1.Rau trồng trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên đã có hiện tượng bị ô 
nhiễm NO3- và các kim loại nặng (Pb, Cd, As) do chưa thực hiện đúng và đầy 
đủ qui trình sản xuất rau an toàn (bón ít phân hữu cơ, bón phân tươi, bón đạm 
quá liều lượng, bón phân không cân đối, sử dụng nước tưới bị ô nhiễm .)
2. Đất trồng rau của Thành phố Thái Nguyên có hàm lượng NO3
-và các kim loại nặng (Pb, Cd, As) đảm bảo tiêu chuẩn an toàn cho đất nông nghiệp
theo TCVN 7209 -2002. Nước tưới ở các khu vực trồng rau đã có hiện tượng 
ô nhiễm các kim loại nặng (Pb, Cd, As) theo TCVN 6773 –2000.
3. Sử dụng nước giếng khoan đảm bảo chất lượng rau, nước Sông Cầu 
cần có sự kiểm tra trước khi tưới, nước phân chuồng tưới cho rau cần đảm
bảo thời gian cách ly như bón phân đạm hóa học, sử dụng thải bị ô nhiễm tưới
cho rau làm ô nhiễm rau.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 147 trang
147 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4705 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu hàm lượng nitrat và kim loại nặng trong đất, nước, rau và một số biện pháp nhằm hạn chế sự tích lũy của chúng trong rau tại Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khi 
đó hàm lượng Pb trong rau giảm xuống 0,8782 mg/kg tươi và tiếp tục giảm 
đến công thức 4 (bón 7,5 gam CaO) nhưng phải đến công thức 5 (bón 10 gam 
CaO) thì hàm lượng Pb trong rau mới đạt tiêu chuẩn cho rau an toàn, khi đó 
pH đất là 7,4. Như vậy nếu sử dụng nước tưới chứa 2,0ppm Pb cần thiết phải 
bón vôi để pH đất ở môi trường trung tính thì Pb sẽ bị kết tủa trong đất và ít 
vận chuyển vào rau nên hàm lượng Pb trong rau đạt tiêu chuẩn an toàn. Kết 
quả này càng khẳng định thêm vai trò của pH đất đến sự linh động của Pb. 
 112 
Tương quan giữa pH đất và hàm lượng Pb trong rau cải canh được biểu 
diễn trên hình 3.17: 
y = -0.0094x2 - 0.1828x + 2.3315
R2 = 0.7453
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
4.0 5.0 6.0 7.0 8.0
Pb trong rau 
(mg/kgt) 
pH đất 
Hình 3.17: Tương quan giữa pH đất và hàm lượng Pb trong rau khi 
sử dụng các mức vôi bón khác nhau 
Như vậy giữa pH đất và hàm lượng Pb trong rau có một sự tương quan 
nghịch (R2 =0,7543 ở mức ý nghĩa 99%), khi pH đất ở mức gần trung tính 
hoặc kiềm, sự hấp thu Pb từ môi trường vào rau giảm do Pb đã bị kết tủa 
thành PbCO3 hoặc Pb(OH)2 ít ảnh hưởng đến cây trồng. 
* Ảnh hưởng của các mức bón vôi đến sự hạn chế sự tích luỹ Cd từ nước vào 
rau cải canh 
Sử dụng nước tưới ô nhiễm Cd ở mức 0,1ppm tưới cho rau trên nền đất 
được bổ sung vôi theo các mức tăng dần: không bón vôi (ĐC), bón 2,5 - 5,0 - 
7,5 - 10,0 gam CaO/vại, chúng tôi thấy hàm lượng Cd trong rau cải canh có 
quan hệ chặt chẽ với pH đất thông qua lượng vôi bón (hình 3.18 và hình 
3.19): 
- Khi sử dụng vôi lót vào đất làm cho pH đất có sự biến động rõ rệt, từ 
4,8 ở công thức ĐC, lên 6,5 ở công thức 3 (bón 5,0 gam CaO/vại) và pH đạt 
cao nhất là 7,5 ở công thức bón 10gam CaO/vại. 
 113 
4.8e
5.3d
6.5c
6.9b
7.5a
0.3
97
2a
0.3
31
9b
0.0
73
2c
0.0
19
3d
0.0
13
2e
0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
6,0
7,0
8,0
ĐC 2,5 5,0 7,5 10,0
pH đất Cd trong rau
(mg/kg tươi) 
Lượng 
CaO(g/vại)
Hình 3.18: Ảnh hưởng của lượng vôi lót đến pH đất và sự tích luỹ Cd từ 
nước vào rau cải canh 
(Thí nghiệm chậu vại trong nhà che nilon - Năm 2004 và năm 2005) 
- Hàm lượng Cd trong rau giảm cùng với sự tăng pH đất khi sử dụng vôi 
bón ở các mức khác nhau, từ 0,3972 mg/kg rau tươi (công thức ĐC) đến 
0,3391mg/kg rau tươi (công thức 2 - bón 2,5 gam CaO/vại) và đạt mức an 
toàn ở công thức 4 là 0,0193 mg/kg rau tươi, khi đó pH đất là 6,9. Nhưng 
khác với Pb, hàm lượng Cd có xu hướng giảm mạnh ở mức pH đất trong 
khoảng 6,5 – 6,9 cụ thể: 
- Công thức bón 2,5 gam CaO/vại, với pH đất là 5,3 hàm lượng Cd trong 
rau là 0,3319 mg/kg giảm 1,2 lần so với công thức ĐC (không bón vôi) 
- Công thức bón 5,0 gam CaO/vại, tương đương với pH đất là 6,5 thì 
hàm lượng Cd trong rau là 0,0732 mg/kg tươi, giảm 5,4 lần so với ĐC và 
giảm 4,5 lần so với công thức 2 (bón 5,0 gam CaO/vại). 
- Công thức bón 7,5 gam CaO/vại, pH đất là 6,9 và hàm lượng Cd trong 
rau là 0,0193 mg/kg tươi, giảm 17,2 lần so với công thức 2 (bón 2,5 gam 
 114 
CaO/vại). Ở mức này hàm lượng trong rau đã đạt tiêu chuẩn an toàn (giới hạn 
hàm lượng Cd trong rau an toàn là ≤ 0,02 mg/kg rau tươi). 
- Công thức bón 10,0 gam CaO/vại, khi đó với pH đất là 7,5 thì hàm 
lượng Cd trong rau là 0,0132 mg/kg tươi, giảm 5,5 lần so với công thức 3 
(bón 5,0 gam CaO/vại) và giảm 1,4 lần so với công thức 4. 
Như vậy trong điều kiện nước tưới bị ô nhiễm Cd đến mức 0,5ppm, để 
hàm lượng Cd trong rau đạt tiêu chuẩn an toàn có thể sử dụng vôi như một 
công cụ để tăng pH đất lên 6,6 - 7,0 đã hạn chế sự tích lũy Cd từ nước vào 
rau. 
Cũng giống như Pb, giữa pH đất và hàm lượng Cd trong rau có mối 
tương quan nghịch (R2= 0,883) nghĩa là khi pH đất tăng thì giảm sự hấp thu 
Cd vào cây trồng. 
y = 0.0508x2 - 0.7681x + 2.9144
R2 = 0.883
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
4.0 5.0 6.0 7.0 8.0
Cd trong rau 
(mg/kgt) 
pH đất 
Hình 3.19: Tương quan giữa pH đất và hàm lượng Cd trong rau khi 
sử dụng các mức vôi bón khác nhau. 
Kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu của: Bride, Murray B.[64], 
nghiên cứu trên rau diếp: hàm lượng Cd hấp thu vào cây được hạn chế bởi pH 
đất cao, Han and Lee, 2004 [73] khi thực hiện trên cải củ, trên đậu; Wang và 
cs (2006) [114] thử nghiệm trên trên cải canh cũng cho kết quả tương tự, các 
 115 
tác giả đều khẳng định pH đất là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến độ 
hấp thu Cd vào cây trồng. 
* Ảnh hưởng của các mức bón vôi đến hạn chế sự tích luỹ As từ nước vào rau 
cải canh 
Từ kết quả thí nghiệm 1 chúng tôi sử dụng nước tưới chứa 0,5 ppm As 
cho rau cải canh trên nền bón vôi theo mức tăng dần: 0 - 2,5 gam - 5,0 gam - 
7,5 gam - 10 gam, kết quả được thể hiện ở hình 3.20 và hình 3.21: 
4.8e
5.5d
6.4c 6.6b
7.3a
0.
22
05
b
0.
23
03
b
0.
19
92
c
0.
23
19
b
0.
24
55
a
0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
6,0
7,0
8,0
ĐC 2,5 5,0 7,5 10,0
pH đất As trong rau
(mg/kg tươi) 
Lượng 
CaO(g/vại)
Hình 3.20: Ảnh hưởng của lượng vôi lót đến pH đất và sự tích luỹ As từ 
nước vào rau cải canh 
(Thí nghiệm chậu vại trong nhà che nilon - Năm 2004 và năm 2005) 
Cũng giống như các thí nghiệm bón vôi khi sử dụng nước tưới ô nhiễm 
Pb và Cd, thí nghiệm sử dụng nước tưới ô nhiễm As khi bón vôi vào đất với 
mức tăng dần cũng làm cho pH đất tăng lên, mức ban đầu khi chưa bón vôi 
pH của đất là 4,8 sau đó tăng dần lên 5,5 ở công thức 2 (mức bón 2,5 gam 
CaO,vại), đạt 6,4 ở công thức III (bón 5,0 gam CaO/vại) và có giá trị cao nhất 
ở công thức 5 – bón 10 gam CaO/vại, pH đất là 7,3. 
 116 
Tuy vậy, khác với Pb và Cd, sự hấp thu As của cây trồng ít phụ thuộc 
vào sự thay đổi của pH đất, việc tăng mức bón vôi làm cho pH đất tăng lên 
nhưng hàm lượng As trong rau không có sự biến động (R2 = 1,1173): 
Ở công thức ĐC (không bón vôi, sử dụng nước tưới ô nhiễm As) hàm 
lượng As trong rau là 0,2205 mg/kg rau tươi, sau đó giảm xuống là 0,1992 
mg/kg rau tươi (công thức 3: bón 5,0gam CaO/vại + sử dụng nước tưới ô 
nhiễm As) nhưng ở công thức 5 (với pH đất là 7,3) thì hàm lượng As lại có xu 
hướng tăng lên so với công thức ĐC (2,455 mg As/kg tươi). Điều này có thể 
được giải thích khác với Pb và Cd, khi trong môi trường kiềm As có xu hướng 
linh động hơn do sự có mặt Ca+2 nên As tạo thành Ca3(AsO4)2, làm cho khả 
năng vận chuyển vào cây trồng nhiều hơn. 
y = 0.0095x + 0.1697
R2 = 0.1173
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
4 5 6 7 8
As trong rau 
(mg/kgt)
pH đất 
Hình 3.21: Tương quan giữa pH đất và hàm lượng As trong rau khi 
sử dụng các mức vôi bón khác nhau. 
Như vậy để hạn chế sự tích luỹ As từ môi trường nước vào cây trồng 
không thể dùng biện pháp bón vôi thông thường mà phải có các biện pháp 
khác, như biện pháp hoá học dùng ôxit, hyđrôxyt Fe…, biện pháp sinh học 
lựa chọn loại thực vật như dương xỉ…. 
 117 
* Ảnh hưởng của các mức bón vôi đến sự hạn chế sự tích luỹ Pb, Cd, As từ 
nước vào rau cải canh 
Kết quả sử dụng vôi với lượng tăng dần vào đất để hạn chế sự tích luỹ các 
kim loại trong rau khi tưới nước chứa hỗn hợp các kim loại nặng (Pb, Cd, As) 
cho kết quả tương tự như với các thí nghiệm sử dụng vôi bón trong trường hợp 
nước tưới ô nhiễm đơn nguyên tố (hình 3.22): 
a
b
c
dd
a b b
b
c
d d
a b c0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
6,0
7,0
8,0
ĐC 2,5 5,0 7,5 10,0
0
0,05
0,1
0,15
0,2
0,25
0,3
0,35
pH đất Cd As Pb 
Lượng 
CaO(g/vại)
pH đất Hàm lượng trong 
rau(mg/kg tươi)
Hình 3.22: Ảnh hưởng của lượng vôi lót đến pH đất và sự tích luỹ Pb, 
Cd, As từ nước vào rau cải canh 
(Thí nghiệm chậu vại trong nhà che nilon - Năm 2004 và năm 2005) 
Ở mức bón 10 gam CaO/vại bón vào đất (công thức 5), khi sử dụng nước 
ô nhiễm các kim loại nặng (Pb, Cd, As) đã làm giảm hàm lượng Pb trong rau 
cải canh xuống dưới ngưỡng an toàn (0,4143 mg/kg rau tươi) với pH đất là 
7,6; trong đó khi không sử dụng vôi bón vào đất (công thức ĐC) hàm lượng 
Pb trong rau là 1,2 mg/kg rau tươi, tương ứng với giá trị pH đất là 4,8. 
Với Cd: Ở công thức ĐC (không bón vôi) với pH đất là 4,8 thì hàm 
lượng Cd trong rau là 0,3293 mg/kg rau tươi, công thức bón 2,5 gam CaO/vại 
 118 
hàm lượng Cd trong rau giảm xuống không đáng kể 0,3031 mg/kg rau tươi 
tương ứng với pH đất 5,7. Nhưng ở công thức bón 5,0 gam CaO/vại tương 
ứng với pH đất là 6,5 thì hàm lượng Cd trong rau giảm mạnh xuống còn 
0,0758 mg/kg rau tươi, giảm 4,3 lần so với đối chứng (không bón vôi) và 
giảm 3,9 lần so với công thức bón 2,5 gam CaO/vại. Kết quả này cũng giống 
như kết quả ở thí nghiệm bón vôi khi tưới nước ô nhiễm Cd, hàm lượng Cd 
trong rau giảm mạnh nhất ở khoảng pH từ 5,7 - 6,4. Nhưng khác với thí 
nghiệm đơn nguyên tố, hàm lượng Cd trong rau đạt TCCP khi pH đất là 6,9 
(mức bón 7,5 gam CaO) trong thí nghiệm tưới hỗn hợp Pb, Cd, As hàm lượng 
Cd trong rau đạt ngưỡng an toàn tại pH bằng 7,6 (mức bón 10 gam CaO). 
Với As: Giống như thí nghiệm đơn nguyên tố, sự hấp thu As từ nước 
tưới vào trong rau không bị ảnh hưởng bởi sự tăng pH đất khi bón vôi. 
*Thí nghiệm bón vôi ngoài đồng 
Dựa trên kết quả thí nghiệm trong chậu chúng tôi lựa chọn mức vôi bón 
thích hợp nhất để hạn chế sự tích luỹ Cd, Pb từ nước tưới bị ô nhiễm vào rau 
cải canh, thí nghiệm tiến hành tại 02 khu vực với nguồn gây ô nhiễm khác 
nhau: Cam giá và Túc Duyên. 
 Thí nghiệm được triển khai vào vụ Đông năm 2006, kết quả thu được 
như sau (bảng 3.15): 
Khi không bón vôi pH đất ở cả hai địa điểm đều thấp là 5,3 và 5,9 (công 
thức tưới nước sạch), 5,3 - 5,5 (công thức tưới nước ô nhiễm). Ở các công 
thức bón vôi pH đất tăng lên, đạt 6,2 và 6,7(công thức 3) và 7,4 - 7,8 (công 
thức 4) 
Sử dụng vôi bón lót vào đất có tác dụng giảm rõ rệt sự tích luỹ các kim 
loại Cd, Pb từ nước bị ô nhiễm vào rau cải canh: 
 119 
Tại Túc Duyên: Với công thức tưới nước sạch, hàm lượng Pb, Cd, As 
trong rau đều đạt tiêu chuẩn cho rau an toàn, 
Công thức tưới nước đã bị ô nhiễm Pb, Cd, As, nếu không bón vôi vào 
đất (công thức 2) đã làm rau bị ô nhiễm, hàm lượng trong rau khi thu hoạch là 
0,7123 mg Pb/kg tươi; 0,2700 mg Cd/kg tươi và 0,3973 mg As/kg tươi. 
Bảng 3.15: Ảnh hưởng của sử dụng vôi lót đến hạn chế sự tích luỹ Pb, 
Cd, As trong rau cải canh từ nước tưới bị ô nhiễm 
(Thí nghiệm đồng ruộng - Năm 2006) 
Hàm lượng trong rau 
(mg/kg tươi) Công thức pH đất 
Pb Cd As 
TCCP ≤ 0,5 - 1,0 ≤ 0,02 ≤ 0,2 
Túc Duyên 
1.Nước sạch 5,9c ± 0,13 0,0600d± 0,008 0,0002d ± 2.10-4 0,0873a ± 0,014 
2.Nước ô nhiễm (*) 5,3c± 0,21 0,7213a± 0,047 0,2700a ± 0,003 0,3973b± 0,016 
3. 3 tấn CaO/ha +(*) 6,7b± 0,20 0,6003b± 0,013 0,0260b ± 0,004 0,3857b± 0,018 
4. 4 tấn CaO/ha +(*) 7,8a± 0,13 0,4093c± 0,066 0,0183c ± 0,003 0,4403a± 0,048 
Cam Giá 
1.Nước sạch 5,3c± 0,38 0,1473d ± 0,018 0,0050b ± 0,001 0,0347c ± 0,010 
2.Nước ô nhiễm 5,5c± 0,49 1,0787a ± 0,126 0,2230a ± 0,002 0,3840a ± 0,030 
3.3 tấn CaO/ha + (*) 6,2b± 0,17 0,8643b ± 0,072 0,0400b ± 0,003 0,1723b ± 0,016 
4. 4 tấn CaO/ha +(*) 7,4a± 0,10 0,4747c ± 0,050 0,0177b ± 0,003 0,2100b ± 0,030 
Nhưng ở công thức tưới nước ô nhiễm đã được bón lót 3 tấn Cao/ha vào 
đất (công thức 3) thì sự tích lũy Pb, Cd vào rau khi thu hoạch giảm rõ rệt so 
với công thức 2, hàm lượng trong rau khi thu hoạch với Pb là 0,6003 mg/kg 
tươi và Cd là 0,026 mg/kg tươi nhưng chưa đạt TCCP, tương ứng với pH đất 
là 6,7. Và phải đến công thức 4 (lót 4 tấn vôi/ha) thì hàm lượng này trong rau 
mới đạt được độ an toàn theo qui định, khi đó pH đất là 7,8. Kết quả này hoàn 
 120 
toàn phù hợp với kết quả thí nghiệm bón vôi trong chậu khi tưới nước bị ô 
nhiễm 2ppm Pb + 0,1 ppm Cd + 0,5 ppm As. 
Kết quả thí nghiệm ở Cam Giá cũng tương tự như Túc Duyên: với công 
thức tưới nước ô nhiễm và lót 4 tấn Cao/ha vào đất thì hàm lượng trong rau 
mới đạt TCCP: 0,4747 mg Pb /kg tươi; 0,0177 mg Cd/kg tươi tương ứng với 
giá trị pH đất là 7,4. 
Kết quả thí nghiệm ở cả 2 địa điểm cũng cho thấy: vôi bón không có tác 
dụng hạn chế sự tích lũy As trong rau, hàm lượng As trong rau khi tưới nước 
ô nhiễm không có sự khác nhau trong trường hợp bón vôi và không bón vôi. 
Như vậy: Trên nền đất phù sa Sông Cầu, nếu sử dụng nước tưới bị ô 
nhiễm Pb ≤ 2 ppm và Cd ≤ 0,1 ppm cần phải bón vôi với mức 4 tấn/ha để pH 
đất đạt ở mức 7,4 – 7,8 thì hàm lưọng Cd, Pb trong rau mới đảm bảo an toàn. 
Tác giả Hong CO và cs (2007) [86] khi sử dụng vôi để hạn chế sự hấp 
thụ Cd trên đất khai thác khoáng sản cũng đã đề xuất với mức vôi bón 5 
tấn/ha có thể làm giảm 50% lượng Cd hấp thụ vào rau cải củ. 
Như vậy trong trường hợp không có nguồn nước sạch, có thể sử dụng 
vôi như một công cụ để hạn chế sự hấp thu các kim loại Pb, Cd từ nước tưới 
vào cây trồng. 
Tuy vậy, biện pháp bón vôi chỉ là biện pháp giải quyết trước mắt bởi vì 
chỉ khống chế được sự hấp thụ các kim loại nặng vào cây trồng nhưng chúng 
vẫn bị giữa lại trong đất và khi có điều kiện thì nó lại trở lên linh động. 
3.4.2.2.2. Sử dụng bèo tây để làm sạch nước tưới bị ô nhiễm 
Hiện nay, các nhà khoa học đang hướng tới các phương pháp tiết kiệm 
chi phí và thân thiện với môi trường để giảm thiểu ô nhiễm kim loại nặng. 
Phương pháp xử lý ô nhiễm bằng thực vật (Phytoremediation) là một trong 
những giải pháp quan trọng, có tính khả thi cao để xử lý các vùng đất, nước bị 
ô nhiễm kim loại nặng. 
 121 
Ở Việt Nam một loại thực vật rất phổ biến là bèo tây. Sử dụng bèo tây 
trong việc xử lý ô nhiễm đã được rất nhiều các tác giả trong và ngoài nước 
nghiên cứu, tuy vậy mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu. Bèo tây là cây 
sống ở nước, có tốc độ sinh trưởng rất nhanh và không cần phải chăm sóc nên 
sử dụng bèo tây để xử lý ô nhiễm nước có thể thực hiện được dễ dàng trong 
điều kiện nông hộ. 
Để khẳng định điều đó, chúng tôi tiến hành sử dụng bèo tây trong việc 
giảm thiểu ô nhiễm kim loại nặng (Pb, Cd, As) trong môi trường nước tưới 
khi bổ sung kim loại nặng vào nước theo các mức: 2,0 ppm Pb, 0,1ppm Cd và 
0,5 ppm As trong chậu thí nghiệm với 6 lít nước, và 5 cây bèo tây ban đầu. 
Kiểm tra hàm lượng các kim loại trong nước sau 5 - 10 - 20- 30 ngày thí 
nghiệm trồng bèo tây, kết quả cho thấy bèo tây có khả năng tích lũy kim loại 
nặng rất tốt. 
* Khả năng làm sạch nước ô nhiễm Pb của bèo tây 
 Tiến hành sử dụng nước chứa 2,0 Pb mg/l để thả bèo tây cho thấy: 
Bảng 3.16: Hàm lượng Pb trong nước theo thời gian xử lý bằng bèo tây 
(Thí nghiệm trong chậu - năm 2007) 
Ngày thí nghiệm 
Hàm lượng Pb trong nước 
(mg/l) 
Tỷ lệ còn lại trong 
dung dịch (%) 
0 2,004a 100 
5 1,280b 63,9 
10 0,006c 0,30 
20 0,002c 0,10 
30 KXĐ - 
TCVN 6773 - 2000 ≤ 0,1 
Theo bảng 3.16: Trong điều kiện thí nghiệm chậu vại, hàm lượng Pb 
trong nước giảm dần theo thời gian xử lý bằng bèo tây, cụ thể: 
 Khi chưa có bèo tây, hàm lượng Pb trong nước là 2,004 mg/l. 
 122 
Sau 5 ngày thả bèo tây, hàm lượng Pb trong nước là 1,280 mg/l, giảm 
được 36%. 
Và đến ngày thứ 10 của thí nghiệm, hàm lượng Pb trong nước giảm 
mạnh là 0,006 mg/l, đạt tỷ lệ làm sạch gần 100% so ban đầu. 
 Hình 3.23: Thí nghiệm làm sạch nước ô nhiễm Pb, Cd bằng bèo tây 
* Khả năng làm sạch nước ô nhiễm Cd của bèo tây 
Tiến hành thí nghiệm thả bèo tây trong dung dịch chứa 0,1 mg/l Cd, 
theo dõi hàm lượng Cd trong nước vào ngày thứ 5 – 10 – 20 – 30 sau khi thả 
bèo, kết quả cho thấy (bảng 3.17): 
Bảng 3.17: Hàm lượng Cd trong nước theo thời gian xử lý bằng bèo tây 
(Thí nghiệm trong chậu - năm 2007) 
Ngày thí nghiệm Hàm lượng Cd trong 
nước (mg/l) 
Tỷ lệ còn lại trong 
dung dịch (%) 
0 0,1104a 100 
5 0,0530b 48,0 
10 0,0002c 0,18 
20 KXĐ - 
30 - - 
TCVN 6773-2000 0,005 - 0,01 
 123 
 Bèo tây có khả năng hút Cd từ nước rất mạnh, Hàm lượng Cd trong 
nước trước thí nghiệm là 1,1104 mg/l. Ở ngày thứ 5 sau khi thả bèo, hàm 
lượng Cd trong nước là 0,053 mg/l, đạt tỷ lệ làm sạch là 52% và sau 10 ngày 
thí nghiệm thì hàm lượng Cd trong nước giảm hẳn xuống dưới ngưỡng an 
toàn theo TCVN 6773 - 2000, đạt 0,0002 mg/l, tỷ lệ còn lại trong dung dịch là 
0,18% so với trước thí nghiệm. 
* Khả năng làm sạch nước ô nhiễm As của bèo tây 
Thực hiện thí nghiệm tương tự như với Pb và Cd, tiến hành trồng bèo 
tây trong dung dịch chứa 0,5mg As/l, và theo dõi hàm lượng As trong dung 
dịch dùng thả bèo qua 5, 10, 20, 30 ngày thí nghiệm (bảng 3.18): 
Bảng 3.18: Hàm lượng As trong nước theo thời gian xử lý bằng bèo tây 
(thí nghiệm trong chậu – Năm 2007) 
Ngày thí nghiệm Hàm lượng As 
trong nước (mg/l) 
Tỷ lệ còn lại 
trong dung dịch (%) 
0 0,5326a 100 
5 0,3340b 62,7 
10 0,1204c 22,6 
20 0,0928d 17,4 
30 0,0630e 11,8 
TCVN 6773 - 2000 ≤ 0,1 
Hàm lượng As trong nước lúc ban đầu khi chưa thả bèo là 0,5326 mg/l, 
sau 5 ngày thí nghiệm hàm lượng As là 0,3340 mg/l (còn 62,7% so với ban 
đầu), đến ngày thứ 10 hàm lượng As trong nước là 0,1204 mg/l (còn 22,6% so 
với ban đầu), đến ngày thứ 20 của thí nghiệm, hàm lượng As trong nước đạt 
ngưỡng an toàn theo TCVN 6773 - 2000, là 0,0928 mg/l (còn 22% so với ban 
đầu) và đến ngày thứ 30 của thí nghiệm thì hàm lượng As trong nước đạt 
0,0630 mg/l, còn 11,8% so với khi trước thí nghiệm. 
 124 
So sánh khả năng làm sạch của bèo tây với Pb, Cd và As: Kết quả của 
thí nghiệm cũng chỉ ra rằng, so với Pb và Cd, sự hấp thu As của bèo tây trong 
nước chậm hơn (hình 3.24), với Pb, Cd chỉ sau 10 ngày thả bèo hàm lượng 
Pb, Cd trong nước đã đạt ngưỡng an toàn, trong khi đó với As, hàm lượng As 
đạt ngưỡng an toàn sau 20 ngày của thí nghiệm. 
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
0 5 ngày 10 ngày 20 ngày 30 ngày 
Pb
Cd
As
Hàm lượng trong 
nước (ppm)
Ngày thí 
nghiệm 
Sự biến thiên hàm lượng Pb, Cd, As trong nước 
theo thời gian sử lý bằng bèo tây 
Hình 3.24: Biến thiên hàm lượng Pb, Cd, As trong nước theo thời gian xử 
lý bằng bèo tây (thí nghiệm trong chậu – Năm 2007) 
Một sự khác biệt nữa, trong khi bèo tây sinh trưởng rất tốt trong dung 
dịch ô nhiễm Pb và Cd nhưng lại có biểu hiện bị chết khi trồng trong dung 
dịch bị ô nhiễm As, kể cả trong dung dịch chứa As cùng với Pb, Cd. 
Qua theo dõi thí nghiệm cho thấy bắt đầu từ ngày thứ 8 khi trồng, bèo 
tây có biểu hiện rõ rệt hiện tượng lá bị úa vàng và dần khô lại từ mép lá đến 
cuống và đến ngày 20 - 30 của thí nghiệm tỷ lệ bị bệnh đến 70%, bèo tây có 
biểu hiện bị chết, rễ bèo có mầu đen xám ở những ngày thứ 35 – 40 của thí 
nghiệm (hình 3.25) 
 125 
 Bèo tây trong dung dịch 0,5ppm As Bèo tây trong dung dịch 0,5ppm As 
 (ngày thứ 10 của thí nghiệm) (ngày thứ 20 của thí nghiệm) 
 Bèo tây trong dung dịch 2,0ppm Pb + 0,1ppm Cd + 0,5ppm As 
Hình 3.25: Biểu hiện bị bệnh của bèo tây trong các dung dịch chứa As và 
dung dịch chứa As cùng với Pb, Cd 
Từ đây chúng ta có thể sử dụng bèo tây như là chỉ thị để nhận biết sự ô nhiễm 
As trong nước. 
* Khả năng hút Pb, Cd, As của bèo tây từ nước chứa hỗn hợp Pb, Cd, As 
Thí nghiệm trồng bèo tây trong dung dịch chứa 2,0ppm Pb + 0,1ppm 
Cd + 0,5ppm As cũng cho kết quả giống như các thí nghiệm trồng bèo trong 
dung dịch bị ô nhiễm riêng lẻ các nguyên tố (bảng 3.19): 
 126 
Bảng 3.19: Hàm lượng Pb, Cd, As trong nước theo thời gian khi xử lý 
bằng bèo tây (thí nghiệm trong chậu) 
Hàm lượng trong nước (mg/l) 
Ngày thí nghiệm 
Pb Cd As 
0 2,005a 0,1050a 0,5290a 
5 1,347b 0,0483b 0,3820b 
10 0,004c 0,0082c 0,1206c 
20 0,004c 0,0043d 0,0820d 
30 - 0,0030d 0,0360e 
TCVN 6773 - 2000 ≤ 0,1 ≤ 0,005 - 0,01 ≤ 0,1 
Theo bảng 3.19: 
Khi chưa thí nghiệm (ban đầu): hàm lượng các kim loại nặng trong 
nước là 2,005 mg Pb/l; 0,1050 mg Cd/l và 0,529 mg As/l. 
Sau 5 ngày thả bèo tây: Hàm lượng các kim loại nặng trong nước đều 
giảm xuống khoảng 30% với Pb, 54% với Cd, và 28% với As nhưng vẫn chưa 
đạt an toàn theo TCVN 6773 - 2000 với các kim loại này. 
Chỉ sau 10 ngày thả bèo thì hàm lượng Pb, Cd trong dung dịch trồng 
bèo tây đã đạt TCVN 6773 - 2000 (Pb = 0,004 mg/l; Cd = 0,0082 mg/l), còn 
hàm lượng As trong nước là 0,182 mg/l, đạt tiêu chuẩn cho phép sau 20 ngày 
thí nghiệm. Và sau 30 ngày, tỷ lệ làm sạch của bèo tây với các kim loại nặng 
(Pb, Cd, As) hầu hết đều đạt 90 - 95%. 
*Thử nghiệm ngoài đồng: 
 Tiến hành sử dụng bèo tây xử lý nước tưới bị ô nhiễm tại hai địa điểm: 
 Với cùng một nguồn nước thải được đưa vào bể chứa có thả bèo tây, và 
bể không thả bèo. Tiến hành theo dõi hàm lượng các kim loại nặng (Pb, Cd, 
As) trong nước sau 10, 20, 30 ngày thả bèo, kết quả thu được ở bảng 3.20: 
 127 
Thử nghiệm trên tại đồng ruộng cũng cho kết quả tốt, bể có bèo Tây, 
hàm lượng các kim loại nặng (Pb, Cd, As) sau 10 ngày đã giảm rõ rệt so với 
bể không thả bèo. Tuy vậy mức độ làm sạch của bèo tây ở ngoài thực tế chậm 
hơn so với thí nghiệm trong chậu. 
Bảng 3.20: Hàm lượng Pb, Cd, As trong nước ở bể trồng bèo tây và bể 
không trồng bèo tây 
(Thử nghiệm tại Túc Duyên và Cam Giá- Năm 2007) 
Hàm lượng trong nước (mg/l) 
Pb Cd As 
Địa điểm và thời 
gian xử lý 
(ngày) Bể có Bèo Tây 
Bể không 
có bèo Tây 
Bể có 
Bèo Tây 
Bể không 
có bèo Tây 
Bể có 
Bèo Tây 
Bể không 
có bèo Tây 
Túc Duyên 
0 0,602 0,602 0,128 0,128 0,217 0,217 
10 0,325 0,588 0,068 0,127 0,118 0,207 
20 0,078 0,509 0,015 0,115 0,096 0,193 
30 0,054 0,554 0,006 0,106 0,043 0,143 
Cam Giá 
0 0,206 0,206 0,332 0,332 0,421 0,421 
10 0,157 0,207 0,158 0,328 0,304 0,422 
20 0,035 0,135 0,025 0,255 0,153 0,384 
30 0,013 0,213 0,003 0,234 0,024 0,388 
TCVN 6773-2000 ≤ 0,1 ≤ 0,005 - 0,01 ≤ 0,1 
 - Tại Túc Duyên: Sau 20 ngày thả bèo tây hàm lượng Pb trong nước tưới là 
0,078 mg/l (đạt TCVN 6773 - 2000) thấp hơn 6,5 lần so với bể không thả bèo 
(0,509 mgPb/l) và giảm 7,7 lần so với hàm lượng lúc ban đầu (0,602 mg/l). 
Hàm lượng As 0,093mg/l (đạt TCVN 6773 - 2000) giảm 2,2 lần so với ban 
đầu (0,217 mg As/l) và giảm 2 lần so với bể không thả bèo. Riêng Cd, sau 30 
 128 
ngày thả bèo hàm lượng Cd trong nước mới đạt TCVN 6773 - 2000 (0,006 
mg/l), trong khi đó bể không thả bèo là 0,106 mg Cd/l. 
- Tại Cam Giá: Kết quả cũng tương tự như ở Túc Duyên, hàm lượng Pb 
trong nước giảm dưới ngưỡng cho phép theo TCVN 6773 - 2000 sau 20 ngày 
thả bèo (0,035 mg Pb/l), khi đó ở bể không có bèo hàm lượng Pb trong nước 
là 0,135 mg/l. Với Cd và As, ở bể có bèo hàm lượng trong nước đạt ngưỡng 
an toàn sau 30 ngày thả bèo là 0,003 mg Cd/l và 0,024 mg As/l tương ứng khi 
đó ở bể không có bèo là 0,234 mg Cd/l và 0,338 mg As/l. 
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
Pb Cd As Pb Cd As Pb Cd As Pb Cd As
Có bèo Không bèo Có bèo Không bèo
TÚC DUYÊN CAM GIÁ
0 ngày 10 ngày 20 ngày 30 ngày 
H
àm
 lư
ợn
g 
tr
on
g 
nư
ớc
 (
m
g/
l)
)
Hình 3.26: Hàm lượng Pb, Cd, As trong nước ở bể trồng bèo tây và 
bể thường (Thử nghiệm năm 2007) 
Như vậy, trong trường hợp phải sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm Pb, 
Cd, As thì có thể dùng bèo tây để xử lý bằng cách dẫn nước vào bể cách ly và 
thả bèo tây, sau 30 ngày mới được đưa nước vào hệ thống tưới. 
 Biện pháp xử lý ô nhiễm bằng bèo tây có ý nghĩa rất lớn về mặt môi 
trường, đây là một giải pháp hữu hiệu góp phần xử lý ô nhiễm kim loại nặng 
với chi phí thấp và có thể áp dụng rất dễ dàng trong điều kiện sản xuất của 
nông hộ. 
 129 
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 
1. Kết luận 
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thu được, chúng tôi đi đến một số kết luận sau: 
1. Rau trồng trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên đã có hiện tượng bị ô 
nhiễm NO3- và các kim loại nặng (Pb, Cd, As) do chưa thực hiện đúng và đầy 
đủ qui trình sản xuất rau an toàn (bón ít phân hữu cơ, bón phân tươi, bón đạm 
quá liều lượng, bón phân không cân đối, sử dụng nước tưới bị ô nhiễm ….) 
2. Đất trồng rau của Thành phố Thái Nguyên có hàm lượng NO3- và các 
kim loại nặng (Pb, Cd, As) đảm bảo tiêu chuẩn an toàn cho đất nông nghiệp 
theo TCVN 7209 - 2002. Nước tưới ở các khu vực trồng rau đã có hiện tượng 
ô nhiễm các kim loại nặng (Pb, Cd, As) theo TCVN 6773 – 2000. 
3. Sử dụng nước giếng khoan đảm bảo chất lượng rau, nước Sông Cầu 
cần có sự kiểm tra trước khi tưới, nước phân chuồng tưới cho rau cần đảm 
bảo thời gian cách ly như bón phân đạm hóa học, sử dụng thải bị ô nhiễm tưới 
cho rau làm ô nhiễm rau. 
4. Hàm lượng Pb, Cd, As trong nước tưới có quan hệ chặt chẽ với sự tích 
lũy của chúng trong rau: 
+ Nước tưới chứa Pb > 0,1 ppm, Cd > 0,01 ppm, As > 0,1 ppm làm ô 
nhiễm cải canh và lá cải củ. 
+ Quả đậu cô ve leo bị ô nhiễm khi tưới nước chứa As > 0,1 ppm. 
+ Nước tưới chứa 2ppm Pb, 0,5 ppm Cd, 1,0 ppm As chưa làm ô nhiễm 
các yếu tố này trong củ cải củ. 
5. Rau cải canh có khả năng hấp thu Cd từ môi trường rất lớn vì vậy có 
thể đưa cải canh (Brassica juncea L.) vào danh mục các cây trồng loại bỏ ô 
nhiễm Cd dùng trong phytoremediation. 
 130 
6. Bón vôi cho đất chua (pH< 5,3) có thể hạn chế tích luỹ Pb và Cd trong 
rau, As trong rau không bị ảnh hưởng bởi việc bón vôi. 
7. Sử dụng bèo tây có thể làm sạch nước bị ô nhiễm kim loại nặng (Pb, 
Cd, As) sau khi trồng 20 - 30 ngày. Vì vậy trong trường hợp phải dùng nước 
tưới bị ô nhiễm thì cần phải đưa qua hồ cách ly có thả bèo tây để làm sạch các 
kim loại này trước khi đưa vào hệ thống tưới. 
2. Đề nghị 
- Để rau sạch có thể phát triển rộng rãi trên địa bàn thành phố và phát 
triển nền nông nghiệp bền vững ở Thái Nguyên, cần có các biện pháp kiểm 
soát và thông báo thường xuyên tình trạng ô nhiễm môi trường nước tưới 
đang có xu hướng ngày càng tăng trên các địa bàn sản xuất nông nghiệp. Vấn 
đề này hiện nay chưa được chú trọng. Chúng tôi thiết nghĩ nên giao trách 
nhiệm cho Phòng Tài nguyên - Môi trường thành phố đảm nhiệm. 
- Thành phố cần kiểm định hệ thống xử lý chất thải của tất cả các nhà 
máy xí nghiệp, bệnh viện, trước khi thải ra môi trường, quản lý tốt chất thải 
đô thị. 
 131 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 
1. Hiện trạng sản xuất rau tại Thành phố Thái Nguyên, Tạp chí khoa học kỹ 
thuật nông nghiệp, tập 3 số 1/2005. 
2. Phan Thị Thu Hằng (2005), "Ảnh hưởng của phân bón lá và hàm lượng Cd, 
Pb trong nước tưới đến sự tích lũy NO3
- và kim loại nặng trong rau, Báo 
cáo Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các trường Đại học và Cao 
đẳng khối Nông - Lâm - Ngư toàn quốc lần thứ 2, Thành phố Hồ Chí 
Minh ngày 20, 21/05/2005. 
3. Hàm lượng kim loại nặng (Pb, Cd, As) trong nước tưới khu vực chuyên 
canh rau của Thành phố Thái Nguyên, Tạp chí khoa học đất, số 28/2007. 
 132 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.Tài liệu Tiếng Việt 
1. Đỗ Mai Ái, Mai Trọng Nhuận, Nguyễn Khắc Vinh, Một số đặc điểm phân 
bố arsen trong tự nhiên và vấn đề ô nhiễm arsen trong môi trường ở Việt 
Nam, Hiện trạng ô nhiễm As ở Việt nam, Trung tâm thông tin lưu trữ 
Địa chất, trang 5 - 20. 
2. Báo công nghiệp Việt Nam số 12/2003, Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam: 
Chuyện vẫn mới, trang 51+ 53 
3. Bộ khoa học, công nghệ và môi trường (2002), Tuyển tập 31 Tiêu chuẩn 
Việt Nam về môi trường, Theo Quyết định số 35/2002/QĐ – 
BKHCNMT ngày 25/06/2002 của Bộ Trưởng Bộ khoa học, Công nghệ 
và Môi trường, Hà Nội năm 2002. 
4. Đặng Văn Can, Đào Ngọc Phong (2000), "Đánh giá tác động của Arsen tới 
môi sinh và sức khỏe con người ở các vùng mỏ nhiệt dịch có hàm lượng 
As cao", Tạp chí Địa chất và Khoáng sản, tập 7, Hà Nội. 
5. Chi cục Bảo vệ thực vật Thành phố Thái Nguyên (2005), Báo cáo tổng 
kết Chương trình sản xuất rau sạch tại Thành phố Thái Nguyên năm 
2003 - 2004. 
6. Cục thống kê Thái Nguyên, Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2006 
7. Tạ Thu Cúc (1996), Ảnh hưởng của liều lượng N đến hàm lượng nitrat và 
năng suất một số cây rau ở ngoại thành Hà Nội, Hội nghị khoa học 
 133 
bước 1 đề tài rau sạch thành phố Hà Nội, Sở khoa học công nghệ và môi 
trường Hà Nội. 
8. Nguyễn Văn Dũng (2006), "Trồng rau sạch tại Củ Chi", Báo Nhân dân số 
ngày 25/07/2006. 
9. Vũ Thị Đào (1999), Đánh giá tồn dư Nitrat và một số kim loại nặng trong 
rau vùng Hà Nội và bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của bùn thải đến sự 
tích luỹ của chúng, Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp, Trường Đại 
học Nông nghiệp I, Hà Nội. 
10. Nguyễn Đăng Đức (2006), Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử 
xác định hàm lượng các nguyên tố crom, mangan, đồng, chì, cadmium 
trong nước ở thành phố Thái Nguyên, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ 
B2006 - 43. 
11. Lê Đức và Trần Thị Tuyết Thu (2000), "Bước đầu nghiên cứu khả năng 
hút thu và tích luỹ Pb trong bèo tây và rau muống trên nền đất bị ô 
nhiễm", Thông báo khoa học của các trường đại học, Bộ giáo dục và 
Đào tạo, Hà Nội, 2000. 
12. Phạm Quang Hà ( 2002), Nghiên cứu hàm lượng Cadmium và cảnh báo ô 
nhiễm trong một số loại đất của Việt Nam, Tạp chí Khoa học đất số 
16/2002, trang 32 - 38. 
13. Trần Vũ Hải (1998), Xác định liều lượng đạm và các thời kỳ bón đạm trên 
cây cải ngọt (Brassica chinensis) cây cải canh (Brassica juncea) theo 
hướng sạch ở xã Tân Hạnh, thành phố Biên hoà, Tỉnh Đồng Nai. Luận 
văn tốt nghiệp đại học, Thành phố Hồ Chí Minh. 
14. Nguyễn Văn Hải, Phạm Hồng Anh, Trần Thị Nữ (2000), "Xác định hàm 
lượng kim loại nặng trong một số nông sản và môi trường bằng phương 
pháp phân tách phổ hấp thụ nguyên tử", Tuyển tập báo cáo khoa học tại 
Hội nghị phân tích Hóa lý và Sinh học Việt Nam lần thứ nhất, Hà Nội 
26/09/2000, trang 234 - 239. 
 134 
15. Lưu Đức Hải, Đỗ Văn Ái, Võ Công Nghiệp, Trần Mạnh Liếu, "Chiến 
lược quản lý và giảm thiểu sự tác động ô nhiễm arsen tới môi trường và 
sức khỏe con người", Hiện trạng ô nhiễm As ở Việt Nam, Trung tâm 
thông tin lưu trữ Địa chất, trang 95 - 103. 
16. Nguyễn Thị Hiền và Bùi Huy Hiền (2004), "Nghiên cứu ảnh hưởng của 
nước thải thành phố Hà Nội đến năng suất và chất lượng cây lúa và cây 
rau", Tạp chí Khoa học đất số 20 năm 2004, trang 132 - 136. 
17. Nguyễn Văn Hiền, Phan Thúc Đường, Tô Thu Hà (1994), "Nghiên cứu sự 
tích luỹ nitrat trong rau cải bắp và biện pháp khắc phục", Kết quả nghiên 
cứu khoa học về rau quả giai đoạn 1990 - 1994, Viện nghiên cứu rau - 
quả, Hà Nội. 
18. Đặng Thu Hòa (2002), Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón, độ ô nhiễm 
của đất trồng và nước tưới tới mức độ tích luỹ nitrat và kim loại nặng 
trong một số loại rau, Luận văn thạc sỹ khoa học KTNN, Trường Đại 
học Nông nghiệp I, Hà Nội. 
19. Trần Đình Hoan (1999), Vấn đề Arsen trong nước uống khai thác từ 
nguồn nước ngầm ở Quỳnh Lôi và giải pháp khắc phục, Báo cáo Hội 
thảo về ô nhiễm As tại Hà Nội 9/1999. 
20. Chiêng Hông (2003), Nghiên cứu ảnh hưởng của nước tưới phân bón 
đến tồn dư Nitrat và một số kim loại nặng trong rau trồng tại Hà Nội, 
Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội 
21. Dương Thế Hùng, "Rau an toàn đi về đâu", Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 
48/2007, tháng 11/2007 
22. Đinh Văn Hùng và cs (2005), Đánh giá các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến 
vệ sinh an toàn thực phẩm rau sản xuất trên khu vực ngoại thành Hà 
Nội, Đề tài nhánh, Đề tài độc lập cấp nhà nước, 2000 - 2004. 
23. Thu Hương (2005), "Rau sạch - Điều mơ ước của người tiêu dùng" Báo 
Quân đội nhân dân ngày 17/07/2005. 
 135 
24. Hoàng Lê (2004), "Rau Hà Nội đang bị nhiễm độc bởi nước sông Tô 
Lịch", Báo Phụ nữ Việt Nam, số 59 ra ngày 14/05/2004, trang 4 + 10. 
25. Hà Linh (2006), 10% rau an toàn còn tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, Diễn 
đàn dân trí 06/09/2006 
26. Nguyễn Đình Mạnh (2000), Hoá chất dùng trong nông nghiệp và ô nhiễm 
môi trường, Giáo trình cao học, Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội 
27. N.M.Maqsud (1998), "Ô nhiễm môi trường vùng nội ô và ngoại ô Thành 
phố HCM nhận biết qua lượng KLN tích tụ trong nước và bùn các kênh 
rạch", Tạp chí Khoa học Đất số 10/1998 , trang 162-169. 
28. Mai Trọng Nhuận (2001), Địa hoá môi trường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, 
Hà Nội, 2001. 
29. Đặng Xuyến Như và nnk (2004), Nghiên cứu xác định một số giải pháp 
sinh học (thực vật và vi sinh vật) để xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong 
nước thải ở Thái Nguyên, Đề tài cấp Bộ năm 2003 - 2004 
30. Nguyễn Hữu On và Ngô Ngọc Hưng (2004), "Cadmium trong đất lúa 
đồng bằng sông Cửu long và sự cảnh báo ô nhiễm", Tạp chí Khoa học 
đất số 20 năm 2004, trang 137 - 140. 
31. Phạm Tố Oanh, "Ảnh hưởng của một số chất ô nhiễm trong nước 
sông Tô Lịch tới chất lượng rau ở một số địa điểm thuộc huyện 
Thanh Trì, Hà Nội", Tạp chí Hoá học và Ứng dụng, số 3/2004, trang 
39 - 34. 
32. Nguyễn Kinh Quốc, Nguyễn Quỳnh Anh (2000), "Đánh giá sơ bộ về độ 
chứa As và khoanh vùng dự báo dị thường As liên quan đến các thành 
tạo địa chất ở Việt Nam", Tuyển tập Hội thảo quốc tế “Ô nhiễm Arsen: 
Hiện trạng tác động đến sức khỏe và giải pháp phòng ngừa”, Hà Nội 
12/2000. 
33.Quyết định số 04/2007/QĐ - BNN ngày 19/01/2007 của Bộ trưởng Bộ NN 
và PTNT, về việc ban hành "Quy định về quản lý sản xuất và chứng nhận 
rau an toàn" kèm theo Quyết định Quyết định 03/2006/QĐ -BKH ngày 
 136 
10/01/2006 của Bộ Khoa học và Công nghệ về công bố công bố tiêu 
chuẩn chất lượng hàng hóa. 
34 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo giám sát môi 
trường tỉnh Thái Nguyên năm 2005 - 2006. 
35. Hồ Thanh Sơn, Đào Thế Anh (2005), Sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau 
quả tại Việt Nam, Cash and Carry VietNam Ltd, 9/2005 
36. Đỗ Trọng Sự (1999), Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước bởi Arsen ở Hà Nội 
và một số vùng phụ cận, Hiện trạng ô nhiễm As ở Việt nam, Trung tâm 
thông tin lưu trữ Địa chất, trang 53 - 55. 
37. Lê Văn Tán, Lê Khắc Huy, Lê Văn Luận và nnk (1998), Ảnh hưởng của 
lượng đạm bón đến lượng nitrat trong một số loại rau, Đề tài Nghiên 
cứu khoa học cấp Bộ, mã số B 96 - 08 - 10. 
38. Phạm Minh Tâm (2001), Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bón phân có 
đạm đến năng suất và sự biến động hàm lượng nitrat trong cải bẹ xanh 
và trong đất, Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp, Trường Đại học 
Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. 
39. Hà Tâm (2006), "Rau an toàn mà chẳng thể an tâm", Báo Bưu điện Việt 
Nam ngày 23/08/2006. 
40. Trần Kông Tấu, Trần Kông Khánh (1998), "Hiện trạng môi trường đất 
Việt Nam thông qua việc nghiên cứu các kim loại nặng", Tạp chí Khoa 
học đất, 10/1998, trang 152 - 16. 
41. Trần Công Tấu, Trần Kim Loan và Chu Thị Thu Hiền (2000), "Kim loại 
nặng trong môi trường nước, một số kết quả phân tích kim loại nặng 
trong ao hồ khu vực Hà Nội", Tuyển tập báo cáo khoa học tại Hội nghị 
phân tích Hoá lý và Sinh học Việt Nam lần thứ nhất - Hà Nội 
26/09/2000, trang 219 - 223. 
42. Trần Kông Tấu, Nguyễn Thế Đồng, Phan Đỗ Hùng, Nguyễn Hứu Trang 
(2004), "Nghiên cứu hiện tượng nước bị ô nhiễm tại Huyện Đông Anh - 
 137 
Hà Nội và tìm kếm biện pháp xử lý nước bị ô nhiễm", Tạp chí Khoa học 
Đất số 20/2004, trang 124 - 131. 
43. Trần Kông Tấu, Đặng Thị An, Đào Thị Khánh Hương (2005), "Một số kết 
quả bước đầu trong việc tìm kiếm biện pháp xử lý đất bị ô nhiễm bằng 
thực vật", Tạp chí khoa học đất số 23/2005, trang 156 - 158. 
44. Trịnh Thị Thanh (2002), Độc học môi trường và sức khoẻ con người, Nhà 
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002. 
45. Trần Khắc Thi, Trần Ngọc Hùng (2003), Kỹ thuật trồng rau sạch (Rau an 
toàn), Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội. 
46. Nguyễn Quốc Thông, Đặng Đình Kim, Trần Văn Tựa, Lê Lan Anh 
(1999), Khả năng tích tụ kim loại nặng Cr, Ni và Zn của bèo tây trong 
xử lý nước thải công nghiệp, Báo cáo khoa học Hội nghị công nghệ sinh 
học toàn quốc, Hà Nội 9,10/12/1999, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật , 
page 983- 988 . 
47. Trần Quang Thương (2000), Quỳnh Lôi với nhiễm độc Arsen, Báo Hà Nội 
mới ngày 14/05/2000. 
48.Võ Thuận, Ô nhiễm môi trường và đô thị công nghiệp Việt Nam:Hiện 
trạng đáng lo ngại, Diễn đàn doanh nghiệp số 50 ngày 20/06/2003, tr11. 
49. Bùi Cách Tuyến và cs (1995), "Hàm lượng kim loại nặng trong nông sản, 
đất, nước ở một số địa phương ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh", 
Tập san KHKT Nông Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thành 
phố Hồ Chí Minh, số 2/1995, trang 30 - 32. 
50. Vũ Đình Tuấn, Phạm Quang Hà (2003), "Kim loại nặng trong đất và cây 
rau ở một số vùng ngoại thành Hà Nội", Tạp chí khoa học đất số 20 - 
năm 2004, trang 141 - 147. 
51. Bùi Cách Tuyến (1998), "Nghiên cứu hàm lượng nitrat trên một số loại 
rau phổ biến tại Thành phố Hồ Chí Minh", Tập san KHKT Nông Lâm 
nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, số 3/1998. 
 138 
52.UBND tỉnh Thái Nguyên, 2004, Đề án tăng cường quản lý Nhà nước về 
tài nguyên khoáng sản tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2005 - 2010. 
53. Website Cục Trồng Trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 
(2007), Hà Nội: Lập bản đồ rau an toàn 
54. Đặng Thị Vân, Vũ Thị Hiển và nnk (2003), Nghiên cứu một số biện pháp 
kỹ thuật canh tác hợp lý cho vùng chuyên canh sản xuất rau an toàn, Đề 
tài NCKH năm 2003, Viện nghiên cứu Rau - Quả, Hà Nội. 
55. VietNam Net (04/2004), “Nguy cơ ô nhiễm kim loại nặng, thuốc trừ sâu 
trong đất, nước và một số nông sản ở Việt Nam”, Nguồn Báo Hà Nội 
mới ngày 27/05/1997. 
56. Viện Thổ nhưỡng – Nông hóa (1998), Sổ tay phân tích đất – nước – phân 
bón – cây trồng, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội 1998. 
57. Bùi Quang Xuân, Bùi Đình Dinh, Mai Phương Anh (1996), Quản lý hàm 
lượng Nitrat trong rau bằng con đường bón phân cân đối, Báo cáo tại 
Hội thảo “Rau sạch”, Hà Nội 17 - 18/06/1996 
58. Bùi Quang Xuân (1998), Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất và hàm 
lượng Nitrat trong một số loại rau trên đất phù sa Sông Hồng, Luận án 
tiến sĩ nông nghiệp, Viện Khoa học KTNN Việt Nam, Hà Nội. 
59. Vũ Hữu Yêm (1997), Sản xuất sạch hơn, Bài giảng lớp tập huấn cho cán 
bộ quản lý môi trường, Hà Nội 10/2005. 
2. Tài liệu tiếng nước ngoài. 
60. Angle et al (2005), “Using hyperaccumulator plants to phytoextract soil 
Ni and Cd”, Z Naturforsh [C].2005 Mar-Apr; 60 (3 – 4):190 – 8. 
61. Antiochia R, Campanella L, Ghezzi P, Movassaghi K (2007), "The use of 
vetiver for remediation of heavy metal soil contamination" Anal Bioanal 
Chem. 388(4):947-56. Epub 2007 Apr 28. 
 139 
62. A.K.Singh and S.B. Pandeya (1998), Modelling uptake of Cadmium by 
plants in sludge-treated soils, Science Ltd.All rights reserved Printed in 
Great Britain 0960 - 8524/98. 
63. Ashley Senn, Paul Milham (2007), "Managing cadmium in vegetables", 
NSW Department of Primary Industries' Plant Health Doagnostic and 
Analytical Services, 04/2007 
64. Bride, Murray B, "Cadmium uptake by crops estimated from soil total Cd 
and pH", Soil Science. 167(1):62 - 67, January 2002 
65. Cantlife D.J (1972), Nitrate accummlation in spinach under different light 
intensities, J.Am.Soc. Hortic. Sci. 97: pp 152 - 154. 
66. Channey R. et al.1995, "Phytoremediation of soil metals", Current 
Opinion in Biotechnology 1997, pp 279 - 284. 
67. Cieslinski G, Neilsen G.H, Hogue E.J (1996), "Effect of soil cadmium 
application and pH on growth and cadmium accumulation in roots, 
leaves and fruit of strawberry plants", Plant and soil ISSN 0032-
079X CODEN PLSOA2, 1996, vol. 180, no2, pp. 267-276. 
68. Cordes K.B.; Mehra A.; Farago M.E.; Banerjee D.K., "Uptake of Cd, Cu, 
Ni and Zn by the Water Hyacinth, Eichhornia Crassipes (Mart.) Solms 
from Pulverised Fuel Ash (PFA)Leachates and Slurries", Environmental 
Geochemistry and Health, Volume 22, Number 4, December 2000 , pp. 
297-316(20) 
69. C.Ramos, "Effect of agricultural practices on the nitrogen losses to the 
environmet", Fertilizers and Environment, Proceeding of the 
International Symposium “Fertilizers and Environment” held in 
Salamanca, Spain 26 - 29, Septembar, 1994, page 355 - 361. 
70. Chuphan, Bengtsson, Bosun, Hymo (1967), Nitrat accummulation in 
vegetable crops as influenced by soil fertility practies, Missouri Agr. 
Exp. Sta. Res.Bull, 920, 43p. 
 140 
71. David Tin Win , Myint Myint Than and Sein Tun (2003), Lead Removal 
from Industrial Waters by Water Hyacinth, Assumption University, 
Bangkok, Thailand, 6(4): 187-192, Apr. 2003. 
72. Danielle Oliver and Ravi Naidu, Uptake of Copper (Cu), Lead (Pb), 
Arsenic (As) and DDT by vegetables grown in urban enviromnets, 
CSIRO Land and Water, report at the Fifth National Workshop on the 
Assessment of site contamination, 2003, pp 151 - 161. 
73. D.H Han and J. H. Lee, "Effects of liming on uptake of lead and cadmium 
by Raphanus sativa", Archives of Environmental contamination and 
Toxicology, Springer New York, 11/2004, pp 488 - 493. 
74.LeDuc DL, Terry N (2005), "Phytoremediation of toxic trace elements in 
soil and water" J Ind Microbiol Biotechnol. 2005 Dec;32(11-12):514-20. 
Epub 2005 May 10. 
75. E K Unnikrishnan, A K Basu, N Chattopadhyay & B Maiti (2003), 
"Removal of arsenic from water by ferrous sulphide", Indian Journal of 
Chemical Technology , Vol. 10, May 2003, pp. 281-286 
76. El-Gendy AS, Biswas N, Bewtra JK (2006), Municipal landfill leachate 
treatment for metal removal using water hyacinth in a floating aquatic 
system, Water Environ Res. 2006 Sep;78(9):951-64. 
77. E.Witter, Towards zero accumulation of heavy metals in soil", Fertilizers 
and Environment, Proceeding of the International Symposium “Fertilizers 
and Environment” held in Salamanca, Spain 26 - 29, September, 1994, pp 
413 - 421. 
78. Eustix, Mirjana (1991) "Nitrate accumulation in lettuce as related to 
nitrogen fertilization levels", Poljoprivredna znanstvena smotra 0370-
0291, 1991, pp 49 - 56 
79. Ejaz ul Islam, Xiao-e Yang, Zhen-li He, and Qaisar Mahmood (2007), 
"Assessing potential dietary toxicity of heavy metals in selected 
 141 
vegetables and food crops", Journal of Zhejiang University Science, 
2007 January; 8(1): 1–13. 
80. FAO start database - 2006. 
81. Fang - Jie Zhao, Rebecca E. Hamon, Enzo Lombi, Mike J. McLaughlin 
and Steve P. McGrath (2002), "Characteristics of cadmium uptake in 
two contrasting ecotypes of the hyperaccumulator Thlaspi caerulescens" 
Journal of Experimental Botany, Vol. 53, No. 368, pp. 535-543, March 
1, 2002. 
82. Folkes D.J.(2001), Impacts of historic arsenical pesticide use on 
residential soil in Denver, Colora do In: Arsenic Exposure and Health 
effects, Proceedings of the 2000 conference, eds. W.R.Chappell, C.O 
Abernathy and R.L.Calderon, Elsevier, Amsterdam.Tobe published. 
83.G.P.Warren, B.J.Alloway, N.W.Lepp, B.Singh, F.J.M.Bochereau, 
C.Penny( 2003), "Field trials to assess the uptake of Arsenic by 
vegetables from contaminated soils and soil remediation with iron 
oxides", The science of the total Environment 311, pp 19 - 33. 
84. G. M. Alam, E. T. Snow and A. Tanaka,"Arsenic and heavy metal 
contamination of vegetables grown in Samta village, Bangladesh",The 
Science of the total Eniviroment, Volume 308, Issues 1 - 3, 1 June 2003, 
pp 83 - 96 
85. Phạm Quang Hà, Hà Mạnh Thắng và nnk (2004), Impact of Heavy Metals 
on Suistainablity of Fertilization and Waste Recycling in peri - Urban 
and Intensive Agriculture in South - East Asia. Đề tài hợp tác quốc tế 
HTQT/AIAR/LWR 119/1998. 
 142 
86. Hong CO, Lee do K, Chung DY, Kim PJ (2007), Liming effects on 
cadmium stabilization in upland soil affected by gold mining activity, 
Arch Environ Contam Toxicol. 2007 May;52(4):496-502. 
87 .J.A.Diez, R.Caballero, A.Bustos, R.Roman, M.C.Cartagena and 
A.Vallejo, "Control of nitrate pollution by application of controlled 
release fertilizer (CRF), compost and an optimized irrigation system", 
Fertilizers and Environment, Proceeding of the International 
Symposium “Fertilizers and Environment” held in Salamanca, Spain 26 
- 29, Septembar, 1994, pp 363 - 367. 
88. Jansson, Gunilla (2002) Cadmium in arable crops: the influence of soil 
factors and liming Doctoral diss. Dept. of Soil Sciences, SLU. Acta 
Universitatis agriculturae Sueciae. Agraria vol. 341. 
89. J.M.Estavillo, m.Rodriguez and C.Gonzalez - Murua (1994), "Nitrogen 
losses by denitrification and leaching in grassland", Fertilizers and 
Environment, Proceeding of the International Symposium “Fertilizers 
and Environment” held in Salamanca, Spain 26 - 29, Septembar, , pp 
369 - 373. 
90. N. K. Moustakas; K. A. Akoumianakis; H. C. Passam, "Cadmium 
accumulation and its effect on yield of lettuce, radish, and cucumber", 
Communications in Soil Science and Plant Analysis, Volume 32, Issue 
11 & 12 September 2001 , pages 1793 - 1802 
91. Kathryn Vander Weele Snyder (2006), Removal of Arsenic from Drinking 
Water by Water Hyacinths (Eichhornia crassipes), Water Environment 
Federation, 2006. 
92. Long Xin - Xian, Yang Xiao - e, NI Wu - zhong, Differences of cadmium 
absorption and accumulation in selected vegetable crops, Journal of 
Environmental Sciences 2002 - 2003. 
 143 
93. Ma, J. F., Ueno, D., Zhao, F. J., and McGrath, S. P. (2005), "Subcellular 
localisation of Cd and Zn in the leaves of a Cd-hyperaccumulating 
ecotype of Thlaspi caerulescens". Planta 220: 731–736. 
94. Muhammad Idrees, Umar Farooq, Hamdard, M. S., Aamer Sattar, "Effect 
of sewage effluent irrigation on lead and cadmium accumulation in 
vegetables", Indus Journal of Biological Sciences, 2005 (Vol. 2) (No. 1) 
74-80 
95. M.E.Garcia Lopez De Sa (1994), "Effect of Cadmium concentration in 
the nutrient solution on lettuce growth", Fertilizers and 
Environment, Proceeding of the International Symposium 
“Fertilizers and Environment” held in Salamanca, Spain 26 - 29, 
Septembar, pp 481 - 483. 
96. M.N.V. Prasad (1974), Heavy Metal Streess in Plants from Biomolecules 
to Ecosystems - Second Edition - Springer. 
97. Misbahuddin, M.; Fariduddin, A. (2002) Water Hyacinth Removes 
Arsenic from Arsenic- Contaminated Drinking Water [electronic 
version]. Arch. Environ. Health, 57 (6), 516– 519. 
98. Michael J.Blaylock and Jianwei W. Huang, "Phytoextraction of Metals, 
Phytoremediation of toxic Metals". Using Plants to clean up the 
Environment, page 53 - 70. 
99. M.O.Torres, M.M.P.M.Neto, C.Marques Dos Santos and A.De Varennes 
(1994), "Lead uptake and distribution in legume species grown on lead - 
enriched soils", Fertilizers and Environment, Proceeding of the 
International Symposium “Fertilizers and Environment” held in 
Salamanca, Spain 26 - 29, Septembar, 1994, pp 547 - 550. 
100. M.Zupan, V. Hudnik, F. Lobnik, Kadunc (1997), Accmulation of Pb, Cd 
and Zn from contaminated soil to various plant and evaluation of soil 
 144 
remediation with indicator plant (Plantago lanceolata L.). INRA, Paris, 
Les Colloques, No85. 
101. M.Ubavie, D. Bogdanovie and m.Cuvardie (1994), "Effect of different 
fertilization systems on soil contamination with heavy metals in long-
term trials", Fertilizers and Environment, Proceeding of the 
International Symposium “Fertilizers and Environment” held in 
Salamanca, Spain 26 - 29, Septembar, 1994, pp 551 - 553. 
102. Oliveira, Juraci Alves de, Cambraia, Jose, Cano, Marco Antonio Oliva 
(2001), "Cadmium absorption and accumulation and its effects on the 
relative growth of water hyacinths and salvinia", Revista Brasileira de 
Fisiologia Vegetal, 2001, vol.13, no.3, p.329-341. ISSN 0103-3131. 
103. P.Tlustos, J. Szakova, D.Pavlikova, J. Balik, A. Hanc, The accumulation 
of arsenic and cadmium by different species of vegetables, Workshop 
Towards and Ecologically Sound Fertilisation in Field Vegetable 
Production. 
104. Purnendu Bose, Archana Sharma (2002), "Role of iron in controlling 
speciation and mobilization of arsenic in subsurface environment", 
Water Research 3, pp 4916 - 4926. 
105. P.Van Lune and K.B.Z.Wart (1997), "Cadmium uptake by crops from 
the subsoil", Plant and soil 189, 1997, pp 231 - 237. 
106. Robert T.M, Giziyl W and Huchinson T.C (1974), Lead contamination 
of air, soil, vegetation and people in the vicinty of secondary lead 
smelters, in trace subst, Enviro, health. Vol.8. Hemphill. D. d, Ed, 
University of Missour, Columbia, 155 pp. 
107. Radov A.S., I.V. Pustovoi, A.V. Korolwkov, Pratikum po agrokhimia, 
Izdatelbstvo “Kolos”, Moksva 1971, pp 288 - 319 
 145 
108. S.H.Chien and R.G.Menon (1994) "Dilution effect of biomass on plant 
cadmium concentration as inducsd by application of phosphate 
fertilizers", Fertilizers and Environment, Proceeding of the International 
Symposium “Fertilizers and Environment” held in Salamanca, Spain 26 
- 29, Septembar, 1994, pp 437 - 442. 
109. Shaban W. Al Rmalli, Chris F. Harrington, Mohammed Ayub and 
Parvez I. Haris (2005), "A biomaterial based approach for arsenic 
removal from water", J. Environ. Monit., 2005, 7, pp 279 - 282 
110. Slavik Dushenkov and Yoram Kapulnik, "Phytofiltration of Metals", 
Phytoremediation of toxic Metals sing Plants to clean up the 
Environment, pp 89 - 106. 
111. S.Tu, Lena Ma, Abioye Fayiga, Edward Zillioux, Phytoremediation of 
Arsenic-Contaminated Groundwater by the Arsenic Hyperaccumulating 
Fern Pteris vittata L, International Journal of Phytoremediation, Volume 
6, Number 1, January-March 2004, pp 35 - 47 
112. Venter F. and P. D. Fritz (2007),"Nitrate contents of kohlrabi (Brassica 
oleracea L. var. Gongylodes Lam.) as influenced by fertilization", Plant 
Food for Human Nutrition (Formerly Qualitas Plantarum), Springer 
Netherlands, pp 179 - 186. 
113. Vaast P., Zasoski R.J., Bledsoe C.S. (1998), "Effects of solution pH, 
temperature, nitrate/ammonium ratios, and inhibitors on ammonium and 
nitrate uptake by Arabica coffee in short-term solution culture", Journal 
of plant nutrition, 21 (7) : 1551-1564 
114. Wang, A., Angle, J.S., Chaney, R.L., Mcintosh, M.S. (2006), "Soil pH 
effects on uptake of Cd and Zn by Thlaspi caerulescens", Plant and Soil. 
281(1-2), pp 325-337 
 146 
115. Willam Hartley, Robert, Edwards, Nicholas W.Lepp, "Arsenic and heavy 
metal mobility in iron oxide - amended contaminated soils as evaluated 
by short-and long-term leaching tests", Environmental pollution 
131(2004), page 495 - 504. 
116. Wite J.W, Jt (1975), "Relative significane of dietary sources of nitrate 
and nitrite", J. Agric, food chem 23, pp 886 - 891. 
117. Velitchka Georgieva, Christo Tasev,Georgi Sengalevitch (1997), 
"Growth, yield, lead, zinc and cadmium content of radish, pea and 
pepper plants as influenced by level of single and multiple 
contamination of soil", Bulg.J.Plant Physiol, 1997, 23 (1-2), 12 - 23. 
118.V.Paul Lecomte, Treatment of soil and water souterrenes, Technique and 
Document Paris 1998, pp 164 -165. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 doc_183_4163.pdf doc_183_4163.pdf