1. Lịch sử hình thành
Từ thế kỷ XV, khi các quốc gia mở rộng quyền lực của mình ra biển cả, sự đua tranh trong việc chiếm lĩnh thị phần khai thác, sử dụng biển trở nên ngày càng quyết liệt, lúc đó, người ta đã nhận ra rằng “biển cả không phải là nguồn tài nguyên vô tận mà biển cả là của chung, các quốc gia bình đẳng trong việc khai thác, sử dụng biển”.Từ đó đã hình thành hai quan điểm, hai học thuyết trái ngược nhau đó là: tự do biển cả (resnullius) và chủ quyền quốc gia (rescommunis)
Học thuyết tự do biển cả lần đầu tiên được đưa ra bởi Hugo Grotius trong cuốn “Mare Liberum” (tựa tiếng Anh : The Freedom of Sea). Cuốn sách lần đầu tiên được xuất hiện tại Leiden bởi nhà xuất bản Elzevier vào mùa xuân năm 1609. Luận cứ của học thuyết này bắt nguồn từ bản chất tự nhiên của biển cả, đó là tính động, tính lỏng, tính thống nhất, tính không cạn kiệt của tài nguyên (theo quan niệm của thời kỳ đó) và Luật tự nhiên. Cách tiếp cận của thuyết Biển tự do là để đi đến khẳng định, các quốc gia có quyền tự do thương mại quốc tế thông qua đường biển. Theo lập luận của thuyết biển tự do thì biển cả được để mở, không hạn chế về hàng hải.
Sau thế chiến thứ hai, quá trình pháp điển hóa luật quốc tế diễn ra mạnh mẽ, quan điểm tự do biển cả cũng từ đó mà được các học giả, các tuyên bố đơn phương của các quốc gia và thực tiễn khẳng định và phát triển:
- Tại phiên họp thứ 22 của Đại hội đồng Liên hợp quốc vào 17/08/1962, Arvid Pardo Đại sứ Malte đã đưa ra tư tưởng coi vùng đáy đại dương nằm ngoài vùng tài phán quốc gia là di sản chung của nhân loại.
- Nghị quyết 2479 ( XXV) ngày 17/12/1970 có nội dung tuyên bố về các nguyên tắc quản lý đáy biển và đại dương cũng như các lòng đất của chúng nằm ngoài ranh giới quyền tài phán quốc gia.
- Phán quyết của Tòa án pháp lý quốc tế: Nguyên tắc tự do thông thương hàng hải và nghĩa vụ của mọi quốc gia không được sử dụng lãnh thổ của mình nhằm mục đích chống lại quyền của các quốc gia khác ( Vụ eo biển Corfou ngày 09/04/1949 giữa Anh – Albani)
16 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4521 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc tự do biển cả trong Công ước Luật biển 1982, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.Lịch sử hình thành và nội dung của nguyên tắc tự do biển cả.1. Lịch sử hình thànhTừ thế kỷ XV, khi các quốc gia mở rộng quyền lực của mình ra biển cả, sự đua tranh trong việc chiếm lĩnh thị phần khai thác, sử dụng biển trở nên ngày càng quyết liệt, lúc đó, người ta đã nhận ra rằng “biển cả không phải là nguồn tài nguyên vô tận mà biển cả là của chung, các quốc gia bình đẳng trong việc khai thác, sử dụng biển”.Từ đó đã hình thành hai quan điểm, hai học thuyết trái ngược nhau đó là: tự do biển cả (resnullius) và chủ quyền quốc gia (rescommunis)Học thuyết tự do biển cả lần đầu tiên được đưa ra bởi Hugo Grotius trong cuốn “Mare Liberum” (tựa tiếng Anh : The Freedom of Sea). Cuốn sách lần đầu tiên được xuất hiện tại Leiden bởi nhà xuất bản Elzevier vào mùa xuân năm 1609. Luận cứ của học thuyết này bắt nguồn từ bản chất tự nhiên của biển cả, đó là tính động, tính lỏng, tính thống nhất, tính không cạn kiệt của tài nguyên (theo quan niệm của thời kỳ đó) và Luật tự nhiên. Cách tiếp cận của thuyết Biển tự do là để đi đến khẳng định, các quốc gia có quyền tự do thương mại quốc tế thông qua đường biển. Theo lập luận của thuyết biển tự do thì biển cả được để mở, không hạn chế về hàng hải.Sau thế chiến thứ hai, quá trình pháp điển hóa luật quốc tế diễn ra mạnh mẽ, quan điểm tự do biển cả cũng từ đó mà được các học giả, các tuyên bố đơn phương của các quốc gia và thực tiễn khẳng định và phát triển:- Tại phiên họp thứ 22 của Đại hội đồng Liên hợp quốc vào 17/08/1962, Arvid Pardo Đại sứ Malte đã đưa ra tư tưởng coi vùng đáy đại dương nằm ngoài vùng tài phán quốc gia là di sản chung của nhân loại.- Nghị quyết 2479 ( XXV) ngày 17/12/1970 có nội dung tuyên bố về các nguyên tắc quản lý đáy biển và đại dương cũng như các lòng đất của chúng nằm ngoài ranh giới quyền tài phán quốc gia.- Phán quyết của Tòa án pháp lý quốc tế: Nguyên tắc tự do thông thương hàng hải và nghĩa vụ của mọi quốc gia không được sử dụng lãnh thổ của mình nhằm mục đích chống lại quyền của các quốc gia khác ( Vụ eo biển Corfou ngày 09/04/1949 giữa Anh – Albani)- Hội nghị pháp điển hóa lần thứ nhất của Liên hợp quốc về luật biển năm 1958 tại Geneve đã cho ra đời hai công ước :+ Công ước về biển cả ( hiệu lực từ ngày 30/09/1962) với 52 quốc gia phê chuẩn+ Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật biển ( hiệu lực từ ngày 02/03/1966) với 36 quốc gia phê chuẩn.- Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về luật biển được triệu tập tại New York với nhiều vòng đàm phán, từ năm 1973 đến năm 1982. Ngày 10/12/1982, tại Montego Bay, thủ phủ của Jamaica, đại diện có thẩm quyền của 117 quốc gia, Hội đồng của Liên hợp quốc về Nammibia và các đảo Cuc đã ký chính thức công bố Công ước luật biển 1982. Công ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Tính đến thời điểm hiện nay thì đã có 154 quốc gia và Cộng đồng châu Âu phê chuẩn công ước.Biển cả, theo Điều 86 – Công ước luật biển 1982 là :“tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia, cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo”Trong công ước thì nguyên tắc tự do biển cả đã được thừa nhận như một nguyên tắc cơ bản nhất của luật biển quốc tế .2. Nội dung của nguyên tắc tự do biển cảDo đặc trưng không thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào, quy chế pháp lý của biển cả là quy chế tự do, hiểu theo hai khía cạnh pháp lý cơ bản:- Thừa nhận sự ngang nhau về quyền và lợi ích của mọi quốc gia trên biển cả.- Không có sự phân biệt đối xử dựa trên vị trí và hoàn cảnh địa lý của mọi quốc gia khi tham gia sử dụng và khai thác biển cả.Bản chất pháp lý này của biển cả được thể hiện và đảm bảo bằng nội dung của nguyên tắc tự do biển cả : Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển. Nguyên tắc tự do biển cả không cho phép bất cứ quốc gia nào có thể áp đặt một cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc chủ quyền của mình. Điều đó có nghĩa là trong biển cả tất cả các quốc gia đều được hưởng các quyền tự do được quy định trong luật quốc tế. Song, mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do của mình phải tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác.Theo quy định tại Điều 87- Công ước luật biển 1982, những quyền tự do trên biển xuất phát từ nguyên tắc tự do biển cả bao gồm:- Tự do hàng hải : nội dung chủ yếu của quyền này liên quan đến tự do đi lại trên biển cả và thẩm quyền tài phán đối với tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả. Tàu thuyền một nước nhất định không phải chịu sự tài phán của một quốc gia khác, trừ quốc gia mà tàu mang quốc tịch, khi hoạt động trong vùng biển cả.- Tự do đánh bắt hải sản các quốc gia có quyền tự do đánh bắt tài nguyên sinh vật biển là quyền tự do không có bất kỳ một hạn chế nào. Tàu thuyền và công dân của mỗi quốc gia có thể sử dụng mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên của biển. Trên khu vực biển cả có thể đánh bắt hải sản tùy theo khả năng của con người, vào bất cứ thời điểm nào mà họ muốn và với bất kỳ phương tiện đánh bắt nào. Tuy nhiên, trong công ước cũng quy định về một vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven bờ với chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở, trong vùng này các quốc gia được tự do đánh bắt hải sản. Vùng đặc quyền kinh tế chiếm khoảng 40% diện tích biển, đây là những vùng giàu hải sản nhất, chiếm 90% tổng sản lượng đánh bắt trên thế giới.Như vậy, quyền tự do đánh bắt hải sản không được áp dụng trên một vùng biển rất rộng lớn, nguyên tắc này hiện nay ít có ý nghĩa thực tiễn.- Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm: quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm được vận dụng chủ yếu từ sau thế chiến thứ hai. Quyền này được hiểu rộng hơn, là bao gồm cả việc bảo vệ và nghiêm cấm phá hoại dây cáp và ống dẫn ngầm được đặt dưới biển. Quốc gia đặt dây cáp và ống dẫn ngầm có nghĩa vụ phải đặc biệt quan tâm đến tình trạng của chúng đã được xây dựng ở dưới đáy biển, không được gây cản trở cho quá trình sửa chữa các dây cáp và ống dẫn ngầm hiện có.- Tự do hàng không: Đây là quyền tự do được bổ sung tiếp theo trong quá trình phát triển Luật biển quốc tế, đồng thời được thừa nhận là nguyên tắc chuyên biệt của luật hàng không quốc tế. Theo nguyên tắc này, trong vùng trời quốc tế, các phương tiện bay của tất cả các quốc gia đều có quyền tự do hàng không. Đồng thời, khi hoạt động ở vùng trời quốc tế, phương tiện bay chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia đăng tịch phương tiện bay, phát sinh từ cơ sở pháp lý của nguyên tắc thẩm quyền phương tiện bay. Đây là thẩm quyền riêng biệt. Tuy vậy, quyền tự do hàng không cũng có những giới hạn nhất định, đó là trong thời gian bay trong không phận quốc tế, các phương tiện bay phải chấp hành và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định, các yêu cầu về an ninh hàng không được ghi nhận trong điều ước quốc tế về hàng không cũng như các văn bản do tổ chức hàng không quốc tế ban hành. Tất cả các quốc gia phải áp dụng các biện pháp an ninh an toàn hàng không cho các phương tiện bay của mình, tuân thủ nghiêm túc các quy định của luật hàng không quốc tế.- Tự do nghiên cứu khoa học biển- Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho phép.Hai quyền sau cùng xuất phát từ nhu cầu phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại.Các quốc gia dù có biển hay không có biển đều có quyền tự do sử dụng các tàu thuyền của mình trên biển cả để thực hiện các quyền tự do nêu trên.II. Tác động của nguyên tắc tự do biển cả đối với việc hình thành quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước luật biển 1982.Nguyên tắc tự do biển cả không chỉ thể hiện trong quy chế pháp lý của biển cả và vùng mà còn thể hiện trong quy chế pháp lý của các vùng biển khác. Trong các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia, các vùng biển đặc thù vẫn tồn tại nguyên tắc này, nhưng mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với việc hình thành quy chế pháp lý các vùng biển tăng dần khi đi từ đất liền ra biển. Điều này thể hiện sự dung hòa của nguyên tắc tự do biển cả với nguyên tắc đất thống trị biển. Trong phần này em xin đi vào chia tiết mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với việc hình thành quy chế pháp lý các vùng biển.1. Đối với các vùng biển thuộc chủ quyền quốc giaCàng đi sâu vào đất liền thì ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả lại càng giảm đi. Đối với các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, ảnh hưởng của nguyên tắc này ít hơn so với các vùng biển khác.1.1. Lãnh hảiChủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thuỷ của mình, và trong mọi trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo đến một vùng biển tiếp liền gọi là lãnh hải. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất dưới đáy của vùng biển này (Điều 2 Công ước);ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với quy chế pháp lý của lãnh hải : Thứ nhất, trong lãnh hải thì các quốc gia khác có quyền đi qua không gây hại.Quyền qua lại tức là quyền đi ở trong lãnh hải, nhằm mục đích:- Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thuỷ, không đậu lại trong một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội thuỷ; hoặc- Đi vào hoặc rời khỏi nội thuỷ; hoặc đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở ngoài nội thuỷ nêu trên.Việc đi qua phải liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc nạn (Điều 18 Công ước).Việc qua lại được coi là không gây hại chừng nào nó không làm phương hại đến hoà bình, trật tự hoặc an ninh của quốc gia ven biển.Việc đi qua của một tàu thuyền nước ngoài bị coi là gây hại đến hoà bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau đây:a) Đe doạ hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;c) Thu thập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;d) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;f) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống hàng trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khoá, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;i) Đánh bắt hải sản;j) Nghiên cứu hay đo đạc;k) Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển;l) Mọi hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua” (Điều 19 Công ước).Thứ hai, nguyên tắc tự do biển cả thể hiện ở việc quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi một vụ vi phạm hình sự xảy ra trước khi tàu đi vào lãnh hải, hoặc tàu chỉ đi qua lãnh hải mà không vào nội thủy.Bên cạnh đó, trong lãnh hải các tàu quân sự nhà nước được hưởng quyền miễn trừ về thẩm quyền tài phán dân sự và hình sự nhưng không được hưởng quyền miễn trừ pháp lý. Tàu quân sự nước ngoài như tất cả các tàu thuyền khác phải tôn trọng luật lệ của quốc gia ven biển liên quan tới quyền qua lại không gây hại.1.2. Nội thủyNội thuỷ là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, tại đó các quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền. Điều 8 Công ước quy định: “Trừ trường hợp đã được quy định ở phần IV, các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thuỷ của quốc gia”. Phần IV - phần được loại trừ ở đây là phần quy định về quốc gia quần đảo, quy định: “Ở phía trong vùng nước quần đảo, quốc gia quần đảo có thể vạch những đường khép kín để hoạch định ranh giới nội thuỷ của mình theo đúng các điều 9, Điều 10, Điều 11” (Điều 50 của Công ước về hoạch định ranh giới nội thủy).Cấu trúc của nội thủy dưới góc độ luật quốc tế gồm có : Vịnh thiên nhiên, vịnh lịch sử và vùng nước lịch sử, cảng biển, vũng đậu tàu, cửa sông.Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với nội thủy rất hạn chế. Trong vùng nước nội thuỷ, mặc dù quốc gia ven biển có chủ quyền tuyệt đối, hoàn toàn và đầy đủ như trên đất liền. Tuy nhiên, chủ quyền này chỉ được áp dụng đối với con tàu chứ không phải đối với cá nhân, pháp nhân, người nước ngoài ở trên tàu đó. Bất kỳ tàu thuyền nào của nước ngoài muốn vào nội thủy của nước ven biển đều phải xin phép trước và có sự cho phép của quốc gia ven biển mới được vào. Các tàu thương mại vào cảng biển quốc tế trên cơ sở nguyên tắc tự do thông thương và có đi có lại, thường phải đến một địa điểm quy định trước làm các thủ tục an ninh, hải quan, vệ sinh y tế của nước ven biển và sau khi được phép sẽ vào cảng biển theo sự hướng dẫn của hoa tiêu hàng hải nước này.Trên tàu thuyền cũng tồn tại chế độ lãnh thổ nổi. Các tàu thuyền nước ngoài đặt dưới thẩm quyền tương đối của quốc gia ven biển về trật tự, an ninh, cảnh sát, y tế, hàng hải.Ngoài ra, trong vùng nước nội thuỷ quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự và dân sự trên tàu, nếu có sự vi phạm thì chỉ phải chịu xử phạt vi phạm hành chính hoặc bồi thường thiệt hại. Quốc gia ven biển chỉ được thực hiện quyền tài phán hình sự, dân sự trong các trường hợp: khi chủ tàu, thuyền trưởng yêu cầu; cơ quan lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu can thiệp hoặc khi sự vi phạm hoặc hậu quả của sự vi phạm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng của quốc gia ven biển.Tàu nhà nước dùng vào mục đích phi thương mại và tàu quân sự được hưởng quyền miễn trừ. Thẩm quyền tài phán hình sự với các tàu này trong một số trường hợp:- Vi phạm xảy ra trên boong tàu:+ Chủ hành vi thuộc thủy thủy đoàn thì quyền tài phán thuộc về quốc gia tàu mang cờ+ Chủ hành vi không thuộc thủy thủ đoàn, nạn nhân là nhân viên trên tàu thì cả hai bên đều có thẩm quyền+ Chủ hành vi và nạn nhân không thuộc thủy thủ đoàn thì quốc gia cảng có thẩm quyền tuyệt đối.- Vi phạm xảy ra ngoài tàu : quốc gia cảng có thể bắt kẻ phạm tội nhưng phải trao trả cho thuyền trưởng con tàu nếu ông ta có yêu cầu ( Điều 218 – Công ước)2. Đối với các vùng biển mà quốc gia có quyền chủ quyền2.1. Thềm lục địaThềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến mép ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi mép ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó có khoảng cách gần hơn (khoản 1 Điều 76 Công ước).Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với thềm lục địa là rất lớn, nên nguyên tắc tự do biển cả chỉ có một phần ảnh hưởng, thể hiện ở việc các quốc gia khác trên thềm lục địa có các quyền về tự do hàng hải; tự do bay; tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm song phải có sự thông báo trước với quốc gia ven biển.2.2. Đặc quyền kinh tếVùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều hành (Điều 55 Công ước).Dưới sự ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả thì trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia ven biển, tất cả các quốc gia khác, dù có biển hay không có biển đều được hưởng các quyền :- Tự do hàng hải,- Tự do hàng không,- Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.Quốc gia ven biển không được phép viện dẫn bất kỳ lý do gì để cản trở việc thực hiện những quyền này, đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo cho tàu thuyền nước ngoài thực hiện những quyền tự do trên.Ngoài ra, trong vùng đặc quyền kinh tế cũng tồn tại quyền khai thác tà nguyên sinh vật của các quốc gia khác, nhưng quyền này chỉ mang tính hạn chế vì nó phụ thuộc vào việc nước ven biển có công bố tồn tại một dư lượng tài nguyên sinh vật hay không, và phụ thuộc vào việc giữa nước ven biển với nước hữu quan có sự thỏa thuận về chia sẻ nguồn tài nguyên hay không.Thẩm quyền tài phán của quốc gia đối với tàu thuyền mang quốc tịch nước mình khi hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ven biển tuân theo nguyên tắc “ Luật nước treo quốc kỳ”, loại trừ quyền tài phán của quốc gia ven biển.2.3. Tiếp giáp lãnh hảiVùng tiếp giáp lãnh hải là vùng nằm ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải, tại đó, quốc gia ven biển thực hiện các thẩm quyền có tính chất riêng biệt và hạn chế đối với tàu thuyền nước ngoài.Đây là vùng biển mang tính chất đệm giữa vùng thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển và vùng thuộc quyền chủ quyền của quốc gia đó. Bề rộng của vùng tiếp giáp theo công ước luật biển 1982 có chiều rộng không quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở.Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với quy chế pháp lý của tiếp giáp lãnh hải thể hiện ở chỗ các quốc gia khác và tàu thuyền nước ngoài được hưởng các quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm tại đây.Ngoài ra,trong trường hợp tàu thuyền nước ngoài chỉ đi qua vùng tiếp giáp mà không vào các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia hoặc không phải từ các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia đi ra thì không phải chịu sự kiểm tra, giám sát của quốc gia ven biển. Điều này giống như một quyền tự do hàng hải nhưng có sự hạn chế.3. Đối với biển cả và vùng.Đây là hai vùng biển thể hiện đầy đủ và rõ ràng nhất nguyên tắc tự do biển cả.3.1. Biển cả.Biển cả như đã nêu trên là tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia, cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với biển cả thể hiện ở các nội dung sau:* Quyền tự do hàng hải:Nội dung của quyền tự do hàng hải bao gồm các quyền liên quan đến việc tự do đi lại và thẩm quyền tài phán đối với tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả.Trước hết, đó là việc cho phép xác định quyền tự do đi lại của tất cả các loại tàu thuyền của quốc gia trên khu vực biển cả ở bất kỳ khu vực nào mà họ muốn. Các tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả có địa vị pháp lý ngang bằng nhau và chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia mà tàu mang cờ. Như vậy, khi hoạt động trên biển cả, tàu thuyền chỉ tuân theo “ luật của nước mà tàu treo cờ”, theo đó, các quyền kiểm soát tàu thuộc về tàu chiến và tàu cảnh sát của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm hay bất kỳ sự cố hàng hải nào trên biển cả, mà trách nhiệm hành chính hay hình sự rơi vào bất kỳ thành viên nào thuộc thủy thủ đoàn, thì chỉ có thể yêu cầu truy cứu trách nhiệm pháp lý các đương sự trước cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc cơ quan của quốc gia mà đương sự có hành vi vi phạm là công dân.Tương xứng với thẩm quyền nên trên thì tất cả các quốc gia đều phải có trách nhiệm thực hiện chế độ bảo hiểm đối với tàu thuyền của nước mình khi hoạt động trên biển cả, đồng thời phải gánh chịu mọi trách nhiệm do tàu thuyền của nước mình gây ra cho tàu thuyền của nước khác.Riêng đối với tàu quân sự và tàu Nhà nước dùng cho hoạt động phi thương mại khi hoạt động trên biển cả được hưởng quyền bất khả xâm phạm và quyền miễn trừ tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác, ngoài quốc gia mà tàu mang quốc kỳ.Đồng thời, trong vùng biển cả, bất kỳ quốc gia nào cũng phải có nghĩa vụ : ngăn ngừa và trừng trị tội cướp biển; ngăn ngừa và trừng trị tội buôn bán và vận chuyển nô lệ; đấu tranh chống các hành vi phát sóng bất hợp pháp; ngăn ngừa và trừng trị tội buôn bán ma túy và các chất kích thích; và có quyền truy đuổi. Đây chính là các ngoại lệ của nội dung tự do hàng hải. Ngoại lệ về quyền trấn áp phổ cập đối với tội cướp biển và ngoại lệ về quyền truy đuổi phát sinh từ hiệu lực của các quy phạm được công nhận chung của luật quốc tế. Đây là loại quy phạm có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia. Ngược lại, các ngoại lệ còn lại được quy định trong các điều ước quốc tế, chỉ có hiệu lực với các quốc gia thành viên điều ước. Mặt khác, các ngoại lệ trên không áp dụng với các tàu quân sự.* Nguyên tắc tự do đánh bắt hải sảnTheo công ước luật biển, quyền tự do đánh bắt tài nguyên sinh vật biển là quyền tự do không có bất kỳ một hạn chế nào. Tàu thuyền và công dân của mỗi quốc gia có thể sử dụng mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên của biển. Trên khu vực biển cả có thể đánh bắt hải sản tùy theo khả năng của con người, vào bất cứ thời điểm nào mà họ muốn và với bất kỳ phương tiện đánh bắt nào* Quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầmCác quốc gia được quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm trong vùng biển cả. Quyền này được hiểu rộng hơn, là bao gồm cả việc bảo vệ và nghiêm cấm phá hoại dây cáp và ống dẫn ngầm được đặt dưới biển. Quốc gia đặt dây cáp và ống dẫn ngầm có nghĩa vụ phải đặc biệt quan tâm đến tình trạng của chúng đã được xây dựng ở dưới đáy biển, không được gây cản trở cho quá trình sửa chữa các dây cáp và ống dẫn ngầm hiện có.* Quyền tự do hàng khôngNội dung của nguyên tắc là trong vùng trời quốc tế, các phương tiện bay của tất cả các quốc gia đều có quyền tự do hàng không, khi hoạt động ở vùng trời quốc tế, phương tiện bay chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia đăng tịch phương tiện bay. Trong thời gian bay trong không phận quốc tế, các phương tiện bay phải chấp hành và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định, các yêu cầu về an ninh hàng không được ghi nhận trong điều ước quốc tế về hàng không cũng như các văn bản do tổ chức hàng không quốc tế ban hành. Tất cả các quốc gia phải áp dụng các biện pháp an ninh an toàn hàng không cho các phương tiện bay của mình, tuân thủ nghiêm túc các quy định của luật hàng không quốc tế.* Quyền tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác và quyền tự do nghiên cứu khoa học.Theo quy định của nguyên tắc luật biển 1982, các quốc gia có biển cũng như không có biển đều có quyền tự do nghiên cứu khoa học, tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được luật quốc tế cho phép. Tuy nhiên, do việc vùng đặc quyền kinh tế được thành lập nên tồn tại chế độ cho phép quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc xây dựng thiết bị, đảo nhân tạo và nghiên cứu khoa học nên đã hạn chế phần lớn phạm vi không gian của hai quyền tự do bổ sung này.3.2. VùngVùng được hiểu là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn thẩm quyền tài phán quốc gia. Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại.Nguyên tắc tự do biển cả một mặt đặt cơ sở để thiết lập trên Vùng quyền sở hữu quốc tế và loại bỏ sự chiếm hữu bất hợp pháp của một quốc gia đối với biển cả, mặt khác, xác định cơ chế kiểm soát quốc tế đối với việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển cả và vùng, nhằm hạn chế tình trạng sử dụng bừa bãi nguồn tài nguyên, ảnh hưởng tới môi trường biển.Vùng không thuộc sự chiếm hữu của bất kỳ quốc gia nào; tất cả các quốc gia được phép sử dụng Vùng vì mục đích hoà bình; tất cả các quốc gia được quyền sử dụng, quản lý, khai thác một cách công bằng trên vùng. Quản lý vùng có Cơ quan quyền lực đáy đại dương có trụ sở tại Jamaica, tổ chức điều hành của cơ quan gồm Hội nghị các nước thành viên và Hội đồng gồm 36 thành viên, trong đó 18 thành viên được phân bổ theo tiêu chuẩn địa lý (như hội đồng bảo an) và 18 thành viên được phân chia gồm 4 nước xuất khẩu nhiều nhất về quặng được khai thác; 4 nước sản xuất nhiều nhất; 4 nước nhập khẩu nhiều nhất; 6 nước còn lại đại diện cho các quyền lợi khác (Điều 161 Công ước). Dưới cơ quan quyền lực đáy đại dương có các xí nghiệp.4. Đối với các vùng biển đặc thù.4.1. Vùng nước quần đảo.Vùng nước quần đảo là khái niệm gắn liền với quốc gia quần đảo. Quốc gia quẩn đảo là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều đảo hoặc có khi bởi một số hòn đảo khác. Quần đảo được hiểu là một tổng thể các đảo, bao gồm cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có mối liên quan gắn bó chặt chẽ với nhau đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý, chính trị, kinh tế hay được coi như vậy về mặt lịch sử. ( Điều 46- Công ước).Vùng nước quần đảo là vùng biển nằm bên trong của đường cơ sở quần đảo, dùng để tính chiều rộng lãnh hải và do quốc gia quần đảo ấn định. Muốn xác định được vùng nước quần đảo cần phải vạch được đường cơ sở quần đảo. Các điều kiện để vạch được đường cơ sở quần đảo quy định tại điều 47 – Công ước.Quy chế pháp lý của vùng nước quần đảo dưới ảnh hửơng của nguyên tắc tự do biển cả:- Các quốc gia láng giềng có quyền đánh bắt hải sản truyền thống cũng như các hoạt động chính đáng trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo, quốc gia quần đảo có nghĩa vụ tôn trọng các điều ước quốc tế hiện hành đã được kí kết với các quốc gia khác và thừa nhận.-Các quốc gia khác có quyền đặt các dây cáp ngầm và đi qua các vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo mà không đụng chạm đến bờ biển của quốc gia quần đảo.-Tàu thuyền của quốc gia khác đều được hưởng quyền đi qua vô hại vùng nước quần đảo, cũng như quyền quá cảnh theo hành lang hàng hải tại vùng nước này.Theo điều 53 Công ước 1982, quốc gia quần đảo phải xác định các hành lang hàng hải đảm bảo việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài một cách liên tục và nhanh chóng, không gặp trở ngại gì trong vùng nước quần đảo của mình. Nếu quốc gia quần đảo không xác lập các hành lang như vậy thì tàu thuyền có thể đi qua vùng nước quần đảo theo các lộ trình hàng hải đã được sử dụng thường xuyên trong lưu thông hàng hải quốc tế. Quyền quá cảnh có nội dung rộng hơn so với quyền đi qua vô hại, cụ thể quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ, tàu ngầm quân sự có thể đi qua ở tư thế chìm và phương tiện bay quan sự cũng như dân sự đều có thể sử dụng quyền này, có quyền bay qua vùng trời trên vùng nước quần đảo.4.2. Eo biển quốc tếEo biển theo nghĩa thông thường là đường nối các vùng biển rộng lớn với nhau và có tính chất tự nhiên, không do con người tạo ra và có đặc điểm chung là tương đối hẹp. Eo biển dùng cho hàng hải quốc tế được hiểu là eo biển nằm giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế ( điều 37 – Công ước).Nguyên tắc tự do biển cả có tác động và ảnh hưởng đến quy chế pháp lý của các eo biển, đặc biệt là các eo biển nối liền biển cả hoặc vùng đặc quyền kinh tế với nhau và được sử dụng cho hàng hải quốc tế, ví dụ như eo biển Gibralta, các eo biển Đan Mạch, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ,..Tại các eo biển này áp dụng nguyên tắc quyền quá cảnh. Tàu thuyền và phương tiện bay của các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải và tự do hàng không với điều kiện đi qua phải liên tục, nhanh chóng qua eo biển. Yêu cầu quá cảnh liên tục và nhanh chóng không ngăn cản việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven biển hoặc để rời khỏi lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép của quốc gia này.Quyền quá cảnh này được áp dụng cho cả tàu thuyền và phương tiện bay.Các phương tiện bay được hưởng quyền tự do bay cao hơn so với quyền tự do hàng hải của tàu thuyền, cụ thể các phương tiện bay thực hiện quyền tự do bay không phải theo các hành lang bay quy định như trong trường hợp của tàu thuyền phải tôn trọng các tuyến đường hàng hải và hệ thống phân chia luồng giao thông do các quốc gia ven eo biển xác lập phù hợp với các quy định quốc tế đã đươc công nhận chung.4.3. Kênh đào quốc tế.Kênh đào quốc tế được hiểu là con đừơng hàng hải do con người tạo ra nối liền các vùng biển được dùng cho hàng hải quốc tế. Các kênh đào quốc tế được dùng cho tàu thuyền của tất cả các quốc gia qua lại, nếu điều ước quốc tế hay luật quốc gia của nước hữu quan quy định như vậy.Tuy nhiên trong luật quốc tế không có một tập quán quốc tế nào cho phép quyền tự do hàng hải qua các kênh đào quốc tế.Nguyên tắc tự do biển cả là nguyên tắc pháp lý của Luật biển quốc tế, có giá trị chi phối nhiều quy phạm của luật này. Nói cách khác nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để thiết lập chế độ pháp lý các vùng của các vùng biển và duy trì trên đó họat động của các đối tượng tham gia sử dụng biển. Điều này có nghĩa rằng, tự do biển cả với những nội dung nêu trên không chỉ tồn tại duy nhất ở vùng biển cả, mà nó còn có giá trị pháp lý đối với những vùng biển thuộc chủ quyền và quyền của quốc gia ven biển.Vấn đề này xuất phát từ lý luận truyền thống : Biền là không gian mở đối với các quốc gia, theo đó, việc thiết lập các vùng biển có quy chế pháp lý khác nhau không có nghĩa là tạo ra sự chia cắt hoàn toàn độc lập giữa những khoảng không gian này với nhau, dự a theo các nhóm lợi ích đối lập. Vì vậy, vận dụng nguyên tắc tự do biển cả để thiết lập trật tự pháp lý trên biển phải đảm bảo đựơc hai vấn đề :- Thứ nhất là đảm bảo duy trì quyền tự do cơ bản và truyền thống của cộng đồng quốc tế trong sử dụng biển;- Thứ hai là đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia trong hưởng lợi ích và sử dụng biển vì mục đích hòa bình.Nguyên tắc tự do biển cả một mặt hạn chế xu thế mở rộng thái quá chủ quyền của các nước ven biển lấn át biển công, mặt khác, duy trì quyền lợi vốn có của các quốc gia, không chỉ biển cả mà còn trên cả các vùng biển mà về pháp lý thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia.Nguyên tắc tự do biển cả luôn được coi là nền tảng mang tính xuất phát điểm cho sự hình thành và phát triển các quy phạm của Luật biển quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc tự do biển cả trong Công ước Luật biển 1982.doc