Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, bên cạnh những cố gắng hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ được giao để có đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của nền kinh tế, Các tổ chức tín dụng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong quá trình xây dựng, trưởng thành. Cụ thể: Đóng vai trò quan trong trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỷ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh, hoạt động xuất nhập khẩu .Để được thành quả đó không thể không kể đến sự đóng góp của “hành lang pháp lý” của luật TCTD.
Luật các TCTD 1997 được quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997, có hiệu lực thi hành từ 01/07/1998 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004.Có thể nói các quy định của Luật các TCTD 1997 đã có những đóng góp quan trọng trong việc tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật các TCTD và luật sửa đổi cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập cản trở sự phát triển của hệ thống tổ chức tín dụng cần được sửa đổi. Cụ thể:
Theo thời gian cùng với công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước theo xu hướng “công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước”. Cùng với sự phát triển không ngừng về số lượng: các ngân hàng, dịch vụ ngân hàng, mạng lưới giao dịch, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm không những về số lượng mà cả chất lượng. Những bất cập trong Luật TCTD 1997 làm cản trở sự phát triển và hoạt động kinh doanh của cac TCTD, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, thanh tra, giám sát an toàn của NHNN đối với hệ thống TCTD .Hơn cả trong điều kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)-một môi trường cạnh tranh khốc liệt khi mà “vòng” bảo hộ cho ngân hàng thương mại trong nước không còn. Vì vậy, để các hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trong giai đoạn hội nhập thì cần phải phát triển dịch vụ cả về số lượng lẫn chất lượng Và phát triển như thế nào để vừa hiệu quả lại vừa bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân trong nước. Đó là câu hỏi lớn mà nhà nước cùng hệ thống ngân hàng Việt Nam luôn đặt lên hàng đầu.
Do đó, cùng với các tồn tại và bất cập kể trên và một số lý do khác. Ngày 16/06/2010 luật TCTD 2010 đã được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2011.
Để tìm hiểu và thấy được một cách cụ thể nhất những sửa đổi của luật TCTD 2010 so với luật TCTD 1997 (có sửa đổi bổ sung vào năm 2004) phù hợp và cải tiến ở những điểm nảo thuận lợi cho hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay .Chúng ta sẽ cùng nhau giải thích và phân tích, bình luận những điểm sau:
1. Phạm vị điều chỉnh
2. Về nguyên tắc áp dụng Luật
3. Về hình thức tổ chức của TCTD
4. Cấp giấy phép thành lập và hoạt động TCTD
5. Về các thay đổi cần chấp thuận của NHNN
87 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3621 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu và phân tích những điều chỉnh của luật Tổ chức tín dụng 2010 so với luật tổ chức tín dụng 1997, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh khác của pháp luật có liên quan;
Có đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hướng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống TCTD; không tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống TCTD.
è So với quy định của Luật các TCTD 1997 thì trong luật mới quy định cụ thể, rõ ràng hơn về điều kiện chủ sở hữu và người quản lý điều hành của TCTD. Cụ thể:
Điểm c, Khoản 1, Điều 22, Luật các TCTD 1997 quy định: “Thành viên sáng lập là tổ chức, cá nhân có uy tín và năng lực tài chính” chưa cụ thể và rõ ràng. Còn trong Luật các TCTD 2010 quy định rõ ràng, cụ thể: “pháp nhân”, “cá nhân có năng lực hành vi dân sự” điều này được quy định trong Bộ Luật dân sự 2005; khả năng tài chính được xác định bằng Bảng xác định khả năng tài chính.
Quy định về người quản lý, điều hành, thành viên Ban kiểm soát được giành riêng 1 điều trong Luật các TCTD 2010: quy định rõ ràng, cụ thể đối với từng chức danh. Bởi vì hoạt động của TCTD là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Rủi ro của một TCTD có thể gây ảnh hưởng tới toàn bộ các TCTD khác, do vậy để bảo đảm an toàn cho toàn bộ hệ thống, việc quy định đối với người quản lý, điều hành của TCTD phải rất chặt chẽ.
5.1.2.4 Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy phép: Điều 21, Luật các TCTD 2010
è Đây vẫn còn là 1 hạn chế của Luật các TCTD 2010 làm: chưa có các quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục Đề nghị cấp Giấy phép đối với các TCTD nên dù khi Luật đã được ban hành nhưng vẫn chưa thể thi hành ngay được mà cần phải có những văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện.
Hiện tại vẫn chưa có văn bản chính thức quy định vấn đề này nhưng theo một số Dự thảo Dự thảo Thông tư Quy định về việc cấp Giấy phép, tổ chức, hoạt động của NHTM, chi nhánh NH nước ngoài, VP đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động NH tại Việt Nam; Dự thảo Thông tư Quy định về việc cấp Giấy phép, tổ chức, hoạt động của TCTD phi Ngân hàng
Thông tư quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy phép như sau:
Về hồ sơ cấp Giấy phép: gồm hồ sơ đề nghị chấp thuận nguyên tắc và hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép chính thức.
Trong Khoản 1, Điều 23 Luật các TCTD 1997 có quy định cụ thể về hồ sơ xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD, tuy nhiên các yêu cầu này chưa cao. Còn trong Luật các TCTD 2010 tuy không quy định rõ về điều này, nhưng các văn bản dự thảo hướng dẫn thực hiện vấn đề này lại quy định rất cụ thể, rõ ràng và theo hướng bổ sung, nâng cao các yêu cầu đối với việc tổ chức và hoạt động của TCTD. Mục đích đảm bảo an toàn cho cả hệ thống tín dụng. Cụ thể như:
Sơ đồ tổ chức, danh sách dân sự dự kiến bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; các chức danh chủ chố như Tổng giám đốc, Phó Tổng Giám đốc… và phải mô tả rõ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, năng lực quản lý rủi ro đáp ứng các yêu cầu của từng vị trí, kèm theo Lý lịch cá nhân, sao y các văn bằng... nhằm nâng cao khả năng điều hành và hiệu quả hoạt động của TCTD.
Công nghệ thông tin: yêu cầu về khả năng áp dụng công nghệ thông tin và trình độ của cán bộ nhân viên. Việc yêu cầu này là phù hợp với trình độ phát triển công nghệ trên thế giới ngày nay, nắm bắt kịp thời những cơ hội đầu tư.
Đánh giá khả năng hoạt động, các chiến lược phát triển, phương án kinh doanh dự kiến trong 03 năm đầu của TCTD phi ngân hàng, phân tích đánh giá mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành, từ đó NHNN xem xét có đủ điều kiện cấp Giấy phép hay không, tránh trường hợp tổ chức có nhu cầu muốn thành lập nhưng điều kiện không đủ, chiến lược kinh doanh không khả thi thì sau khi thành lập không có khả năng cạnh tranh cũng sẽ sớm bị loại khỏi ngành.
Về trình tự, thủ tục cấp Giấy phép:
Thực hiện theo 02 bước: chấp thuận nguyên tắc và cấp Giấy phép chính thức.
Quy trình:
Ban trù bị gửi hồ sơ chấp thuận nguyên tắc đến NHNN (Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng);
Trong thời hạn tối đa 60 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ chấp thuận nguyên tắc NHNN gửi Ban trù bị văn bản xác nhận đầy đủ hồ sơ hợp lệ, hoặc yêu cầu bổ sung, hoàn thiện hồ sơ (nếu chưa đầy đủ);
Trong thời hạn tối đa 90 ngày gửi văn bản xác nhận đầy đủ hồ sơ hợp lệ, NHNN gửi văn bản chấp thuận nguyên tắc. Trường hợp không chấp thuận thì phải có văn bản nêu rõ lý do;
Trong thời gian 60 ngày kể từ ngày nhận được văn bản chấp thuận nguyên tắc, Ban trù bị gửi đầy đủ hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép chính thức đến NHNN;
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ cấp Giấy phép chính thức theo quy định, NHNN cấp Giấy phép thành lập. Trường hợp không cấp Giấy phép thì phải có văn bản nêu rõ lý do.
Việc quy định trình tự, thủ tục cấp phép gồm 02 bước như trên vừa có ưu điểm, vừa có nhược điểm:
Ưu điểm: giảm thiểu chi phí cho các cá nhân, tổ chức khi đăng kí cấp Giấy phép vì cá nhân, tổ chức chỉ phải nộp tiền đầy đủ và chỉ phải thực hiện thuê, mua địa điểm đặt trụ sở chính sau khi được chấp thuận nguyên tắc;
Nhược điểm: gây khó khăn trong việc xem xét hồ sơ của NHNN và khó khăn trong việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp phép của các tổ chức, cá nhân có liên quan theo đúng thời gian quy định như trên. Mặt khác, theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Luật các TCTD 2010, thời hạn cấp Giấy phép cho các TCTD là 180 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và bước chấp thuận nguyên tắc hồ sơ cấp Giấy phép không được quy định trong Luật các TCTD.
Về yêu cầu đối với hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép: các bản sao giấy tờ, văn bằng phải được chứng thực bởi cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Hồ sơ được lập một (01) bộ gốc bằng tiếng Việt (trước đây là 02 bộ) và gửi trực tiếp cho Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng à Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng làm đầu mối thụ lý hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép của TCTD, tổng hợp ý kiến của NHNN chi nhánh và các Vụ, Cục khác có liên quan để tham mưu cho Thống đốc xử lý đề nghị cấp Giấy phép đối với TCTD tạo điều kiện cho thuận lợi cho các TCTD không mất quá nhiều thời gian sao gửi cho nhiều cơ quan chức năng, giảm chi phí cho doanh nghiệp và góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 17/12/2010 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính.
5.1.2.5 Thời hạn cấp giấy phép:
Theo Điều 24 Luật TCTD 1997 Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với tổ chức tín dụng, giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng, NHNN cấp hoặc từ chối cấp giấy phép. Trong trường hợp từ chối cấp giấy phép, NHNN phải có văn bản giải thích lý do. Theo Điều 24 Luật TCTD 1997
Theo Điều 22 Luật TCTD 2010 Thời hạn cấp giấy phép: trong thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, NHNN cấp Giấy phép hoặc từ chối cấp Giấy phép cho tổ chức đề nghị cấp phép. Trong trường hợp NHNN từ chối phải được trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do Theo Điều 22 Luật TCTD 2010
è So với Luật các TCTD 1997, Luật tổ chức tín dụng 2010 quy định thời hạn này kéo dài thêm 90 ngày. Sự kéo dài thời gian cấp phép nhằm mục đích để NHNN có thời gian để xem xét hồ sơ đề nghị cấp phép 1 cách cẩn trọng, các tổ chức có thời gian để hòan thiện hồ sơ hợp lệ theo quy định của Luật. Bên cạnh đó, việc kéo dài thời gian cấp phép có thể làm mất nhiều cơ hội kinh doanh của các Ngân hàng tương lai.
5.1.2.6 Nộp lệ phí cấp Giấy phép: Điều 23 Luật TCTD 2010
Theo Điều 25 Luật TCTD 1997 và Điều 23 Luật TCTD 2010, TCTD được cấp Giấy phép phải nộp lệ phí cấp Giấy phép theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.
Mức lệ phí nộp theo quy định của Bộ Tài chính về phí và lệ phí cấp phép.
NHTM được cấp Giấy phép phải nộp lệ phí cấp Giấy phép tại NHNN (Sở Giao dịch) chậm nhất sau 15 ngày kể từ ngày được cấp Giấy phép.
èLệ phí cấp giấy phép thành lập và hoạt động các TCTD hiện nay là 1% trên vốn điều lệ hoặc vốn được cấp. Có một số ý kiến cho rằng: vốn điều lệ của một TCTD rất lớn lên tới vài ngàn tỷ đồng và tỉ lệ 1% trên số vốn này là rất lớn. Kiến nghị yêu cầu nhà nước đưa một mức trần đối với lệ phí cấp phép. Mức lệ phí cấp phép là 1% trên vốn điều lệ hoặc vốn được cấp nhưng không vượt quá 500 triệu đồng.
5.1.2.7 Hồ sơ xin cấp giấy phép: Điều 21 Luật TCTD 2010
Theo Điều 23 Luật TCTD 1997 và Điều 21 Luật TCTD 2010 hồ sơ xin cấp giấy phép bao gồm:
Đơn xin phép thành lập và hoạt động.
Dự thảo điều lệ.
Phương án hoạt động trong 3 năm đầu, trong đó nêu rõ lợi ích kinh tế và hiệu quả của hoạt động ngân hàng.
Danh sách lý lịch, các văn bằng chứng minh năng lực và trình độ chuyên môn của thành viên sáng lập, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát và Tổng giám đốc.
Mức vốn góp, phương án góp vốn và danh sách các cá nhân góp vốn.
Tình hình tài chính, các thông tin liên quan đến các cổ đông lớn
Chấp thuận của UBND cấp có thẩm quyền về nơi đặt trụ sở chính của TCTD
5.1.2.8 Đăng ký kinh doanh, đăng ký hoạt động: Điều 24 Luật TCTD 2010
Theo Điều 27 Luật TCTD 1997 và Điều 24 Luật TCTD 2010 quy định sau khi được cấp Giấy phép, NHTM phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật; văn phòng đại diện phải đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật.
5.1.2.9 Công bố thông tin:
Trên phương tiện thông tin của NHNN và trên một tờ báo viết hằng ngày trong 03 số liên tiếp hoặc báo điện tử của Việt Nam ít nhất 30 ngày trước ngày dự kiến khai trương hoạt động với các thông tin sau: Điều 25, Luật các TCTD 2010
Tên, địa chỉ trụ sở chính;
Số, ngày cấp Giấp phép, Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng kí hoạt động và các hoạt động kinh doanh được phép thực hiện;
Vốn điều lệ;
Người đại diện theo pháp luật
Danh sách, tỷ lệ góp vốn tương ứng của cổ đông sáng lập hoặc thành viên góp vốn hoặc chủ sở hữu
Ngày dự kiến khai trương hoạt động
5.1.2.10 Khai trương hoạt động: Khoản 2 Điều 26 Luật TCTD 2010
NHTM được cấp Giấy phép chỉ được tiến hành hoạt động kể từ ngày khai trương hoạt động.
Để khai trương hoạt động NHTM được cấp Giấy phép phải có đủ các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 26 Luật TCTD 2010.
NHTM được cấp phép phải thông báo cho NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nơi NHTM đặt trụ sở chính về các điều kiến khai trương hoạt động quy định tại khoản 2 điều này ít nhất 15 ngày trước ngày dự kiến khai trương hoạt động.
NHTM phải tiến hành khai trương hoạt động trong vòng 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép, quá thời hạn này mà không khai trương hoạt động thì ngân hàng nhà nước thu hồi giấy phép.
è Khi đã được cấp Giấy phép thì phải tiến hành khai trương hoạt động. Nếu trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp Giấy phép mà không khai trương hoạt động thì NHNN thu hồi Giấy phép. Ngoài ra còn phải thông báo cho NHNN về các điều kiện khai trương hoạt động ít nhất 15 ngày trước ngày dự kiến khai trương hoạt động.
Dự thảo thông tư của Chính phủ về việc cấp Giấy phép của TCTD phi ngân hàng ngoài những quy định cũ về điều kiện khai trương hoạt động còn bổ sung thêm một số điều như: Yêu cầu về hệ thống thông tin, về cơ cấu tổ chức, về quy chế quản lý của doanh nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động của TCTD phi ngân hàng.
Thời gian hoạt động, gia hạn thời gian hoạt động đối với ngân hàng và phi ngân hàng là không quá 50 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động. Trường hợp gia hạn phải được chấp thuận của NHNN và mỗi lần gia hạn không quá 50 năm.
Sử dụng Giấy phép đối với ngân hàng và phi ngân hàng: theo đúng tên, hoạt động đúng nội dung quy định trong Giấy phép, không được tẩy xóa, mua, bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho mượn Giấy phép. Theo điều 27 Luật TCTD 2010
5.2. Cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với TCTD là Hợp Tác Xã:
5.2.1 Điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) xem xét, cấp Giấy phép đối với Tổ chức tín dụng là Hợp tác xã: Căn cứ Điều 21 Luật TCTD năm 2010
Thời hạn cấp giấy phép: trong thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoặc từ chối cấp Giấy phép cho tổ chức đề nghị cấp phép. Trong trường hợp NHNN từ chối phải được trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do
Theo quy định hiện hành, mức vốn góp xác lập tư cách thành viên đối với thành viên tham gia QTD cơ sở tối thiểu là 50.000 đồng, đối với thành viên tham gia QTD trung ương tối thiểu là 10.000.000 đồng.
Thời hạn hoạt động của Ngân hàng Hợp tác xã : không quá 99 năm.
è So với Luật các TCTD 1997, thời hạn này kéo dài thêm 90 ngày ( từ 90 ngày ( Luật TCTD năm 1997) lên 180 ngày ( luật TCTD năm 2010). Sự kéo dài thời gian cấp phép nhằm mục đích để NHNN có thời gian để xem xét hồ sơ đề nghị cấp phép 1 cách cẩn trọng, các tổ chức có thời gian để hòan thiện hồ sơ hợp lệ theo quy định của Luật.
5.2.2 Nội dung hoạt động:
Các hoạt động của HTX được thực hiện đã quy định tại Điều 117 Luật các tổ chức tín dụng 2010, hoạt động chủ yếu là điều hòa vốn và thực hiện các hoạt động ngân hàng đối với thành viên là các quỹ tín dụng nhân dân.
Đồng thời, được thực hiện một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác theo quy định.
Đối tượng cho vay: Khác với các TCTD khác thì đối tượng cho vay là các khách hàng bên ngoài, tuyệt đối không cho vay đối với những thành viên thành lập. TCTD là Hợp tác xã là có đối tượng cho vay chính là những người sáng lập ra tổ chức, không cho vay ra bên ngoài. Bên cạnh việc tuân thủ theo Luật TCTD năm 2010, hoạt động của TCTD là Hợp tác xã còn tuân theo luật Hợp tác xã.
à Thực trạng: Hiện nay, các TCTD là HTX hầu như không còn tồn tại mà được thay thế bằng quỹ tín dụng nhân dân. Do thực tế hiện nay, ở Việt Nam tồn tại rất nhiều Quỹ tín dụng nhân dân (hơn 1.000 QTDND) trải khắp các nơi của đất nước, việc thành lập QTDND cũng dễ, vì vậy, TCTD là Hợp tác xã thực tế cũng là TCTD là QTDND.
Ở Việt Nam hiện có rất nhiều các tổ chức tin dụng là Hợp tác xã như: Quỹ tín dụng nhân dân, quỹ tín dụng sinh viên, quỹ tín dung học tập….Các loại quỹ này ra đời đều nhằm mục đích giúp đỡ hỗ trợ người dân, học sinh sinh viên...
5.3 Cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với TCTD là Quỹ Tín Dụng Nhân Dân:
5.3.1 Điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động đối với TCTD là Quỹ tín dụng nhân dân:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước uỷ quyền cho Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh cấp tỉnh xem xét, cấp Giấy phép đối với Quỹ tín dụng nhân dân và phải có văn bản báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn xin hoạt động, được sự chấp thuận của chính quyền địa phương về việc thành lập Quỹ tín dụng nhân dân.
Mức vốn pháp định quy định Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng
Quyết định số 2020/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung Nghị định số 141/2006/NĐ-CP
:
QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN
1
Quỹ tín dụng nhân dân TW
1000tỷ đồng
3000tỷ đồng
2
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
0,1tỷ đồng
0,1tỷ đồng
Thành viên thành lập là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân và các đối tượng khác có uy tín và có khả năng góp vốn để thành lập Quỹ tín dụng nhân dân.
Người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và các tiêu chuẩn về đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Có phương án hoạt động khả thi.
Trình tự thủ tục.
Quỹ tín dụng Nhân dân nộp hồ sơ tới Ngân hàng Nhà nước.
Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy phép của Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, thẩm định đủ điều kiện theo quy định và ra quyết định kèm theo giấy phép cho Quỹ tín dụng nhân dân. Trường hợp từ chối cấp giấy phép, Ngân hàng Nhà nước phải có văn bản giải thích lý do. Điều 4; 5; 6 Quyết định số 24/2006 QĐ-NHNN ngày 06/6/2006 của NHNN.
Thời hạn trả lời hồ sơ : 90 ngày
Thời hạn hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân tại Việt Nam không quá 50 năm.
Đặc điểm:
Thành viên tham gia quỹ tín dụng có quyền sở hữu và quản lý mọi tài sản và họat động của quỹ theo tỷ lệ vốn góp.
Phạm vi hoạt động của quỹ tín dụng hẹp.
Thế mạnh của quỹ tín dụng là bám sát khách hàng: cung cấp các dịch vụ của quỹ một cách nhanh chóng và có hiệu quả
Mỗi quỹ tín dụng là một đơn vị kinh tế độc lập nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau thông qua hoạt động điều hòa vốn, thông tin, cơ chế phân tán rủi ro nhằm đảm bào cho hệ thống quỹ phát triển bền vững
5.3.2 Nội dung hoạt động:
Các hoạt động của QTD được thực hiện đã quy định tại Điều 118 Luật các tổ chức tín dụng, hoạt động chủ yếu là huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân và vay của các tổ chức tín dụng khác cho nông dân, những người sản xuất, buôn bán nhỏ vay lại để sản xuất, kinh doanh.
Đối tượng cho vay: Quỹ tín dụng nhân dân được thành lập dưới dạng Hợp tác xã, chỉ cho vay đối với những ai thành lập ra TCTD này, nếu cho vay bên ngoài phải được 2/3 sự đồng ý của những thành viên sáng lập ( Xã viên Hợp tác xã).
Bên cạnh luật, TCTD năm 2010, hoạt động của QTDND còn tuân theo luật HTX, với mục tiêu là tương trợ nhau phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống, không vì mục tiêu lợi nhuận.
è So với Luật các TCTD 1997 (có sửa đổi năm 2003), nếu như luật TCTD 1997 không có bất kỳ quy định nào về nội dung hoạt động của TCTD là QTDND hoặc TCTD là Hợp tác xã, vì vậy khi Luật TCTD 1997 còn hiệu lực, các TCTD này đã gặp rất nhiều khó khăn, đặt biệt là trong việc xác định loại nghiệp vụ, nội dung hoạt động mà tổ chức được phép thực hiện. Khi luật TCTD năm 2010 ra đời, ranh giới phân biệt hoạt động của các tổ chức được cụ thể hóa hơn.
è Được thành lập đầu tiên vào năm 1993 theo tinh thần Quyết định số 390/QĐ-TTG ngày 27/7/1993
của Thủ tướng Chính phủ, đến nay sau 18 năm đi vào hoạt động, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở (QTDNDCS) đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tính đến tháng 6/2010, cả nước có 1.046 QTDNDCS hoạt động trên 56 tỉnh, thành phố. Tổng nguồn vốn hoạt động là 25.308 tỷ đồng (bình quân 24,194 tỷ đồng/quỹ), trong đó vốn điều lệ 1.150 tỷ đồng (bình quân 1,1 tỷ đồng/quỹ), thu hút gần một triệu thành viên tham gia là các hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ và buôn bán nhỏ. Tổng nguồn vốn huy động hệ thống cho năm 2010 đạt gần 6.5 nghìn tỷ đồng. Centralbank.vn/wps/portal/
è Tuy nhiên, bên cạnh đó Quỹ tín dụng nhân dân cũng thường xuyên đối mặt với rủi ro do Quỹ này hoạt động chủ yếu là cho vay đối với các vùng nông nghiệp, nông thôn là nơi mặt bằng kinh tế, trình độ còn thấp, sản xuất kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro như thiên tai, giá cả, mùa vụ…Trong khi đó, năng lực tài chính của các Quỹ tín dụng nhân thường nhỏ bé, trình độ quản lý nhận thức của đội ngũ cán bộ nhân viên còn hạn chế và có nhiều bất cập.
è Thực trạng: Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều các Quỹ tín dụng nhân dân, hoạt động khắp cả nước, tuy nhiên nguồn vốn của các QTDND lại không đồng điều, có TCTD có vốn rất ít (khoảng 100 tỉ đồng), bên cạnh đó lại có QTDND có nguồn vốn lên đến vài trăm tỉ, thậm chí hàng ngàn tỉ đồng, chính việc phân phối nguồn vốn không đều như thế, nếu một số các QTDND hoạt động không hiệu quả sẽ ảnh hưởng không tốt đến cả hệ thống QTDND nói chung.
Vì vậy, hiện nay kế hoạch sẽ thực hiện liên kết các QTDND để thành lập các ngân hàng HTX (trong cả nước hoặc trên địa bàn), nhằm mục tiêu liên kết, hổ trợ và điều hòa nguồn vốn giữa các Quỹ tín dụng, nhằm hạn chế sự mất thanh khoản giữa các Quỹ tín dụng nhân dân.
5.4 Cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với TCTD là Tài Chính Vi Mô:
5.4.1 Điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động:
Tổ chức tài chính vi mô là một tổ chức chuyên cung cấp những dịch vụ tài chính vi mô- bao gồm có các khoản vay, tiết kiệm, và có thể là cả bảo hiểm vi mô- tới những người nghèo
Đối với loại hình tổ chức tài chính vi mô thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải là một tổ chức chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam;
Đối với loại hình tổ chức tài chính vi mô thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên phải có một tổ chức chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam tham gia góp vốn với một hoặc nhiều tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài.
Tổ chức tài chính vi mô phải duy trì tổng dư nợ các khoản cấp tín dụng vi mô cho cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tối thiểu 65% tổng dư nợ cấp tín dụng của Tổ chức tài chính vi mô.
5.4.2 Nội dung hoạt động:
Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô được thực hiện theo Điều 119, 120, 121 và 122 Luật các tổ chức tín dụng.
Một tổ chức tài chính vi mô có thể hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, ví dụ như các tổ chức phi chính phủ, hợp tác tín dụng; hoặc cũng có thể được đầu tư bởi các ngân hàng hoạt động vì lợi nhuận như các ngân hàng thương mại.
TCTCVM thực hiện 2 chức năng: chức năng xã hội là giúp đỡ những người nghèo; chức năng kinh tế là phải thu đủ bù chi, tự nuôi sống mình để tồn tại và phát triển.Vì họ thu lãi suất thấp nên phải mất rất nhiều thời gian để có thể mở rộng quy mô. Chính vì vậy, tổ chức TCVM hoàn toàn khác xa so với các DN tư nhân khác trong việc tự mở rộng quy mô bởi họ vẫn phải đảm bảo chức năng xã hội.
è Thực trạng: Ngoài chức năng kinh tế là đem lại nguồn lợi để từ nuôi sống mình, các tổ chức Tài chính vi mô (TCVM) còn được biết đến với một chức năng xã hội khác là giúp đỡ những hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.
Tuy nhiên, hiện nay mô hình TCVM vẫn chưa phát triển mạnh ở Việt Nam, Ngày 25/8, tại Hà Nội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Văn Giàu đã trao Giấy phép thành lập và hoạt động cho tổ chức tài chính quy mô nhỏ trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên Tình Thương (TYM) trực thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam,đây được xem là tổ chức tài chính vi mô đầu tiên được chính thức thành lập ở Việt Nam.
à Nhận định : So với luật TCTD năm 1997, thì tiêu chí phân biệt giữa ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng đã được quy định rõ hơn trên cơ sở phạm vi hoạt động của hai loại hình này, nếu luật TCTD năm 1997 chỉ nêu chung chung, thiếu các quy định cụ thể, đặc thù về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động của các TCTD nên khi triển khai thực hiện đã gặp nhiều vướng mắc, phát sinh xung đột luật giữa các quy định hướng dẫn của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước với các quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật chứng khoán, Luật cạnh tranh, Luật hợp tác xã, Luật phá sản..., do vậy đã ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình tổ chức tín dụng, cũng như hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với các TCTD.
5.5 Cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với TCTC Nước Ngoài:
5.5.1 Thẩm quyền cấp, thu hồi Giấy phép:
Ngân hàng Nhà nước có thẩm quyền cấp, sửa đổi, bổ sung và thu hồi Giấy phép theo quy định của Luật này.
5.5.2 Vốn pháp định:
Chính phủ quy định mức vốn pháp định đối với từng loại hình tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì giá trị thực của vốn điều lệ hoặc vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định.
Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể việc xử lý trường hợp khi giá trị thực của vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài giảm thấp hơn mức vốn pháp định.
Điều kiện
Theo luật các TCTD 2010: Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài được cấp Giấy phép khi có đủ các điều kiện sau đây:
Ngoài những điều kiện cần cho TCTD trong nước mà chúng ta đã biết ở trên, TCTD nước ngoài có thêm một số điều sau đây.
Tổ chức tín dụng nước ngoài được phép thực hiện hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật của nước nơi tổ chức tín dụng nước ngoài đặt trụ sở chính;
Tổ chức tín dụng nước ngoài phải có hoạt động lành mạnh, đáp ứng các điều kiện về tổng tài sản có, tình hình tài chính, các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
Tổ chức tín dụng nước ngoài phải có văn bản cam kết hỗ trợ về tài chính, công nghệ, quản trị, điều hành, hoạt động cho tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài; bảo đảm các tổ chức này duy trì giá trị thực của vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định và thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn của Luật này;
Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã ký kết thỏa thuận với Ngân hàng Nhà nước về thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng, trao đổi thông tin giám sát an toàn ngân hàng và có văn bản cam kết giám sát hợp nhất theo thông lệ quốc tế đối với hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cấp Giấy phép khi có đủ các điều kiện sau đây: ) Ngân hàng nước ngoài phải có văn bản bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam; bảo đảm duy trì giá trị thực của vốn được cấp không thấp hơn mức vốn pháp định và thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn của Luật này.
Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng được cấp Giấy phép khi có đủ các điều kiện sau đây:
Tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng là pháp nhân được phép hoạt động ngân hàng ở nước ngoài;
Quy định của pháp luật của nước nơi tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng đặt trụ sở chính cho phép tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng được phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam.
è So với luật năm 1997 thì luật 2010 này đưa ra những quy định mới, rõ ràng, chặt chẽ hơn trong việc thành lập các TCTD của nước ngoài, đáp ứng yêu cầu hội nhập của Luật mới, tạo điều kiện để các TCTD nước ngoài có cơ hội thâm nhập và cạnh tranh với các TCTD trong nước nhằm thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Ví dụ: Thị trường tài chính tiền tệ có sức ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế đất nước, việc ban hành luật các TCTD 2010 đã làm cho các ngân hàng nước ngoài thi nhau mọc lên tại Việt Nam giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển đáng kể. Cụ thể, tăng trưởng GDP quý 1/2010 đạt 5,84%, nhưng đến quý 2 đã tăng 6,44%, quý 3 tăng 7,18% và quý 4 ước tăng 7,34%. Như vậy, mức tăng GDP quý 4 năm nay đạt cao nhất kể từ quý 2/2008. Kinh tế đất nước phát triển giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động nước ta, tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 là 2,88%, giảm so với 2009 là 1,78%.
è Tính đến hết tháng 4/2011, dư nợ cho vay của khối ngân hàng nước ngoài đạt xấp xỉ 190 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 8,2% tổng dư nợ toàn hệ thống. So với tháng 3/2011, mức tăng trưởng trên của khối này trên gần 2% và tăng 14,7% so với 31/12/2010.
è Nếu so với mức tăng chung của toàn hệ thống ngân hàng có cùng thời điểm là 6,42% thì mức tăng tín dụng của khối ngân hàng nước ngoài đã vượt trên 2,2 lần. Nếu chia bình quân cho 4 tháng thì mỗi tháng, dư nợ tín dụng của khối này đã tăng 3,67%/tháng, rất cao so với tỷ lệ 1,6%/tháng của cả hệ thống.
è Thời hạn cấp giấy phép là 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoặc từ chối cấp Giấy phép cho văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng., nhanh hơn so với trước đây luật 1997 là 90 ngày.
5.5.3 Về việc Công bố thông tin hoạt động :
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng phải công bố trên phương tiện thông tin của Ngân hàng Nhà nước và trên một tờ báo viết hằng ngày trong 03 số liên tiếp hoặc báo điện tử của Việt Nam ít nhất 30 ngày trước ngày dự kiến khai trương hoạt động cũng rõ ràng và chi tiết hơn so với luật cũ.
Nhưng những thủ tục thì nhiều và phức tạp hơn có thể sẽ chọn lọc được những ngân hàng lớn đầu tư vào Việt Nam nhưng cũng có thể là bất cập cản trở sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
èThị trường tài chính tiền tệ có sức ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế đất nước, việc ban hành luật các TCTD 2010 đã làm cho các ngân hàng nước ngoài thi nhau mọc lên tại Việt Nam giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển đáng kể. Cụ thể, tăng trưởng GDP quý 1/2010 đạt 5,84%, nhưng đến quý 2 đã tăng 6,44%, quý 3 tăng 7,18% và quý 4 ước tăng 7,34%. Như vậy, mức tăng GDP quý 4 năm nay đạt cao nhất kể từ quý 2/2008. Kinh tế đất nước phát triển giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động nước ta, tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 là 2,88%, giảm so với 2009 là 1,78%.
è Nhưng việc ngân hàng nước ngoài ồ ạt vào việt nam cũng đã gây ra không ít những khó khăn cho ngân hàng nội địa.
è Đến nay có 12 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với số vốn điều lệ (tính ra VND) khoảng 15 nghìn tỉ đồng.Âm thầm, nhưng không kém phần quyết liệt, các ngân hàng nước ngoài đang giành giật những phân khúc khách hàng/thị trường tốt và tiềm năng nhất ở Việt Nam.
è Lộ trình mở cửa của hệ thống ngân hàng Việt Nam để gia nhập WTO đang tiến dần đến mức thực hiện đối xử đối xử quốc gia (NT) giữa các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài (đối xử NT quy định phải dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp trong nước). Một ví dụ cụ thể về tiến trình này là đến ngày 1.1.2011 các ngân hàng nước ngoài sẽ không còn bị hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng VND từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỉ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh (quyền này đã bị hạn chế theo 5 mốc thời gian từ năm 2007 đến đầu năm 2011).
è Mãi cạnh tranh với nhau, nhiều ngân hàng nội địa dường như quên mất sự có mặt của ngân hàng nước ngoài . Hội sở chính của các ngân hàng nước ngoài chỉ đặt ở hai TP lớn là Hà Nội và TPHCM, những thông tin về hoạt động của các ngân hàng nước ngoài lại khá hạn chế nên người ta cũng ít biết là khối này đã phát triển rất mạnh về tài sản, nhân lực và mạng lưới. Họ đang thăm dò và chuẩn bị mở thêm chí nhánh và văn phòng đại diện ở các tỉnh, TP có tiềm năng kinh tế, đặc biệt là các tỉnh có thế mạnh về xuất khẩu và khu công nghiệp như: Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ, Long An, Tiền Giang. Chỉ tính riêng ANZ, hiện đã có 8 chi nhánh và phòng giao dịch, 1 văn phòng đại diện, hệ thống máy ATM trên toàn quốc.
6. NHỮNG THAY ĐỔI PHẢI ĐƯỢC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CHẤP THUẬN:
Ngày 16/6/2010, Quốc hội đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) mới thay thế Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật Sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng năm 2003, chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Tại Luật các TCTD 2010 có quy định một số thay đổi của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện phải được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chấp thuận trước khi thực hiện và giao NHNN hướng dẫn các đơn vị thực hiện.
Các nhà làm luật cho rằng: “So với quy định của Luật Các TCTD năm 1997, Luật các TCTD năm 2010 đã quy định theo hướng quán triệt nguyên tắc cải cách thủ tục hành chính và tăng quyền tự chủ cho TCTD trong vấn đề về những thay đổi cần chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Luật các TCTD năm 2010 đã giảm bớt các nội dung cần phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước như chuyển nhượng cổ phần có ghi tên quá tỷ lệ quy định, thay đổi thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc của TCTD; bỏ thủ tục chuẩn y điều lệ thay bằng đăng ký điều lệ”.
6.1 Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi thực hiện các thủ tục thay đổi một trong những nội dung:
6.1.1 Địa điểm đặt trụ sở chính của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
Tại khoản 2 Điều 29 Luật các TCTD quy định hình thức chấp thuận việc thay đổi các điểm a, b và d của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là Quyết định sửa đổi, bổ sung Giấy phép.
Ví dụ: Ngày 05/10/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có Quyết định số 2184/QĐ-NHNN về việc sửa đổi mức vốn điều lệ ghi trong Giấy phép hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Phương Nam.
Theo đó, Thống đốc NHNN chấp thuận việc sửa đổi mức vốn điều lệ ghi tại Điều 4 Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần số 0030 ngày 17/3/1993 do Thống đốc NHNN cấp cho Ngân hàng TMCP Phương Nam thành 3.212.479.980.000 đồng (Ba ngàn hai trăm mười hai tỷ, bốn trăm bảy mươi chín triệu, chín trăm tám mươi nghìn đồng)”.
Ngân hàng TMCP Phương Nam có trách nhiệm sửa đổi các điều, khoản có liên quan trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng đối với nội dung nêu trên và đăng ký Điều lệ đã sửa đổi tại NHNN theo quy định của pháp luật hiện hành.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và là một bộ phận không tách rời của Giấy phép thành lập và hoạt động số 0030 ngày 17/3/1993 do Thống đốc NHNN cấp cho Ngân hàng TMCP Phương Nam.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy:
Sau khi được NHNN chấp thuận, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định tại Luật Doanh nghiệp mới được công nhận địa chỉ trụ sở mới.
Để NHNN có thể ra Quyết định sửa đổi Giấy phép ngay khi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có đề nghị thì TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải có trụ sở chính đảm bảo các điều kiện theo quy định và phải được sự chấp thuận của các cơ quan quản lý hành chính có liên quan (Ủy ban nhân dân, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang đặt trụ sở chính và nơi dự kiến chuyển đến). Tuy nhiên, việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chuyển trụ sở chính sang địa bàn tỉnh, thành phố khác trực thuộc trung ương còn phụ thuộc vào định hướng chính sách, chủ trương của Chính phủ khi quyết định cho phép thành lập, của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có liên quan, phụ thuộc khả năng quản lý của NHNN chi nhánh nơi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài dự kiến chuyển đến.
Do đó, việc NHNN ra Quyết định sửa đổi Giấy phép ngay khi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có đề nghị được thay đổi trụ sở chính có thể gây lãng phí về nguồn lực cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc phải chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất đảm bảo điều kiện theo quy định đối với trụ sở mới nhưng lại có ý kiến không chấp thuận từ một cơ quan quản lý có liên quan.
èKiến nghị: Xét thấy việc thay đổi trụ sở chính cần có ý kiến của NHNN chi nhánh để thẩm tra điều kiện đối với trụ sở chính. Theo đó, mọi loại hình TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi thay đổi trụ sở chính đều cần có ý kiến của NHNN chi nhánh như vậy sẽ giảm tải công việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ tại NHNN đồng thời tiết kiệm thời gian và chi phí hơn.
6.1.2 Thay đổi mức vốn điều lệ, mức vốn được cấp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
Tại khoản 2 Điều 29 Luật các TCTD quy định hình thức chấp thuận việc thay đổi mức vốn điều lệ, mức vốn được cấp của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là Quyết định sửa đổi Giấy phép.
Ví dụ: Ngày 12/10/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có Quyết định số 2232/QĐ-NHNN về việc sửa đổi mức vốn điều lệ ghi trong Giấy phép hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Ngoại thương Việt Nam.
Theo đó, Thống đốc NHNN chấp thuận việc sửa đổi mức vốn điều lệ ghi tại Điều 2 Giấy phép thành lập và hoạt động số 138/GP-NHNN ngày 23/5/2008 do Thống đốc NHNN cấp cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thành 19.698.045.140.000 đồng (mười chín nghìn sáu trăm chín mươi tám tỷ không trăm bốn mươi năm triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng)”.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và là một bộ phận không tách rời của Giấy phép thành lập và hoạt động số 138/GP-NHNN ngày 23/5/2008 do Thống đốc NHNN cấp cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy: Sau khi được NHNN chấp thuận, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tiến hành một số thủ tục khác như thủ tục với Ủy ban chứng khoán Nhà nước, phát hành cổ phiếu cho cổ đông, đăng ký kinh doanh... Ngoài ra, việc tăng vốn của đơn vị còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác như thị trường, nhà đầu tư... Do đó, việc NHNN ra Quyết định sửa đổi Giấy phép ngay khi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có đề nghị được thay đổi mức vốn điều lệ, mức vốn được cấp là không phù hợp với thực tiễn.
èKiến nghị: Sau khi xem xét đề nghị của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài về việc thay đổi mức vốn điều lệ, mức vốn được cấp, NHNN có văn bản chấp thuận đề nghị nêu trên. Sau khi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoàn tất việc thay đổi mức vốn điều lệ, mức vốn được cấp và có văn bản báo cáo NHNN, NHNN sẽ ra Quyết định sửa đổi Giấy phép về nội dung này căn cứ vào số vốn thực hiện thực tế.
6.1.3 Thời hạn hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
Ví dụ: Ngày 23/9/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có Quyết định số 2119/QĐ-NHNN chấp thuận sửa đổi thời hạn hoạt động ghi tại Giấy phép của Ngân hàng TMCP Đại Tín.
Cụ thể, thời hạn hoạt động nêu tại điểm 9 Giấy phép hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần số 0047/NH-GP ngày 29/12/1993 do Thống đốc NHNN cấp cho Ngân hàng TMCP Đại Tín được Thống đốc NHNN chấp thuận sửa đổi thành: “9- Thời hạn hoạt động: 99 (chín mươi chín) năm”.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và là một bộ phận không tách rời của Giấy phép số 0047/NH-GP ngày 29/12/1993 do Thống đốc NHNN cấp cho Ngân hàng TMCP Đại Tín.
Ta thấy rằng: Tại Khoản 1 Điều 29 Luật các TCTD quy định việc thay đổi thời hạn hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được NHNN chấp thuận. Trong khi đó, tại khoản 2 Điều 154 quy định các đơn vị được gia hạn thời hạn hoạt động khi được NHNN chấp thuận. Tuy nhiên, cả hai vấn đề này Luật đều không giao NHNN hướng dẫn điều kiện để được thay đổi hoặc gia hạn thời hạn hoạt động.
èKiến nghị: Cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể cả việc thay đổi thời hạn hoạt động và gia hạn thời hạn hoạt động giúp cho người đọc Luật hiểu rõ, hiểu đúng, và áp dụng đúng Luật tránh những vi phạm không đáng có.
6.1.4 Chuyển nhượng vốn góp của thành viên góp vốn, chuyển nhượng cổ phần của cổ đông lớn, chuyển nhượng cổ phần dẫn đến cổ đông lớn trở thành cổ đông thường và ngược lại của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
6.1.5 Tạm ngừng hoạt động kinh doanh quá 01 ngày làm việc, trừ trường hợp tạm ngừng hoạt động do nguyên nhân bất khả kháng: Điều 161 Bộ luật dân sự qui định về sự kiện bất khả kháng
Đây là vấn đề mới được quy định tại Luật các TCTD năm 2010 so với Luật các TCTD năm 1997 và Luật Sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng năm 2003.
èKiến nghị: Để tránh gây phiền hà cho các đơn vị và thêm thủ tục hành chính, cần có văn bản quy định một số trường hợp tạm ngừng kinh doanh chỉ phải thông báo, đăng ký với NHNN; trường hợp tạm ngừng kinh doanh liên tục quá 01 ngày làm việc phải được NHNN chấp thuận trước khi thực hiện.
Và những quy định giao NHNN chi nhánh có thẩm quyền chấp thuận việc tạm ngừng hoạt động kinh doanh liên tục quá 01 ngày làm việc của TCTD trên địa bàn, ngoại trừ ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng Hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các đối tượng này do Thống đốc NHNN trực tiếp chấp thuận.
Theo dự thảo thông tư về Quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận những thay đổi của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng.
Thứ nhất, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận những thay đổi sau đây của tổ chức tín dụng (ngoại trừ Quỹ tín dụng nhân dân), chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện:
Thay đổi tên, địa điểm đặt trụ sở chính, nội dung, phạm vi, thời hạn hoạt động;
Thay đổi mức vốn điều lệ, mức vốn được cấp;
Chuyển nhượng vốn góp của thành viên góp vốn của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; chuyển nhượng cổ phần của cổ đông lớn, chuyển nhượng cổ phần dẫn đến cổ đông lớn trở thành cổ đông thường và ngược lại của ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ là công ty cổ phần;
Tổ chức tín dụng mua lại cổ phần, phần vốn góp của thành viên góp vốn;
Tạm ngừng hoạt động kinh doanh quá 01 ngày làm việc của ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng Hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thứ hai, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ủy quyền cho Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh nơi tổ chức tín dụng đặt trụ sở chính (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh) xem xét, chấp thuận những nội dung sau:
Thay đổi tên, trụ sở, nội dung, phạm vi và thời hạn hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân;
Chuyển nhượng cổ phần của cổ đông lớn, chuyển nhượng cổ phần dẫn đến cổ đông lớn trở thành cổ đông thường và ngược lại (ngoại trừ ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ);
Tạm ngừng hoạt động kinh doanh quá 01 ngày làm việc của tổ chức tín dụng (ngoại trừ ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng Hợp tác xã).
6.2 Về việc chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) của TCTD:
Danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) của tổ chức tín dụng phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi bầu, bổ nhiệm các chức danh này. Những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) của tổ chức tín dụng phải thuộc danh sách đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Khoản 1 điều 51 Luật Các TCTD năm 2010
Tổ chức tín dụng phải thông báo cho Ngân hàng Nhà nước danh sách những người được bầu, bổ nhiệm các chức danh quy định tại khoản 1 Điều này trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày bầu, bổ nhiệm. Khoản 3 điều 51 Luật Các TCTD năm 2010
Ví dụ: Ngày 11/3/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có công văn số 2031/NHNN-TTGSNH chấp thuận việc bổ nhiệm chức danh Tổng Giám đốc của Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Mê Kông (MDB).
Theo đó, Thống đốc NHNN chấp thuận việc MDB bổ nhiệm chức danh Tổng Giám đốc đối với ông Lau Boon Tuan. Thống đốc NHNN cũng yêu cầu, NHNN chi nhánh tỉnh An Giang có trách nhiệm giám sát và kiểm tra việc đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn đảm nhiệm chức danh Tổng Giám đốc MDB đối với ông Lau Boon Tuan.
Xoay quanh những ý kiến về chấp thuận người quản lý, người điều hành của TCTD (Điều 51 Dự thảo Luật Các TCTD) Trích từ Bản tổng hợp, giải trình ý kiến thành viên Chính phủ, ý kiến thẩm định của Bộ tư pháp về dự án Luật các TCTD vào ngày 09 tháng 9 năm 2009
Ý kiến của Bộ Tài chính: Để tránh việc cơ quan quản lý nhà nước can thiệp quá sâu vào các vấn đề của doanh nghiệp, đề nghị cân nhắc không nên quy định việc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận danh sách dự kiến của các chức danh trên. Thay vào đó, có thể quy định Ngân hàng Nhà nước ban hành tiêu chí, điều kiện đối với các chức danh này để làm căn cứ giám sát việc bầu, bổ nhiệm cán bộ tại tổ chức tín dụng. Trường hợp người được bầu, bổ nhiệm không đạt yêu cầu về tiêu chuẩn, điều kiện thì sẽ bị xử lý theo quy định.
Ý kiến giải trình của NHNN: Cơ chế chấp thuận danh sách dự kiến theo quy định tại Dự thảo là một bước cải cách căn bản so với quy định hiện hành theo hướng giảm bớt các thủ tục hành chính (từ việc thực hiện đồng thời hai thủ tục "chấp thuận trước" và "chuẩn y sau" như quy định hiện hành sang chỉ còn một thủ tục "chấp thuận trước" như dự thảo Luật; và giảm bớt một số nội dung cần chấp thuận, chuẩn y như Điều lệ, thay đổi cổ đông...), đồng thời vẫn đảm bảo quyền giám sát của NHNN trên nguyên tắc thận trọng theo khuyến nghị của Ủy ban Basel.
Góp ý của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Đăng Trừng - TP Hồ Chí Minh
Về việc chấp thuận danh sách dự kiến những người được bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, giám đốc của tổ chức tín dụng Điều 51 của dự án luật. Khoản 1, Điều 51 của dự án luật quy định những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, giám đốc của tổ chức tín dụng phải thuộc danh sách đã được ngân hàng Nhà nước chấp thuận. “Tôi cho rằng Nhà nước quy định như thế cho thấy ngân hàng Nhà nước đã can thiệp quá sâu vào nhân sự của tổ chức tín dụng, không đảm bảo sự dân chủ trong việc bầu nhân sự, lãnh đạo của các tổ chức tín dụng. Tôi đề nghị chỉ nên quy định tổ chức tín dụng gửi danh sách nhân sự ứng cử đến ngân hàng Nhà nước để phê chuẩn danh sách nhân sự này trước khi bầu. Nhân việc phê chuẩn danh sách nhân sự trên chỉ có tính chất định hướng còn việc bầu ai phải do đại hội cổ đông quyết định theo đúng tiêu chuẩn được quy định ở Điều 50 của dự Luật.”
Theo Luật Các TCTD năm 1997, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD sau khi được bầu, bổ nhiệm phải được NHNN chuẩn y. Khi thực hiện quy định này đã có những vướng mắc như việc can thiệp sâu vào quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông (hoặc Hội đồng quản trị) của TCTD, hơn nữa trong thời gian các chức danh trên đã được bầu, bổ nhiệm nhưng chưa được NHNN chuẩn y thì việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh này như thế nào? Để giải quyết những vướng mắc trên, Luật các TCTD năm 2010 quy định: NHNN chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD. Những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD phải thuộc danh sách đã được NHNN chấp thuận.
Tại sao những thay đổi cần có sự chấp thuận của Ngân hàng nhà nước?
Điều gì sẽ xảy ra đối với sự sụp đổ của một ngân hàng. Đây chính là một vết đen lớn trong hoạt động ngân hàng nó không chỉ ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, uy tín của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua việc cấp tín dụng. Và tất nhiên việc khôi phục lại hệ thống ngân hàng không phải là việc thực hiện trong một sớm một chiều. Chính vì vậy mà Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. NHNN là cơ quan quản lý điều tiết hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng bằng pháp luật nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trang 98, sách Tiền tệ Ngân hàng của TS. Lê Thị Tuyết Hoa, PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung – Trường ĐH Ngân Hàng TP.HCM, NXB Thống Kê năm 2007.
Giải trình của NHNN: Thực tiễn quản lý hoạt động của các TCTD cho thấy, TCTD là những đối tượng cần được quản lý chặt chẽ, vì đây là những doanh nghiệp có các hoạt động ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất nước, và là những tổ chức có được quyền lực rất lớn trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ, sự lạm dụng quyền lực trong nội bộ của một tổ chức tín dụng thường là những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, gây ra sự mất lòng tin trong dân cư và đe doạ sự mất ổn định của cả hệ thống TCTD... Do đó, một số các quy định về tổ chức quản lý đối với các TCTD thường được thiết kế chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Đây cũng là một thông lệ chung được thừa nhận rộng rãi trên bình diện quốc tế (xem thêm nguyên tắc số 3 và 7 của 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả của Uỷ ban Basel). Thực tiễn ở các nước trên thế giới, Luật ngân hàng đều có quy định về tổ chức, quản lý và điều hành của ngân hàng, cụ thể: Luật ngân hàng Canada, Singapore…
Tôi đồng ý với quan điểm Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng thông qua việc Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, NHNN không nên can thiệp quá sâu vào các vấn đề của doanh nghiệp nhất là việc chấp thuận danh sách dự kiến của các chức danh trên. Thay vì Ngân hàng Nhà nước quy định rõ ràng và cụ thể những tiêu chuẩn để các TCTD căn cứ bổ nhiệm, sau đó có văn bản thông báo đến NHNN. Trách nhiệm NHNN kiểm tra lại nếu có vi phạm sẽ xử phạt nặng. Như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí trong quá trình xin chờ sự chấp thuận.
Tóm lại, những thay đổi cần sự chấp thuận của NHNN theo Luật Các Tổ Chức Tín Dụng năm 2010 đã có nhiều thay đổi cần thiết nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập của những quy định hiện hành, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
LỜI KẾT LUẬN
Nhìn chung qua những điểm mà nhóm đã phân tích Luật TCTD 2010 so với Luật TCTD 1997 (có sửa đổi bổ sung năm 2004) đã có những tiến bộ trong việc cụ thể hóa các điều cần thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại hoạt động và tăng cường hiệu quả kiểm tra, giám sát của ngân hàng nhà nước. Những vấn đề mà nhóm phân tích giữa Luật TCTD 2010 so với Luật TCTD 1997 (có sửa đổi bổ sung 2004) mặc dù rộng về thẩm quyền, cao về trách nhiệm song bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu xót đáng quan tâm và cần quy định chặt chẽ hơn nữa chẳng hạn như dù có khái niệm về tổ chức tài chính vi mô nhưng vẫn còn mơ hồ và thiếu thông tin, hoặc như về việc quy định vốn pháp định vẫn còn cao so với các TCTD dẫn đến như trong hiện nay gây ra nhiều “biến tướng” trong hoạt động ngân hàng như về vấn đề lãi suất…, Hy vọng rằng trong những sửa đổi bổ sung sắp tới Luật TCTD sẽ có những chỉnh sửa, bổ sung chặt chẽ hơn nữa để Luật TCTD ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn và tạo điều kiện để các TCTD hoạt động tót hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu và phân tích những điều chỉnh của luật Tổ chức tín dụng 2010 so với luật TCTD 1997.doc