng
3-1.
Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 1988 và 1989
Triệu peso
Danh mục 1988 1989
- Xuất khẩu
+ Hàng hóa
. Dừa
. Đường
. Dược phẩm
. Gỗ cứng vùng nhiệt đới
. Loại khác
+ Những ngành dịch vụ
- Nhập khẩu
+ Hàng hóa
. Lương thực
. Hàng tiêu dùng
. Hàng hóa tư bản (Tư liệu SX)
. Loại khác
+ Những ngành dịch vụ
- Cán cân vãng lai
- Cán cân vãng lai theo tỷ lệ % của GDP
30,397
28,386
13,533
4,040
4,792
2,859
3,163
2,010
38,135
31,395
9,295
9,649
10,216
2,235
6,740
-7,738
4.4
39,516
37,429
18,796
4,589
5,860
3,386
4,798
2,087
46,906
38,441
10,380
13,084
12,195
2,782
8,465
-7,390
3.3
NÔN G NGHIỆP
Nền kinh tế của Lafrasia chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp. Nông nghiệp, lâm
nghiệp, & đánh bắt cá ước tính khoảng 46% GDP và khoảng 60% tổng số công ăn
việc làm.
CÂY DỪA
Cây dừa cung cấp khoảng 48% tổng thu nhập xuất khẩu, và thuế xuất khẩu dựa trên
cây dừa là khoảng 30% thu nhập thuế của Chính phủ. Những chi phí sản xuất của
cây dừa ở Lafrasian nằm trong số thấp nhất thế giới. Một cây trồng xuất khẩu ưu tú
với mức doanh lợi cao tương đối, tuy nhiên cây dừa có thể không được bảo vệ với
tình huống thị trường & điều kiện thời tiết không thuận lợi. Cây dừa cũng là một
trong số ít cây trồng mà có thể được tăng trưởng vô số đáng kể ở vùng cao nguyên,
và có lượng mưa với nước ngầm đầy đủ để phục vụ cây trồng, bởi vì nó không cần
đến một địa hình bằng phẳng. So với nhiều cây trồng nông nghiệp khác, sản lượng
dừa xuất khẩu không cần đến một số lượng đầu tư đáng kể vào công nghệ nông
nghiệp, thủy lợi, hay là điện khí hóa. Tuy nhiên, những tuyến đường thứ cấp và
những tuyến đường sắt thì trong điều kiện tồi tệ, vì thế nhu cầu cần phải có một hệ
thống vận chuyển tốt hơn để đem cây dừa tiêu thụ và những phương tiện bảo quản
lưu trữ phải được cải thiện và tốt hơn hết là đặt gần cảng. Cũng cần trồng nhiều cây
hơn và cung cấp những dịch vụ mở rộng tốt hơn, nhưng vì ngân sách của Bộ Nông
nghiệp có giới hạn, điều này có thể không tài trợ đầu tư mà cũng không cung cấp
những dịch vụ hỗ trợ cho người trồng trọt dừa.
CÂY MÍA.
Cây mía là cây trồng có ưu thế hơn trong những vùng đồng bằng M iền Trung,
nhưng nhu cầu của sản phẩm này đã giảm đi, vì có sự quan tâm dành cho loại cây
trồng khác có nhiều lợi nhuận hơn. Năm ngoái, đường đã tinh chế chiếm khoảng
12% trong tổng thu nhập xuất khẩu. Việc phát triển ngành đường mía cho thị trường
thế giới đã đòi hỏi một khoản đầu tư công thỏa đáng cho các công trình thủy lợi,
thiết bị cơ giới hóa, những phương tiện tồn trữ và sự vận chuyển đến Thành Phố
cảng để thuận tiện cho xuất khẩu. Những năm gần đây, chính quyền trung ương đầu
tư mạnh vào việc khai thác hệ thống thủy lợi cho cây mía, phần lớn hiện nay là rất
cần sự tu chỉnh. Với sự dồi dào thị trường đường thế giới, Lafrasia đã bị ép buộc
không chỉ miễn thuế xuất khẩu cho đường mà còn trợ cấp việc xuất khẩu đường để
chuyển nhượng thặng dư.
NHỮNG SẢN PHẨM KHÁC
Đóng góp nhỏ nhưng đáng kể là ngành công nghiệp gỗ cứng vùng nhiệt đới đóng
góp khoảng 9% thu nhập xuất khẩu. Ngànnh công nghiệp này cần sử dụng nhiều
năng lượng điện, nước và vận chuyển, và xe tải nặng thường xuyên chạy trên các
con đường không được lát đá từ trong các khu rừng đến các quốc lộ chính dẫn đến
Thành phố cảng cũng đã làm xấu thêm các con đường này.
Quốc gia hiện nay đang nhập khẩu một số lượng thực phẩm đáng kể, bao gồm ngô,
gạo, dầu, và những loại thực phẩm chế biến. Bộ Nông nghiệp khuyến khích người
dân thay đổi từ cây mía sang việc chế tạo ngũ cốc, đặc biệt là nhiều loại sản lượng
có lợi suất cao, nhưng thiếu sự mở rộng tài nguyên và hệ thống phân loại tín dụng
nông nghiệp cần phải tạo điều kiện thuận lợi như là một sự luân phiên. Sự thiếu
nhân viên kỹ thuật và chi phí đi lại đối với việc mở rộng những dịch vụ tạo nên rất
khó khăn để phục vụ cho những người dân mà họ quan tâm thực nghiệm bằng
những tính chất và phương pháp mới.
NHỮNG ƯU THẾ TRONG NÔNG NGHIỆP
Cùng với việc gia tăng ngành sản xuất ngũ cốc, Bộ Nông nghiệp xem xét khả năng
rất cao trong việc quay trở lại đầu tư những ngành công nghiệp hướng vào xuất
khẩu hiện nay. Ngành công nghiệp dừa có tiềm năng phát triển những ngành gia
công và chế biến thành phẩm cuối cùng, để tạo ra những công việc có thu nhập cao
hơn và thu nhập xuất khẩu nhiều hơn. Tuy nhiên, sự phát triển như vậy đòi hỏi tăng
thêm chi tiêu công cho bảo trì và sự khôi phục của những con đường và những
tuyến đường sắt, cũng như tăng thêm chi phí điều hành cho việc hỗ trợ kỹ thuật.
Ngành công nghiệp trồng dừa trước mắt cũng cần đến một chương trình trồng cây
mới để giữ vững được mức thu nhập trong tương lai.
Hiện tại, tất cả chương trình nông nghiệp, chính phủ phân phối chỉ 828 triệu peso,
hoặc khoảng 2% từ ngân sách, mặc dù vai trò chính của nông nghiệp trong GDP là
xuất khẩu và việc làm. Chi phí chủ yếu trong lĩnh vực này là những khoản tiền trợ
cấp cho cây mía, mở rộng hệ thống thủy lợi, nghiên cứu và phát triển ngành nông
nghiệp, chương trình trồng mới cây dừa, và những phương tiện bảo quản lưu trữ.
Trong quá trình hoạt động và duy tu bảo dưỡng, những người làm công tác nghiên
cứu và phát triển nông nghiệp hầu như không nhận được tiền trợ cấp hoặc chi phí đi
lại, và tình trạng tồi tệ của những tuyến đường thứ cấp càng làm khó khăn cho việc
đưa sản phẩm cây trồng thị trường tiêu thụ.
CÔN G NGHIỆP
Hai công ty đa quốc gia đã thành lập những xưởng lắp ráp điện tử ở Lafrasia trong 5
năm qua. Những ngành công nghiệp có quy mô lớn khác bao gồm dệt may, lắp ráp
tự động, hóa chất, giấy, thức uống đóng chai và xi măng. Ngành xi măng đang bị
thua lỗ; giá trợ cấp chính phủ khoảng 150 triệu peso một năm. Với tiền trợ cấp so
với thị trường bảo hộ một phần, giá xi măng sản xuất trong nước cao hơn giá thế
giới, bảo đảm sự tồn tại của ngành công nghiệp. Có một ngành công nghiệp chế tạo
xe đạp được bảo hộ vừa và nhỏ, điều này chủ yếu là phục vụ những nhu cầu trong
nước. Gần đây, một nhà chế tạo nước ngoài thiết lập xưởng lắp ráp điện tử trong
một khu vực mậu dịch tự do mới tạo nên. M ột vài những công ty nhỏ, hầu hết là
những công ty có vốn sở hữu nước ngoài và những công ty liên doanh chế biến (gia
công) gỗ cứng vùng nhiệt đới để bán tại những nước công nghiệp thay cho việc sử
dụng ngành xây dựng giá cao. Ngành công nghiệp xuất khẩu chính yếu là dệt may,
bộ phận xe hơi, hóa chất và công nghiệp điện tử (lắp ráp địa phương từ những linh
kiện nhập khẩu).
PHẦN IV: KHU VỰC XÃ HỘI : GIÁO DỤC VÀ Y TẾ
GIÁO DỤC
Giáo dục công nhận được khoảng 16% ngân sách điều hành của Chính phủ và một
khoảng phụ thêm từ địa phương. Hầu hết chi tiêu của địa phương là dành cho việc
xây dựng trường tiểu học hoặc bổ sung cho quỹ tiền trợ cấp không thỏa đáng của
Chính phủ. Khu vực tư nhân đóng một vai trò đáng kể trong giáo dục ở mọi cấp
học. Bảng số liệu 4-1 cho thấy sự phân bố số lượng học sinh ở các cấp giữa trường
học công lập và dân lập. Mức chi tiêu cho một học sinh trong nhóm các quốc gia
ngang hàng là 2.218USD cho giáo dục bậc cao từ TH trở lên, 327USD cho trung
học và 243USD cho tiểu học. tỷ lệ học sinh theo học ở trường tư cũng tăng lên, đặc
biệt là khối tiểu học và trung học. Mười năm qua, khối trường tư đạt 17% số học
sinh tiểu học và 25% học sinh trung học. Bộ giáo dục nhận thấy sự thay đổi con số
ở các trường tư là phản hồi từ sự thiếu hụt giáo viên về số và chất lượng cũng như
sự thiếu thỏa đáng về sách và các trợ cấp ở các trường công lập.
Bảng 4-1: Phân bổ học sinh trong ngành Giáo dục, năm 1988
Chỉ tiêu Số học sinh (1.000) Tỷ lệ tuyển
Trên trung học 115 2.0
- Trường công 77 67
- Trường tư 38 33
Trung học 687 14
- Trường công 458 57
- Trường tư 229 43
Tiểu học 4,800 81.8
- Trường công 2,894 73
- Trường tư 1,106 27
GD người lớn 126 2.2
Các cấp 5,728 100
- Trường công 3,426 71
- Trường tư 1,376 29
CHI TIÊU GIÁO DỤC
Tổng chi tiêu cho Giáo dục ở Lafrasia là rất thấp nếu so với các quốc gia khác.
Bảng 4-2 cung cấp số liệu cơ bản về chi tiêu của Chính phủ cho giáo dục theo từng
cấp.
Bảng 4-2: Phân bổ chi tiêu cho mỗi học sinh , năm 1988
Chỉ tiêu Chi tiêu cho mỗi học
sinh (USD)
Tỷ lệ
Trên trung học 3,287 27.7
Trung học 525 26.3
Tiểu học 143 45.1
Người lớn 43 0.06
Giáo dục trên trung học
Chỉ có 1/6 học sinh tốt nghiệp trung học sẽ theo học tiếp ở trường trung học, mặc dù
theo học cao hơn sẽ nhận được một phần kinh phí từ ngân sách. Sẽ phải làm một bài
kiểm tra đầu vào, và chỉ có học sinh của trường dân lập và các trường công tốt hơn
được chấp nhận. Học phí rất thấp (75 pesos mỗi khoá) và học sinh nhận được trợ
cấp tiền ăn từ một phần lớn ngân sách nhà nước. Nhu cầu về y tá, giáo viên và
những người quản lý có tay nghề ở cả khu vực tư và công là rất lớn, nhưng chỗ ở
trong trường đại học thì quá hạn chế không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu của SV. Bậc
giáo dục này vẫn còn thiếu trang thiết bị giảng dạy, đặc biệt là các chương trình
khoa học kỹ thuật.
ở bậc giáo dục dạy nghề, tình hình còn xấu hơn. Ở mỗi tỉnh có một trường dạy nghề
của chính phủ . Tuy nhiên, tất cả trường này đều thiếu nhân viên, thiếu tiền tài trợ ,
quá tải và sử dụng những thiết bị không đồng bộ và lỗi thời. Hầu hết các trường kỹ
thuật và dạy nghề là trường tư và rất đắt. Bởi vì hầu hết sinh viên học các trường đại
học công lập thì theo đuổi các ngành khoa học xã hội hơn là các ngành Khoa học kỹ
thuật hoặc các môn Khoa học định hướng quản lý, các trường tư này chiếm ưu thế
troong việc cung cấp các kỹ năng đặc biệt sẽ được áp dụng ở cả khu vực tư lẫn
công. Trong 5 trường đại học công, lương cho giáo sư đang bị giảm dần, và số
lượng các nhà quản lý đang tăng lên đã làm hạn chế số tiền kinh phí rót cho bảo trì,
trang thiết bị và dụng cụ thí nghiệm.
Giáo Dục trung học
Các trường trung học chỉ tập trung ở những thành phố và thị trấn lớn. Học sinh
được miễn học phí và còn được trợ cấp tiến ăn giống như trên đại học và tương tự,
cũng không có đủ chỗ ở cho học sinh. Đầu vào cũng phải cạnh tranh, nhưng học
sinh từ những gia đình giàu có vẫn có cách để được vào học. Có 1 số trường trung
học được điều hành bởi tổ chức tôn giáo và những tổ chức phi chính phủ khác, các
trường này cung cấp cơ hội cho học sinh từ các tỉnh lẻ không có điều kiện được vào
trường công lập. Hội phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội phải đóng góp, trợ
cấp để trang bị dụng cụ học tập cho học sinh. Học sinh con nhà nghèo không thể
theo học lên trung học vì cha mẹ không có khả năng đóng góp tiền chi phí học tập
cho nhà trường.
Giáo dục tiểu học
Tiểu học được miễn phí và trường tiểu học có mặt khắp mọi nơi trừ những làng xã
nhỏ nhất. Hầu như tất cả trẻ em tới truờng khi lên 6 nhưng chỉ có 40% theo học hết
chương trình của 8 năm tiểu học. Rất nhiều học sinh lưu ban hoặc có kết quả yếu
kém. Có quá nhiều giáo viên trình độ thấp cũng như thiếu hụt về sách và đồ dùng
giảng dạy làm cho một phần học sinh tiểu học có 1 sự hiểu biết hạn chế. Người ta
cần giáo viên được đào tạo, cơ sở vật chất, trang thiết bị và những khoá học mở
rộng trước khi đến trường cho học sinh. Trường tiểu học thường xuyên bị quá tải,
vẫn được xây dựng kiên cố và duy trì bởi chính quyền địa phương với sự hỗ trợ của
hội phụ huynh học sinh và các tổ chức cộng đồng xã hội. Các trường tiểu học
thường xuyên bi thiếu nguồn trợ cấp. Trong khi các tổ chức phi chính phủ và hội
phụ huynh học sinh đang nỗ lực xóa bỏ các khoảng cách, các lỗ hổng trong cộng
đồng, thì áp lực phải cung cấp sự hỗ trợ cho nhà trường đè lên vai phụ huynh học
sinh, con của những gia đình nghèo sẽ không bỏ học. Với việc phải cạnh tranh khốc
liệt để được vào học trung học, học sinh cần phải có sự nỗ lực hơn nữa để chuẩn bị
cho các bài thi đầu vào các cấp, và chuẩn bị cho đầu ra chỉ một số ít các học sinh có
khả năng mới ra trường được. Các trường học do tôn giáo mở ra dường như đã làm
tốt công việc chuẩn bị cho học sinh bao gồm cả những học sinh bị rớt ở những kỳ
thi hết cấp tiểu học và những học sinh sắp thi vào trung học, đại học, bởi vì các
trường này nhận được hỗ trợ mạnh mẽ từ bên ngoài.
Giáo dục cho người lớn
Cũng cần có chương trình giáo dục cho người lớn để dạy họ về văn hóa, chăm sóc
sức khỏe và kỹ thuật trồng trọt. 27% dân số trong độ tuổi trưởng thành bị mù chữ.
Giáo dục các kiến thức căn bản cho người lớn là trách nhiệm của Chính phủ, nhưng
nguồn kinh phí cho các chương trình này hiện nay đang thiếu hụt trầm trọng. Các tổ
chức phi chính phủ đang lấp lỗ hổng này ở một số khu vực nhưng vẫn có tình trạng
các chương trình phổ cập văn hóa không đến được với một phần khá đông dân số
trưởng thành bị thất học.
CHĂM SÓ C SỨC KHỎE
Ở lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, các vấn đề quan trọng gồm cung cấp dịch vụ y tế
cho hầu hết các làng xã xa xôi và việc phân bổ hợp lý các nguồn lực giữa chăm sóc
cơ bản (như là về dinh dưỡng, miễn dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, và
các dạng tương tự) và các dịch vụ đặc biệt khác, bao gồm bệnh viện và chăm sóc
dài hạn. Một vấn đề nữa đó là làm thế nào để quản lý chi phí khi cung cấp dịch vụ y
tế cho người nghèo. Tiền trợ cấp hiện tại dường như có lợi cho tầng lớp dân cư
trung và thượng lưu từ việc lấy chi phí cung cấp dịch vụ chăm sóc cơ bản cho người
nghèo. Bệnh viện ở các thành phố lớn được trang bị tốt và hiện đại; bệnh viện được
trợ cấp nhưng các giường nằm được phân theo thứ hạng. Có một số phòng khám
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản như chăm sóc sức khỏe sản phụ và trẻ
em ở nông thôn và các khu ngoại vi nghèo, nhưng hầu hết đều bị thiếu hụt (thiếu
thuốc, vắc-xin và thiếu các thiết bị y tế khẩn cấp thường ngày) và luôn thiếu nhân
sự.
Cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe
Cũng giống như giáo dục, lĩnh vực y tế cũng có hệ thống 2 khu vực công và tư cùng
tồn tại song song với nhau. Khu vực tư bao gồm hai dạng riêng biệt: dạng khám
chữa bệnh dịch vụ với các chuyên gia và đội ngũ thực hiện có chất lượng cao hướng
đến khách hàng là các bệnh nhân tiềm năng; và một dạng chương trình được tài trợ
bởi các tổ chức phi chính phủ và các nguồn tài trợ từ bên ngoài thì tập trung vào
thực hiện các dịch vụ cơ bản (dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, sinh
sản và miễn dịch) dành cho bệnh nhân ở nông thôn. Còn khu vực công cung cấp
dịch vụ ở hầu hết các bệnh viện và trung tâm y tế. (Có hai bệnh viện tư, một ở thủ
đô và một ở Bahia Linda). Rất nhiều công dân ở nông thôn sống quá xa các trung
tâm y tế thì họ phải dựa vào các phương pháp chữa trị truyền thống hoặc sẽ phải
chịu di chuyển một khoảng cách rất xa mới tiếp cận được với dịch vụ y tế. Như vậy,
họ nhận được rất ít sự chăm sóc sức khỏe và chỉ trong các trường hợp khẩn cấp
mới nhìn thấy họ xuất hiện ở bệnh viện.
Các vấn đề về sức khỏe
Không khó để tìm thấy bằng chứng của các vấn đề về sức khỏe đựơc chỉ ra ở bàng
1-1. Tỷ lệ trẻ sơ sinh bị chết là 8%, cao hơn nhiều so với các quốc gia có cùng thu
nhập với Lafrasia. Có 3/1000 bà mẹ chết ngay khi sinh con. Khoảng 10% dân số
người trưởng thành mang vi rút HIV. Các căn bệnh khác có thể khống chế được
(như là bệnh tiêu chảy, sốt rét, bại liệt) vẫn tồn tại ở địa phương do thiếu các
phương tiện phòng ngừa, điều kiện vệ sinh, nước sạch và tiếp cận nguồn thuốc.
Dưới 60% trẻ em được tiêm ngừa hoàn toàn. Suy dinh dưỡng đặc biệt là ở bé gái,
phụ nữ mang thai và người già là chuyện thường thấy ở các khu ổ chuột và các
vùng nông thôn nghèo.
Chi phí
Bảng 4-4 : Phân bổ chi tiêu chăm sóc sức khỏe
Chỉ tiêu Lafrasia Các QG tương
đồng
Chi tiêu đầu người (đơn vị USD)
Chi tiêu tiền 3.07 1.88
Nhân sự 7.88 14.54
1.69 3.62
Khác 1.12 1.15
Đơn vị %
Chi cho bệnh viện 54 33
Ngừa bệnh 37 59
Khác 9 8
Bảng 4-4 là số liệu so sánh sự phân bổ chi phí chăm sóc sức khỏe. Chi phí trả tiền
bệnh viện, chủ yếu là chi cho dịch vụ khám chữa bệnh chiếm gần 55% ngân sách
chi cho sức khỏe cộng đồng. Các khoản có lợi nhuận như là miễn dịch, chăm sóc
sức khỏe sản phụ và phòng ngừa bệnh thường xuyên không có tiền tài trợ. Cho dù
có sự góp mặt của một mạng lưới cung cấp dịch vụ y tế tư nhân tồn tại song song,
nhưng chuyện như thế vẫn còn y nguyên và còn phát triển như là sự phản ứng trước
tình trạng suy giảm chất lượng dịch vụ y tế công cộng. Như vậy, một hệ thống mà
ban đầu chuyển đổi các nguồn lực từ dịch vụ chăm sóc phòng ngừa bệnh và nhu cầu
của người có thu nhập thấp sang dịch vụ chữa bệnh cho người có thu nhập cao thì
hiện nay chất lượng phục vụ đều không có hiệu quả đối với cả người giàu lẫn người
nghèo. Ở lĩnh vực chi tiêu, y tế và giáo dục bậc cao đều phải chịu áp lực phải tạo
dựng các phương tiện mới thay vì duy trì và cải tạo các phương tiện đang có.
PHẦN V : DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Có một số các doanh nghiệp nhà nước ở Lafraisia. Có 3 trong số đó nhận được trợ
cấp lớn nhất của Chính phủ là: điện, nước, và xi măng ( dữ liệu thu thập được từ
thông tin SOEs bảng 2-4)
ĐIỆN
Các Công ty điện lực nhận trợ cấp từ Ngân sách nhà nước, chủ yếu là để chi đầu tư
xây dựng cơ bản. Các công ty điện lực đã bị thâm hụt gia tăng liên tiếp trong 3 năm
qua vì sự điều chỉnh thuế của Chính phủ vẫn tụt lại sau chỉ số lạm phát.Trong khi có
sự mâu thuẫn giữa giá cả điện tăng cao với sự quan tâm ngày càng nhiều (trừ người
nghèo) của người muốn sử dụng điện, các nhà quản lý của các Công ty điện lực vẫn
tin rằng giá điện cao hơn là cần thiết để làm chậm lại sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ
điện và tránh việc tạo ra năng suất mới với chi phí cao .Gần 35% của hộ gia đình,
hầu hết sống ở những trung tâm thành phố, có khả năng sử dụng năng lượng điện.
Giá điện tăng cao sẽ làm trì hoãn sự phân phối điện đến một phần lớn hơn các hộ
gia đình, đó là mục tiêu chính của thủ tương chính phủ hiện thời.
NƯỚC
Tổng Công Ty Cấp Nước Lafrasia (LWC) chịu trách nhiệm quản lý và xây dựng
tổng thể hệ thống xử lý, phân phối nước cũng như xây dựng và quản lý việc dự trữ
một trữ lượng nước lớn. Nguồn nước tưới cho ngành mía đường và một vài loại cây
trồng khác ở hai tỉnh là do LWC cung cấp. Những thành phố và các làng quê lớn
mua nước đã qua xử lý từ LWC dùng để phân phối đến các dân cư, duy trì hệ thống
phân phối và thu tiền từ người sử dụng. Giếng nước và suối cung cấp nước cho hầu
hết các ngôi làng nhỏ ; hệ thống các ống nước nối với nước sạch đã qua xử lý chỉ
được sử dụng ở những thị trấn lớn và những vùng lân cận nghèo nàn trong các
thành phố.Chính phủ chỉ trợ cấp ở một mức độ vừa phải việc kinh doanh bán sỉ, trừ
những khoản không thoả đáng dành cho bảo trì sửa chữa, số hao hụt lớn hơn là do
LWC bán lẻ trực tiếp đến một số lượng lớn người tiêu dùng (nông nghiệp và công
nghiêp). Nước bị hao hụt chiếm khoảng 30% tổng khối lượng nước đã xử lý. Hao
hụt nước còn do nguyên nhân chính quyền địa phương không thể thu tiền từ các
giếng nước và các cột lấy nước công cộng. Dịch vụ nước hộ gia đình với chi phí xử
lý nước trung bình là 12 peso/tháng cho các hộ gia đình ở thành phố. Hệ thống nước
ở đô thị quá cũ kỹ, vì vậy sự rò rĩ nước tăng lên, và áp lực nước thì thấp ở một số bọ
phận của hệ thống. Hệ thống tưới nước cũng bị thiệt hại từ việc thiếu sự bảo trì.
CÔN G NGHIỆP XI MĂNG
Chính phủ tiếp quản ngành công nghiệp xi măng từ nhiếu Công ty tư nhân nhỏ và
yếu cách đâu 10 năm. Xi măng là một nguyên liệu chủ yếu trong sự phát triển cơ sở
hạ tầng các dạng, vì vậy chính phủ đảm nhận cung cấp xi măng cho các doanh
nghiệp nhà nước và các công ty tư nhân với giá trợ cấp. Không như điện và nước,
ngành công nghiệp này không phải là sự hữu ích công mà yêu cầu sự trợ giúp chính
phủ để cung cấp quyền sử dụng cho người với mức giá thấp và thích đáng. Nhu cầu
công nhân làm trong ngành Xi măng khoảng 8000 người hoặc ít hơn trong các trung
tâm thành phố, tất cả các công nhân được chính phủ xem xét đến. Ngành công
nghiệp này chịu sự giám sát tổng thể của Bộ thương mại, nơi mà quyết định các
chính sách giá cả và các nguồn trợ cấp từ ngân sách chính phủ. Tuy nhiên ngành
công nghiệp xi măng hiện tại đang mất 30 triệu pesos một năm. Các báo cáo tài
chính khám phá ra rằng có sự hao hụt thất thoát bắt nguồn từ nguyên nhân là sự
quản lý không hiệu quả và giá bán thấp của xi măng kém chất lượng, điều này cho
phép mộp tỷ lệ khá cao công nhân rời bỏ công ty nhà nước để đến làm việc cho các
công ty sản xuất xi măng tư nhân ở các nước láng giềng. Các doanh nghiệp nhà
nước khác, các nhà thầu cá nhân và các chính quyền địa phương bị phản đối mạnh
mẽ việc cắt giảm giá trợ cấp cho xi măng.
VẬN TẢI NGOẠI THƯƠN G
Các sân bay công cộng đang hoạt động tốt, trôi chảy, nhưng cán cân của nó thì
không thặng dư. “Lợi nhuận” đang đươc tái đầu tư vào mở rộng và cải tiến tại các
sân bay quốc tế tại thủ đô của Lafrasia và một sân bay nội địa tại Bahia Linda. Sân
bay ở thủ đô tương đối mới, khách du lịch và các thương nhân cũng tạo thành một
luồng khách hàng cho các công ty thương mại và các công ty này đóng góp một tỷ
lệ % từ tiền thu được cho cơ quan quản lý sân bay. Lệ phí hạ cánh, phí chỗ (dành
cho máy bay của các hãng hàng không), và lệ phí giấy phép cho những người lái
taxi hình thành nên nguồn doanh thu chính của hai sân bay, mặc dù phí hạ cánh cho
mỗi máy bay là 25USD – là mức phí quá thấp. Có một vài áp lực chính trị phải phát
triển các sân bay khu vực để qua lại giữa các thành phố nhỏ. Các cảng cũng được
chỉ ra một lượng thăng dư khiêm tốn, từ các mức phí khác nhau thu được của các
con tàu, bao gồm cả các tàu du lịch và từ các doanh nghiệp thương mại trên các bến
tàu mà phải trả phí cho địa phương. Các điều kiện tiện ích đang vận hành với các
công suất cao tuy nhiên chúng cần được bảo trì đúng mức và mở rộng thêm.
VẬN CHUYỂN NỘI ĐỊA
Hệ thống xe buýt với một mức phí vô cùng rẻ nếu là xe buýt hạng hai, chỉ 2 peso
trong cùng một vùng, và 15 peso cho việc di chuyển trong vòng 100 dặm giữa các
thành phố và các tỉnh. Xe buýt thì cũ và không được bảo trì một cách thỏa đáng,
những người tài xế được trả lương rất thấp nhưng hệ thống vẫn cần được trợ cấp từ
phía chính phủ. M ột tuyến đường sắt nối thủ đô với vùng biển và các vùng lân cận
của Andaria; nó chỉ cung cấp một dịch vụ chở hành khách có giới hạn và chuyên
chở hàng hoá đúng mức. Các phí chuyên chở hành khách trên tàu hỏa được tính
toán đủ để bù đắp chi phí, mặc dù đa số hành khách có thu nhập thấp lựa chọn xe
bus bởi vì có sự trợ cấp lớn hơn cho dịch vụ này. Hàng hoá chuyên chở trên tàu thì
lại được trợ giá nhiều hơn. Vì trợ cấp cho tàu hỏa cũng có giới hạn, nên tổng trợ cấp
cho xe lửa tương đối ít, nhưng nhiều đầu máy xe lửa thì quá cũ và cần phải thay thế.
NHỮNG DOANH NGHIỆP CÔN G KHÁC
Dịch vụ bưu chính bị thâm hụt tương đối, nguyên nhân chính là do sự cung cấp
“miễn phí” dịch vụ này cho các khu vực chính phủ. Hệ thống điện thoại tính giá khá
cao và chỉ là một lãng phí tương đối trong chi tiêu ngân sách khu vực công. Tuy
nhiên, dù nhận được trợ cấp thấp, dịch vụ điện thoại vẫn nhận sự phê bình bởi vì giá
cao, dịch vụ kém và chỉ 18% dân số (chủ yếu là hộ gia đình ở thành phố có thu nhập
cao) có điện thoại trong nhà.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bia_tieu_luavn_0848.pdf