Nghiên cứu mô hình rủi ro tín dụng của takashi shibata và tetsuya yamada, lượng hóa và gia tăng vùng đệm tránh phá sản cho doanh nghiệp

Tóm tắt đề tài Lý do chọn đề tài và mục tiêu nghiên cứu Các doanh nghiệp hiện nay luôn hoạt động với guồng quay không ngừng và đôi lúc họ gặp phải những khó khăn của riêng mình tuy nhiên họ lại không xác định được đây là khó khăn tạm thời hay là khó khăn sẽ dẫn đến phá sản. Và thực sự họ không biết họ đang hoạt động ở đâu tiệm cận hay là đã rơi vào tình trạng sẵn sàng phá sản rồi. Đôi khi chúng ta không thể lượng hóa sự phá sản đó một cách cụ thể mà chỉ đi vào cảm tính dựa vào trực giác của nhà quản lý. Chính vì lý do đó nên đề này này muốn tập trung vào việc lượng hóa ngưỡng phá sản của một doanh nghiệp và từ đó tìm cách gia tăng những “vùng đệm” để làm cho doanh nghiệp an toàn hơn với ngưỡng phá sản của chính mình. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu này dựa trên mô hình của Takashi Shibata và Tetsuya Yamada về vấn đề rủi ro tín dụng của ngân hàng trong việc thu hồi các khoản nợ cho vay các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản. Mô hình này dựa vào lý thuyết trò chơi lựa chọn thực ( game- theoretic real options ) để tìm ra thời điểm, chiến lược tốt nhất cho mỗi ngân hàng khi phải đối mặt với tình trạng phá sản của một doanh nghiệp và xa hơn nữa là ngưỡng thanh lý của chính doanh nghiệp đó. Từ mô hình này chúng ta có thể xác định được thời điểm phá sản - thanh lý của một doanh nghiệp dựa trên sự lựa chọn tốt nhất của cổ đông hay của ngân hàng khi đứng trước nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Nội dung nghiên cứu 1. Nghiên cứu mô hình rủi ro tín dụng của Takashi Shibata và Tetsuya Yamada. 2. Kiểm định tính đúng đắn của mô hình trong trường hợp của Việt Nam. 3. Xác định và làm gia tăng những vùng đệm để tránh cho sự phá sản của doanh nghiệp xẩy ra. 2 Đóng góp của để tài Đề tài này sẽ giúp các doanh nghiệp xác định được ngưỡng phá sản của chính mình từ đó đưa ra các giải pháp dựa trên vùng đệm của chính mình để nhằm tránh xa ngưỡng phá sản hay giúp các doanh nghiệp đang khó khăn tìm ra những giải pháp cho chính mình. Hướng phát triển của đề tài Nếu dựa trên mô hình của Takashi Shibata và Tetsuya Yamada thì đề tài này chỉ khai thác được một phần nhỏ trong một cấu trúc rộng lớn của bài nghiên cứu của hai ông. Còn một mảng chúng ta có thể tìm kiếm và khai thác thêm đó chính là giá trị nợ và giá trị vốn cổ phần sẽ như thế nào và việc định lượng của nó ra sao khi doanh nghiệp dần dần lâm vào suy thoái hay khó khăn.

pdf113 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2565 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu mô hình rủi ro tín dụng của takashi shibata và tetsuya yamada, lượng hóa và gia tăng vùng đệm tránh phá sản cho doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa yếu tố này nên chúng ta cần phải tìm hiểu nó một cách sâu sắc để từ đó nhằm tìm ra một phương sách phòng ngừa một cách hiệu quả. Trong phần phân tích này chúng ta vẫn sử dụng ví dụ của BBT để chạy mô hình. Chúng ta sử dụng các dữ liệu của hai quý đầu năm 2008 để kiểm tra vì đây là khoảng thời gian BBT lâm vào khủng hoảng thực sự với biểu hiện là thua lỗ và mất phương hướng kinh doanh. Trong thời gian ngắn sau đó các ngân hàng cũng gửi công văn đến siết nợ doanh nghiệp nhưng vẫn chưa trưng thu được nợ vì thế chúng ta nên đứng tại thời điểm này để tìm hiểu. Chúng ta sử dụng data table để cho tỷ lệ thu hồi chạy từ 0% - 100%. Tuy nhiên khi chạy thử thì chúng ta có thể nhận thấy rằng có những tỷ lệ thu hồi nào đó mà tại đó ngưỡng thanh lý lại cao hơn ngưỡng phá sản vì vậy chúng ta cho mô hình chạy từ 0% - 200%. 80 Chúng ta có biểu đồ sau: 0 0.001 0.002 0.003 0.004 0.005 0.006 0.007 0.008 0.009 0.01 0% 10 % 20 % 30 % 40 % 50 % 60 % 70 % 80 % 90 % 10 0% 11 0% 12 0% 13 0% 14 0% 15 0% 16 0% 17 0% 18 0% 19 0% 20 0% Tỷ lệ thu hồi Doanh thu phá sản Doanh thu thanh lý Từ hình trên chúng ta có thể thấy rằng tại tỷ lệ thu hồi là 150% trở lên thì ngân hàng sẽ quyết định thanh lý trước khi doanh nghiệp tự phá sản. Điều này muốn nói lên rằng khi mà giá trị thanh lý ( do bán tài sản đảm bảo mà có được ) lớn hơn so với giá trị các khoản nợ thực tế mà ngân hàng cho doanh nghiệp vay thì họ có xu hướng muốn bán tài sản thế chấp hay đảm bảo đó trước khi mà họ thực sự có quyền hạn để bán tài sản đó. Điều này đã chứng minh một vấn đề trong luật định rằng:  Khi mà ngân hàng bán tài sản đảm bảo thì số tiền dư thừa phải quay về doanh nghiệp chứ ngân hàng không thể nghĩ rằng tài sản đảm bảo này là của mình nên có quyền tất cả với tài sản đó.  Điều này cũng đặt ra những thách thức cho việc doanh nghiệp gửi tài sản thế chấp cho ngân hàng để vay vốn. Doanh nghiệp cũng cần lưu ý đến việc các ngân hàng có thể bán đi để thu lợi sau đó mua lại do chênh lệch giá. Vấn đề này tuy khó xẩy ra nhưng lưu tâm vẫn tốt hơn trong khi luật định vẫn còn nhiều vướng mắc. 81 Tuy nhiên cái chúng ta cần chú ý không phải là điều đó mà chính là thời điểm thanh lý bằng với thời điểm phá sản. Tức là khi mà tỷ lệ thu hồi đạt một giá trị nào đó ngân hàng không còn muốn chờ đợi thời gian cho nó khôi phục nữa mà sẽ quyết định thanh lý luôn.Đối với BBT thì khi tỷ lệ thu hồi đạt 150% thì các ngân hàng sẽ có quyết định như vậy, nhưng cũng có những trường hợp của những công ty khác thì tỷ lệ này sẽ khác đi. Do đó đối với ngân hàng mà nói họ phải xác định được tỷ lệ thanh lý để từ đó quyết định chính xác thời gian thanh lý nhằm đạt được giá trị trưng thu tốt nhất cho mình. Còn đối với các doanh nghiệp, có một nghịch lý rằng khi mà tỷ lệ thu hồi càng thấp thì khả năng sống sót để nuôi hi vọng vực dậy công ty càng cao (vì tỷ lệ thanh lý giảm doanh thu thanh lý cũng sụt giảm theo từ đó làm cho doanh thu hiện hành cách xa ngưỡng thanh lý). Vì vậy việc lựa chọn tài sản đảm bảo như thế nào để tìm hi vọng sống sót khi mà mọi việc trở nên tồi tệ là một việc làm cần phải suy nghĩ. Chúng ta sẽ hồi quy theo hàm sau để tìm ra tác động của tỷ lệ thu hồi đến ngưỡng phá sản và thanh lý của BBT: 1 1 2 2 . . c b x c b x c b       Chúng ta có kết quả sau: 1 2 0.29% 0%     Từ kết quả này chúng ta có thể kết luận rằng:  Tỷ lệ thu hồi không tác động đến ngưỡng phá sản của doanh nghiệp, tức là cho dù tỷ lệ thu hồi thế nào đi chăng nữa thì các cổ đông cũng không hề 82 quan tâm đến nó. Bởi vì tỷ lệ thu hồi chỉ phát huy tác dụng sau khi cổ đông phá sản mà thôi.  Khi có 1% thay đổi trong tỷ lệ thu hồi thì sẽ có 0.29% thay đổi trong doanh thu thanh lý. Tác động này không lớn lắm đối với trường hợp của BBT vì có những yếu tố khác tác động mạnh mẽ hơn rất nhiều vì vậy chúng ta hãy cùng tìm hiểu những tác động khác sau đây. 2.Nợ ngân hàng và giá trị thanh lý Ngoài yếu tố tỷ lệ thanh lý ở trên thì nợ ngân hàng cũng là một yếu tố hết sức quan trọng đóng góp vào ngưỡng thanh lý của công ty. Nó hợp với tỷ lệ thanh lý tạo ra giá trị thanh lý CMc . và cái này chính là cái kết quả mà các ngân hàng nhận được khi trưng thu nợ. Chúng ta có biểu đồ sau: 0 0.005 0.01 0.015 0.02 0.025 0.03 0.035 0.04 0.0 3 0.0 5 0.0 7 0.0 9 0.1 1 0.1 3 0.1 5 0.1 7 0.1 9 0.2 1 0.2 3 0.2 5 Lượng tiền nợ ngân hàng Doanh thu phá sản Doanh thu thanh lý Chúng ta có thêm số liệu hồi quy như sau: 83 0037.0.0155.0 0037.0.1296.0   Mx Mx c b Từ biểu đồ và công thức hồi quy như trên chúng ta có thể nhận xét rằng đối với trường hợp của BBT thì lượng tiền nợ ngân hàng của doanh nghiệp tác động lên ngưỡng phá sản mạnh hơn là ngưỡng thanh lý. Điều đó chứng tỏ rằng chủ doanh nghiệp BBT có phản ứng mạnh mẽ đối với bất kì một sự gia tăng nào trong nợ ngân hàng hơn là sự phản ứng của ngân hàng đối với việc quyết định thanh lý khi nợ gia tăng thêm. Tức là khi cho vay ít có ngân hàng nào sẽ nghĩ đến việc sẽ thanh lý sớm hơn khi mà có thêm một đồng nợ cho vay gia tăng. Cái mà họ muốn nhận là những đồng lãi chứ không phải là ôm một mớ tài sản đảm bảo để chờ thanh lý nó với hàng mớ những thủ tục và chi phí liên quan. Thêm vào đó khi mà doanh nghiệp bị phá sản thì lúc ấy các khoản nợ đã hết tác dụng vì vậy tác động của các khoản nợ này lên ngưỡng thanh lý sau khi phá sản là không cao. Điều mà ngân hàng quan tâm lúc này chỉ là làm sao thu hồi được các khoản nợ mà thôi. Bây giờ chúng ta hãy xem xét xem liệu giá trị thanh lý có ý nghĩa như thế nào đối với quyết định của ngân hàng thông qua biểu đồ và phương trình hồi quy sau: Ta có phương trình hồi quy: 0037.0.0864.0  Cxc 84 0 0.005 0.01 0.015 0.02 0.025 0.03 1 6 11 16 21 26 31 36 41 46 51 56 61 66 71 76 81 86 91 96 101 Giá trị thanh lý Doanh thu thanh lý Từ những dữ kiện trên chúng ta có thể kết luận rằng:  Đối với trường hợp của BBT thì khi có 1% thay đổi trong giá trí thanh lý thì sẽ làm thay đổi 8.64% doanh thu thanh lý hay nói cách khác khi giá trị thanh lý tăng lên thì thời điểm mà ngân hàng thanh lý công ty sẽ sớm hơn. Chúng ta cũng biết rằng để càng lâu thì giá trị của tài sản đảm bảo càng sụt giảm (nếu như đó là tài sản cố định như máy móc thiết bị sản xuất) vì vậy một khi ngân hàng đã không còn ý định muốn gắn bó gì với doanh nghiệp thì tốt nhất là nên thanh lý càng sớm lúc nào thì hay lúc ấy. Còn nếu như ngân hàng vẫn nhận thấy khả năng hồi phục của nó thì điều tốt nhất lên làm là tiếp tục cho vay để vực dậy từ đó lợi nhuận biên sẽ cao hơn rất nhiều. Thêm một vấn đề nữa mà chúng ta cần nhắc tới đó chính là nợ quá hạn. Nợ quá hạn xẩy ra khi mà doanh nghiệp không có khả năng chi trả nợ cho ngân hàng theo đúng hạn tuy nhiên có một vấn đề cần phải suy nghĩ đó chính là việc ngân hàng cho doanh nghiệp vay quá nhiều sẽ dẫn đến áp lực trả nợ quá lớn từ đó làm cho doanh nghiệp rơi vào trạng thái luôn phải lo sợ dần dần dẫn đến đầu tư không hiệu 85 quả và sau đó là lâm vào tình trạng không trả được nợ. Để giải quyết các vấn đề này, ngân hàng hay chính bản thân doanh nghiệp nên vay một lượng vừa đủ và hợp lý không nên vay quá nhiều để từ đó bị áp lực trả nợ tác động đến các quyết định đầu tư hay chi tiêu của chính mình. 3.Lãi suất cho vay Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu xem lãi suất cho vay liệu có tác động gì đến quyết định thanh lý sớm của ngân hàng hay không. Chúng ta có biểu đồ sau: 0 0.002 0.004 0.006 0.008 0.01 0.012 0.014 0% 2% 4% 6% 8% 10% 12% 14% 16% 18% 20% 22% 24% 26% 28% 30% Lãi suất đi vay Doanh thu phá sản Doanh thu thanh lý Chúng ta có phuơng trình hồi quy như sau: 0037.0.0 0037.0.0288.0   bx bx c b 86 Những điều này chứng tỏ rằng lãi suất cho vay của ngân hàng không hề tác động gì đến quyết định thanh lý của chính bản thân họ.Bởi vì một lẽ sau khi doanh nghiệp đã phá sản thì các khoản nợ sẽ ngừng hoạt động, lúc ấy lãi vay không còn tác dụng gì cả. Nhưng lãi suất đi vay của doanh nghiệp lại đóng một vai trò không hề nhỏ trong quyết định phá sản của các cổ đông. Có một vấn đề là tại sao chúng ta lại có lãi suất vào phần này trong khi đó chúng ta có thể đưa nó vào phần cách thức đẩy ngưỡng phá sản ra xa như ở phần trên. Vấn đề là ở chỗ lãi suất đi vay các doanh nghiệp không thể chủ động được mà phải phụ thuộc vào ngân hàng cho nên chúng ta để nó ở phần này nhằm tổng hợp tất cả các yếu tố liên quan đến ngân hàng để xem xét liệu họ có thể giúp doanh nghiệp thoát khỏi phá sản nhờ việc giảm lãi suất cho vay hay không. Và câu trả lời là có. Tầm ảnh hưởng của 1% thay đổi trong lãi suất cho vay tác động đến sự thay đổi trong ngưỡng phá sản lên đến 2.88%. Đây là một mức độ tác động không hế nhỏ. Vì vậy để làm giảm thiểu rủi ro cho chính doanh nghiệp và ngân hàng thì ngân hàng nên áp dụng một mức lãi suất phù hợp nhằm tránh sự sụp đổ xẩy ra. Về nếu như trong lúc khó khăn như trường hợp của BBT, ngân hàng có thể giảm lãi suất xuống thì biết đâu đấy sự bế tắc sẽ không xẩy ra. 4.Chi phí hoạt động Như đã trình bày ở phần cách thức đẩy ngưỡng phá sản ra xa chúng ta đã biết rằng chi phí hoạt động đóng vai trò rất lớn trong việc đẩy công ty đến khó khăn hay cũng chính nó sẽ làm cho công ty hồi phục. Vì vậy chúng ta cùng thử xem xét xem liệu nó còn có tác dụng đối với ngưỡng thanh lý hay không khi mà ngân hàng đang lưỡng lự liệu có nên tiếp tục để cho doanh nghiệp thoi thóp nhằm tìm cách cứu sống nó hay là thanh lý nó càng nhanh càng tốt. 87 Chúng ta có biểu đồ sau: 0.000000 0.001000 0.002000 0.003000 0.004000 0.005000 0.006000 0.007000 0.008000 0.009000 0.010000 0. 00 42 4 0. 00 43 0 0. 00 43 6 0. 00 44 2 0. 00 44 8 0. 00 45 4 0. 00 46 0 0. 00 46 6 0. 00 47 2 0. 00 47 8 0. 00 48 4 0. 00 48 9 0. 00 49 5 0. 00 50 1 0. 00 50 7 0. 00 51 3 0. 00 51 9 0. 00 52 5 Chi phí hoạt động Doanh thu phá sản Doanh thu thanh lý và phương trình hồi quy như sau: 0005.0.8638.0 0043.0.8638.0   wx wx c b Cả hai yếu tố là ngưỡng phá sản và ngưỡng thanh lý đều chịu sự tác động rất mạnh mẽ từ sự thay đổi của chi phí hoạt động. Cứ 1% thay đổi trong chi phí hoạt động thì có tới 86.38% sự thay đổi trong doanh thu phá sản và doanh thu thanh lý. Từ đây chúng ta đã tìm ra cách giúp cho BBT thoát khỏi phá sản và thanh lý đó chính là việc cải tổ trong hoạt động từ đó giải quyết bài toán chi phí liên quan đến doanh nghiệp. Việc giải quyết vấn đề này chúng ta sẽ xem xét trong phần phụ lục tái cấu trúc công ty BBT. 88 Phụ lục E: Tái cơ cấu BBT 1.Cơ sở lý luận về tái cấu trúc Như chúng ta đã biết có hàng loạt công ty phá sản trên toàn thế giới sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xẩy ra vào năm 2008. Hậu quả mà nó để lại cho các nền kinh tế trên thế giới và cho các công ty là không thể đo đếm được. Hàng triệu người mất việc làm, hàng trăm ngàn công ty bị phá sản, hàng loạt quốc gia phải đi vay nợ khắp các nơi trên thế giới và thậm chí cả Mỹ cũng đã trở thành một con nợ khổng lồ. Các quốc gia là thế còn các công ty cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Tình trạng vỡ nợ rồi dẫn đến phá sản là con đường đi chung của các công ty khi gặp khó khăn. Đứng trước nghịch cảnh này, các công ty phải đối phó thế nào, họ có giải pháp ra sao và họ đã thực hiện những cách thức gì nhằm thoát khỏi khó khăn. Đầu tiên chúng ta hãy xem xét những ví dụ điển hình trên thế giới từ đó chúng ta sẽ trả lời được câu hỏi: Chúng ta sẽ làm gì để thoát khỏi khó khăn. 1.1.Các ví dụ thoát khỏi khó khăn của các công ty trên toàn thế giới. Đầu tiên chúng ta phải kể đến General Motor một công ty sản xuất xe hơi hàng đầu thế giới nộp đơn xin bảo hộ phá sản. Đây là một trong những sự kiện chấn động toàn thế giới vì người ta thường nói rằng “nó quá lớn để sụp đổ” tuy nhiên thực tế lại ngược lại. Vụ phá sản của GM là vụ phá sản lớn nhất của một hãng công nghiệp Mỹ từ trước đến nay. Do đó cách thức để vực nó dậy cũng tốn nhiều công sức và tiền của. Đầu tiên chúng ta hãy xem xét một số số liệu sau: Ngày 1/6/2009 GM chính thức nộp đơn xin phá sản. Tính tới thời điểm này tổng tài sản của GM là 91 tỷ USD 89 trong khi đó số nợ lên đến 172.81 tỷ. Một số nợ quá kinh khủng [www.xaluan.com]. Cách thức mà GM dùng để thoát khỏi tình trạng này chính là nhờ sự cứu giúp của chính phủ Mỹ. Chính phủ Mỹ sẽ bơm tiền cứu GM và chuyển 50 tỷ USD tiền nợ thành 60% cổ phần tại hãng xe mới hình thành sau phá sản. Và theo như thõa thuận chính phủ Mỹ nắm gần 72.5% và Hiệp hội Công đoàn ngành ô tô Mỹ nắm 17.5% cổ phần của công ty mới. Việc tái cấu trúc GM đã làm cho GM nhỏ hơn nhiều nhưng những nhãn hiệu nổi tiếng như Chevy, Cadillac,Buick và GMC vẫn được giữ lại. GM sẽ bán đi những chi nhánh hoạt động kém hiệu quả hay xóa sổ nó. Như chúng ta vẫn biết rằng khi khủng hoàng xẩy ra chính phủ Mỹ đã chi ra rất nhiều tiền cho các công ty nhằm tránh cho nó sụp đổ như AIG, Bear Steams, Fannie Mae, Freddi Mac và còn rất nhiều công ty khác nữa thì vẫn còn một công ty vẫn đứng vững mà không cần sự trợ giúp của chính phủ đó là Ford. Để có được điều này chúng ta phải quay trở lại quá khứ với thời điểm CEO của Ford ( Alan R.Mulally ) thế chấp toàn bộ tài sản của công ty để vay gần 24 tỷ USD từ ngân hàng nhằm cải tổ hãng xe vào tháng 11/2006. Ở thời điểm đó kinh tế Mỹ vẫn ổn định nhưng Mulally cho rằng khoản vay này sẽ giúp cho Ford có “một tấm đệm để đề phòng suy thoái hay một sự cố bất ngờ nào đó”. Lúc ấy ai cũng cho rằng Ford đang nỗ lực trong tuyệt vọng nhưng cuối cùng khoản vay ấy lại là phao cứu sinh giúp Ford thoát khỏi khủng hoảng một cách đường hoàng. Tuy nhiên để được khoản vay cứu sinh đó Mulally đã có những ý tưởng “rắn” nhằm thuyết phục các ông chủ nhà băng cho Ford được vay tiền. Ông nói rằng ông sẵn sàng bán các thương hiệu, cắt giảm việc làm đồng thời tập trung vào các mẫu xe nhỏ thay vì xe tải và xe đa dụng có tính năng thể thao. Chính vì những chiến 90 lược này mà các ông chủ nhà băng đã cho Ford vay tiền. Và những ý tưởng ấy cuối cùng cũng được Mulally thực hiện. Thêm vào đó Ford còn trả một nữa quỹ chăm sóc sức khỏe cho công nhân viên nghỉ hữu bằng cổ phiếu. Đây là điều mà GM và Chrysler chưa làm được. Động thái vay vốn trong thời kỳ đang hưng thịnh là một trong những động thái quan trọng nhất trong lịch sử 105 năm của hãng xe này. “Tôi tin rằng tầm nhìn xa trong việc tăng cường sức mạnh cho tập đoàn chính là yếu tố tạo ra sự khác biệt giữa Ford và các hãng xe khác trong lần suy thoái hiện nay” – nhà phân tích Jonhn Murphay thuộc Merrill Lynch nhận xét [nguồn:www.cafe.vn]. Những ví dụ trên chỉ là một trong những ví dụ điển hình cho việc làm cách nào để thoát khỏi khủng hoảng. Vì vậy chúng ta cùng tìm hiểu các cách thức vượt qua khủng hoảng sau đây. 1.2.Tái cấu trúc công ty Tái cấu trúc công ty là một phàm trù rất rộng với nhiều mảng khác nhau như tái cấu trúc tài chính, tái cấu trúc hoạt động của công ty hay tái cấu trúc toàn bộ công ty kể cả tài chính lẫn hoạt động. Đây là một vấn đề rất khó khăn trong thực tế vì những quyết định của nó có liên quan đến rất nhiều thứ như nhân viên, tài sản, phương thức hoạt động ... Tuy nhiên lúc này chúng ta chỉ có một lựa chọn đó là tái cấu trúc hay là bị phá sản và thanh lý khi công ty lâm vào khủng hoảng. Một công ty muốn tái cấu trúc thì trước tiên nó phải biết đâu là vấn đề dẫn nó đến tình trạng khốn đốn như hiện giờ, nó phải biết đâu là nguyên nhân và đâu là kết quả một cách rạch ròi chứ không thể đánh đồng nguyên nhân và hậu quả giống nhau. Ví dụ như công ty có chi phí hoạt động quá lớn nên từ đó dẫn đến làm ăn thua lỗ, không trả được nợ dẫn đến nợ quá hạn với lãi vay rất cao và từ đó dẫn đến 91 phá sản. Lúc này nguyên nhân dẫn đến phá sản là chi phí họa động cao chứ không phải là do nợ quá hạn cộng với gánh nặng lãi vay cao. Việc xác định được cội nguồn của sự phá sản hay thua lỗ chính là việc làm quan trọng nhất và có tính quyết định đến 80% khả năng tái cấu trúc thành công. 1.2.1.Tái cấu trúc tài chính 1.2.1.1.Những bước đi cơ bản của việc tái cấu trúc tài chính Chúng ta có thể hiểu nôm na rằng tái cấu trúc tài chính chính là tái cấu trúc vốn của công ty – thay đổi tỷ lệ nợ vốn cổ phần, thay đổi tỷ trọng nợ dài hạn hay ngắn hạn trong tổng nợ công ty hay cơ cấu lại tỷ trọng nợ ngân hàng ... Việc tái cơ cấu này có một mục đích là làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hơn biểu hiện thông qua các khoản nợ nằm trong vùng có khả năng chi trả được hoặc tỷ trọng vốn cổ phần nằm trong vùng an toàn nào đó, hay cũng có thể cấu trúc vốn làm tối đa hóa tấm chắn thuế cho cổ đông ... Tùy những mục đích khác nhau mà công ty có thể có những cách thức tái cấu trúc khác nhau. Do vậy vấn đề đầu tiên mà công ty phải trả lời được chính là công ty tái cấu trúc để làm gì. Khi xác định được vấn đề này thì chúng ta mới có phương sách tìm ra cách thức để tái cấu trúc nó.  Nếu như công ty muốn tái cấu trúc để gia tăng tấm chắn thuế cho mình thì cấu trúc vốn nhiều nợ là hợp lý nhất.  Còn nếu như muốn giảm gánh nặng nợ vay thì tỷ trọng vốn cổ phần sẽ nhiều hơn trong cấu trúc vốn.  Sự gia tăng tỷ trọng vốn cổ phần cũng liên quan đến việc một công ty muốn bành trướng tầm ảnh hưởng của mình hơn nữa. Các công ty khi muốn mở rộng sản xuất và muốn xây dựng mạng lưới hoạt động ở nhiều nơi hay khi có ý định thâm nhập vào thị trường mới thì các công ty thường 92 sử dụng nhiều vốn cổ phần vì nó an toàn hơn và còn có một yếu tố khác đó chính là có thể huy động nhiều vốn hơn là đi vay. Sau khi trả lời được câu hỏi tái cấu trúc để làm gì thì chúng ta lại tiếp tục với câu hỏi: những thành phần nào cần tái cấu trúc.  Khi đã xác định mục tiêu của mình chúng ta cần xác định đối tượng cần tái cấu trúc là gì và vì sao cần tái cấu trúc nó. Ví dụ như khi nợ ngân hàng trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp là quá lớn và gánh nặng lãi vay của nó tác động không nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp lúc này doanh nghiệp sẽ quyết định tái cấu trúc các khoản nợ ngân hàng. Nợ ngân hàng lúc này là đối tượng cần phải được thay đổi.  Tuy nhiên việc xác định đối tượng tái cấu trúc cần phải chính xác bởi vì một sự đánh giá sai lầm có thể làm cho việc tái cấu trúc không hiệu quả. Giả dụ rằng chính vì có quá nhiều các khoản nợ phải trả ( do mua thiếu, mua chịu ) nên tổng nợ của doanh nghiệp rất cao. Thì việc xác định đối tượng cần phải tái cấu trúc là nợ ngân hàng trong tổng nợ cao lại là việc xác định sai lầm. Do đó chúng ta cần tìm hiểu đúng nguyên nhân dẫn đến việc chúng ta tái cấu trúc nó. Tiếp theo sau đó là phần cũng rất quan trọng chính là: cách thức để tái cấu trúc ra sao.  Trong phần này chúng ta phải tìm cách để tái cấu trúc các đối tượng mà chúng ta đã xác định ở phần trên. Sự thay đổi cấu trúc vốn có thể bằng cách phát hành thêm cổ phần để trả các khoản nợ vay hay phát hàng thêm cổ phần để tái cơ cấu chủ sỡ hữu hay phát hành thêm vốn để đạt đủ số vốn theo điều lệ.  Việc định lượng trong tái cấu trúc tài chính là một việc làm tương đối khó khăn nhưng cũng là quan trọng nhất cho tiến trình tái cấu trúc của chúng ta. Vì vậy nó đòi hỏi chúng ta phải hiểu rõ tình hình của doanh nghiệp cũng 93 như nắm chắc tất cả các yếu tố có thể bị ảnh hưởng khi tái cấu trúc xẩy ra để từ đó có phương thức đúng đắn cho từng tình huống doanh nghiệp cụ thể. 1.2.1.2.Tái cấu trúc tài chính và những điều cần lưu ý Trên đây là những bước đi cơ bản cho một quá trình tái cấu trúc tài chính của doanh nghiệp mà đa phần chúng ta thường nghĩ đến tái cấu trúc vốn vì vậy trong phần này chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về vấn đề tái cấu trúc vốn của một doanh nghiệp. Thông thường việc tái cấu trúc vốn luôn là một sự đánh đổi giữa lợi ích của nợ và mặt trái của nó.  Ưu điểm lớn nhất của nợ so với vốn chủ sỡ hữu chính là lãi suất mà doanh nghiệp phải trả trên các khoản nợ được miễn giảm thuế ( hay chúng ta còn gọi đó chính là tấm chắn thuế của doanh nghiệp ). Trong khi đó thì cổ tức hay lợi nhuận đều phải chịu thuế thu nhập. Thêm vào đó thông thường thì chi phí cho các khoản nợ thấp hơn chi phí vốn cổ phần.  Nợ cũng góp phần làm gia tăng đòn bẩy tài chính khi doanh nghiệp cần nhiều vốn để đầu tư khi mà nguồn vốn từ vốn cổ phần không đủ hay các cổ đông không muốn huy động thêm vốn nhằm tránh pha loãng quyền sở hữu.  Nợ làm giảm chi phí đại diện khi mà quyền sỡ hữu của cổ đông với quyền quản lý trong công ty mâu thuẫn sâu sắc lẫn nhau. Khi có nợ các giám đốc hay người quản lý công ty không dám lơi là trong việc quản lý và đầu tư của mình vì cho dù có đầu tư hay không thì công ty vẫn phải trả lãi vay từng kỳ.  Tuy nhiên nhược điểm của nó là chi phí lãi vay phải trả cộng thêm với chi phí kiệt quệ tài chính phát sinh khi mà công ty làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ dẫn đến phá sản. 94  Nợ tạo áp lực cho doanh nghiệp “nhát tay” trong những dự án đầu tư và cắt giảm chi phí đôi khi gọi là mù quáng vì muốn tránh cho doanh nghiệp lâm vào tình cảnh khó khăn do nợ gây nên. Tuy nhiên đó lại là điều không tốt tác động tới khả năng sinh lợi của doanh nghiệp khi những chi phí cần thiết và những dự án đầu tư tốt đều bị bác bỏ do lo ngại những sai lầm có thể xẩy ra. Từ những mặt đối lập trên mà doanh nghiệp phải lựa chọn một cấu trúc vốn sao cho hợp lý, phù hợp với tình hình hoạt động cũng như tham vọng của công ty. Việc quyết định cấu trúc vốn thế nào cho phù hợp lại là một nghệ thuật mà nghệ thuật ấy chỉ có thể thực hiện khi người ra quyết định tái cấu trúc phải thực sự hiểu công ty và hiểu những mục tiêu mà công ty muốn hướng tới trong tương lai. Như những ví dụ ở phần đầu mà chúng ta đề cập tới, GM đã tái cấu trúc tài chính của mình thông qua việc vay thêm tiền từ chính phủ nhưng những khoản nợ này lại không phải là khoản nợ mà là được chuyển thành vốn cổ phần (từ 50 tỷ USD tiền nợ thành 60% cổ phần). Đây cũng là một cách tái cấu trúc tài chính một doanh nghiệp. Tuy nhiên chúng ta cũng có một cách khác như sau: Một công ty đang lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính và nó thực sự rất cần vốn để tái sản xuất hoạt động kinh doanh từ đó vực dậy doanh nghiệp. Nó đã phát hành trái phiếu chuyển đổi trong vòng 5 năm. Sau 5 năm ấy tất cả các trái phiếu đều chuyển thành vốn cổ phần nhưng hiện tại thì nó vẫn là các khoản nợ và các khoản nợ ấy vẫn tạo cho nó một tấm chắn thuế khá vững chắc. Có một thực tế ở Việt Nam là rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa coi trọng vấn đề cấu trúc vốn của mình, chỉ khi nào cần đầu tư hay mở rộng sản xuất thì họ mới đi vay vốn hay phát hành cổ phần và nhiều lúc việc phân chia các luồng vốn cũng 95 không đảm bảo cho khả năng tài chính lành mạnh sau này của doanh nghiệp. Thêm vào đó các doanh nghiệp nhỏ thường lệ thuộc quá nhiều vào vốn vay, tuy biết rằng đó là cách nhanh nhất để tiếp cận nguồn vốn nhưng cũng cần phải xem xét mặt trái của nó và yếu tố tiên quyết chính là một doanh nghiệp nhỏ muốn đi lên thành doanh nghiệp lớn thì phải có một khả năng tài chính vững mạnh mà điều đó chỉ có thể xẩy ra khi mà nó có nguồn vốn chủ sỡ hữu lớn hơn. Việc tái cấu trúc vốn thường đi liền với việc lựa chọn cấu trúc vốn tối ưu. Vậy thế nào là một cấu trúc vốn tối ưu của một doanh nghiệp. Thực chất có rất nhiều cách hiểu tuy nhiên chúng ta có thể liệt kê một số trạng thái sau:  Cấu trúc vốn tối ưu là cấu trúc vốn có chi phí sử dụng vốn WACC thấp nhất. Việc WACC thấp nhất sẽ làm gia tăng hiện giá của các dòng tiền đầu tư trong tương lai của doanh nghiệp từ đó khả năng sinh lợi của dự án mà công ty đầu tư sẽ cao hơn.  Tuy nhiên chúng ta cần mở rộng rằng chưa chắc WACC thấp nhất là có lợi nhất cho mọi doanh nghiệp. Theo tôi, cấu trúc vốn tối ưu là cấu trúc vốn phù hợp nhất với từng loại hình doanh nghiệp, từng tình trạng sức khỏe của mỗi doanh nghiệp và cũng tùy từng chu kì sống của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp đang ở thời kì suy thoái thường có nhiều nợ trong cấu trúc vốn của mình vì vậy việc tái cấu trúc nó chính là giảm các khoản nợ lại trong khi đó ta vẫn biết rằng khi nhiều nợ thì WACC của doanh nghiệp sẽ thấp hơn là nhiều vốn cổ phần. Do đó không thể cứ cứng nhắc rằng cấu trúc vốn tối ưu là cấu trúc vốn làm cho WACC của doanh nghiệp thấp nhất.  Cấu trúc vốn tối ưu là cấu trúc vốn tương xứng với rủi ro mà công ty trong ngành gặp phải. Ví dụ như những công ty chuyên viết phần mềm máy tính như Microsoft thường phải gánh chịu rủi ro rất cao do đặc thù của sản phẩm là phần mềm máy tính do đó việc không có nợ trong cấu trúc vốn của mình đã giúp Microsoft giảm thiểu được rủi ro từ nợ vay mang lại, mặc dù nếu muốn vay thì họ vẫn dư sức vay được vốn. 96  Cấu trúc vốn tối ưu là cấu trúc vốn phù hợp với tình hình của thị trường và cũng phù hợp với mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Giả dụ như các cổ đông muốn đầu tư vào một dự án A nào đó, họ đang rất cần vốn tuy nhiên họ lại không muốn phát hành thêm cổ phần vì họ không muốn bị chia sẽ quyền lợi do đó nguồn vốn vay và lợi nhuận giữ lại là hợp lý nhất cho các cổ đông lúc này. 1.2.2.Tái cấu trúc hoạt động Để tái cấu trúc hoạt động của một công ty thì đầu tiên chúng ta phải hiểu thế nào là tái cấu trúc hoạt động.  Tái cấu trúc hoạt động là một quá trình tiếp diễn nó bao gồm việc cải thiện tính hiệu quả và quản lý trong hoạt động của công ty. Cũng có thể là làm giảm lượng nhân viên không cần thiết, chi phí lương hay cắt giảm một số chi nhánh hoạt động không hiệu quả nhằm để năng cao khả năng sinh lợi và tăng tính cạnh tranh cho công ty [www.entrepreneur.com]. Đối với những công ty có nhiều chi nhánh rãi đều khắp nơi trên thế giới hay chỉ đơn giản là ở một quốc gia thì lẽ đương nhiên sẽ có những chi nhánh hoạt động không mấy hiệu quả từ đó làm giảm khả năng sinh lợi của công ty mẹ rất nhiều do đó biện pháp hay được áp dụng trong tình huống này chính là bán đi những chi nhánh con ấy hay tái cấu trúc nó để sử dụng nó vào mục đích khác ( như làm thành kho hàng chẳng hạn ). Điều này cũng giống như Ford đã từng làm trong thời kỳ suy thoái đã qua mà chúng ta đã có dịp xem xét trong những ví dụ ở trên. Việc cắt giảm nhân viên để giảm chi phí lương cũng là một trong những cách đầu tiên mà các công ty áp dụng khi muốn tái cấu trúc lại hoạt động của mình bên cạnh những việc như thay đổi ban quản trị cấp cao, cải tổ các phòng ban và cơ cấu lại 97 cách thức hoạt động của nhân viên công ty. Tất cả những điều ấy đều nhằm làm tăng khả năng linh hoạt và tinh giản lực lượng cho một doanh nghiệp. Một vấn đề quan trọng không kém đó chính là tái cơ cấu cách thức làm việc, hoạt động của công ty. Giống như cái cách mà Toyoto đã làm sau đây. Ngày ấy khi khách hàng của Toyota phàn nàn rất nhiều về thời gian sữa chữa bảo hành của Toyata rất lâu thì ban quản trị của công ty đã phải nghiên cứu rất nhiều về cách thức sửa chữa và bảo hành của các nhân viên thông qua các băng video được quay lại từ các trung tâm sữa chữa. Họ phân tích đánh giá cung cách làm việc và quy trình làm việc của nhân viên từ đó sắp xếp các dụng cụ, thiết kế lại các phòng sửa chữa để việc di chuyển của các công nhân đến nơi cần thiết được rút ngắn một cách thiết thực và hợp lý nhất từ đó năng suất làm việc của nhân viên tăng hơn hẳn và thời gian bảo hành sữa chửa của Toyota từ đó cũng được thu ngắn lại. Từ bài học này của Toyota chúng ta có thể nhận thấy rằng chỉ cần thay đổi nhỏ trong cung cách làm việc và sắp xếp thôi cũng đủ khiến cho chúng ta thu được những hiệu quả đáng kể. Bây giờ chúng ta lại xem xét tiếp vấn đề sau: đó chính là vấn đề các chính sách bán hàng của doanh nghiệp. Chúng ta vẫn biết rằng đối một doanh nghiệp thì việc chiết khấu thanh toán hay thương mại cho công ty khách hàng là một chiến lược rất quan trọng. Tuy nhiên mặt trái của nó không phải ai cũng để ý đến. Giả sử như công ty A có chính sách bán hàng trả chậm là 30 ngày ( tức là khách hàng trả tiền hàng trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận hàng thì được chiết khấu thương mại là 5% / giá bán ) tuy nhiên chính vì thời gian quay vòng vốn chậm như vậy mà công ty A gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn nhanh để làm gia tăng vốn luân chuyển cho sản xuất kinh doanh. Từ việc thiếu hụt này mà công ty phải vay mượn từ ngân hàng làm gia tăng áp lực lãi vay từ đó doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn khi không thể vay thêm vốn từ ngân hàng để sản xuất nữa. Từ thực trạng này công ty quyết định rút ngắn thời gian chiết khấu xuống còn 20 ngày. Lúc này doanh thu 98 bán hàng bị sụt giảm 5% ( vì một số khách hàng chuyển sang công ty khác ) tuy nhiên lại tạo cho doanh nghiệp một lượng tiền vốn luân chuyển cần thiết để quay vòng sản xuất kinh doanh nhanh hơn từ đó các vấn đề của doanh nghiệp đã được giải quyết. Từ ví dụ trên chúng ta có thể kết luận rằng tất cả những vấn đề tưởng chừng như lớn lao có thể giải quyết một cách nhanh chóng và những vấn đề ấy có thể được giải quyết từ chính bản thân doanh nghiệp chứ không phải từ bên ngoài. Vì vậy tôi đề nghị rằng các doanh nghiệp hãy nên tái cơ cấu chính mình chứ đừng nên quá phụ thuộc vào bên ngoài trong công cuộc tìm ra cách thoát khỏi khó khăn. 2.Giải pháp cho BBT 2.1.Tìm nguồn vốn cứu trợ Thực chất chúng ta chỉ có một cách duy nhất để “ứng xử” với BBT đó chính là bơm vốn để cứu nó và sau đó là tái cấu trúc lại toàn bộ công ty. Chúng ta làm điều này bởi vì cho dù thanh lý tất cả tài sản của BBT thì nó cũng không đủ để chi trả cho tất cả, nó chỉ như muối bỏ biển mà thôi.  Tổng dư nợ của BBT tính vào 25/8/2008 là 63 tỷ mà đa phần trong đó đều là nợ quá hạn. Thêm vào đó tổng lãi vay phải trả là gần 2 tỷ đồng. Trong khi đó theo tổng giám đốc BBT Tạ Xuân Thọ thì tài sản BBT thế chấp tại ngân hàng hằng hải Maritime bank chi nhánh Cộng Hòa gồm toàn bộ đất đai và máy móc nhà xưởng tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc (gồm 16.000m2 thuê từ năm 2002 thời hạn 50 năm với giá thuê 35USD/m2 đã trả tiền một lần, dây chuyền sản xuất bông trị giá 29 tỷ và dây chuyền băng vệ sinh trị giá 32 tỷ đồng – tính tại thời điểm đầu tư ) [www.cafef.vn]. Ngoài ra tài sản của BBT hiện chỉ còn mặt bằng văn phòng đang sử dụng và 5.000m2 đất ở đường Âu Cơ. 99  Theo ông Bùi Quang Nghiêm – phó chủ nhiệm đoàn luật sư HCM thì cho dù bán hết các tài sản này thì việc chia tài sản cho doanh nghiệp nhà nước có cổ phần trong BBT “thường là không còn gì” [www.cafef.vn]. Do đó việc phát mãi tài sản để thu hồi vốn về thường là không khả thi vì vậy các cổ đông và chủ nợ đã quyết định tìm giải pháp khác cho BBT. Vấn đề cấp bách của BBT lúc này lại là vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh và giải quyết các khoản nợ xấu, nợ quá hạn đã tồn đọng quá lâu mà trong khi đó BBT không thể vay vốn ngân hàng được. Do đó chỉ còn một giải pháp duy nhất đó chính là phát hành vốn cổ phần. Cứ ngỡ ý tưởng ấy sẽ êm xuôi khi các cổ đông đã quyết định mua cổ phần phát hành thêm nhưng hành động không thông qua phương án phát hành của công ty dệt may Gia Định đã bóp nghẹt con đường sống duy nhất của BBT với cái cớ đưa ra là “không tin vào ban lãnh đạo” của BBT. Có nhiều luồng ý kiến xung quanh vấn đề này tuy nhiên có một luồng ý kiến cho rằng Gia Định làm như vậy vì không muốn bị pha loãng quyền sở hữu vì công ty tư vấn đầu tư Trúc Anh muốn mua lại 40% số cổ phần phát hành thêm của BBT. Cho dù là thế nào đi nữa thì cái cách bác bỏ ấy của Gia Định cho đến bây giờ vẫn làm cho BBT vẫn chưa thể hoạt động trở lại. 2.2.Tái cấu trúc vốn Chúng ta đều biết rằng BBT rất cần vốn nhưng con số cụ thể là bao nhiêu và dùng số tiền vốn đó vào đâu là những gì mà chúng ta cần giải quyết. Chúng ta có thể xem bảng tóm tắt nợ sau đây: Nợ được ghi nhận ngày 25/8/2008 ( nguồn: bảng công bố nợ của BBT cho các cổ đông) 100 Chủ nợ có vốn tính lãi Nợ gốc Lãi Ngân hàng TMCP Hàng Hải Chi nhánh Cộng Hoà 21,175,705,225 1,021,462,509 Ngân hàng TMCP Quân Đội Chi nhánh Gò Vấp 4,840,000,000 87,523,333 Ngân hàng NNPTNT VN Chi nhánh Trường Sơn 1,804,022,430 36,778,637 Vay tín chấp của Công ty CP Bibica 5,000,000,000 319,633,333 Vay tín chấp của Công ty Xăng dầu Phong Quân 1,292,385,600 77,543,136 Bà Trần Thị Đem 1,300,000,000 19,500,000 Đơn vị: đồng Các khoản phải trả, phải nộp khác Nợ gốc Nợ phải trả cho nhà cung cấp vật tư, NVL đã quá hạn 4,898,795,112 Nợ phải trả các nhà cung cấp khác đã quá hạn 2,352,307,319 Phải nộp chênh lệch phần vốn NN sau cổ phần 900,000,000 Cổ tức nhà nước 2,839,348,000 Phải trả cổ tức 139,900,000 Vay mua chứng khoán 779,500,000 Châu Vinh Quang 1,650,000,000 Hồ Văn Vũ 1,520,000,000 Đỗ Duy Tân 3,250,000,000 Trần Cao Trượng 149,500,000 Tạ Xuân Thọ 100,000,000 Nguyễn Thanh Hiếu 351,000,000 Vương Chiêu Hiền 260,000,000 Lãi chậm nộp các khoản phải trả NSNN 903,568,995 101 Khoản phải trả khác 59,577,421 Nợ phải trả các tổ chức bằng ngoại tệ 20,358 euro Từ bảng trên chúng ta thấy rằng số tiền nợ của BBT quá lớn vì vậy câu trả lời đầu tiên của chúng ta là chúng ta cần vốn để trả tiền các khoản nợ này. Bởi vì nếu như không giải quyết vấn đề này triệt để thì cho dù có hoạt động trở lại thì BBT vẫn phải gánh chịu các khoản lãi vay với lãi suất quá hạn rất cao. Do đó việc làm đầu tiên của các nhà quản trị BBT chính là tìm nguồn vốn cổ phần để thanh toán các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng còn các khoản nợ phải trả phải nộp nhưng không tính lãi vay thì chúng ta nên để đấy để giải quyết từ từ ( nhằm để tránh việc không huy động đủ vốn do nợ quá lớn ). Điều này có thể lý giải thông qua cấu trúc nợ của công ty cổ phần dược vật tư y tế Đắc Lắc ( DBM ) ( công ty cùng ngành ) như sau: Quý 2 – 2009 ( DBM ) Số tiền Tỷ trọng Nợ ngắn hạn 52,412,578,755 100% Vay và nợ ngắn hạn 14,394,514,735 27% Phải trả người bán 30,968,881,117 59% Tỷ trọng các khoản vay và nợ ngắn hạn chỉ chiếm khoảng 27% trong tổng nợ ngắn hạn còn các khoản phải trả người bán chiếm lên đến 59% ( phần nợ dài hạn là 200,801,777 đ). Từ cấu trúc nợ của công ty cùng ngành chúng ta có thể dùng nó làm mẫu để tham khảo, tức là chúng ta sẽ sử dụng vốn cổ phần được bơm mới từ các cổ đông để trả các khoản nợ vay có tính lãi trước sau đó các khoản nợ không tính lãi vay khác chúng ta sẽ trả sau. Điều này giúp BBT giải quyết được vấn đề nghiêm trọng của mình lúc này là giảm gánh nặng lãi vay quá lớn. Chúng ta có bảng sau: 102 Tổng nợ gốc vay phải trả 40,412,113,255 Tổng lãi phải trả 1,882,074,281 Tổng nợ và lãi vay 42,294,187,536 Giá một cổ phiếu 8,000 Số cổ phiếu phát hành thêm 5,286,773 Như vậy để trả hết các khoản nợ gốc và lãi vay quá hạn thì BBT cần một lượng tiền là khoảng 42 tỷ vnd. Nếu như BBT phát hành cổ phiếu cho các cổ đông với giá mỗi cổ phiếu là 8.000 đ/cổ phiếu thì chúng ta cần số cổ phiếu phát hành thêm là 5,286,773 cổ phiếu để chi trả cho các khoản nợ và lãi vay này. Chúng ta có bảng cấu trúc vốn của BBT sau khi phát hàng cổ phiếu để trả nợ là như sau: Cấu trúc vốn Số tiền Tỷ trọng Nợ 20,560,656,847 18% Vốn cổ phần 96,541,618,526 82% Nếu như việc phát hành cổ phiếu để bù đắp một lượng tiền lớn như vậy là khó khả thi và không tận dụng được tấm chắn thuế trong lúc khó khăn thì việc cân nhắc phát hành trái phiếu chuyển đổi cho các cổ đông cũng là việc cần phải xem xét trong bối cảnh BBT đang rất cần tấm chắn thuế để đảm bảo lượng tiền mặt cho mình. Tuy nhiên để xác định được cần phát hành bao nhiêu thì còn phải dựa vào khả năng cung ứng vốn của các cổ đông. 103 2.3.Tái cấu trúc hoạt động 2.3.1.Các khoản phải thu Đầu tiên chúng ta xem xét các khoản phải thu của BBT - vòng quay các khoản phải thu thể hiện cứ một đồng các khoản phải thu tăng thêm thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Năm 2007 Quý 1 2 3 4 Doanh thu 15,001,526,333 17,718,270,609 17,192,211,337 20,670,676,608 Các khoản phải thu 9,474,135,728 9,474,135,728 14,674,105,847 21,387,946,555 Lợi nhuận sau thuế 626,805,797 259,233,388 392,302,692 1,712,582,392 Vòng quy các khoản phải thu 1.58341898 1.870172765 1.171601971 0.966463824 Kỳ thu tiền bình quân 56.83903068 48.12389619 76.81789738 93.12298898 Năm 2008 Quý 1 2 3 4 Doanh thu 10,233,773,349 14,555,472,005 1,142,600,153 4,002,479,221 Các khoản phải thu 21,939,044,532 8,691,520,637 2,118,685,791 2,423,705,187 Lợi nhuận sau thuế -4,225,356,179 -3,760,693,142 -4,817,481,289 -1,285,819,772 Vòng quy các khoản phải thu 0.466463949 1.674674963 0.539296652 1.651388643 Kỳ thu tiền bình quân 192.9409555 53.74177196 166.8840326 54.49958758 Chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy những thời điểm bất ổn của BBT ứng với những sự thay đổi bất thường của các khoản phải thu của nó thông qua những số liệu 104 trên.Vòng quay các khoản phải thu trong quý 4 – 2007 có xu hướng sụt giảm xuống và nó thực sự chậm lại trong quý 1 – 2008 ( tức là cứ một đồng các khoản phải thu tăng thêm nhưng tạo ra ít doanh thu hơn ) tại thời điểm mà lợi nhuận của BBT âm và nó cũng là lúc báo hiệu BBT đang thực sự lâm vào ngưỡng phá sản của chính nó. Từ các khoản phải thu gia tăng đột biến trong quý 4-2007 và quý 1-2008 nó cũng biểu hiện kỳ thu tiền bình quân của BBT tăng từ 93 ngày lên đến 192 ngày - tức là BBT phải đợi lâu hơn để có thể thu các khoản tiền bán chịu của mình về. Chúng ta cũng cần phải so sánh vòng quay các khoản phải thu và kỳ thu tiền bình quân của BBT so với các công ty cùng ngành để xem xét thực sự nó có thể hiện sự bất ổn gì hay không. Chúng ta so sánh với công ty DBM với số liệu như sau: Năm 2009 Doanh thu 274,288,822,401 Các khoản phải thu 21,291,606,196 Lợi nhuận sau thuế 6,956,347,174 Vòng quay các khoản phải thu 12.88248617 Kỳ thu tiền bình quân 27.94491647 Chúng ta nhận thấy rằng vòng quay các khoản phải thu của DBM lên đến 12.88 vòng và kỳ thu tiền bình quân của nó chỉ là 28 ngày. Nếu so sánh với BBT thì hoạt động của DBM tốt hơn rất nhiều và qua nó ta cũng thấy rằng BBT đang hoạt động với khoản phải thu có nhiều điều đáng phải bận tâm. Từ những phân tích trên chúng ta có thể kết luận rằng: 105  BBT có chính sách bán hàng không hợp lý khi mà các khoản phải thu của nó cao so với doanh thu mà nó đạt được (quý 4-2007 và quý 1-2008).  Các khoản phải thu thường lớn hơn qua mỗi quý nhưng lại không được bù đắp bởi việc gia tăng doanh thu nên có thể thấy rằng BBT đang có những sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.  Việc các khoản phải thu tăng lên cao làm cho dòng vốn luân chuyển trong công ty không được đảm bảo cho sản xuất vì thế BBT đã lâm vào tình trạng thiếu vốn sản xuất trầm trọng. Tuy rằng sang quý 2-2008 tình hình có cải thiện nhưng vẫn không kịp vì lúc đó gánh nặng nợ vay quá lớn ( vay nhiều do thiếu tiền sản xuất kinh doanh ) khiến cho BBT phải dừng hoạt động sản xuất và nằm chờ đợi cho đến bây giờ. Vì vậy chúng ta phải cải cách chính sách bán chịu cho BBT với việc siết chặt các chính sách bán chịu thông qua giảm thời gian chiết khấu thanh toán xuống nhằm thúc đẩy hơn nữa các kỳ thu tiền bình quân và thông qua đó cũng làm gia tăng dòng vốn luân chuyển cho công ty. Tuy rằng điều này có thể làm một số khách hàng không vừa ý nhưng chúng ta cần phải làm để đảm bảo dòng vốn được quay vòng hợp lý hơn nữa chúng ta sẽ bù đắp cho họ bằng chất lượng sản phẩm và các chính sách khuyến mãi hợp lý khác ví dụ như tăng thêm lượng tiền chiết khấu cho những khách hàng trả sớm hay có thể là tổ chức những cuộc gặp mặt để vinh danh những khách hàng chiến lược của công ty ... Đây sẽ là một thay đổi cần thiết cho sự sống còn của BBT mà chúng ta tuy khó khăn nhưng nhất định phải làm. 2.3.2.Hàng tồn kho Chính sách hàng tồn kho có vai trò rất quan trọng trong chiến lược sản xuất của doanh nghiệp. Việc tích trữ nhiều hay ít, tích trữ những hàng hóa gì, bán ra hay 106 mua vào lúc nào đều là những câu hỏi cần phải trả lời một cách xác đáng nếu không thì sẽ để lại những hậu quả khó lường như sự gia tăng chi phí bảo quản, giảm giá hàng tồn kho ... Bên cạnh đó hàng tồn kho cũng là một loại chi phí kết chuyển vào trong giá vốn hàng bán khi chúng ta xuất ra để sản xuất và việc lựa chọn cách xuất như thế nào trong từng thời kỳ cũng là một lãnh vực mà chúng ta phải xem xét để có những quyết định đúng đắn. Chúng ta xem xét những số liệu về hàng tồn kho của BBT qua các quý như sau: Năm 2007 Quý 1 2 3 4 Doanh thu 15,001,526,333 17,718,270,609 17,192,211,337 20,670,676,608 Hàng tồn kho 15,230,977,708 15,230,977,708 8,894,499,701 9,311,271,744 Lợi nhuận sau thuế 626,805,797 259,233,388 392,302,692 1,712,582,392 Vòng quay hàng tồn kho 0.984935217 1.163304874 1.932903695 2.219962769 Số ngày / 1 vòng quay 91.37656818 77.36578947 46.56207147 40.54122044 Năm 2008 Quý 1 2 3 4 Doanh thu 10,233,773,349 14,555,472,005 1,142,600,153 4,002,479,221 Hàng tồn kho 11,491,475,704 11,872,360,497 13,131,957,596 14,812,468,277 Lợi nhuận sau thuế -4,225,356,179 -3,760,693,142 -4,817,481,289 -1,285,819,772 Vòng quay hàng tồn kho 0.890553451 1.225996465 0.087009126 0.270210146 107 Số ngày / 1 vòng quay 101.0607503 73.40967331 1034.374256 333.0740952 Như chúng ta để ý thấy rằng trong quý 4-2007 vòng quay hàng tồn kho rất cao ứng với nó là số ngày / 1 vòng quay của nó rất thấp ( khoảng 41 ngày so với 91 ngày trong quý 1 -2007 ) nhưng nó không giữ được điều đó lâu khi mà sang quý 1 – 2008 vòng quay hàng tồn kho là 0.89 (vòng) ứng với 101 ngày / vòng quay. Điều này chứng tỏ rằng đã có một điều gì đó xẩy ra với BBT trong quý 1-2008 này khiến cho nó không thể phát huy hiệu quả như vốn có của nó.  Trong quý 1-2008, dưới các biện pháp kiềm chế lạm phát đặc biệt là việc thắt chặt tiền tệ của chính phủ nên việc giải ngân của ngân hàng là rất khó khăn cho nên tình trạng sản xuất của BBT bị ngưng trệ ( do không có tiền mua nguyên vật liệu cho sản xuất ) thêm vào đó hàng bán cũng không bán được do đó hàng tồn kho trong quý này gia tăng với việc doanh thu sụt giảm làm cho vòng quay hàng tồn kho của BBT sụt giảm nhiều. Qua sự việc này chúng ta cần phải nhìn nhận lại cách thức lưu trữ hàng tồn kho của BBT, tuy vẫn biết rằng không ai lường trước được tất cả mọi chuyện nhưng nếu như chúng ta cẩn thận với việc lưu trữ thêm các nguyên liệu dành cho sản xuất thì việc BBT khốn đốn do thiếu tiền mua nguyên liệu sản xuất để từ đó đứng trước bờ vực phá sản đã không xẩy ra. Thực chất mà nói rằng chính sự kiện bất thường của năm 2008 đã làm lộ tất cả những yếu kém trong cách quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của BBT khi mà nó quá trú trọng vào việc vay mượn ngân hàng để sản xuất kinh doanh từ đó dẫn đến thua lỗ và sụp đổ khi không thể vay vốn từ ngân hàng. Do đó để có thể sống sót trước những bất thường của thị trường trong tương lai BBT nên có những chính sách hàng tồn kho hợp lý hơn và BBT cũng phải hiểu 108 rằng chính sách hàng tồn kho không những là cứu cánh cho nó khi khó khăn mà còn là vũ khí để tối đa hóa lợi nhuận khi biết cách lưu trữ và bán hàng ra đúng lúc. Thêm vào đó chính sách hàng tồn kho là một nghệ thuật của việc dự báo thị trường: khi giá cả giảm thì mua vào nhiều hơn để tích trữ nhằm khi giá lên cao thì bán ra hay chỉ là tích trữ nhiều hơn để giảm chi phí khi giá thị trường leo thang. 2.3.3.Cấu trúc các loại chi phí Chúng ta xem xét bảng chi phí và tỷ trọng của nó so với doanh thu trong bảng sau: Năm 2007 Quý 1 2 3 4 Các khoản giảm trừ doanh thu 472,288,565 587,046,032 460,508,252 211,454,073 Giá vốn hàng bán 10,201,751,969 12,463,372,151 11,793,692,076 14,958,623,162 Chi phí tài chính 748,024,989 556,822,817 714,590,798 727,432,986 Chi phí bán hàng 2,145,051,723 2,722,724,648 3,461,074,911 4,185,965,098 Chi phí quản lý doanh nghiệp 1,119,454,391 992,408,241 900,041,772 2,113,432,084 Chi phí khác 107,564,492 103,041,318 0 307,123,690 Lợi nhuận sau thuế 626,805,797 259,233,388 392,302,692 1,712,582,392 Tổng chi phí 14,794,136,129 17,425,415,207 17,329,907,809 22,504,031,093 Doanh thu 15,001,526,333 17,718,270,609 17,192,211,337 20,670,676,608 Các khoản giảm trừ doanh thu 3.15% 3.31% 2.68% 1.02% Giá vốn hàng bán 68.00% 70.34% 68.60% 72.37% 109 Chi phí tài chính 4.99% 3.14% 4.16% 3.52% Chi phí bán hàng 14.30% 15.37% 20.13% 20.25% Chi phí quản lý doanh nghiệp 7.46% 5.60% 5.24% 10.22% Chi phí khác 0.72% 0.58% 0.00% 1.49% Tổng 98.62% 98.35% 100.80% 108.87% Năm 2008 Quý 1 2 Các khoản giảm trừ doanh thu 168,400,519 1,860,834,048 Giá vốn hàng bán 9,049,287,645 9,197,985,894 Chi phí tài chính 787,271,161 3,345,735,910 Chi phí bán hàng 3,023,630,525 2,549,592,533 Chi phí quản lý doanh nghiệp 1,484,488,625 1,423,337,569 Chi phí khác 11,697,640 16,942 Lợi nhuận sau thuế -4,225,356,179 -3,760,693,142 Tổng chi phí 14,524,776,115 18,377,502,896 Doanh thu 10,233,773,349 14,555,472,005 Các khoản giảm trừ doanh thu 1.65% 12.78% Giá vốn hàng bán 88.43% 63.19% Chi phí tài chính 7.69% 22.99% Chi phí bán hàng 29.55% 17.52% Chi phí quản lý doanh nghiệp 14.51% 9.78% Chi phí khác 0.11% 0.00% Tổng 141.93% 126.26% 110 Chúng ta nhận thấy rằng trong quý 3-2007 đã có những dấu hiệu không ổn khi mà tổng phần trăm các khoản chi phí so với doanh thu đã lên đến hơn 100% và điều này vẫn được duy trì sang các quý sau, điển hình là quý 1-2008 khi mà tổng chi phí đã chiếm đến 141.93% doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Bây giờ chúng ta lại so sánh cấu trúc chi phí của BBT với DBM để biết được chính xác xem cấu trúc chi phí của BBT có điều gì đó không ổn không. Năm 2009 Các khoản giảm trừ doanh thu 1,112,690,846 Giá vốn hàng bán 236,284,953,497 Chi phí tài chính 837,440,980 Chi phí bán hàng 19,693,636,792 Chi phí quản lý doanh nghiệp 8,123,433,085 Chi phí khác 78,190,134 Lợi nhuận sau thuế 6,956,347,174 Tổng chi phí 273,086,692,508 Doanh thu 274,288,822,401 Các khoản giảm trừ doanh thu 0.41% Giá vốn hàng bán 86.14% Chi phí tài chính 0.31% Chi phí bán hàng 7.18% Chi phí quản lý doanh nghiệp 2.96% Chi phí khác 0.03% Tổng 97.03% 111 Chúng ta có những nhận xét sau:  Đầu tiên chúng ta xem xét đến các khoản giảm trừ doanh thu, chúng ta thấy rằng các khoản giảm trừ doanh thu của DBM rất thấp ( khoảng 0.41% doanh thu ) trong khi đó của BBT lại rất cao ( khoảng 2% trở lên – đặc biệt trong quý 2-2008 lên đến 12.78% ).  Chi phí tài chính của DBM cũng chỉ chiếm khoảng 0.31% trong khi đó BBT luôn chiếm một khoảng từ 4% trở lên.  Chi phí quản lý doanh nghiệp của DBM cũng thấp hơn (2.96% so với BBT từ 6% trở lên ). Từ những nhận xét chúng ta có thể kết luận rằng:  Cấu trúc chi phí của BBT so với công ty cùng ngành đã có những sai biệt rất lớn và những sai biệt ấy lại rất xấu.  Chúng ta phải cải tổ lại BBT từ những khoản chi phí xấu không tương xứng với doanh thu như thế này. Chúng ta có thể có những cách thức cải tổ chi phí của BBT như sau: [dựa theo bài viết của Rita McGrath trên Harvard Business Publishing]  Phân tích những yếu tố chi phí nào phụ thuộc lẫn nhau. Ví dụ như nếu chúng ta cắt giảm nhân công có kinh nghiệm thì sẽ gây ra nhiều chi phí hơn cho việc đào tạo lại nhân viên mới tuy nhiên nếu như đội ngũ nhân viên cũ đã “xơ cứng” trước khoa học kỹ thuật mới thì nên thay thế họ bởi lớp trẻ ham học hỏi và thích ứng nhanh hơn. Trong phần này chúng ta phải xác định được chi phí nào nên cắt, chi phí nào không nên cắt để từ đó không lãng phí nguồn tài nguyên tốt cho doanh nghiệp.  Khi nhìn thấy các chi phí cần cắt giảm, chúng ta phải cắt giảm càng nhanh càng tốt. Ví dụ như khi các sản phẩm của chúng ta đã bão hòa nhưng chúng ta vẫn dành một lượng tiền không nhỏ cho việc quảng cáo nó thì thật là lãng 112 phí, chúng ta phải dừng ngay và tập trung tiền vào việc nghiên cứu sản phẩm mới.  Loại bỏ sự phức tạp. Ví dụ như sự chồng chéo trong công tác sắp xếp các chi nhánh phân phối hàng hóa như một địa bàn dân cư nhỏ hẹp nhưng lại có đến hai chi nhánh cùng nhận nhiệm vụ phân phối hàng hóa trong khi đó những nơi đông dân cư lại thiếu. Điều này gây lãng phí rất lớn do đó cần phải xem xét, rà soát lại tất cả những khâu – mắc xích nào chồng chéo lên nhau để khắc phục từ đó loại trừ những chi phí không cần thiết.  Đầu tiên phải xác định được mục đích sau đó mới tính đến chuyện cắt giảm chi phí. Điều này hoàn toàn hợp lý vì khi đã đặt ra mục tiêu thì chúng ta sẽ xác định những chi phí nào cần cắt giảm hay tăng thêm để đạt được mục tiêu đó. Ví dụ như khi công ty cần tiền để nghiên cứu sản phẩm mới thì những chi phí như quảng cáo, mở rộng khuyến mãi cần được thanh giảm để tập trung tiền cho việc nghiên cứu.  Phải luôn nhớ rằng không phải tất cả khách hàng đều tốt. Có những khách hàng luôn gây “phiền hà” như họ luôn thanh toán chậm nhưng vẫn đòi hỏi rất nhiều từ phía doanh nghiệp như chiết khấu thêm và đòi gia tăng thời gian thanh toán tuy nhiên khả năng sinh lợi trên một đơn vị hàng hóa bán cho khách hàng đó lại thấp hơn so với các khách hàng khác. Khi nhận ra điều này chúng ta cần có cách xử lý khôn khéo để họ hiểu được chính sách của doanh nghiệp cũng như cần khép họ dần “khuôn khổ” để mối quan hệ được tốt đẹp hơn. Trên đây là những cách thức tổng quát cho việc tái cấu trúc hoạt một cách hiệu quả tuy nhiên chúng ta cũng cần phải nói thêm rằng chính ban quản trị điều hành BBT là nguyên nhân chủ chốt nhất cho những thất bại này. Khả năng quản lý kém và không nhạy bén với tình hình đã vô tình đẩy BBT vào tình trạng khó khăn. Nếu như BBT muốn thực sự sống sót chứ không phải tồn tại thì việc cần làm đầu tiên chính là thay đổi ban lãnh đạo bằng những người nhiệt huyết và có chuyên môn 113 hơn, chứ nếu như vẫn để ban lãnh đạo cũ thì trước sau gì cũng thất bại lần nữa mà thôi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNghiên cứu mô hình rủi ro tín dụng của takashi shibata và tetsuya yamada, lượng hóa và gia tăng vùng đệm tránh phá sản cho doanh nghiệp.pdf